Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 12:02:13 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Đề Yêm chống Pháp  (Đọc 12597 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #10 vào lúc: 28 Tháng Hai, 2019, 04:27:04 pm »

Vào một ngày hạ tuần tháng 9 năm Canh Dần (1890), trước đồn Đống Hến, phía cuối thung Tuyết Sơn, một nghĩa quân đứng canh. Anh trông khắp cả bốn bề không có gì lạ cả. Ngoài bến, anh em đồng đội đang tập tành đánh côn, múa kiếm, lộn mộc, lăn khiên, chỗ nào anh cũng thấy quen quen: hòn đá, cái cây, lối đi tuy khó khăn, nhưng anh đều thuộc cả. Có lúc, anh ngước lên khoảng trời cao, mấy con diều hâu đang bay liệng trên nền mây vẩn đục. Con liệng lên, con liệng xuống, con là sát đỉnh núi cao. Chỗ này vách đá thẳng như bức tường. Anh nghĩ các tướng lĩnh của mình giỏi thật, chọn được nơi hiểm yếu thế này, địch vào sao được. Đường chính, tuy khúc khuỷu, gập ghềnh hiểm trở, nhưng có lối đi, đặt đồn canh là phải, chứ ở đây về thế núi kia, trừ địch có là con diều hâu mới mong xuống được, vậy còn đặt đồn ở đây làm gì?

Rồi anh tự hỏi: “Nếu địch đi lối này thì sao?” và tự trả lời: “Bao giờ việc quân cũng phải đề phòng, biết đâu được”. Anh miên man tính toán và nhớ đến nhiệm vụ của mình. Anh nhìn quanh bốn bên. Chợt anh mở tròn hai mắt, cố làm cho mắt mở căng thật to để nhìn thấy được cái gì lạ đang cử động phía đỉnh núi cao đằng tay trái kia. Hình như có người, à mà đúng, có cử động thật. Anh đánh ba tiếng mõ và quát hỏi:

- Ai, đi đâu, làm gì đấy?

Đốc canh cũng chạy ra. Trên núi có tiếng nói vọng xuống:

- Tôi là sơn tràng đi kiếm củi.

Sau đó, một rồi hai người đốc canh cũng quát hỏi tiếp:

- Anh em sơn tràng đi làm ăn phải có người nọ, người kia chứ, một mình làm sao nổi?

Sau bọn chúng tăng dần nhiều lên. Đốc canh báo động đánh ba hồi mõ, mỗi hồi năm tiếng, cả đồn trở nên nhộn nhịp. Đốc canh quát sẵng, mấy tên mạo danh sơn tràng kia liền giơ súng bắn liền.

Thì ra hơn một năm rồi, quân Pháp không đánh được nghĩa quân. Án ngữ cũng thế thôi, chúng xoay sang cách khác. Chúng cho tên tri phủ Lý Nhân đòi tổng trưởng tổng Hoa Phong (nay là xã Khả Phong, huyện Kim Bảng) đến và truyền cho về tìm người thông thạo rừng núi vùng Cốc Nội, Ba Sao, Chi Nê. Tổng trưởng về tìm được một người ở thôn Vồng, xã Ba Sao dẫn đường cho chúng. Quan Tây phủ dụ và hứa sẽ trọng thưởng nếu đưa được đường cho chúng vào Tuyết Sơn.

Ngày thứ nhất tên này đi, Tây cho hai tên đội khố xanh đi theo. Ngày thứ hai, một tên đội về báo cáo Tây. Chúng cho thêm ba tên nữa đi vào phá lối qua quèn “Chó cắn” có thế núi đứng thẳng như bức tường. Ngày thứ ba chúng cho quân vào thêm (tên Việt gian đó sau bị Tây đưa đi biệt tích cùng với gia đình hắn).

Quân địch chiếm được cao điểm, nhưng kể cũng xa tầm hoạt động và lối xuống cũng không phải dễ gì.

Người chỉ huy nghĩa quân trận này là tướng Hiệp Cường. Quân ta đánh nhau với giặc ròng rã ba ngày, không bên nào chịu bên nào. Có lúc địch rà xuống thung, nhưng nghĩa quân vẫn vững vàng, kiên cường, đánh ráo riết khiến cho chúng chết nhiều, phải bật lên trên núi. Địa bàn này sau nhiều năm, nhân dân quanh vùng vẫn vào đó làm nương rẫy, nhưng không dám uống nước, vì biết được tại đây quân sĩ của cả hai bên chết thối (quân địch chết nhiều hơn quân ta).

Ngay từ lúc có tiếng súng nổ từ đồn Đồng Hến và có liên lạc báo về, Đề Yêm tức tốc vào đốc chiến ngay. Chiều ngày thứ ba, Đề Yêm đang đứng nấp vào hồn đá để quan sát trận địa thì một phát đạn của địch bắn vào hòn đá, mảnh đá bắn vào mắt ông. Anh Trọng, một thanh niên khỏe mạnh, lanh trai, quê ở làng Hữu Vĩnh, huyện Ứng Hòa cõng chủ tướng lui về chùa Tuyết.

Đêm ấy, Đề Yêm dặn dò vợ. Ngoài anh Trọng ra, ông lấy thêm một tướng tâm phúc nữa quê ở tỉnh Bắc Giang rồi mấy thầy trò ra đi.
Đề Yêm sang Trung Quốc. Năm 1945, sau cuộc Tổng khởi nghĩa, vợ Đề Yêm còn sống đã nói chuyện với các con rằng: “Không biết ông Đề ở Tàu có về không? Nếu về thì có nhận ra mẹ con mình không?”

Sáng sớm ngày thứ tư, vợ Để Yêm cho gọi: “Nhị bộ đâu?”. Bùi Văn Đỗ, một tướng hầu, quê ở làng Yến Vĩ thưa rồi đi đến. Nhị bộ là người hầu gần, nhưng chỉ còn mình Đỗ có mặt. Vợ Đề Yêm truyền: “Chủ tướng đã đi chữa mắt rồi, tuyệt đối phải giữ bí mật”. Bà cho đi mời ngay 5 dinh hổ tướng đến họp, trừ Hiệp Cường đang chỉ huy chiến đấu sẽ cử người đến thay, về báo lại.

Sau cuộc họp quan trọng này, các tướng lĩnh mới tính đường rút trong đêm ấy 1.

Người ở lại chiến đấu, chặn hậu quân Pháp là Tác Vi. Tướng này cuối cùng bị đạn chết giữa đồn Đông Hến. Vợ hai Hiệp Cường cũng bị trúng đạn chết trong doanh trại. Trong lúc rút, nghĩa quân chia làm hai cánh: một rút theo lối quèn Gánh Gạo, quèn Côm rồi qua chùa Vua, núi Kính Lão. Đến đây, nghĩa quân mới giải tán, ai ở đâu về đấy. Lẻ tẻ số ít người phục vụ cấp dưỡng hay làm việc linh tinh khác ra lối cổng Dại, bò qua cánh đồng về làng Đục Khê như Đinh Văn Phê, Phạm Văn Chơi... Còn một cánh quân khác do tướng Xuân La (chưa điều tra được họ tên) và quản cẩm bảo vệ vợ Đề Yêm đang có chửa sắp đẻ, kéo ra lối cổng Dại, qua Yến Vĩ, Đục Khê về chợ Dầu, đỗ lại ở đây. Dân làng quanh vùng làm cơm mời nghĩa quân. Nghĩa quân không cho giết trâu bò, phải để lại cho nhân dân làm ruộng, chỉ cho làm lợn dấm ghém cho quân ăn thôi. Xong xuôi, nghĩa quân kéo ra Ngũ Bái, ngược Đồng Quan, cống Thần (huyện Ứng Hòa) rồi lên Xuân La (huyện Phú Xuyên). Nghĩa quân đóng ở đình. Ngày hôm sau có cuộc họp bao gồm cả quân lẫn tướng. Vợ Đề Yêm sau khi cho chém cả 5 tên do thám của Pháp mà nghĩa quân bắt được, tuyên bố: “Nghĩa quân chúng ta hoạt động là để cứu nước, đuổi quân ngoại xâm, nhưng tình thê bây giờ không cho phép chúng ta tiếp tục sự nghiệp được nữa. Vậy truyền cho tướng sĩ giải tán”.

Quân Pháp rượt đuổi theo. Vợ Đề Yêm bị giặc bắt. Cánh quân này tất cả, kể từ lúc chưa giải tán có độ trên trăm người.

Khi chúng áp giải về Hà Nội, đi giữa đường, vợ Đề Yêm trở dạ đẻ. Chúng cho bà vào ở nhờ một nhà dân bên đường. Bà đẻ xong mà không được trông thấy mặt mũi con ra sao, không biết là con trai hay con gái. Mấy tên lính bảo: “Nó chết rồi” và giục giã tất cả lên đường. Vợ Đề Yêm phải đóng bịt chặt người, rồi chúng giải tán về giam ở Hà Nội.

