*
* *
Trời chiều. Nắng nhẹ. Gió se se lạnh.
Tôi đưa chú Hoài leo ngược lên phía sườn đồi phía sau nhà có rừng thông và bạch đàn.
Qua chỗ đặt mộ của bà nội, của cha mẹ tôi, chú Hoài và tôi dừng lại. Chú Hoài đã mang sẵn một nắm nhang. Thứ nhang thơm dịu chú mang từ Hà Nội vào để giỗ. Tôi ôm theo một bó hoa hồng, lưu ly, hoa cúc lặng lẽ cắm vào ba chiếc bình hoa đặt trên những ngôi mộ.
Nắm nhang cháy tỏa mùi hương thơm ngát.
Chú Hoài dừng lại trước mộ bà nội, mộ mẹ tôi. Chú đứng trước mộ ba tôi lâu hơn. Gương mặt chú trầm tư. Miệng lẩm nhẩm, chả hiểu chú khấn vái cha tôi điều gì. Nét mặt chú Hoài lúc ấy xúc động lắm. Hẳn chú lại hoài niệm về những chuyện xưa cũ.
Tôi không thích vậy. Nhưng tôi không dám động vào cõi thiêng của người đã chết và của cả người đang sống. Tôi biết một điều, những tuýp người như cha tôi, như chú Hoài hay sống với quá khứ, với kỷ niệm. Tôi trẻ, thực tế hơn, và ở một khía cạnh nào đó, thực dụng hơn. Không chỉ trong chuyện làm ăn trong đời sống, nó còn ẩn chứa cả trong tư tưởng và xúc cảm. Trong những hoàn cảnh nhất định, mỗi khi đứng trước những con người như chú Hoài, ngoài sự trân trọng, tôn kính, tôi không khỏi có chút mặc cảm, tự ti, thậm chí xấu hổ trước những suy nghĩ nhỏ mọn của chính mình.
- Đi đâu đây, cô bé? - Chú Hoài hỏi tôi lúc rời khỏi ngôi mộ.
Tôi đáp:
- Tới “chỗ cũ” chăng?
- Đồng ý.
Chú Hoài đáp cụt lủn. Và vượt lên phía trước.
Cái “chỗ cũ” ấy là một tảng đá nằm ở ven Đầm Vịt, phía sau tảng đá là một sườn núi, thuộc đất của trang trại, trồng rừng đã nhiều năm. Những cây thông, những cây bạch đàn đường kính tới 20 centimet. Gỗ đã có thể khai thác được. Nhưng tôi chả bán gỗ làm gì. Những thân cây ấy đã một thời in dấu tay cha con tôi. Nhiều chủ xưởng gỗ ở Đà Lạt, ở Đồng Nai đánh tiếng hỏi mua, tôi chối thẳng thừng.
Cây rừng ở đây là hình bóng của cha tôi. Xa hơn là mẹ tôi, là bà nội tôi.
Chú Hoài đã tới bên tảng đá, nhưng chú không ngồi lên bờ cao mà xoải chân, tụt giầy ngồi xuống vạt cỏ mịn màng, sát bên đầm.
Nắng từ phía tây đổ xuống mặt đầm một khoảng sáng. Sườn núi che khuất một phần hồ, nơi tôi và chú Hoài đang ngồi. Theo chú, tôi cũng tụt đôi dép và ngồi xuống bên.
Tôi hỏi chú Hoài, điều mà tôi biết chắc chú không muốn nghe:
- Lâu nay chú có tin tức gì của cô và em Hoa bên Nga không?
Chú Hoài nhìn tôi chưa trả lời mà lại rút ra từ trong chiếc túi mìn claymo cũ bao thuốc lá Salem và chậm rãi châm lửa rít từng hơi dài. Mùi thuốc Salem phảng phất hương liệu bạc hà, hăng hăng, dễ chịu.