Địch tra hỏi về Đề Yêm, nhưng bà vẫn một mực trả lời: “Không biết”. Căm tức, chúng liền tẩm dầu lửa vào dẻ đốt mồi, định châm vào đầu bà, rồi lại chặn thúng đút đầu bà vào để khai thác, nhưng bà vẫn nhất quyết không khai. Sau chúng hỏi về mồ mả của bố mẹ Đề Yêm, bà cũng không nói. Chúng chỉ dọa bà thôi, vì bà mới sinh nở. Bọn chúng còn giam bà thêm 3 năm nữa mới tha.

Nhớ lời chồng dặn lúc chia tay: “Tôi đi đây, ngày về chưa biết đến bao giờ, mình còn trẻ có thể tính đến việc đi bước nữa. Nhưng có lấy thì lấy người lưng cao, khố đen, chớ lấy tổng, lý, quan lại...”. Sau khi ở nhà giam về làng Đồng Lạc, bà ở với anh ruột là Hoàng Văn Thạch, lúc đó đương giữ chức lý trưởng. Bà là người rất đẹp, nhất là mới sinh nở một lần. “Gái một con trông mòn con mắt” nên một tên đô lại (thừa phái) đi ngựa, có người hầu, xách điếu cắp tráp đến một hai đòi lấy bà. Người anh ép, nhưng bà kiên quyết từ chối. Sau bà bỏ đi, xuống quai giang Bình Chính (cùng huyện Kim Bảng) làm con nuôi một bà bán quà bánh. Năm sau, bà lấy một người rất nghèo, tên là Khoai làm nghề chở đò, quê ở Ninh Lão, xã Duy Minh, huyện Duy Tiên. Bà đã làm đúng lời Đề Yêm dặn.





---------------------------------------------------------------
1. Có người nói: “Nghĩa quân bện người giả bằng cỏ cắm ở trại, đốt đuốc sáng cho địch ở xa trông lố nhố những người là người”
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #11 vào lúc: 28 Tháng Hai, 2019, 04:28:53 pm »

Sau khi nghĩa quân rút, nhân dân vùng Mỹ Đức sợ giặc Pháp về càn quét nên chạy cả vào núi. Lúc đó, bà nội ông Phạm Văn Khôi ở Phú Duy đẻ cô của ông ở trong núi nên đặt tên cô là Tuyết để nhớ cuộc chạy giặc này. Năm 1963, bà Tuyết 74 tuổi.

Ngày mà nghĩa quân Tuyết Sơn rút là vào cuối tháng 3 (âm lịch), năm 1890, lúc ấy đã có mía bói. Ông cự đẻ ra bà Hỷ (1963, bà Hỷ 87 tuổi) ở thôn Đục Khê đi tuần vẫn lấy mía về cho con ăn.

Quân Pháp lúc bấy giờ chưa có máy vô tuyến điện và bưu vụ cũng chưa tổ chức được, nên trong Tuyết Sơn đánh nhau như vậy, rồi nghĩa quân rút mà ở chùa Hỏa Quang, quân địch không hay biết gì cả. Ở Đục Khê có tên phó lý Quế, tay sai của thực dân Pháp thường rêu rao: “Ai đem cờ tam tài của Pháp cắm được vào Tuyết Sơn thì sẽ được trọng thưởng”. Hương Chế, tức Phạm Văn Chơi vừa rút ở Tuyết Sơn về liền đến phó lý Quế để nhận làm việc ấy. Hắn rất lấy làm hoan hỉ và ủy nhiệm cho Chơi ngay. Việc này, sau hắn nhận là công của hắn, được thực dân Pháp và phong kiến Nam triều cho làm “bang tá cầm phòng phủ nội”. Hắn được dịp lên nước hách dịch, đi đâu cũng đem túi roi đánh người, tác oai tác quái trong phủ Hoài An, nay là huyện Mỹ Đức. Ngoài ra, thực dân Pháp còn khen thưởng cho một số người nữa đã công giúp chúng, trong đó có Nguyễn Văn Thiều ở làng Yến Vĩ được xuất đội (xem phần: Những di vật và tài liệu hiện còn).

Mãi sau, thực dân Pháp cho người vào hỏi cánh quân chúng đóng ở đằng Chi Nê, Cốc Nội xem trong đó có còn nghĩa quân không? Cánh quân này do một tên lý trưởng người Mường đi đường xuyên núi tìm nghĩa quân. Tên lý trưởng ra trước. Bọn Pháp hỏi, hắn ú ở trả lời không được nên bị chúng bắn chết ngay ở ao Quán (Đục Khê). Mãi sau thằng liên lạc của nó lạc đường mới lần ra được.

Tất cả những người có thể biết về nghĩa quân Tuyết Sơn đều nói chỉ huy nghĩa quân là một ông đề, người làng Đông Lạc. Cụ Từ Khương, 92 tuổi (1962) ở thôn Hữu Vĩnh, huyện Mỹ Đức nói đó là ông Đề Đồng (ngày xưa ta hay kiêng gọi tên húy mà chỉ gọi tên làng như ông nghè Giao Cù, cụ Hoàng Và hoặc Tam nguyên Yên Đổ). Còn phó đề đốc, tức phó súy, một số người nói, đó là cai Đạt, quê ở Phù Sơn, xã Tượng Lĩnh, huyện Kim Bảng. Trong số nghĩa quân có những người chính quê ở Đồng Lạc như đốc Sơn, anh em họ với Đề Yêm, sau vụ Tuyết Sơn tan không thấy về làng nữa. Dương Văn Soạn và Dương Văn Sữa, hai người này có về làng, nhưng bị bọn lý dịch tố cáo, nên đành phải bỏ làng xuống vùng Sở Kiện (Kiện Khê), huyện Thanh Liêm cùng tỉnh để sinh sống. Mãi 15 năm sau họ mới dám trở về làng Đồng Lạc.

Năm Tân Mão 1891, một tên quan ba Pháp đem quân về vùng Mỹ Đức khủng bố nhân dân. Đến làng Đục Khê, hắn thân chinh đốc thúc quân lính đi bắt người. Chúng đến thúc tổng Chùm đương làm tổng trưởng dẫn đường. Nhân dân đều lẩn tránh, không ai dám ra tiếp xúc với giặc. Túng thế, tổng Chùm cứ dẫn lính vào gặp các tên tổng lý khác và bảo: “Các anh làm công, làm việc phải ra hầu quan chứ”. Đi đường, gặp người dân nào, chúng cũng bắt luôn. Chúng giải những người dân này sang đình Chải, làng Hữu Vĩnh. Thằng quan ba Pháp cho quân đóng hàng loạt cọc ở ngoài sân, trói mỗi người vào một cọc, rồi hỏi:

- Giặc Đề Yêm có về làng không?

Người nào trả lời “không” là nó chém ngay. Những người như ông lý Thành, ông phó Học ở Đục Khê, ông xuất Thực ở Hữu Vĩnh và một số người ở Hội Xá, tất cả 14 người đều bị giặc chém. Cùng đi càn quét với thằng quan Pháp này có tri phủ Thường Tín, đóng ở phía chùa Tiên Mai, bên kia sông Đáy, thấy bọn Pháp giết người như vậy mới nói vọng sang:

- Cứ nhận là có đi, không thì nó chém hết.

Đến lượt tổng Chùm nói “có” nên nó thôi không giết nữa. Hôm ấy là mùng 5 tháng 6 (âm lịch). Vì vậy, hàng năm cứ đến ngày đó là nhân dân các làng nói trên có người bị địch giết đều tổ chức cúng giỗ người thân của mình. Để biểu thị tình cảm của bà con, nên con mỗi người bị giặc giết đều được dân làng tặng thêm tên nữa là “nhiêu”, không phải mất tiền và khao vọng gì cả. Riêng con ông phó Học ở Đục Khê được nhân dân bầu làm phó lý.

Trong lúc tên quan ba Pháp đi lùng bắt nhân dân, các cụ già bàn nhau cử ông lý Đỗ đem một nải chuối tiêu tiến về phía nó. Nó bẻ mấy quả ăn, còn ông lý Đỗ cứ đội mâm đi sau. Một tên lính hầu gạt lại và nói rằng: “Về đi, còn theo cho thêm mỏi tay tao”. Ông Tạ Văn Lẹp ở Tiên Mai nhảy xuống sông định trốn, bị chúng phát hiện, bắn chết ngay. Hôm đó là mùng 1 tháng 7 (âm lịch). Còn những người khác đến Tế Tiêu, Hà Ngũ thì chúng tha về như ông Dâu v.v...

Bọn địch còn bắt ông quản Hai là em Hiệp Cường và một người nữa đem về Phú Dư mới chém. Vì tên quan ba Pháp ác độc giết người không ghê tay như thế nên nhân dân vùng này căm phẫn gọi nó là thằng Tây ngộ, Tây điên hay thằng “Ba càn”.

Khi về đến địa phận tỉnh Hà Nam, chúng bắt một người nữa là Thái, chưa rõ quê quán ở đâu, đem về làng Thụy Sơn, chỗ cây đa còng rồi chém. Chúng còn đem tác Hoắm về chém ở chợ Đại rồi bêu đầu ở làng Thụy Sơn, quê hương của ông để uy hiếp tinh thần dân làng. Địch đóng ở đây 3 ngày. Chúng bắt nhân dân phục dịch lợn, gà, cơm nước rất khốn đốn. Ác độc hơn nữa, chúng còn bắt 14 cụ già nhất làng ra đình Ba Xã ở gần núi Nguỳa, trói vào cọc. “Ba càn” chưa cho chém, vì nó còn mải ngủ. Trong lúc đó, một người làng tên là trưởng Quàn, chân trong của tên Tây ở đồn Quang Thừa (đồn này mới lập) chạy lên bẩm với quan thầy. Thằng Tây này tên là Xà-lan (có lẽ tên thật là Chaland hay Saland) phi ngựa xuống đình Ba Xã và cởi trói cho các cụ đang bị trói rồi cho về. Sau đó mới đánh thức “Ba càn” dậy và nói rằng: “Dân chúng ở đây không biết gì cả, chỉ biết vào rừng kiếm củi thôi”. Đây có lẽ là một mưu mẹo của địch xếp đặt ra để mị dân và gây uy tín cho tên quan Pháp ở đồn Quang Thừa mà thôi.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #12 vào lúc: 28 Tháng Hai, 2019, 04:30:39 pm »

NHỮNG DI VẬT VÀ TÀI LIỆU HIỆN CÒN

Sau vụ tên “Ba càn” đàn áp, dân các làng quanh vùng như Phú Yên, Tiên Mai, Yến Vĩ, Đục Khê, An Duyệt, Trung Hòa... đều chạy lên núi cả, vì sợ Tây về càn. Cụ Nguyễn Thị Cháu, 82 tuổi (1964) ở làng Phú Yên kể lại: lúc ấy cụ theo bố mẹ chạy lên núi trông xuống chỗ nghĩa quân đóng hàng dãy nhà tranh, còn bỏ lại nhiều trâu, bò, lợn, nồi ba mươi. Về sau, em chồng cụ là Hồ Văn Khiết được cái nồi đồng to bằng cái nia, ngồi vào có thể bơi qua sông được. Hồi đó, mẹ chồng cụ tu trong động Tuyết Sơn, cứ mươi hôm, người nhà mang gạo và thức ăn vào cho bà cụ. Đường lúc ấy rất khó đi, đến chỗ hai mỏm đá hai bên, ở giữa có khe, chân phải xoạc ra, tay phải vịn vào vách đá. Chính các nồi này, ai đi qua cũng vịn vào mà không biết, vì để lâu ngày nó mốc meo ra, trông tựa như đá rêu. Vả lại, rễ cây chằng chịt gần kín cả đít nồi. Em chồng cụ bước qua rồi, thấy con sâu đá bò ở phía trong nồi trượt rơi nên có một tiếng kêu khác với tiếng rơi xuống đá. Ông liền quay lại xem xét và lấy sọng dao gõ vào chỗ hở của đít nồi, té ra là tiếng đồng. Sau, ông chặt quang hết các rễ và cây mới đem nồi ra được. Để nó ở nhà mãi chẳng dùng vào việc gì, ông mới đem đổi cho người hàng đồng để lấy những dụng cụ nhỏ, thành ra di vật ấy không còn nữa.

Theo lời các cụ già ở làng Phú Yên thì Tuyết Sơn trước vẫn có ngôi chùa Âm, nghĩa là chùa thờ ở hang núi, phải trèo lên 9 bậc đá, đục vào núi, đến chỗ cây giẻ gai rồi phải xuống hang. Nay 9 bậc đá vẫn còn, cây giẻ gai cũng còn, nhưng không tìm thấy chùa Âm ở đâu nữa. Từ sau khi nghĩa quân cất giấu nhiều thứ, rồi khởi nghĩa tan, chưa ai tìm thấy ngôi chùa đó. Đầu năm 1945, ông Vũ Văn Hoàn, nay 60 tuổi (1964) ở Phú Yên và một số thanh niên cùng làng đem đục, choòng, búa vào tìm, nhưng thấy nhiều phiến đá to lại không có mìn phá nên đành chịu. Ông Hoàn nói: “Lấy hòn đá bằng nắm tay thả xuống khe, hốc thấy tiếng hòn đá lăn lóc cóc rơi xuống sâu lắm, có thể ngờ đấy là chùa Âm chăng?”

Hiện nay, bên cạnh đường đi vào, về bên tay trái, gần đến núi để leo lên động Tuyết Sơn còn thấy cây thị to cao và xanh tốt, nơi xưa nghĩa quân đã dựng rạp hát. Hồi kháng chiến chống thực dân Pháp, tỉnh đội Hà Đông cũng đóng ở đây. Gần đó, về bên tay phải cũng ở cạnh đường đi vào còn thấy một cối đá đục hẳn và phiến đá nằm nhô lên mặt đất. Đấy là cối của nghĩa quân để xay thóc nuôi quân. Hồi 9 năm đánh Pháp, nhân dân các nơi tản cư vào đây cũng đặt cần và sử dụng cối này để làm gạo ăn.

Cụ Đồng Văn Doãn, 68 tuổi (1964) ở làng Đục Khê kể rằng: cách đây độ ngót 50 năm, em cụ đi kiếm củi trong rừng Phú Yên bắt được một cái lọ ở gần đỉnh núi nhà Tho. Lọ này cao độ một thước ta (0,40m), hình thon, cổ thắt, miệng loe ra trông như lọ độc bình, chỗ phình to nhất, đường kính độ 6 tấc ta (0,24m). Lọ này, ngoài da sành, trong da chu, nhẵn lắm. Phần trên đậy bằng một cái nồi hai. Khi nậy ra thì chiếc nồi thủng và hỏng, vì lâu ngày nó cắn chặt lấy miệng lọ. Trong lọ đựng một chất mùn đen, đốt thử thấy cháy lòe lòe, mùi nọ bén sang mùi kia như ta đốt mụn vải, cái sớp vải cháy thế nào nó cháy thế ấy. Trước kia, người nhà cụ Doãn vẫn dùng cái lọ ấy để đựng chè hạt hay chè khô. Hồi lính Pháp đóng bốt, dân làng phải tản cư cả. Đến lúc về được thì nhà cửa bị Tây đốt phá, cái lọ ấy cũng như các đồ đạc khác bị mất hết, có thể nó là cái lọ đựng thuốc súng của nghĩa quân ngày trước. Anh Nguyễn Văn Cận, cán sự bổ túc văn hoá thôn Hội Xá, năm 1953 cũng được một cái nồi, không vung, rác mùn trong nồi gần đầy, hình dáng là niêu đất, đít không có cạnh bằng đồng, thổi hết 2 bò gạo, cân nặng 1 kg, đường kính 0,15m, chiều cao từ đít nồi lên đến miệng là 0,13m. Miệng nồi sáng hơn đít nồi, cạo ra màu kim khí, ở miệng và đít nồi cũng khác nhau, phía trong đít nồi láng bóng. Anh Cận cho biết: đặc biệt nồi này đựng đất chua, không tanh đồng. Hiện nay nhà anh vẫn dùng nồi đó để thổi cơm hay kho nấu. Chưa biết nồi này làm vào niên đại nào, ai sử dụng? Có phải đây là dụng cụ nấu ăn của nghĩa quân hay không?

Một cây đèn 5 ngọn hiện nay để ở đền Trình làng Phú Yên. Có người bảo đó là một thứ đèn treo, cổ bằng sắt, từ trên tỏa xuống 5 cành, mỗi cành là một cái hoa, ở giữa mỗi cái hoa là một cái vòng tròn dùng để đặt đĩa dầu. Đền Trình nay không dùng đèn đó nữa, vì người ta thắp đèn dầu hỏa cả.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #13 vào lúc: 28 Tháng Hai, 2019, 04:34:42 pm »

GIẤY KHEN CỦA QUẢN ĐẠO VÀ PHÓ SỨ MỸ ĐỨC (HÀ ĐÔNG)

(Tài liệu này viết bằng chữ Hán sau khi nghĩa quân Tuyết Sơn tan, nhằm mục đích động viên, khen thưởng những tên tay chân đã dốc sức giúp thực dân Pháp thực hiện ý đồ xâm lược bình định Việt Nam).