Đã hơn 15 năm nay, người vợ của chú, một phụ nữ xinh đẹp đã bỏ rơi chú. Chị ta đã có đứa con thứ hai với anh sĩ quan người Nga làm việc ở một đơn vị phòng cháy, chữa cháy. Hơn chục năm rồi chú đã ký vào tờ đơn xin ly hôn của chị vợ cũ và làm thủ tục cho con gái theo mẹ sang Matxcơva đi học. Những năm ấy, chú Hoài đang là sĩ quan quân đội, theo các đơn vị chốt giữ đuổi đánh bọn Khmer Đỏ ở Xiêm Riệp, Biển Hồ. Tờ giấy ly hôn đó sau này chú Hoài phải nhờ một người bạn ở Nga mang về. Ngày con gái xa cha, chú không có mặt.
Chú Hoài đã từng thú nhận với tôi:
- Chú là một người cha không tốt cháu à... Chú không đủ tiền nuôi vợ con. Không có nhiều thời gian đưa vợ đi chơi, đi du lịch. Mỗi lần về phép, ở với vợ con mươi ngày, nửa tháng... rồi đi. Mà nhu cầu phụ nữ bây giờ cần nhiều thứ. Nhà cửa, xe pháo, áo quần... Một người lính như chú không biết kiếm tiền mang về cho vợ. Chú biết những gì vợ con mình cần, cả chú cũng cần nhưng chú không làm được chuyện đó...
Cha tôi ngày còn sống biết nỗi đau buồn của chú Hoài nên rất thương chú. Vợ bỏ đi, mỗi kỳ nghỉ phép hay khi đã về công tác tại một tờ báo ở thành phố, rảnh rỗi chú tìm về trại Đầm Vịt chơi với cha con tôi. Tôi thân với chú Hoài, những mối tình thời sinh viên tôi kể cho chú nghe hết. Kể cả chuyện của Khang; chuyện Khang đưa cha con tôi về lại làng Lôi thắp hương cho ông nội trong một đêm hãi hùng và chuyện tôi tìm ra ngôi mộ của anh...
Chú Hoài chăm chú lắng nghe, có lúc chú xúc động. Tôi hỏi:
- Nghe chuyện yêu đương của cháu, chú ghét không?
- Sao lại ghét, cô bé. Chú sẽ lưu giữ...
- Chú giữ làm chi?
- Để mai này chú đưa vào tiểu thuyết.
Tôi cười ré lên như một đứa thần kinh. Nhìn tôi cười, chú Hoài tỏ vẻ ngạc nhiên:
- Cháu cười làm chú sợ...
- Sao lại sợ?
- Tưởng cháu bị tâm thần.
Tôi nhõng nhẽo đẩy chú ngã soài xuống chiếc ghế băng lúc chú đang ngồi gõ máy tính...
Bây giờ ngồi đây, trong không gian tĩnh lặng của buổi chiều tà bên Đầm Vịt, tôi lại hỏi chú Hoài điều ngớ ngẩn.
Chú Hoài rít một hơi thuốc dài rồi búng điếu thuốc vào vạt cỏ lau ven hồ:
- Con gái chú nay đã vô đại học. Còn cô ta sống hạnh phúc với người đàn ông Nga. Ngó bộ cũng giàu có... Mừng cho cô ấy. Con gái chú lâu lâu vẫn gọi điện thoại hỏi thăm bố. Nó quên nhiều từ tiếng Việt, nói chen tiếng Nga... Chú chả hiểu nó nói gì.
Tôi quay sang chú Hoài:
- Chú phải nói thiệt cho cháu điều này nghe! Sao cô chú bỏ nhau lâu rồi mà chú không lấy vợ?
Chú Hoài nhìn tôi:
- Lấy vợ nữa làm gì? Chú chưa đủ vui buồn ư?
- Chú thiệt kỳ cục. Tuổi chú chưa già... Sức khỏe chú chưa đến nỗi nào... Chú cần lấy vợ, phòng khi mai kia già còn có người chăm sóc.
Chú Hoài nhìn tôi rồi chỉ xuống khoảng đồi nơi có phần mộ cha tôi, bảo:
- Ngày sau, chú có chuyện gì thì nhờ cháu cho chú một vuông đất đồi cạnh chỗ cha cháu... Đêm đêm, chú và cha cháu ngồi trò chuyện, uống trà.
Tôi nói to:
- Chú đừng có gở miệng! Cháu ghét chú nói đến chuyện chết chóc. Chú không sợ hãi khi nghĩ tới cái chết ư? - Tôi véo tai chú Hoài: - Chú ơi là chú!... Cháu ghét chú!