Nguyên văn tài liệu như sau:

Mỹ Đức đạo, Đinh quản đạo, Nguyễn phó quản đạo. Vi bằng cấp sự tiền kinh quan binh tiến tiễu Tuyết Sơn tự phỉ tụ gian, hữu dân đinh Nguyễn Văn Thiều, quán Hoàng An huyện, Phù Lưu thượng tổng, Yến Vĩ xã nãi năng tiên hướng sấn bạt phỉ kỳ định nhận đệ công văn phả thuộc đắc lực (mất 2 từ) tưởng thưởng cấp bằng đội trưởng dĩ thị khích khuyết trà lãnh sĩ chức đệ tỉnh án quán sức tri ngoại hợp hành bằng cấp. Thính xung vi thuộc đạo tòng phái cấp bằng đội trưởng thừa hành chư công vụ, nhược sơ sự, phất cần hữu công pháp lại tu trí bằng cấp dả. Hữu bằng cấp thuộc đạo tòng phái cấp bằng đội trưởng Nguyễn Văn Thiều chuẩn thử.

Thành thái nhị niên, cửu nguyệt, nhị thập bát nhật.

Có đóng dấu: “Mỹ Đức đạo ấn” và dấu kiềm “Mỹ Đức”

Vu & approuvé
Ba Tha le 10 Novembre, 1890
Le vice Résidence Mỹ Đức


Tên Tây ký thảo

Có đóng dấu tròn bằng mực xanh
(Vòng chữ xung quanh khắc:
Protectrat de l’ An Nam du Tonkin)

Ở giữa có khắc dòng chữ:
Vice Ré sidence de Mỹ Đức.



Dịch nghĩa:

Đạo Mỹ Đức, quản đạo là ông họ Đinh, phó quản đạo là ông họ Nguyễn. Vì việc bằng cấp: trước nhân quan lính đi tiễu giặc đóng ở chùa Tuyết Sơn, có tên dân binh là Nguyễn Văn Thiều, quán Hòa An (tức huyện Mỹ Đức), tổng Phù Lưu thượng, xã Yến Vĩ có xông vào cướp cờ của giặc và nhận đệ các công văn đều có đắc lực. Vậy nghĩ thưởng cấp cho tên ấy bằng đội trưởng để tỏ sự khuyến khích ngoài sự sẽ bẩm lên quan trên và sức về bản quán. Nay cấp bằng này để cho xung vào tòng phái của đạo. Cấp bằng đội trưởng thừa hành mọi việc công, nhược làm việc không siêng năng sẽ có phép công ở đó. Nay cấp bằng ấy, đây là bằng cấp thuộc đạo tòng phái, cấp bằng đội trưởng cho Nguyễn Văn Thiều nhận lấy.

Năm Thành Thái thứ hai, tháng 9, ngày 28.

Có đóng dấu: “Mỹ Đức đạo ấn” và dấu kiềm “ Mỹ Đức”.

Xem và chuẩn y

Ba Thá ngày 10-11-1890
Phó sứ Mỹ Đức (tên Tây ký thảo)

Có đóng dấu tròn bằng mực xanh.

Vòng chữ xung quanh khắc:
Trung Kỳ và Bắc Kỳ bảo hộ
Tòa phó sứ Mỹ Đức

Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #14 vào lúc: 28 Tháng Hai, 2019, 04:54:53 pm »

VÈ NGHĨA QUÂN TUYẾT SƠN

Kể từ năm Sửu kể ra
Trời làm tháng tám mới ra thế này
Ở dưới Đồng Lạc 1 khi nay
5.    Có tên người rầy gọi là Lý Yêm (Đề Yêm)
Trước làm lý trưởng có quyền
Vì chưng thuế má cho nên thế này.
Nghĩ có phó Đa khi nay
Tình nghĩa thúc bá ngày rầy anh em.
Lý Yêm cũng chẳng có hèn
10.    Làm nên tướng cướp anh em mất nhờ.
Đi thì đã bảy năm vừa
Mẹ thì chả biết, vợ thì cũng không.
Vợ thì trực tiết chờ chồng
Bỗng dưng trống róng cờ rong chảy về.
15.    Xuống thuyền quân đã đông ghê
Quân của ông Đề về mở chợ nay (chợ Đại).
Thiên hạ họp chợ đông tây
Bắn khẩu súng này trong chợ phải tan.
Xong rồi chẩy đi các làng
20.    Những quân bên Bắc kéo sang rì rì
Kéo xuống Đồng Lạc một khi
Báo ân báo oán trước thì phó Đa.
Lấy của thì chớ đốt nhà
Quân quyền hầu hạ nó “à” reo lên .
25.    Đứa thì xúc lúa lấy tiền
Đứa thì giở lại, vì khiêng đồ thờ
Quan chánh truyền cho bấy giờ
Quan nào đội ấy, đồ thờ khiêng lên
Ông quản vác loa thu quân
30.    Truyền cho lên đóng trên làng Kiều Cô 2

…………………………………….

Đến chiều mới lại mổ bò làm cơm.
Thoạt đầu đóng những ông trên
Liền bà, con trẻ hãi liền sợ thay.
35.    Cướp đâu lại chẩy bắt ngày (ban ngày)
Chúng ta cũng chả phải nay ra hầu.
Vào chùa Tam Giáo 3 đã lâu
Quang Thừa giờ hầu lại xuống báo Tây.
Tây lên đánh trận ghê thay
40.    Ta đánh trận này Tây cũng phải thua
Trống chầu cử nổi lên trên chùa
Tây nghĩ đánh được chèo đua thuyền vào
Ta nấp trên núi cũng cao
Hễ thuyền nào vào ta bắn tứ tung.
45.    Trên núi bắn xuống đùng đùng
Thấy Tây ngã xuống chèo vung ra ngoài.
Chết ông quan một, quan hai
Lính tập đã tài lại chết một đôi
Tây đồn tiến, bắt ta lùi
50. Xuống đình Mã Não 4 đánh đôi trận liền
Tây nó vây chặt bốn bên
Cướp thì ở giữa, trong liền bắn ra.
Thoạt bắn chết ông quân ba
Ông phủ sợ hãi nằm ra mạn thuyền.
Ngọn đèn cắm trên nóc đình
55.    Quan Tây lính tập đứng đen ngoài đồng
Cứ trông ngọn đèn bắn không
Bắn vào đùng đùng rung cả lá tre.
Cướp thì ở trong kéo ra
60.    Kéo lên cho đến gọi là làng Yên (Phú Yên)
Chợ Đại 5 thì thấy hai phiên
Lấy những thuyền xét 6 kéo lên làm đồn
Ta vào chùa Tuyết tranh sơn
Bắt phu làm đồn xây đá cho cao.
65.   Xây thành, đắp lũy, khơi hào
Đứa thì kiếm củi, mang dao chặt cù 7.
Làm đồn cho kín trong chùa
Để ta ra ngự chầu vua đế đình 8
Cắt cho ông Hiệp 9 liền anh
70.    Giữa đồn cho cẩn xây thành cho cao
Có đứa mang lối Tây vào
Trèo lên ngọn núi nom cao bằng giời 10
Một trăm khẩu súng bắn xuôi
Dưới đồn tan vỡ mỗi người một phương.






--------------------------------------------------------------
1. Thôn Đồng Lạc, xã Đồng Hóa, huyện Kim Bảng (Hà Nam) là quê hương của thủ lĩnh Đề Yêm. Làng Kiều Cô (còn gọi là ấp Cầu Go), nay thuộc xã Tượng Lĩnh, huyện Kim Bảng.

2. Làng Kiều Cô (còn gọi là ấp cầu Go), nay thuộc xã Tượng Lĩnh, huyện Kim Bảng.

3. Chùa Tam Giáo, làng Quang Thừa đều thuộc xã Tượng Lĩnh

4.  Làng Mã Não thuộc xã Ngọc Sơn, huyện Kim Bảng

5.  Chợ Đại thuộc huyện Kim Bảng

6.  Thuyền xét: thuyền buôn bằng gỗ

7. Chặt cù: chặt gốc cây

8. Đề Yêm khởi nghĩa cần Vương, cho nên vẫn ngưỡng mộ nhà vua.

9. Tướng Hiệp Cường

10. Ám chỉ quèn Chó cắn trong căn cứ Tuyết Sơn

Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #15 vào lúc: 04 Tháng Ba, 2019, 09:12:58 am »

75.    Thoạt vỡ ở đồn Hiệp Cường
Bảo nhau ta nấp biết lên phương nào?
Trên núi bắn xuống rào rào
Bảo nhau ta nấp biết vào ở đâu?
Đến tối rút ra cho mau
80.    Bấy giờ lạc tướng, biết đâu mà tìm
Có thầy đốc Cảnh, đốc Sơn 1
Có thầy quản Cẩm 2 ở trong đồn này.
Có ông phó đề đi đây
Lại có Đinh Ngọc(?) ngày rầy mới ra.
85.    Lại có ông tướng Xuân La 3
Ba mươi, mùng một mang ra tế cờ.
Bước lên một trạng thủ quỳ
Ông Đinh nhận chén quân thì phục trang.
Các quan 4 ngồi mới luận bàn
90.    Như chim lạc tướng khôn ngoan nỗi gì?
Bẩm cô, cô phải chẩy đi
Có thầy quản Cẩm ở thì hầu cô.
Cô phó 5 nghe nói cũng lo.
Có một xúc nhiễu xé cho quân rầy
95.    May quần may áo bằng nay
Cất quân ta chẩy ra rầy Phú Xuyên
Đi đâu tống gạo, tống tiền
Ra quân rằng đóng cho nghiêm trong làng.



Bài vè này do bà cụ Hiệt, 80 tuổi (1964) ở ấp Cầu Go, xã Tượng Lĩnh đọc cho chúng tôi ghi lại.  Bà cụ kể rằng, hồi cụ lên 6, 7 tuổi có ông cò Thanh, quê ở Bằng Vôi, gần huyện lỵ Thường Tín, tỉnh Hà Đông dạy cho thuộc bài vè. Ông cò Thanh hồi ở Trại Dộc, thuộc thôn Thụy Sơn, xã Tân Sơn, cùng huyện làm nghề nấu rượu. Ông Thanh bắt học thuộc, đọc đi đọc lại nhiều lần cho ông ấy nghe. Tôi đã tìm hỏi các con đời chồng sau của bà Đề Yêm là ông Vũ Văn Huệ và bà Vũ Thị Cúc, tức bà Trương Lác ở thôn Nhị Giáp, xã Duy Hải, huyện Duy Tiên thì cả hai vị đều nói bài vè còn một đoạn cuối nữa nói về việc bà Đề Yêm và các quân lính bị giặc Pháp đuổi đánh, bắt được rồi đưa về giam ở Hà Nội. Hồi xưa, bà Đề Yêm vẫn đọc cho các con nghe, nhưng bây giờ các con không ai còn nhớ.

Theo tôi, tác giả bài vè này quê ở một làng phía Bắc thôn Đồng Lạc hoặc ở phía đầu huyện Kim Bảng hay ở một làng nào đó thuộc một trong các huyện Mỹ Đức, Ứng Hòa, Phú Xuyên. Vì vậy, trong bài vè có câu: “Ở dưới Đồng Lạc khi nay”.

Tác giả bài vè có tài sáng tác một lối thơ dân gian, tức là vè, nhưng tác giả là người ít học nên lời thơ rất nôm na, quê mùa như: Khi này, ngày rầy, bắt ngày... Nhiều câu thơ bị mất vần, lủng củng, tối nghĩa.

Đọc kỹ bài vè ta cảm thấy tác giả đã chú ý đề cao vai trò của thủ lĩnh Đề Yêm và nghĩa quân.

Tây lên đánh trận ghê thay
Ta đánh trận này Tây cũng phải thua.

Người viết sử dụng bút pháp: đưa lên cao rồi mới giật xuống như câu thơ vừa dẫn ở trên. Tây nó đàn áp, chống lại nghĩa quân rất khốc liệt đánh trận ghê thay. Vậy mà rốt cục chúng đành phải thua trước mưu trí và sức mạnh của nghĩa quân.

Tác giả còn có một câu thơ đánh giá rất khéo chiến công của nghĩa quân: Lính tập đã tài lại chết một đôi.

Muốn bài vè được lưu truyền sâu rộng từ đời này sang đời khác che mắt được đế quốc thực dân có bọn vua quan làm tôi tớ nên tác giả buộc phải dùng một số từ ngữ đề cao chúng như:

- Chết ông quan một, quan hai...
- Thoạt bắn chết ông quan ba...
- Ông phủ sợ hãi v.v...


Nhưng ở nhiều chỗ khác, người viết đã thẳng tay gọi thực dân Pháp bằng “nó”: “Tây thì nó vây bốn bên”.

Có lúc tác giả hạ thấp vai trò Đề Yêm, gọi ông là “tướng cướp”: “Làm nên tướng cướp” và gọi nghĩa quân là “cướp”: “Cướp đâu lại chẩy bắt ngày”. Tự bản thân câu thơ này đã nói lên cái mâu thuẫn của người viết muốn thể hiện điều mình cần nói. Cướp không bao giờ dám hành động ban ngày, chỉ có nghĩa quân mới chẩy ban ngày. Chẳng qua là bọn đế quốc, phong kiến căm tức nghĩa quân nên mới gọi là “giặc”.

Về phần thời gian xảy ra các sự kiện của nghĩa quân Đề Yêm, người viết không chú ý và thiếu thận trọng khi diễn đạt:

Bài vè nói: “Đi thì đã bảy năm vừa”. Không đúng, vì theo sự điều tra, nghiên cứu của chúng tôi, Đề Yêm kể cả năm đi và năm về, thời gian hoạt động là 3 năm. Nếu Đề Yêm đi 7 năm thì lúc đó là năm 1882 thực dân Pháp chưa đặt quyền đô hộ ở Bắc Kỳ, thuế má vẫn phải nộp cho vua quan nhà Nguyễn. Đề Yêm hồi ấy chưa có việc gì để căm tức Tây được.

Nghiên cứu bài vè, tôi cảm thấy tác giả là người ngoài cuộc, cho nên có chỗ lúng túng khi diễn tả chiến sự. Nghĩa quân vừa mới đánh nhau mà đã “Đến tối rút ra cho mau” và “Ba mươi, mùng một đem ra tế cờ”.

Tuy nhiên bài vè này vẫn có giá trị hiện thực lịch sử, phản ánh được đôi nét về thủ lĩnh Đề Yêm và nghĩa quân do ông chỉ huy trong cuộc chiến đấu quyết liệt chống thực dân Pháp tại tỉnh Hà Nam và ở một số địa phương khác thuộc tỉnh Hà Đông từ năm 1889 đến năm 1891.




----------------------------------------------------------------
1. Đốc Sơn là anh em họ với Đề Yêm
2. Đốc Cảnh và quản Cẩm là con nuôi Đề Yêm.
3. Xuân La, Chẳng Cò thuộc huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Đông.
4. Các quan ở đây là các cấp tướng của nghĩa quân
5. Vợ của Đề Yêm.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #16 vào lúc: 04 Tháng Ba, 2019, 09:20:12 am »

BÀI CA TUYẾT SƠN

(Sưu tầm tại làng Hội Xá, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà đông)

Ai ơi trẻ mãi ru mà
Ngẫm năm chùa Tuyết “giặc” ra trị bình
Lý Đề Đồng Lạc đốc binh
Bốn ông hiệp quản đóng dinh bốn đầu.
Năm canh trông đánh điểm dồn
Phú Yên nôn nức vợ con đem vào.
Nhân tình ai chẳng vọng cao
Hội Xá: cai Để, đội Giao, cai Liền 1
Cơ trời, vận nước chưa yên
“Giặc” ở Bãi Sậy được tin kéo về
Thịnh Ba thua bạc ê chề 1
Bỏ làng xuống ở chăn dê quận Hồng 2
Trời ơi thương kẻ anh hùng
Cai Để dắt mẹ đi cùng quan tân 3
Ô hay con tạo xoay vần

…………………………… (sách thiếu 1 trang).


đốc, người làng Đồng Lạc, tên là Lý (Đinh Quang Lý), tên chính của Đề Yêm và có 4 hiệp quản đóng giữ 4 đồn trong căn cứ địa Tuyết Sơn. Phần mở đầu bài thơ đã nói lên sự nghiệp to tát của Tuyết Sơn: “Giặc” ra trị bình” và đặt hy vọng: “Nhân tình ai chẳng vọng cao”.

Tác giả còn nêu được nghĩa quân ở Bãi Sậy kéo sang, nhân dân làng Phú Yên phấn khởi tham gia hàng ngũ nghĩa quân, kéo cả vợ con vào căn cứ Tuyết Sơn và kể rõ những trận đánh làm cho Tây thua đau đớn: “Đạn yêu quan một nằm queo giữa đồng”.