Chú Hoài cũng đáo để:
- Chị còn ghét tôi hoài à!... Này, tôi hỏi chị, đời người ta ai tránh khỏi cái chết nào? Những người vĩ đại còn chết huống chi “thân cò, thân vạc” như tôi.
- Nhưng chú phải lấy vợ - Tôi gào lên, bất chấp chú có nghe hay không.
Chú Hoài không nhìn tôi, quay mặt ra phía đầm nước. Nắng đã tàn sau đỉnh núi, chỉ còn ráng đỏ hắt lên nền trời xanh đang tím dần lại... Không gian im ắng, thanh sạch. Gió lào xào len lách qua tán cây rừng...
Chú Hoài như thể không chỉ nói cho tôi nghe. Chú như đang trò chuyện thầm thì với ai trong khoảng không gian bao la của trời đất, cỏ cây:
- Đời chú đã đi qua bao cửa chết. Nhiều không đếm xuể. Năm 18 tuổi, trận sốt ác tính đầu tiên quật ngã chú ở chân dốc Chè, người Mỹ gọi là điểm cao 1078. Mỹ đang càn vùng tây bắc Huế. Bom ném ngả nghiêng các cánh rừng. Chú sốt cả đêm, tưởng chết. Mũi Nivaquyn của người y tá tiêm thẳng vào ven, nào ngờ chú tỉnh lại, lết được ra khỏi căn hầm kèo đã bị bom B57 ném sập một góc cửa hầm. Một lần khác ở giáp ranh Hương Trà, lính Ngụy phục kích chú với một người lính trinh sát của KX tên Xu. Chú Xu giờ vẫn còn sống ở Huế. Hai thằng chú chết hụt ở Dốc Đu, lạc rừng cả ngày trời. Năm “bẩy hai” bom B52 ném sập hàng chục căn hầm khi cả tiểu đoàn đang họp quân chính dưới chân đồi Đức Mẹ ở miền tây Phong Điền. Những anh lính trẻ cùng với chú vừa qua trận chiến ở Sêpôn, ở đường 12, được Quân khu cho ra Quảng Bình nhận tân binh, cấp trên ưu ái cho về quê một tháng. Anh nào cưới vợ, trận bom ném xuống sườn đồi dốc Đức Mẹ chiều ấy chết cả. Chú chui lên từ căn hầm sập, giữa những xác người, mặt bê bết máu. Chính trị viên tiểu đoàn Hoàng Ngọc Ngạn thêm một lần nữa đọc điếu văn và kêu tên từng anh cán bộ trung đội, đại đội đã hy sinh... Chỉ tháng trước, những người cán bộ ấy khoe từng tấm ảnh về cô vợ mới cưới quê ở Thanh Hóa, Hải Hưng, Quảng Bình... Họ gửi lại quê vợ và cả những đứa con còn nằm trong bào thai, chưa biết mặt để lầm lũi đeo ba lô, vác súng leo ngược Trường Sơn vào trận chiến xuân 1972... Chưa kịp đánh địch, những người lính ấy đã ra đi.
Rồi cái đợt xuân “bẩy nhăm”, những trái đạn rốc két của chiếc A37 bắn tan nát đội hình của Đại đội 1, đại đội chủ công của chú ở Phú Lương B. Liên lạc, y tá và cả một khẩu đội cối đi theo chú nằm lại bên cửa Ngã Ba Sình... Trong cái thân xác gầy gò, ọp ẹp, thương tích của chú đầy rẫy vi trùng, đêm ngày quậy cựa...
Chú vẫn còn nhớ trong đêm đánh về chợ Sịa, đại đội của chú phải vượt qua một con hói rộng. Hai ngày trước, cả đại đội lo đánh chống càn. Bộ đội hành quân cả đêm thoát vòng vây, vừa mệt, đói và khát. Gặp được nước, giữa đêm tối trời, “cha con” vục mồm xuống uống, bất kể rong rêu, miễn sao cho đã cơn khát. Bánh lương khô Trung Quốc ăn vội đã hết veo. Đến sáng, chú bò ra bãi sông quan sát, nghe ngóng địch. Hỡi ôi, con đường bộ đội hành quân đêm qua đầm nước đầy vết chân trâu. Mới khua động một chút, bầy đỉa đói thi nhau lao ra, uốn lượn giữa dòng nước hôi tanh mùi bùn.