Tuy nhiên, tác giả còn phiến diện, thấy sao nói vậy như chê nghĩa quân kéo về Hội Xá đốt nhà, cướp của, chém người mà không biết cánh anh em tổng Mỹ là tay sai của thực dân, phong kiến nên nghĩa quân mới trừng trị. Tác giả còn chê nghĩa quân của Đề Yêm có cả người cờ bạc như Thịnh Ba, trước đi chăn dê cho là hèn hạ và có người hút thuốc phiện. Người viết thiên về nêu các thiếu sót (sở đoản) mà không nói đến các ưu điểm, khả năng (sở trường) của họ là nhiệt tình yêu nước, căm thù giặc cao độ, bất khuất, đứng lên theo Đề Yêm tiêu diệt giặc Pháp.




----------------------------------------------------------------
1. Cai Để, cai Liền, Thịnh Ba và Đội Giao (bố cử nhân Nguyễn Mạnh Hướng) đều là người làng Hội Xá.
2. Chưa biết Quận Hồng là ai và ở làng nào?
3. Quan tân: Một cách gọi những người có địa vị cao thời phong kiến, đế quốc. Quan lại Nam Triều đều là quan, thực dân, đế quốc cũng là quan. Giặc tự xưng là quan, cướp cũng tự xưng với khổ chủ là quan. Quan tân (quan mới) có ý nghĩa tôn trọng. “Quan tân” ở đây để chỉ nghĩa quân Tuyết Sơn.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #17 vào lúc: 04 Tháng Ba, 2019, 09:24:29 am »

TÀI LIỆU
“LÍNH KHỐ XANH ĐÔNG DƯƠNG” CỦA E.DAUFES

Tài liệu này trích trong cuốn: “La garde Indigène derindochine de sa création à nos jours tome premier” của E. Daufes, hiện lưu giữ tại Thư viện quốc gia, Hà Nội, ký hiệu M7942.

Nguyên văn tiếng Pháp như sau:

1890
Province de Hà Nội

17. September. Le garde Principal Audibert est blessé à l’avant - bras droíen? attaquant une bande retranchesc dans une pagode de Mã Não.

Une recornaissance de 20 fusils envoye’s parleposte militaire de Phulý le rejoint. La position occpe’e par la bande est forte et I’ at taque est, remise au Pendenaun pour at tendre iarrivese de reníorts qui ont e’te’ damande’s d’ urgence. Dans la nuit les pirates disparaissent.

14. Octobre: - Le chef du đạo de Mỹ Đức M. Trimoulet recomait à la pagode de Thuyết Sơn, dans les montages de Khả Phong, Pinstallation d’un fort parti de rebelles. II attaque la position qui est paríaitement retranche’eet doit se retirer après avoir vu le Garde Principal Lemaigre mortellement touche’, un milicien tue’ est 4 autres blesse’s.

A la suite de cette affaire, une colonne de 145 íusils, don’t 45 de Inbanterie de marine, partie de Ninh Bình sous les ordres du commandant Mìchaus - Larrvière exécute’, le 25 Octobre, une reconnaissance offensive de la position pendant que 150 gardes civils agissent sur les ílancs de la bande. Dans la nuit du 28 du 29 Octobre, un détachement parvient af dominer un col donnat accès à la position. Les rebelles ne cèdent qu’a la pointe du jon laissant. 17 cadaves sur le terrain, 3 Winchester et un petit Canon. Le 30 Octobre des renforts arrivent de Hà Nội qui permettent d’occuper la position elle — mêche.


Dịch nghĩa:

1890
Tỉnh Hà Nội

Ngày 17/9, giám binh Ơ-đi-be (Audibert) bị thương ở cánh tay phải khi đánh nhau với một toán giặc đã rút vào một ngôi chùa làng Mã Não. Một tốp lính tuần tra có 20 tay súng của đồn binh Phủ Lý được phái lên bám sát ông giám binh. Vị trí của giặc đóng thì vững chắc, việc chiến đấu phải hoãn lại hôm sau để chờ quân tiếp viện đã đề nghị khẩn cấp. Đêm ấy giặc rút mất.

Ngày 14-10, quản đạo Mỹ Đức là Tơ-ri-mu-lê (M. Trimoulet) được tin ở chùa Tuyết Sơn, trong núi Khả Phong có một đảng phiến loạn mạnh đóng. Ông công kích vị trí mà quân giặc phải thu hẹp lại và ông phải tháo lui sau khi giám binh Lơ-me-gờ-rô (Lemaigre) bị tử thương, một lính tập chết và 4 lính khác bị thương.

Sau vụ này, một cánh quân có 145 tay súng, trong đó có 45 lính thủy đi từ Ninh Bình, do quan tư Mi-sô La-ri-ui-e-rơ (Michaux La rrivière) chỉ huy. Ông thi hành lệnh trên, ngày 25-10, một toán lính tuần tra tiến công vào vị trí, trong khi đó 150 lính bảo vệ chuyển đánh vào sườn toán giặc. Trong đêm 28 rạng ngày 29-10, một cánh quân biệt động vượt một cái quèn cao, cửa vào vị trí. Bọn phiến loạn chỉ nhượng bộ vào lúc gần sáng để lại 17 xác chết trên ruộng, 2 súng Winchester và một súng thần công nhỏ.

Ngày 31-10, quân tiếp viện của Hà Nội tới, chúng ta mới chiếm được vị trí này.




Qua nghiên cứu, chúng tôi thấy thời gian ghi ở trong tài liệu chưa đúng: sau trận Mã Não, nghĩa quân vào Tuyết Sơn xây đồn đắp lũy, lập doanh trại, lấy người nghĩa dũng, lấy lương thực (trưng dụng thuyền muối, lấy trâu bò ở 2 phiên chợ Đại, đúc súng thần công...). Bọn thực dân Pháp chiếm căn cứ nghĩa quân mấy lần mà không được nên chúng phải lập đồn án ngữ ở chùa Hỏa Quang (làng Phú Yên). Lính tập ở đồn này có những tên đã lân la lấy vợ địa phương. Tài liệu đã ghi nhầm địa danh Tuyết Sơn không phải ở trong núi Khả Phong mà là ở phía trên dãy núi Khả Phong.

Tài liệu kể trên nêu rõ từ ngày 17-9 đến đêm 28 rạng 29-10-1890, giặc nhường lại vị trí Tuyết Sơn. Như vậy, tính ra có 1 tháng 12 ngày. Với thời gian ngắn như thế thì nghĩa quân không thể nào làm được những sự việc như chúng tôi đã nêu. Một điểm nữa là cuốn: “Lính khố xanh Đông Dương” này do E. Daufès viết, xuất bản năm 1933, cách thời gian xảy ra sự việc 44 năm. Theo lời nói đầu, tác giả căn cứ vào các thông tư, chỉ thị của các cấp thống trị Pháp và các báo cáo của các quan binh để lại... Thực thế là thực dân Pháp nói chung ghi chép rất ít về những sự việc, hành động của những người chống đối chúng; nhiều khi chúng còn nhiều thiếu sót, sai lầm. Dầu sao thì đoạn tài liệu này cũng chứng minh rằng nghĩa quân Tuyết Sơn vào năm 1890 là một lực lượng mạnh, khiến cho quân giặc phải gờm.




TÀI LIỆU ĐỊA CHÍ TỈNH PHỦ LÝ

Tài liệu này trích ở tập Monographiede- la province de Phủ Lý. Nguyên văn như sau:

...En   1890, la colonne du commandant Michaux Larivière séjourne dans la région de Kim Phong où elle opère sous la protection de la canonnière “Avalache” pour de’ barrasser la ré gion des pirates qui s’y étaient re’ fugie’s...

Dịch nghĩa:

“Năm 1890: Cánh quân của quan tư Mi-sô La-ri-vi-e-rơ (Michaux Larrivière) đóng ở vùng Kim Phong (có lẽ là Kim Bảng, Khả Phong) và đi càn để giải phóng vùng này mà giặc ẩn nấp, có pháo thuyền “Avalache” yểm hộ....”.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #18 vào lúc: 04 Tháng Ba, 2019, 02:34:35 pm »

CHUYỆN VỀ MỘT SỐ TƯỚNG CỦA NGHĨA QUÂN

HIỆP CƯỜNG

Ông Nguyễn Văn Dần, 50 tuổi (1964) ở thôn Phú Dư, xã Hồng Quang, huyện Ứng Hòa cho biết: ông nội ông là Hiệp Cường, còn gọi là Lãnh Cường hay Tuần Cường có nước da trắng, tóc dài, đứng trên ghế tóc còn ở dưới đất to như cái rế. Vóc người dong dỏng cao, giỏi võ thuật. Đi đâu hay cầm con dao mười. Có hai người hậu vệ là ông từ Thúc, tức Nguyễn Văn Triệu và ông xã Dã đi theo và luôn luôn có 3 con chó săn không rời Hiệp Cường nửa bước. Tính tình Hiệp Cường hào hiệp, luôn giúp đỡ bênh vực những người bị hà hiếp, ông thường búi tóc, dắt lược ngà. Ngang mình thắt dây lưng điều, còn quần áo mặc như thường dân. Lúc đầu, ông được Đề Yêm giao cho việc đến Tuyết Sơn xem xét địa thế để lập căn cứ địa, sau phụ trách đồn điền tiêu chợ Dầu, quân có độ 30 người. Khi cần chỉ đánh 3 hồi mõ, tức khắc dân làng Hữu Vĩnh xuống khắp mặt. Hiệp Cường lúc thì ở Tuyết Sơn, lúc thì ở chợ Dầu, lúc ở hang núi (hang này nằm ở thẳng thôn Phú Dư trông sang núi Quang Thừa, chỗ mô chùa Bèo). Hiện nay, hang ấy còn có tên gọi là hang ông Tuần. Việc canh gác ở chợ Dầu bằng cách mắc võng trên cây đa, người ngồi canh vừa trông được xa, vừa không bị lộ.

Khi nghĩa quân Tuyết Sơn giải tán, Hiệp Cường về ở làng. Ông có 3 anh em ruột. Sau đó có những người theo đến làng Phú Dư và đổi theo họ của Hiệp Cường. Vì vậy, hiện nay (1964) 33 hộ trong thôn này đều mang họ Nguyễn.




ĐỘI KÌNH

Đội Kình quê ở làng Khả Phong, huyện Kim Bảng, trước khi theo Đề Yêm có làm lý trưởng. Ông giỏi võ và khỏe. Một lần chánh tổng bắt phu phen và tre pheo, các lý trưởng phải đem tiền thế vào. Đội Kình cũng phải nộp. Ông cho người nhà gánh mỗi bên 5 quan tiền kẽm và dặn rằng: “Hễ tao đưa mắt là mày cứ gánh ra”.

Chánh tổng nằm trên sập ở đình làng Mã Não, ngoảnh mặt ra trông thấy thầy trò đội Kình đến đem ít tiền liền giở mình, nằm ngoảnh mặt vào. Bước vào đình, Đội Kình cất tiếng chào. Hắn không trả lời. Ông liền hất hàm, anh người nhà gánh tiền bước ra. Ông chào lần nữa mà nó vẫn không thèm đáp. Bực quá, Đội Kình liền nhảy lên sập, co chân đạp một cái, chánh tổng ngã lăn queo xuống đất. Ông bồi thêm cho hắn mấy quả tống. Thế là ông bỏ về nhà, không làm lý trưởng nữa. Vừa hay lúc đó, Tôn Thất Thuyết từ Huế ra chiêu mộ nhân tài cần Vương chống Pháp, ông liền đi ngay và được cất nhắc lên chức đội.

Sau khi Tôn Thất Thuyết chạy sang Trung Quốc, Đội Kình về quê nhập nghĩa quân Tuyết Sơn. Khi nghĩa quân tan, ông cùng với các ông phó Thủ, thừa Mục trở về làng, quần áo rách tươm, trên cổ áo chỉ còn độc cái lá sen. Từ đó, ông ở hẳn làng Khả Phong làm ăn.




SƯ NHÂN

Sư Nhân người làng Nguyễn, huyện Duy Tiên di cư vào Khả Phong, đi tu từ thuở nhỏ, theo sư cụ Quyến trụ trì chùa Hương Tích. Sư cụ Quyến có nhiều đồ đệ mà sư Nhân đứng đầu trong đám đó.

Lúc còn trẻ, sư Nhân đẹp trai, họa đàn rất giỏi, nhất là lúc chạy đàn đám chay và dâng lục cúng. Các động tác cúng Phật của ông rất khéo léo. Giọng ông đọc kinh nghe rất hay. Ông còn giỏi võ nữa. Ông cùng sư Đôn, người làng Phù Thụy, xã Thi Sơn, huyện Kim Bảng (cũng tu ở chùa Hương Tích) tham gia nghĩa quân Tuyết Sơn.

Trong bọn sơn môn của cụ sư Quyến có người muốn tranh kế thừa trụ trì chùa Hương (lúc ấy khách thập phương các nơi về lễ bái ở chùa này đông lắm) nên đi báo ngầm với Tây cho lính tráng về bắt sư Nhân, sư Đôn về Sở “Săng tan” (Surete’ Centrale), tức Sở mật thám trung ương của Pháp tra tấn. Cuối cùng cả hai ông được chúng tha về, nhưng bị hồi dân quản thúc, hàng tháng phải lên huyện trình diện một lần. Sư Nhân bị mất chân ăn trưởng chùa Hương.

Sau sư Nhân về tu ở chùa làng, cuối đời tu ở chùa Nguyễn Xá, huyện Ứng Hòa (Hà Đông), mới chết năm 1960, thọ 92 tuổi. Còn sư Đôn từ ấy trở về làng Phù Thụy lấy vợ và không đi tu nữa.




SƯ CHÙA ĐẺ

Cụ từ Khương ở làng Hữu Vĩnh, huyện Mỹ Đức kể:

Sau vụ Tuyết Sơn chừng 15 năm, một tốp người làng tôi chừng hơn chục tay lái sang gặt ở Hưng Yên. Đến một nơi có người đón vào gặt ở nhà chùa, tục danh là chùa Đẻ (chưa tra cứu được đó là chùa nào, ở đâu?). Sư cụ hỏi: “Các ông ở về đâu ta?”. Cánh thợ gặt nói quê quán, sư cụ gật gù: “Hữu Vĩnh tôi biết”.

Khi gặt cho nhà chùa xong, bọn này đi gặt nơi khác. Đến lúc về, nhân trời tối nên tạt vào chùa để ngủ trọ một đêm. Nhà chùa có đãi một bữa cơm và sư cụ đến cùng ngồi nói chuyện. Lân la có người nói đến việc tu hành và hỏi sư cụ đi tu từ bao giờ. Sư cụ cho biết là đi tu bán thế, nghĩa là đã ngoài 30 tuổi mới ở chùa. Vui miệng, sư cụ kể: “Năm ngoái mẹ cháu lên, tôi đưa cho 200 bạc về cưới vợ cho thằng lớn”.

Mọi người cười vang: “Sư cụ có vợ con rồi, sao còn đi ở chùa?”.

- Ấy, câu chuyện đi tu của tôi xuất phát từ vùng các ông đấy!

- Vùng chúng tôi à?

- Vâng, các ông còn nhớ vụ Tuyết Sơn chứ?

- Có nhớ.

- Cái năm ấy, tôi quê ở miền bể Nam Định vốn liếng nhà cũng có một ít. Còn hàng phải lấy chịu của bà con hàng xóm. Ngược một chuyến lên bán ở vùng các ông.

- Hàng gì hở cụ?

- Muối mà. Sau khi bán ở chợ Quế, chợ Gốm, thuyền tôi thẳng đường lên chợ Đình. Đến Phú Yên có lệnh của các vị ở Tuyết Sơn đòi vào và trưng thu tất cả. Tôi được các vị ấy nói cho biết đây là việc lớn: đánh Tây cứu nước. Tôi nghĩ: như vậy cũng hay, vả lại hàng hóa đã bị trưng thu rồi. Của mình thì thôi mất cũng đành, nhưng của bà con hàng xóm thì ăn nói với người ta ra sao? Âu đành theo nghĩa quân quách đi.

Khi Tuyết Sơn kết thúc, tôi lần mò sang đến đây. Nhân có biết chút ít chữ Nho nên tôi cạo đầu xin tu ở chùa cho đến ngày nay.




HOÀNG CÔNG CHÍN

Đồng chí Sắt, Chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp làng Phú Duy, xã An Tiến, huyện Mỹ Đức (1964) kể chuyện:

Làng Phú Duy trước có 2 anh em Hoàng Công Chín, Hoàng Công Mười giỏi võ và đều gia nhập nghĩa quân Tuyết Sơn.

Ông Hoàng Công Chín có nước da ngăm đen. Quanh vùng, những người có máu mặt đều nhờ cậy ông trông nom cho. Có một lần một bà nhà giàu ở thôn trên bị kẻ cướp cũng ở cách đó mấy làng bắn tin sẽ đến cướp. Bà ta tin nhờ ông che chở. Ông bảo: “Bà cứ về đi, lúc nào nó đến, bà cho người tìm tôi, còn mặc kệ nó muốn lấy gì thì lấy”.

Ít lâu sau, quả nhiên tên ấy dẫn người đến cướp thật.