Vậy tật bệnh, chết là cái chắc...
Chú Hoài cười, gương mặt dãn ra, trông chú trẻ lại cả mươi tuổi. Như thể chú lấy cái chết để đùa giỡn, trêu chọc tôi. Nghe chuyện của chú, tôi vừa sợ vừa ghê nhưng vẫn thích nghe. Tiếc là những câu chuyện của chú chưa được ghi chép lại. Nếu những chuyện này được viết thành sách thì hàng ngày tôi và đám bạn bè, các ông quan chức, đám doanh nhân đi trên những chiếc xe sang trọng ra vào giữa các nhà hàng, hotel với những thực đơn đắt tiền chẳng phải sẽ có những giây phút áy náy lương tâm lắm sao.
Chú Hoài lại lặng im hút thuốc. Bất chợt chú bảo tôi:
- Nhiều đêm chú sống trong những cơn mơ. Mơ rừng núi đã đành. Mơ gặp những gương mặt người xưa cũ. Cha mẹ chú hiện về. Bà ngoại chú trong giấc mơ tay cầm gậy trúc. Bà mở chiếc thắt lưng rút ra hai đồng bạc còn thơm mùi cau trầu dúi vào tay chú, cho chú mang theo ngày chú đi nhập ngũ. Hình bóng cô bạn học mặc tấm áo xanh màu cỏ úa kiễng chân, vẫy tay. Mẹ chú cố dúi vào tay chú nắm cơm đã nguội ngắt...
Chú mơ thấy những thằng bạn học với chú một thời. Chúng cùng đi bộ đội với chú, nhưng chúng nó chết cả rồi. Họ nằm lại trên những miền rừng vùng A So, A Lưới, Rào Trăng, Rào Lu, Cocava, Dốc Chè, Khe Trái, địa đạo 310, Dốc Tranh, Đồi Trổi, Chóp Nón... Họ ngã xuống, người có bia, kẻ chẳng có bia... Những chàng trai luôn xanh tuổi 18 cùng với những cánh rừng, đồi núi mọc đầy lau, mua, cỏ dại... Những gương mặt ấy hiện lên như muốn hỏi chú rằng: Mi sống ra răng? Có còn nhớ đến chúng tao? Vậy thì cái chết với chú bây giờ có ý nghĩa gì...
- Thôi chú đừng nói nữa - Tự nhiên tôi hét to - Chú không được nghĩ tới cái chết. Chú không được chết...!
Tiếng tôi âm vang, vọng vào vách đá, dội xuống mặt nước hoang vắng, tan vào thinh không tĩnh lặng.
Chú Hoài nhìn tôi. Tôi nhìn chú. Cả hai giàn giụa nước mắt. Tôi không còn là chính tôi. Tôi ôm lấy chú và gục vào một bên vai, nức nở. Lúc tôi nhìn lên, gương mặt chú cũng đầy nước mắt.
Trái tim tôi nhói đau. Tôi ôm ghì lấy gương mặt ấy, hôn lên mắt, lên môi, lên trán, lên mái tóc khô xác thơm mùi nắng.
Tôi như kẻ điên dại và hét lên:
- Hoài ơi! Anh không được chết...
Lúc tôi ngồi dậy trên vạt cỏ, Hoài đã không còn ở đấy nữa. Chỉ có chiếc áo khoác ngoài của người tôi yêu còn nằm trên lớp cỏ mịn màng.
Tôi thẫn thờ nhìn ra mặt hồ đang gợn sóng.
Tít ngoài xa, Hoài đang sải tay bơi. Hoài quay lại nhìn tôi, giơ tay vẫy. Tôi đứng lên gò cao giơ mũ vẫy lại.
Tôi gọi to:
- Hoài ơi! Em yêu anh...!
Tiếng tôi vang vọng dội vào vách đá, rừng cây.
Trời chưa tối hẳn. Một làn sương mỏng giăng giăng. Vẳng lên tiếng chim “bắt cô trói cột” trong khoảng rừng già. Tiếng con bìm bịp kêu khan ở một đám lau ven đầm.