Được tin, ông liền đi một mình và cầm con dao mười, đứng ở cổng. Quân cướp khiêng ra nào tiền, nào của, nồi đồng, mâm, thau, trâu, lợn, quần áo v.v... Ông cứ để mặc cho chúng đi. Đến lúc

………………………………. (sách thiếu 1 trang)

lại rồi buộc vào một cái thang. Người khiêng phải đi dép gỗ (có lẽ là đôi guốc mộc, quai mây ngày xưa vẫn dùng) khiêng đến vườn nhà kẻ xấu, lúc đó có một bụi mái (cùng họ với cây mây) gai góc, xanh tốt và um tùm lắm. Rồi người ta mới lấy hai cây tre dài luồn vào bụi mái. Nhiều người nâng hai đầu tre lên, rồi khiêng thang có ông Chín đi vào lăn để ở trong. Đoạn, rút thang và tre ra.

Chờ mãi mà không có động tĩnh, bọn quan quân sục vào làng, tìm tòi khắp nơi không thấy. Chúng dùng 5 con ngựa cưỡi vào làng từ sáng đến chiều để sục sạo mà chả thấy tăm tích gì. Chúng tra hỏi hết người này đến người khác. Chỗ bụi mái chúng cũng đâm vào tìm, nhưng không thấy có kết quả. Gần tối chúng mới rút đi.

Sau dân làng phải phát hết bụi mái mới đem ông Chín ra được. Có người kể là quan quân nó đâm vào, ông lấy tay vuốt lưỡi dao cho khỏi dính máu. Chúng tôi nghi ngờ, cho rằng chi tiết này không hiện thực, chắc là tô vẽ thêm mà thôi.

Câu chuyện trên đây chứng tỏ nhân dân ta nói chung và nhân dân các vùng mà nghĩa quân Đề Yêm hoạt động nói riêng đều rất quý trọng và tìm cách bảo vệ những người yêu nước chống Pháp.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #19 vào lúc: 04 Tháng Ba, 2019, 03:56:30 pm »

DANH SÁCH MỘT SỐ NGƯỜI THAM GIA NGHĨA QUÂN TUYẾT SƠN


Đến nay, chúng tôi mới sưu tầm được tên tuổi của một số người tham gia nghĩa quân Tuyết Sơn ở hai tỉnh Hà Nam và Hà Đông như sau:

TỈNH HÀ NAM

1. Huyện Kim Bảng

-    Xã Tân Sơn:
. Làng Vĩnh Sơn, tức Vãng Sơn (tên cũ) có Lãnh Đình, Nguyễn Văn Quang.
. Làng Thụy Sơn (làng Dộc) có Tác Vi, Tác Hoắm, Đốc Nghễ đều là họ Phan.

-   Xã Khả Phong:
. Làng Khả Phong có Đội Kình, Sư Nhân, Phó Thử, Thừa Mục.

-   Xã Đồng Hóa:
. Làng Đồng Lạc có Dương Văn Soạn, Dương Văn Sữa, Việt; đốc Sơn, họ Trương
.  Làng.Yên Lạc có cụ chùm Đọ, họ Chu.

-   Xã Thi Sơn:
. Làng Phù Thụy có sư Đôn

-   Xã Văn Xá:
. Làng Điền Xá có Bát Khuếch, họ Dương.

-   Xã Nguyễn Úy:
. Làng Phù Lưu Tranh có Điển Tiến; Đội Nghiệp, họ Ngô (sau bị Pháp đầy đi Côn Đảo rồi chết ở đó); Cai Tước, họ Dương; phó Tằng, họ Nguyễn; Đốc Chỏm, họ Phan chuyên trừng trị những kẻ do thám phản bội; Đội Hồng, họ Nguyễn chuyên môn sử dụng bột hồng (đốt một thứ đuốc nhậy lửa và rất sáng)

-   Xá Lưu Xá:
. Làng Lưu Xá ở chợ Sàng có Đốc Hiểu là anh ruột tri phủ Nguyễn Đình Hòe, sau di cư sang làng An Nhân (Duy Tiên) và là cháu sinh đồ Nguyễn Thời Thực.

-   Xã Tượng Lĩnh:
. Làng Quang Thừa có Bếp Năm, họ Nguyễn: Tuần Nông (gọi tên con); phó Kiến, Trưng đều là họ Trần...
. Làng Phù Sơn (tức Lưu Giáo) có Cai Đạt làm phó chỉ huy nghĩa quân (Đề Yêm là chánh)
. Làng Phù Đạm có Phạm Phát; Lại Văn Căn; Ba Xây, họ Nguyễn có tài lặn giỏi.


2. Huyện Duy Tiên

-   Xã Hoàng Đông (có thời kỳ gọi là xã Tiên Lý)
. Làng Hoàng Đạo có Tư Giai, họ Tạ, sau không thấy về làng.

-   Xã Tiên Phong:
. Làng Dưỡng Thọ có Xuất Giang. Ông đã có lần kéo quân về làng đóng một đêm



TỈNH HÀ ĐÔNG

1. Huyện Mỹ Đức:


. Làng Đục Khê có Phạm Văn Kim, tức giáo Kim, Đội Ngàn, Đội Bình, Lý Đội, Lý Tú, Đinh Văn Tín, Đinh Văn Phê, Vương Văn Trí và Hương Chế, tức Phạm Văn Chơi. Chơi theo nghĩa quân, nhưng sau khi Tuyết Sơn tan, hắn về quê hợp tác với tên phó lý Quế làm tay sai cho giặc Pháp.

. Làng Hội Xá có Cai Để, Đội Dao là bố và Hiệp Hai là chú ruột của tri huyện Nguyễn Mạnh Hướng.
. Làng Phú Yên có Bồi Hanh, họ Nguyễn và nhiều người khác, vì làng này là làng sở tại. Có người mang cả vợ con theo nghĩa quân.
. Làng Phú Duy có Hoàng Công Chín, Hoàng Công Mười.
. Làng Yến Vĩ có Bùi Văn Đỗ, Bùi Văn Độ.


2. Huyện Ứng Hòa:

. Làng Phú Dư có Hiệp Cường (còn gọi là Lãnh Cường, Tuấn Cường) và thủ hạ, trong đó có Hương Miện, tức xếp.
. Làng Hòa Xá có Tuần Thấn, một tướng của Tuyết Sơn.
. Làng Hữu Vĩnh có anh Trọng, Bá Lộc, Thủ Nhằng, Từ Đồ, Phó Thắp, Xuất Thực, Trương Thanh và gánh hát của ông trùm Thỉnh. Bây giờ (1964), Trương Thanh có cháu 4 đời đặt tên các con là Sỉnh, Ná (tức sắn), Xét, Quề.
. Làng Kim Giang có Lãnh Hồng.
. Làng Vân Đình có nhiều thầy đồ. Trong đó có một vị tục danh là Đồ Cóc.

3. Các huyện khác:

. Ở Xuân La, Chằng Cò (huyện Phú Xuyên) có một tướng và quân (chưa tra được tên. Ở Bằng Vôi, còn gọi là chợ Bằng (gần huyện lỵ Thường Tín) có Cò Thanh.

. Ở các nơi khác chưa sưu tầm được thì chưa biết, nhưng ở các vùng Kim Bảng, Duy Tiên (Hà Nam); Mỹ Đức, Ứng Hòa, Phú Xuyên (Hà Đông) không mấy làng là là không có người tham gia nghĩa quân Đề Yêm.

. Ngoài 2 tỉnh Hà Nam, Hà Đông, ở Quảng Yên (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh) có Đề Vang, một tướng của Tuyết Sơn. Ở thị trấn Phả Lại (tỉnh Hải Dương) cũng có người tham gia.

Trong số những nghĩa quân có tên kể trên đây, đa số người có cấp bậc do tổ chức của nghĩa quân phong cho như: đề đốc, hiệp quản, lãnh binh, đốc biện, xuất đội v.v... Mỗi vị đều có đem một số người gia nhập nghĩa quân. Quản lại có một chính, mấy phụ. Bởi vậy, tổng số quân Đề Yêm trong căn cứ địa Tuyết Sơn khá nhiều (ở làng Phú Yên có người ước số quân đến trên 300 người). Trong bài vè dân gian sưu tầm được đã viết:

... Xuống thuyền quân đã đông ghê ...
Những quân bên Bắc kéo sang rì rì
.

Cụ Trương Kếu, 89 tuổi (1964) ở làng Thụy Sơn cho biết: lúc nghĩa quân kéo về núi Nguỳa, thuyền như lá tre, quân số đông đến mấy trăm người.

Khi vụ Tuyết Sơn tan, người làng Phú Yên tránh quân Pháp nên chạy lên núi trông xuống thung doanh trại có nhiều nhà cửa, trâu bò, nồi đồng, xanh đồng bỏ lại ngổn ngang.
Logged
Trang: « 1 2 3 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM