Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 04:29:44 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Trận mạc và giảng đường  (Đọc 14533 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #10 vào lúc: 06 Tháng Giêng, 2019, 06:38:52 pm »

Chương hai

CHIẾN TRƯỜNG MIỀN ĐÔNG NAM BỘ

Miền Đông Nam Bộ là địa bàn bao quanh Sài Gòn trên ba mặt đông, bắc, tây, trong đó có nhiều con đường chiến lược như quốc lộ 1, quốc lộ 13 kéo thẳng lên Bù Đốp qua Campuchia hoặc ra miền Trung. Ngoài ra, còn có đường liên tỉnh 14, 15, 16 và nhiều đường huyết mạch từ những căn cứ, hoặc các khu vực rừng rậm của miền Đông Nam Bộ có thể tiến về Sài Gòn.

Trung đoàn 141 hành quân đến vị trí quy định tối hôm trước thì nhận được tin địch tổ chức cuộc càn vào khu vực Bù Gia Mập. Lúc này ở miền Đông Nam Bộ, Quân giải phóng đã có Sư đoàn 9, Sư đoàn 5 (thành lập cuối năm 1965). Mỹ huy động lữ đoàn dù số 1 thuộc sư đoàn dù 101, chúng lấy tên là cuộc càn Austen nhằm tiêu diệt lực lượng, phá vỡ vùng hậu phương của một trung đoàn mới chân ướt chân ráo từ hậu phương miền Bắc vào đến nơi, tạo tính bất ngờ, bóp chết Trung đoàn ngay từ đầu.

Tiểu đoàn 3 ra gặp Ban cán sự Sư đoàn để nhận nhiệm vụ, lúc đó chưa thành lập Sư đoàn nhưng Ban cán sự đã có đầy đủ (tới ngày 13-6-1966 mới chính thức công bố thành lập Sư đoàn). Tôi được phân công đi cùng đồng chí Tiểu đoàn trưởng Đỗ Thôn đến Sở Chỉ huy nhận lệnh đưa Tiểu đoàn ra đánh càn ở Bù Gia Mập. Tới cổng Sở chỉ huy, qua vọng gác vệ binh thì mấy chiến sĩ đưa tôi vào dừng lại ở một đơn vị. Đó là Ban Quân lực, Trưởng ban là đồng chí Vũ Tập (bác hiện đang sinh sống ở Hà Nội, tuổi 80 nhưng vẫn khỏe mạnh). Tình cảm anh em, quê hương chuyện trò hỏi han thân mật. Tôi như gặp lại gia đình, cảm giác gần gũi, không thấy xa cách, không bẽn lẽn gì cả, các anh các chú hỏi thì trả lời. Bữa ăn trưa ở Ban Quân lực (có một cô tên Thắng phục vụ nấu ăn cho Ban), cơm rất nóng có cá lóc khô chiên, canh bí đỏ nấu cả vỏ. Lần đầu tiên ăn bí đỏ cả vỏ thấy nó rất bùi và ngon. Đây là bữa cơm đầu tiên ở chiến trường tôi được ăn ngon và khác lạ như vậy.

Nhận nhiệm vụ xong, Tiểu đoàn trưởng ra về, tổ chức đưa đoàn cán bộ gồm có các đại đội trưởng, các phân đội phục vụ của Tiểu đoàn ra điều nghiên từ sân bay Bù Gia Mập vào bờ sông Đa Quýt. Nhiệm vụ của Tiểu đoàn là chặn đánh, làm tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, không cho chúng đánh phá vùng hậu phương của ta, nơi mà Trung đoàn đang tập kết.

Đúng như dự kiến, sáng ngày 10-5-1966, Mỹ cho hỏa lực không quân, pháo binh dọn bãi ở sân bay Bù Gia Mập, sau đó đổ quân xuống. Tiểu đoàn mới vào chiến trường, kinh nghiệm chiến đấu chưa có, anh em còn đang yếu ốm, chủ yếu ra đó đào công sự quỳ, ngồi chiến đấu chặn trên những đường mòn từ sân bay đi vào. Đầu tiên là Đại đội 11 chặn trước, địch vào anh em nổ súng, đánh bằng súng AK, trung liên. Đạn B40 mang vác từ ngoài Bắc vào, mỗi thùng có 3 quả. Anh em triển khai ở giao thông hào, ngồi ở ụ súng chiến đấu, địch tới gần có đồng chí còn chưa mở thùng đạn. Từ Bù Gia Mập, chúng dùng hỏa lực của pháo binh chi viện, khi pháo binh dừng bắn hoặc chuyển làn qua vị trí khác là lúc bộ binh tiến lên. Đó là chiến thuật đánh rất bài bản, chính quy của quân đội Mỹ. Đại đội 11 nổ súng chiến đấu từng bước chặn địch rồi lui dần về phía sau. Trước tình hình đó, Ban chỉ huy Tiểu đoàn cử đồng chí Tý – Tiểu đoàn phó cùng với Đại đội 12 ra triển khai đội hình sau Đại đội 11, tức là lui lại trận địa phục kích vào phía trong để ngăn chặn địch. Ngày 12 và ngày 13, địch tiếp tục từ sân bay Bù Gia Mập theo đường mòn tiến vào dưới sự chi viện của hỏa lực pháo binh, không quân. Đến đêm ngày 13, Tiểu đoàn cử Đại đội 13 vòng ra ngoài đánh tập kích vào cụm địch nằm sát sân bay Bù Gia Mập, tiêu diệt được một số địch. Bị tổn thất do quân ta vòng ra phía sau đánh vào đội hình, tiểu đoàn 1 sư đoàn dù 101 phải rút quân chấm dứt cuộc càn quét.

Ngày đầu chiến đấu mọi cái đều bỡ ngỡ. Tiểu đội trinh sát của tôi có đồng chí bị địch bắt không giữ được khí tiết đã khai báo. Địch ghi âm đưa lên máy bay phát loa kêu gọi cán bộ chiến sĩ Trung đoàn ra đầu thú. Trận chiến đấu đầu tiên ở chiến trường, mưu trí còn ít, chưa có kinh nghiệm, nhưng chúng tôi cũng rút ra được một bài học: lính Mỹ chỉ dựa vào hỏa lực. Chỉ có hỏa lực chi viện đến đâu thì lính Mỹ mới dám đi đến đó. Nhưng khi đã tổn thất lực lượng, bị đánh từ phía sau thì cũng không còn khả năng chiến đấu và buộc phải tạm dừng cuộc hành quân. Trong khoảng thời gian chưa đến chục ngày, Tiểu đoàn 3 được trên nhận xét hoàn thành nhiệm vụ và cùng với lực lượng địa phương ở Bù Gia Mập bẻ gãy cuộc càn của Tiểu đoàn dù số 1, đảm bảo an toàn cho hậu phương của Sư đoàn và Trung đoàn.
« Sửa lần cuối: 12 Tháng Giêng, 2019, 11:06:37 am gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #11 vào lúc: 06 Tháng Giêng, 2019, 06:40:11 pm »

Trong hội nghị tổng kết rút kinh nghiệm chiến đấu Bù Gia Mập, đồng chí Trung tướng Trần Độ - Phó Chính ủy Miền tới dự và nói:

- Các đồng chí may lắm đấy. Ở trong này có đơn vị thành lập 4 năm rồi mà chỉ đánh ngụy. Các đồng chí mới vào tối hôm trước, còn ốm yếu, vũ khí chưa lau chùi, sáng hôm sau đã được đánh Mỹ mà lại thắng Mỹ. Đây là một thắng lợi rất lớn về chính trị…

Sau trận đánh, Tiểu đoàn 3 lại tiếp tục về khu vực bờ sông Đa Quýt để làm lán trại, xây dựng hầm hào phòng tránh bom pháo rồi huấn luyện, tổ chức lực lượng để làm nhiệm vụ tiếp theo. Ngày 13-6-1966, Sư đoàn 7 (mật danh Công trường 7) Quân giải phóng miền Nam được thành lập. Lúc này Trung đoàn 165 hành quân đi sau Trung đoàn 141 đã vào chiến trường, tập kết ở khu vực cách Trung đoàn 141 khoảng chục cây số. Sư đoàn 7 trước mắt có Trung đoàn 141 và Trung đoàn 165. Sư đoàn trưởng là đồng chí Nguyễn Văn Hòa, Chính ủy là đồng chí Dương Cự Tẩm. Khi ở sông Đa Quýt, Sư đoàn được Đoàn hậu cần 86 Miền cung cấp gạo, mắm ruốc, cá khô và rau cải muối khô. Trong những ngày đầu tiên ở chiến trường miền Đông Nam Bộ, Trung đoàn chịu đựng rất nhiều thử thách.

Thử thách đầu tiên là sức khỏe của bộ đội. Chúng tôi như đã nói từ đầu, có cả trung niên, thanh niên và thế hệ như chúng tôi, học sinh ra trường nhập ngũ. Sau bốn tháng trời hành quân bào mòn sức lực trên đường Trường Sơn, vào tới nơi phải đối mặt với bệnh tật. Đóng quân ở vùng bắc bờ sông Đa Quýt, nơi cách núi Bà Rá khoảng trên 10km. Bà Rá là ngọn núi cao nhất của tỉnh Bình Phước, thực dân Pháp đã chọn làm nơi giam cầm các tù chính trị của ta. Vùng núi Bà Rá bên sông Đa Quýt là nơi gây bệnh sốt rét rất cao. Lúc này thời tiết bắt đầu vào mùa mưa, mùa mưa ở Nam Bộ thường liên tục cả ngày và đêm. Ở nơi rừng sâu như thế có khi mắc võng nằm ngủ mưa tí tách suốt từ chập tối cho đến sáng và tới trưa không thấy bóng mặt trời.

Khó khăn thứ hai là thực phẩm, vật chất. Đoàn hậu càn 86 lúc này cũng bị đánh phá liên tục, các cơ sở hậu cần bị mất mát rất nhiều. Anh em hậu cần 86 mới khôi phục lại nên đảm bảo cho bộ đội đủ gạo ăn là tốt ròi, còn thực phẩm vẫn là cá khô, mắm ruốc. Vì thế, bộ đội bị bệnh tật rất nhiều như sốt rét, quáng gà, tê liệt. Bộ đội càng ít vận động, bệnh càng phát triển. Từ tháng 7 đến tháng 9, mới chỉ trong vòng 3 tháng đầu mùa mưa, Trung đoàn chủ yếu làm nhiệm vụ huấn luyện ổn định tổ chức mà quân số ốm đau đến bệnh xá điều trị và chết vì sốt rét đã lên trên 200 người. Đây là con số rất kinh khủng. Tư tưởng của chúng tôi rất hoang mang. Lính trẻ thể lực chịu đựng rất hạn chế, cho nên cái chết do sốt rét bệnh tật lúc đó đại bộ phận rơi vào lớp trẻ. Các anh tình nguyện tái ngũ do có rèn luyện chịu đựng nên ít bị sốt rét. Có sốt rét không ai nấu cơm cho mà ăn. Thế rồi khi có đồng chí ốm nặng phải cáng lên bệnh xá, đại đội phải gom góp cho đủ 6 đồng chí để cáng đi. Có trường hợp khi cáng đồng chí ốm quá nặng, anh em bảo nhau mang theo xẻng cuốc đi cùng, không may dọc đường có chết thì bó chăn võng chôn luôn. Lúc này, cuộc sống sinh hoạt không có nền nếp, vệ sinh phóng uế bừa bãi cho nên sức khỏe càng suy sụp. Tôi được Tiểu đoàn cử vào phân đội trinh sát nắm địch ở Bù Na (trên đường 14 cách Đồng Xoài 18km). Nhờ ở dinh điền Bù Na cũ dân đã bỏ hoang, có rất nhiều rau rừng như càng cua, tàu bay, lá bép, thậm chí có những quả đu đủ ở cây sau vườn của nhà dân còn sót lại. Có rau xanh ăn nên sức khỏe tạm ổn. Hàng tuần về báo cáo tình hình cho Tiểu đoàn, tổ chúng tôi mang một ít rau lang. Có lần Tiểu đoàn trưởng Đỗ Thôn còn dặn:

- Các cậu mang lá rau lang cũng được chứ không cần ngọn, về cho các thủ trưởng nấu canh.

Mỗi một lần về đơn vị, lại nghe tin anh Mông rồi anh Đờn, người cùng xã, đi cùng tôi đã chết do sốt rét. Ở chiến trường chưa đánh được trận nào ra hồn mà đã chết vì sốt rét vài anh rồi. Bây giờ nghĩ lại, tôi cũng không hiểu vì sao một viên thuốc sốt rét cũng không đủ cho chiến sĩ uống. Do không có thuốc, anh em thay nhau đi đẽo vỏ cây, không biết là cây gì nhưng cứ gọi là cây “bách bệnh”, đẽo vỏ của nó về hãm ra sắc, nấu lên mỗi người uống một bát vào buổi sáng, vị đắng vô cùng.

Một thời gian, cấp trên xuống kiểm tra và phát hiện, rồi Đảng ủy Trung đoàn kịp thời lãnh đạo uốn nắn. Tất cả phải chống gậy đi bộ. Không đi được cũng phải tập đi. Không ăn được cũng phải ăn. Phải biến rừng miền Đông thành nơi cung cấp thực phẩm cho đơn vị như: măng rừng, rau rừng, cá dưới suối, thú vật trong rừng.
« Sửa lần cuối: 12 Tháng Giêng, 2019, 11:06:00 am gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #12 vào lúc: 06 Tháng Giêng, 2019, 06:43:59 pm »

Trong lúc Trung đoàn đang phát động tự chữa bệnh như vậy thì tôi bị sốt rét, phải từ Bù Na về căn cứ nằm điều trị. Cũng như bao anh em khác, thuốc sốt rét không có cho nên cũng chỉ uống cây “bách bệnh” để điều trị. Một đêm tôi đang sốt, có lẽ khoảng 39-0 độ, người run cầm cập trên võng thì đồng chí y tá Nguyễn Minh Thi, người huyện Thanh Miện, Hải Dương đến nói:

- Ta có nửa viên ký ninh để dành lâu rồi, mày uống luôn đi xem mai có đỡ không để đi ra Bù Na kiếm rau sống mà ăn cho nó có sức khỏe.

Tôi cầm nửa viên thuốc cho vào miệng nuốt ngay. Quả tình ngày hôm sau cắt sốt thật. Nghỉ hai ngày, tôi lại ra Bù Na để quán sát tình hình nắm địch cho Tiểu đoàn. Đó là nửa viên thuốc được thấm đẫm tình bạn, tình đồng chí, đồng hương mà mãi mãi tôi không bao giờ quên được. (Sau nay anh Thi là bác sĩ công tác tại bệnh viên Thanh Miện, Hải Dương. Bây giờ, anh đã nghỉ hưu, thỉnh thoảng anh em chúng tôi cũng gặp và ôn lại câu chuyện đầy tình nghĩa đó). Nhờ phong trào tự chữa bệnh, sức khỏe bộ đội dần hồi phục. Đơn vị từng bước xây dựng lán trại có quy củ, chung quanh được phát quang để hạn chế muỗi. Bộ đội tích cực làm bánh, làm bún, săn bắn thú rừng, làm lưới bắt cá. Sức khỏe ngày được nâng lên. Trung đoàn bắt đầu đưa các đơn vị vào nhiệm vụ huấn luyện quân sự, sẵn sàng chiến đấu.

Cuối mùa khô 1967, từ tháng 2 đến tháng 4, Mỹ huy động 45.000 quân mở cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ti đánh vào Chiến khu Dương Minh Châu. Đây là cuộc hành binh lớn nhất của quân Mỹ và quân đội Sài Gòn trong cuộc phản công lần 2 trên địa bàn hai tỉnh Tây Ninh, Bình Phước. Toàn bộ Sư đoàn 7 được lệnh của Bộ Chỉ huy miền chuyển sang hoạt động trên hướng Tây Ninh, Bình Long sẵn sàng cùng với các đơn vị bạn tác chiến. Trung đoàn 141 được vào hoạt động ở khu vực Đồng Pan của tỉnh Tây Ninh (lúc đó gọi là huyện Tà Đạt). Đây là vùng rừng rậm đã bị Mỹ rải chất độc hóa học làm khô cây rụng lá, xen kẽ rừng là các trảng trống mà Đồng Pan là trảng rất lớn. Mỹ đã lập một căn cứ ở đây để làm địa bàn dùng hỏa lực pháo binh chi viện cho những cuộc hành quân lên hướng giáp biên giới Campuchia. Trung đoàn bước vào tác chiến chủ yếu là đánh nhỏ, lẻ, xây dựng ý thức chiến thuật cho từng phân đội cũng như cách bắn xe tăng của địch. Ban đầu từng tổ chiến đấu được biên chế súng B40, B41 ra sát sân bay Cà Tum để phục bắn xe tăng Mỹ. Tổ xe tăng ban đầu do Phạm Ngọc Nghinh, một trong những đồng chí rất dũng cảm chỉ huy. Đơn vị của chúng tôi pháo kích ở Đồng Pan, mang cả cối 82mm của Đại đội 15, cối 60mm của Đại đội 11, tập trung bắn vào sở chỉ huy địch, buộc chúng ngày hôm sau phải bung ra hành quân tạo điều kiện cho Tiểu đoàn đánh vận động phục kích. Một lần đi pháo kích như vậy, bị địch phản pháo vào đúng trận đại của ta. Tôi vừa kịp nằm xuống thì thấy tiếng nổ xé trời làm ù cả hai tai. Kiểm lại quân số, hy sinh một đồng chí, đó là anh Mười, người cùng bạn học, cùng quê, cùng đi bộ đội với nhau.

Hết tháng 4 năm 1967, trên lệnh chuyển hướng hoạt động về An Lộc (khu vực Bình Long hiện nay) tác chiến ở khu vực đông nam An Lộc khoảng độ 10km. Đối tượng tác chiến là sư đoàn 5 của ngụy và một phần lực lượng sư đoàn Anh cả đỏ của Mỹ. Trung đoàn 141 lúc này do đồng chí Lê Nam Phong làm Trung đoàn trưởng thay cho đồng chí Vũ Chát. Mục tiêu là tiến công đồn Tân Hưng do tiểu đoàn 2, chiến đoàn 9 của sư đoàn 5 ngụy đóng giữ. Mục đích tiêu diệt lực lượng tiểu đoàn 2, buộc Mỹ và các lực lượng của ngụy từ An Lộc hoặc từ Téc-Níc cơ động ra để Trung đoàn tiêu diệt bằng những trận vận động phục kích, cách gọi quen thuộc là đánh công sự vững chắc. Đây là trận đánh đầu tiên có ý nghĩa rất quan trọng, yêu cầu mở màn phải giành được thắng lợi để xây dựng khí thế cho Trung đoàn. Chúng tôi ai cũng xung phong được đi chiến đấu.

Trong trận này có hai điểm đáng nhớ. Một lần đi trinh sát trận địa cùng với Trung đoàn trưởng Lê Nam Phong. Khi bò vào đến hàng rào thứ ba thì đồng chí Trung đoàn trưởng nói với tôi ra báo cáo và xin ý kiến Sư đoàn trưởng. Tôi ra ngoài hàng rào và báo cáo với Sư đoàn trưởng Nguyễn Thế Bôn. Sư đoàn trưởng dặn tôi nói với đồn chí Nam Phong là “bò theo nghị quyết”. Nghị quyết của Đảng ủy Sư đoàn là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 141 bò tới lô cốt đầu cầu. Và như thế chúng tôi lại tiếp tục đưa đồng chí Trung đoàn trưởng tới điểm cuối cùng. Khi quay ra trời cũng gần sáng. Anh em kịp xóa tất cả dấu vết và cũng rất may là trời đổ mưa nên ngày hôm sau kẻ địch không phát hiện được. Thứ hai, là công tác xây dựng quyết tâm chiến đấu. Đêm chiếm lĩnh trời mưa tầm tã, sức khỏe yếu, mang vác nặng nhưng ai nấy đều có một quyết tâm chiến đấu rất cao. Nhiều đồng chí quáng gà chưa khỏi nhưng dắt tay nhau để đi vào chiếm lĩnh trận địa. Khi trận đánh diễn ra, đồng chí này ngã xuống, đồng chí khác xung phong lên. Cùng chiến đấu với Trung đoàn, có một Đại đội Thanh niên xung phong Tây Đô do anh Tám Thành (sau này làm Bí thư Quận ủy quận 3 đã nghỉ hưu) làm đội trưởng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #13 vào lúc: 06 Tháng Giêng, 2019, 06:45:49 pm »

Chị em phụ nữ Nam Bộ rất dũng cảm, xung phong đi qua các cửa mở vào lấy thương binh, tử sĩ của ta rất nhanh. Khẩn trương. Trong trận đánh này, về cơ bản, Trung đoàn giành được thắng lợi. Song do không dứt điểm triệt để (còn lại một lô cốt chống cự rất ác liệt và pháo binh, trực thăng chi viện bắn chặn ngay cửa mở) nên tổn thất lớn. Cán bộ tiểu đoàn hy sinh một đồng chí. Cán bộ đại đội, trung đội hy sinh hơn chục đồng chí. Trong số thương vong, anh em cùng nhập ngũ, cùng xã với tôi có anh Quyết quê xom Đông Bối, xã Tân Hương.

Ngày hôm sau, đúng như dự kiến, địch đưa lực lượng từ sân bay Téc Nic ra chi viện cho lực lượng còn lại ở đồn Tân Hưng và thu dọn chiến trường. Điều đáng tiếc là một số ít thương binh, tử sĩ của ta còn nằm lại trong trận địa. Có thể do thời gian chiến đấu gấp, trời sắp sáng không thực hiện kịp và triệt để được. Có đồng chí bị thương, bị địch bắt, khai thác xong bị đưa đi đày ở Côn Đảo, Phú Quốc. Đây là một trận chiến đấu tôi thấy rất tâm đắc. Tuy thắng lợi chưa trọn vẹn nhưng mở ra một kinh nghiệm đánh công sự vững chắc, tiền đề cho những hoạt động tiếp theo của Trung đoàn. Trận đánh được Bộ Chỉ huy Miền đánh giá Trung đoàn 141 đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Bản thân tôi cũng đã trưởng thành trong việc bám sát, theo dõi, luồn lách hàng rào để nắm địch, đưa cán bộ, đưa đơn vị vào tập kết theo đúng kế hoạch.

Tại cánh rừng biên giới vào cuối mùa mưa đầu mùa khô năm 1967, một sự kiện quan trọng đã đến với tôi. Đó là ngày 30 tháng 11 năm 1967, tôi được đứng trong hàng ngũ của Đảng Cộng sản. Các đồng chí tổ Đảng trong chi bộ tổ chức lễ kết nạp ở ngay trong rừng. Không có cờ, ảnh Bác, khẩu hiệu trang hoàng lộng lẫy như bây giờ. Một buổi sinh hoạt chi bộ có đầy đủ nghi thức tuyên bố kết nạp công nhận tôi là đảng viên. Trong niềm xúc động, tôi chỉ biết hứa làm hết khả năng của mình, nguyên suốt đời phấn đấu hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì lợi ích chung của Đảng. Tôi nhớ mãi hai người giới thiệu tôi vào Đảng, người đầu tiên là anh Trần Văn Đảng phụ trách hậu cần của Tiểu đoàn quê ở xã Hồng Thái, huyện Ninh Giang, Hải Dương; người thứ hai là anh Trương Minh Thế quê ở Long An làm y sĩ của Tiểu đoàn. (Hiện nay hai anh vẫn mạnh khỏe và tôi vẫn thường xuyên thăm hỏi các anh).

Vào cuối năm 1967 chuẩn bị đối phó mùa khô năm 1968, Mỹ mở cuộc càn “hòn đá màu vàng”. Sư đoàn bộ binh 25 tức là sư đoàn “Tia chớp nhiệt đới” của Mỹ hành quân vào khu vực đông bắc Tây Ninh và đặc biệt là ở bắc của Bình Phước hòng đánh phá hành lang, vận chuyển lương thực của Quân giải phóng từ biên giới xuống giáp ranh cặp ven đô phía bắc Sài Gòn. Cuộc càn “hòn đá màu vàng” gây khó khăn cho ta trong việc vận chuyển vũ khí, lương thực của đường dây hậu cần Đoàn 70 từ biên giới Campuchia xuống khu vực bắc Bình Dương. Sư đoàn 7, trong đó chủ yếu là Trung đoàn 141 được giao nhiệm vụ tổ chức đánh địch ở lộ Đô Bổ Tức, Cà Tum, Cần Nê. Sư đoàn đã cùng với các lực lượng khác nhau của Miền chặn đánh bẻ gãy cuộc càn của địch. Cuối tháng 12, chúng buộc phải rút về căn cứ.

Trong những ngày cuối năm 1967, Quân giải phóng miền Nam đang ráo riết chuẩn bị cho đợt tổng công kích chiến lược vào các đô thị lớn. Nhiệm vụ của Trung đoàn 141 nói chung và của Tiểu đoàn 3 nói riêng là đánh nhỏ lẻ để bảo vệ Đoàn 70 và giữ khu vực hậu cứ vùng biên giới. Ngày 20-1-1968, cấp trên phổ biển cho ăn tết trước khi xuống đường. Toàn đơn vị chuẩn bị đón tết, có gạo, thịt, bánh kẹo và thuốc lá. Không khí hết sức rạo rực, phấn khởi.

Ngày 26-1-1968, Trung đoàn nhận lệnh rời khỏi khu vực giáp biên giới Việt Nam – Campuchia ở bắc Bình Phước đẻ xuống bắc Bình Dương. Sau bốn ngày hành quân, chúng tôi tới khu rừng cao su Phú Hưng, Bố Lá (gần cầu sông Bé hiện nay). Có một sự trùng hợp là hôm vừa đến nơi thì vào đêm 31 tháng 1 năm 1968 tức là đêm giao thừa đón Tết Mậu Thân. Cả thế giới bàng hoàng biết tin cuộc tổng tiến công chiến lược của Quân giải phóng miền Nam vào thành trì, sào huyệt của chính quyền tai sai ở Sài Gòn. Chúng tôi mở đài nghe tin chiến thắng rất náo nức.

Tuy nhiên, lúc này Trung đoàn 141 có nhiệm vụ đánh ngăn chặn, tiêu hao, giữ lực lượng sư đoàn Anh cả đỏ của Mỹ, sư đoàn 5 của ngụy ở lại chiến trường bắc Bình Dương, không cho chúng cơ động về Sài Gòn ứng cứu, đảm bảo cho Quân giải phóng chiến đấu ở trong nội đô. Đối tượng lúc này của Trung đoàn là lực lượng bộ binh cơ giới của Mỹ. Tiểu đoàn 3 đóng ở gần đồn Bố Lá, đêm nào cũng tổ chức lực lượng hỏa lực cối 82mm pháo kích vào khu vực căn cứ của địch, bộ binh thì tham gia chống càn ở khu vực lộ Đỏ rừng cao su Phú Hưng và chuẩn bị lực lượng sẵn sàng chuyển cánh sang phía tây quốc lộ 13 làm nhiệm vụ mới.
« Sửa lần cuối: 06 Tháng Hai, 2019, 03:29:14 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #14 vào lúc: 06 Tháng Giêng, 2019, 06:47:45 pm »

Từ sau ngày 10 tháng 2, toàn chiến trường bước vào đợt hai của tổng tiến công tết Mậu Thân. Trung đoàn 141 đảm nhận nhiệm vụ hoạt động ở khu vực đông và tây đường 13 đoạn Phú Hòa – Chánh Lưu tới bắc thị xã Thủ Dầu Một. Đối tượng vẫn là sư đoàn Anh cả đỏ của Mỹ và sư đoàn 5 ngụy. Đêm 14 tháng 2, các đơn vị trong Trung đoàn bước vào thực hiện nhiệm vụ. Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn 2 tập kích đồn Sở Gà ở bắc Thủ Dầu Một, cách thị xã Bình Dương khoảng 4 km. Tiểu đoàn 3 chúng tôi đánh phục kích giao thông trên đường 13.

Dọc con đường chạy từ Thủ Dầu Một lên Lộc Ninh, các thị trấn đều có căn cứ của Mỹ ngụy chiếm đóng. Do xe cơ động nhiều lần nên con đường bị bằm nát, xe chạy bụi mù mịt. Cứ khoảng 5-7 cây số, sư đoan Anh cả đỏ lại đóng một chốt với khoảng một địa đội. Ban đêm, cứ khoảng 10 phút lại có 3 xe tăng tuần tiễu đi từ chốt này sang chốt khác hoặc ngược lại. Vượt qua đường là một công việc rất khó khăn. Từ chiều, chúng tôi đã ra bám nắm địch ở cách đường khoảng 300m. Chúng tôi leo lên cây quan sát, theo dõi và chọn khu vực đưa bộ đội vượt đường, đồng thời phải nắm chắc quy luật hoạt động của lực lượng tuần tiễu để tổ chức vượt. Khi vượt, từng trung đội một lần lượt băng qua, khi đã vượt qua rồi thì đồng chí đi sau cùng phải cầm một cành lá kéo lê từ bên này sang bên kia đường xóa dấu vết. Cứ lần lượt như thế, Tiểu đoàn chia làm ba khu vực vượt. Trong một đêm toàn tiểu đoàn sang đúng nơi tập kết theo quy định, trước sự hoạt động rất ráo riết, ác liệt của sư đoàn Anh cả đỏ. Trong lúc ngồi giải lao, dưới ánh sáng lờ mờ của pháo sáng, tiếng pháo nổ vọng lúc xa lúc gần, đồng chí Lê Viết Tuy – Tiểu đoàn phó nói chuyện với chúng tôi, thông báo tin chiến thắng ở Sài Gòn. Nghe xong, ai cũng nghĩ rằng ngày giải phóng sắp tới. Lúc cao hứng, đồng chí Tiểu đoàn phó nói:

- Các cậu không phấn đấu thành sĩ quan, hòa bình xong về lại đi cày thì khổ lắm.

Nghe Tiểu đoàn phó nói, trong lòng tôi rộn lên niềm tin tưởng và háo hức phấn đấu để trở thành người sĩ quan như thủ trưởng.

Đối tượng trực tiếp của chúng tôi là sư đoàn Anh cả đỏ, một trong những sư đoàn nổi tiếng nhất của lục quân Mỹ. Sư đoàn thành lập tháng 5 năm 1917, là đơn vị đầu tiên của lực lượng viễn chinh Mỹ đổ bộ lên nước Pháp, tháng 6 năm 1917. Trong chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) sư đoàn này đã từng tham chiến trên nhiều chiến trường và được suy danh là sư đoàn Anh cả đỏ từ đó. Trong chiến tranh thế giới lần thứ 2, sư đoàn tác chiến ở Bắc Phi, là một trong những sư đoàn tham gia đổ bộ lên vùng Omaha trong chiến dịch Noocmanđi năm 1944.

Sư đoàn Anh cả đỏ là một trong những sư đoàn bộ binh đầu tiên của Mỹ đến Việt Nam từ tháng 10 năm 1965. Triển khai ở vùng bắc Sài Gòn, sư đoàn này cố 7 tiểu đoàn bộ binh, 2 tiểu đoàn pháo 155mm và nhiều đơn vị chiến đấu khác. Cái khác của sư đoàn Anh Cả đỏ với sư đoàn 101, sư đoàn Tia chớp nhiệt đới, hay sư đoàn bộ binh 23 của Mỹ là sư đoàn này sử dụng riêng một loại dù pháo sáng, cứ mỗi một quả pháo sáng có ba múi dù thì một múi ở giữa là màu đỏ còn hai mũi ở hai bên là màu trắng. Do có đặc điểm riêng nên ta dễ nhận biết khi chúng đến hoạt động ở bất cứ vùng này. Thế nhưng sau khi đến vùng Sài Gòn tham gia tác chiến nhiều trận và ở các khu vực Bình Long, Phước Long, sư đoàn này đã bị Quân giải phóng đánh thiệt hại nặng. Thương vong trong chiến tranh ở Việt Nam lên tới 20.770 tên. Đến tháng 4 năm 1970, phải rút về nước.

Đêm 17 tháng 2, Trung đoàn đánh Sở Gà. Tiểu đoàn 3 chúng tôi phục kích ở khu vực Gò Mối. Đúng như dự kiến, trong đêm Tiểu đoàn chiếm lĩnh xong trận địa. Buổi sáng, Mỹ đưa lực lượng thiết giáp từ khu vực Bến Cát bung ra giải tỏa cho khu vực Sở Gà. 8 giờ 30, lực lượng thiết giáp đi đầu vào gần trận địa phục kích của Tiểu đoàn 3. Hỏa lực pháo binh địch từ Lai Khê, Phú Lợi, không quân từ sân bay Tân Sơn Nhất bắn chi viện rất mạnh. Tiểu đoàn trưởng Phan Văn Diệu lệnh cho các đại đội trưởng cho bộ đội vận động ra sát đường 13 rồi đồng loạt xung phong, dùng B40, B41, ĐKZ bắn vào xe tăng địch. Đồng chí Trần Văn Nhạn, Đại đội trưởng Đại đội 12 – đơn vị chủ lực của Tiểu đoàn dũng cảm xung phong cùng bộ đội chỉ huy từng phân đội chặn đánh đoàn xe của địch khi chúng vào trong vòng phục kích.

Tại vị trí chỉ huy Tiểu đoàn bộ, tôi và một số đồng chí phục vụ vào vị trí chiếm lĩnh may là tìm được một đoạn đường đi giống như giao thông hào. Chúng tôi đào công sự ẩn nấp ở đó. Buổi chiều lúc đi, được đồng chí Úy đưa cho cái cuốc Mỹ (cuốc Mỹ một đầu làm xẻng một đầu cuốc đất nên rất cơ động). Mặc dù đất cứng nhưng chúng tôi tích cực đào hầm kiểu hàm ếch, sau hàm ếch thì làm ngách vào nữa để tránh hỏa lực phi pháo của địch. Đúng như nhận định, khi đoàn xe tăng thiết giáp của Mỹ cơ động trên đường đoàn xe tăng thiết giáp của Mỹ cơ động trên đường 13, hỏa lực pháo binh của địch bắn cấp tập. Trong hầm hàm ếch, tôi, đồng chí Nguyễn Xuân Quấn cùng ngồi ở sát cửa hầm. Trong các loạt pháo bắn vào khu vực Tiểu đoàn bộ, loạt thứ hai có một quả nổ trên nóc hầm. Tất cả đất cát đổ sập xuống lấp vùi hết chúng tôi. Đồng chí ngồi ngoài hy sinh. Tôi và đồng chí Quấn bị sức ép của pháo, bới đất đứng dậy và dìu nhau sang khu vực có tổ quân y của Tiểu đoàn cấp cứu. Đến khoảng 12 giờ trưa, Tiểu đoàn đã chặn được lực lượng địch. Chúng không liên lạc được về thị xã Bình Dương và phải quay lại Bến Cát. Tiểu đoàn 3 hoàn thành được nhiệm vụ mà trung đoàn giao cho.
« Sửa lần cuối: 12 Tháng Giêng, 2019, 10:17:44 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #15 vào lúc: 13 Tháng Giêng, 2019, 08:13:58 am »

*
*   *

Cuối tháng 2 năm 1968, trong nội đô Sài Gòn, chính quyền tay sai của Nguyễn Văn Thiệu cùng quân đội của Mỹ dần ổn đỉnh tình hình. Tính bất ngờ của cuộc tổng tiến công không còn nữa. Đại bộ phận lực lượng chủ lực Miền bị tổn thất. Nhiều cơ sở của ta bị đánh phá. Công tác đảm bảo lương thực và vũ khí gặp nhiều khó khăn. Hoạt động của ta chuyển ra vùng ven Sài Gòn. Trung đoàn 141 được giao nhiệm vụ hoạt động ở khu vực bắc Bình Dương. Tiểu đoàn 3 chúng tôi tham gia tác chiến ở khu vực rừng cao su Hòa Lợi, Chánh Lưu tới khu vực ngã tư Sở Sao, Bến Cát. Lúc này, quân Mỹ đã tổ chức các đợt phản kích đánh vào khu vực đóng quân của ta ở vùng kế cận Sài Gòn. Phú Hòa và Hòa Lợi là mục tiêu của chúng. Nơi đây bộ đội triển khai đánh địch, buổi tối vào trong dân để tiếp nhận lương thực, thực phẩm.

Hàng ngày, từ sáng sớm, sư đoàn Anh cả đỏ Mỹ đưa các đơn vị thiết giáp, nhất là thiết đoàn 11 cơ động lên bắc Bình Dương, đường tỉnh lộ 14, 16, cùng bộ binh tiến công những nơi nghi có căn cứ kho tàng của ta. Mục tiêu đầu tiên của Mỹ là phát quang rừng cao su hai bên đường. Chúng dùng sợi xích buộc vào đầu hai xe rồi cứ đi càn từng hàng cao su. Hai xe đi đến đâu sao su đổ rạp xuống mặt đất sau đó chúng dùng bom xăng, bom cháy để đốt cháy. Chỉ trong vòng một tuần, rừng cao su ở khu vực An Hòa, An Lợi đã trở thành cánh đồng trống trải với thân cây đen xì, trơ trọc.

Tiểu đoàn 3 nằm trong rừng cao su An Lợi. Sáng ngày 20-2-1968, chúng tôi được lệnh chuẩn bị chiến đấu với xe tăng thiết giáp của địch đang đi lên càn quét khu vực này. Cuộc chiến đấu diễn ra từ trưa đến chiều. Đại đội 11, Đại đội 12 kiên cường chặn đánh quân địch. Đạn hỏa lực B40, B42 ít nên anh em dùng thủ pháo, lựu đạn để đánh trả các tốp lính bộ binh cũng như xe tăng của chúng. Nổ súng chiến đấu được khoảng hơn hai giờ, xe tăng thiết giáp địch đã vào gần vị trí chỉ huy Tiểu đoàn của chúng tôi. Tất cả đều vào vị trí chiến đấu để bảo vệ Ban chỉ huy Tiểu đoàn. Tôi và anh em ở cơ quan Tiểu đoàn bộ dùng súng AK và thủ pháo, ngồi sẵn ở hố chiến đấu chờ chúng tới là tử thủ. Bất ngờ một mũi từ phía sau, gồm ba xe thiết giáp lao tới ngay cửa hâm của Tiểu đoàn trưởng Phan Văn Diệu. Trong hầm có đồng chí Kính, tiểu đội trưởng trinh sát. Khi đến cửa hầm, một tốp lính dừng lại ném một quả lựu đạn xuống hầm. Đồng chí Kính dũng cảm chộp lấy quả lựu đạn ném ngược lên và đồng chí vọt lên dùng sút AK bắn tiêu diệt tốp địch để đồng chí Tiểu đoàn trưởng vùng dậy, cơ động về vị trí chỉ huy dự bị của Tiểu đoàn. Đồng chí Phan Văn Diệu và nhiều đồng chí khác được an toàn nhưng đồng chí Kính đã anh dũng hy sinh. Lợi dụng tiếng súng, thủ pháo nổ, chúng tôi ở hầm bên cạnh di chuyển về vị trí quy định.

Sau trận chiến đấu ở An Lợi, Tiểu đoàn cơ động về Bình Cơ, Bình Mỹ, khu vực bắc Tân Uyên làm nhiệm vụ củng cố lực lượng, đồng thời bảo vệ một đội phẫu của Đoàn hậu cần Miền đặt tại khu vực suối Nga, nơi cứu chữa một phần các thương bệnh binh chiến đấu ở khu vực bắc Sài Gòn. Đơn vị chúng tôi xác định được bảo vệ các đồng chí thương bệnh binh là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Tuy xa thị xã, thành phố nhưng bọn địch thường xuyên tổ chức lực lượng bung ra đánh phá, có lần chúng càn vào gần nơi anh em điều trị. Tiểu đoàn vận dụng các hình thức chiến thuật như tập kích, pháo kích, rồi vận động phục kích để tiêu diệt địch, bảo vệ đội phẫu được an toàn từ cuối giai đoạn 2 sang giai đoạn 3 của năm 1968.

Vào khoảng tháng 7 đầu mùa mưa, Tiểu đoàn chuyển nhiệm vụ khác. Sau này tôi biết, trong giai đoạn 3, cấp trên có ý định đưa Trung đoàn 141 cùng Trung đoàn 209 vượt sông Sài Gòn (đoạn Phú Cường đi Thị Tính) sang hoạt động ở Củ Chi. Song có lẽ do nhiều nguyên nhân nên ý định đó tạm dừng lại. Đó là một quyết định đúng vì thế và lực lúc đó chưa có lợi cho các đơn vị của ta mở đợt tấn công ở phía tây Sài Gòn.

Những lần qua lại bảo vệ đội phẫu, tôi quen chị Bí thư chi bộ tên là Trần Thị Ái Dân, người ở Bến Cát, Bình Dương. Chị từng chiến đấu bị thương mất một mắt, chồng là thương binh nuôi hai con nhỏ ở một đơn vị trên Miền. Chị hiền hậu và thương lính trẻ ở miền Bắc như chúng tôi. Chị kể cho chúng tôi nghe nhiều câu chuyện chiến đấu, sinh hoạt của người dân Nam Bộ, dành những món ăn Nam Bộ như bánh cuốn, có khi là những món rau rừng để chúng tôi lấy về nấu canh. Tôi quý mến như một người chị. Sau một thời gian, chúng tôi đã kết nghĩa chị em, ba chị em: chị, tôi và đồng chí Lộc ở ở Vĩnh Phú (sau này đồng chí đã chuyển đi không liên lạc lại được). Một buổi chiều tháng 7 năm 1968, khi Tiểu đoàn sắp cơ động đi nơi khác, tôi tặng chị một tấm hình mà lúc về phép trước khi đi B tôi chụp mang theo. Tôi ghi “Kỷ niệm chị Út – người em của quê hương miền Bắc”.

Cuối mùa mưa năm 1968, đội phẫu bị địch càn quét, đánh phá phải dời sang địa bàn khác. Cấp trên điều chị Út Dân về Bệnh viện K71 ở biên giới Campuchia. Năm 1970, Mỹ đánh sang Campuchia, hai chị em mất liên lạc nhau. Sau ngày hòa bình năm 1975, chị luôn tìm tin tức về tôi, hễ cứ gặp ai quê miền Bắc lại hỏi, nhưng không biết được. Cho đến một ngày tôi công tác ở Học viện Lục quân, Đài truyền hình Bình Dương làm chương trình về ông Mười Lời trồng hoa đào ở Đà Lạt. Trong phóng sự, tôi là khách hàng mua cây đào. Chương trình được Đài truyền hình Bình Dương phát vào dịp tết Đinh Hợp 2007. Chị biết tin tôi nhờ xem ti vi và một ngày đầu năm 2007, chị lên Đà Lạt. Chị em gặp lại nhau mừng không tả xiết. Chị đưa tấm hình và nói:

- Hình em tặng chị nay đã 39 năm rồi, chị vẫn giữ chờ ngày gặp lại. Điều mong muốn đó nay đã trở thành sự thật. So với ảnh em khác nhiều quá. Chị mừng em đã trưởng thành.

Chị kể, chồng chị là Đại tá Lưu Văn Trường mới mất, các cháu đã lớn và trưởng thành. Chị đã có cháu nội, cháu ngoại. Năm nay chị cũng đã gần 80 tuổi với một lần mổ do căn bệnh hiểm nghèo và thương tật đầy trên thân thể trong kháng chiến chống Mỹ. Tay cầm tấm hình của mình từ tay chị mà nước mắt tôi cứ chảy ra một cách tự nhiên. Đây là tấm hình không bao giờ tôi quên được, thể hiện tình cảm của người chị trên đất Nam Bộ luôn quý mến đứa em, người con quê miền Bắc làm nghĩa vụ giải phóng dân tộc. Tôi nói:

- Năm 1988, em làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn 7, đóng ở căn cứ Phú Lợi, hai lần qua Tỉnh đội nhờ anh Năm Châu, Tỉnh đội trưởng tìm giùm, xong rồi công việc cứ cuốn hút theo nhiệm vụ. Gia đình em đã vào trong thành phố sinh sống. Từ nay, em dành nhiều thời gian tới thăm chị và mãi mãi em quý trọng chị như người chị ruột của em.
« Sửa lần cuối: 07 Tháng Hai, 2019, 02:24:41 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #16 vào lúc: 13 Tháng Giêng, 2019, 08:14:36 am »

Trong khi làm nhiệm vụ bảo vệ ở khu vực bắc Tân Uyên ngày 12-5-1968, một tiểu đoàn lính Hoàng gia Úc đổ quân xuống khu vực nam Sở Hội, cách khu vực bắc Tân Uyên 6km. Trung đoàn 141 được lệnh tập kích tiểu đoàn địch ngay trong đêm. Tiểu đoàn 3 làm nhiệm vụ dự bị cho Trung đoàn. Trong lúc đang làm công tác chuẩn bị cho Tiểu đoàn bước vào chiến đấu thì buổi chiều, anh Nguyễn Văn Úy, người bạn cùng quê với tôi là tiểu đội trưởng hỏa lực của Đại đội 12 đi qua vị trí Tiểu đoàn bộ dừng lại tìm tôi. Hai anh em ngồi tâm sự. Chuyện về quê hương, gia đình lại trỗi dậy. Chúng tôi ngồi trên cửa hầm nói chuyện gần 2 tiếng đồng hồ rồi tôi tiễn anh về đội hình của Đại đội 12. Còn Tiểu đoàn bộ chúng tôi triển khai hành quân dưới sự chỉ huy của Tiểu đoàn trưởng Phạm Văn Xuyến. Đêm đó, anh Úy bị thương dập nát bàn tay trái. Buổi sáng tôi gặp lại, mới hôm qua còn lành lặn, nay đã nằm trên cáng tay băng trắng, người tái nhợt. Tôi nói:

- Anh mau về hậu phương điều trị rồi trở lại chiến đấu.

Do vết thương quá nặng và điều kiện cứu chữa lúc đó còn nhiều khó khăn nên bàn tay trái của anh Úy đã không giữ được. Đến năm 1972, anh được trở về quê hương đoàn tụ cùng gia đình. Bạn chiến đấu, anh em cùng xã cứ lần lượt người hy sinh, người bị thương, những người còn lại trên chiến trường ngày một ít.

Năm 2003, nhân chuyến đi công tác cùng Thượng tướng Phùng Quang Thanh (lúc đó là Tổng Tham mưu trưởng) sang Úc (Australia), làm việc với Bộ Quốc phòng của Úc. Ngài Bộ trưởng nói:

- Tôi là lính của Hoàng gia Úc và có tham gia tác chiến ở chiến trường miền Nam từ năm 1968.

- Ngài có hoạt động ở khu vực bắc Tân Uyên, Bình Dương, bắc Sài Gòn hay không? Tôi hỏi.

- Lúc đó tôi với cương vị là trung đội trưởng của một trung đội lính hoàng gia Úc thường hoạt động ở bắc Sài Gòn và vùng Bà Rịa.

Chúng tôi bắt tay nhau, cái bắt tay thể hiện sự khép lại quá khứ, hướng tới tương lai để hai quân đội cùng hợp tác trong việc chống khủng bố đảm bảo an ninh quốc gia và trao đổi hợp tác đào tạo giáo dục giữa quân đội hai nước.

Trong những tháng cuối mùa mưa năm 1968, tình hình hoạt động ở khu vực ven đô của Quân giải phóng gặp nhiều khó khăn. Trung đoàn 141 được lệnh từng bước lui về phía sau, địa bàn bắc tỉnh Bình Phước, Tây Ninh giáp vùng biên giới Việt Nam – Campuchia. Ngày 30 tháng 8 năm ấy, tại một cánh rừng ở bờ bắc Sông Bé, tôi được công nhận là đảng viên chính thức. Tháng 10 năm 1968, tôi được điều động lên làm Trợ lý quân lực của Trung đoàn 141. Tôi mang ba lô chào tạm biệt mọi người sau bốn năm chiến đấu công tác ở Tiểu đoàn 3.

Tiểu ban quân lực Trung đoàn có bảy người: Mai Đạt – Trưởng tiểu ban, Minh Đĩnh và Phạm Ngọc Hải phụ trách quân số, Đỗ Viết Noi phụ trách chính sách, Phạm Quang Nguyên và tôi mới lên phụ trách trang bị, còn Nguyễn Giang đảm nhiệm công tác thống kê. Bảy anh em chúng tôi sống rất chan hòa đoàn kết, giúp đỡ nhau hoàn thành nhiệm vụ. Công việc của chúng tôi là theo dõi về tổ chức biên chế, trang bị bảo đảm cho Trung đoàn duy trì sức chiến đấu liên tục.

Việc tiếp nhận quân số từ phía Bắc đưa vào qua cơ quan cấp trên thì phải có sự nghiên cứu điểu chỉnh, bổ sung cho các đơn vị theo kiểu biên chế thời chiến lúc đó. Công tác trang bị phải đảm bảo cho người, chiến sĩ có đủ súng, đạn, xẻng cuốc, để sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống. Đồng thời phải ghi chép lưu trữ danh sách quân nhân từ lúc nhập ngũ vào đơn vị và trong quá trình chiến đấu ở chiến trường, sự tổn thất thương vong để sau này làm công tác chính sách. Tôi theo dõi thấy công tác lưu trữ, ghi chép hồ sơ quân nhân của Trung đoàn hành quân từ miền Bắc vào cho đến những nam tôi ở Tiểu ban quân lực được thực hiện khá đầy đủ và chi tiết. Điều đó tạo điều kiện rất tốt cho công tác chính sách sau này. Tiểu ban quân lực hoạt động trong cơ quan Ban Tham mưu của Trung đoàn dưới sự chỉ huy trực tiếp của Tham mưu trưởng.

Từ khi cơ động về vùng biên giới, Trung đoàn 141 tham gia tác chiến ở nam bắc lộ Đỏ, khu vực Bổ Túc, Cà Tum. Năm 1969, có ba lần Trung đoàn 141 đánh tập kích căn cứ Tà Tê, đối tượng là sư đoàn kỵ binh không vận số 1 của Mỹ. Cuối mùa xuân năm 1969, Trung đoàn ba lần tập kích Bến Tranh khu vực tây nam Dầu Tiếng sau đó lại rút về khu vực biên giới để củng cố xây dựng lực lượng.

Năm 1970, Mỹ giật giây Lon Non làm đảo chính lật đổ chính phủ Hoàng thân Norodom Xihanuc, mở rộng chiến tranh sang đất Campuchia, tìm diệt lực lượng Quân giải phóng đang đứng chân ở khu vực biên giới giữa hai nước và cơ quan đầu não. Trung ương Cục miền Nam. Trung đoàn 141 của chúng tôi tham gia giải phóng thị trấn Mi Mốt, Sa Nuôn rồi đánh thiết đoàn xe tăng 11 của Mỹ trên đường 13 từ Lộc Ninh sang hoặc từ Sa Nuôn rút về. Từ cuối năm 1970, Trung đoàn tác chiến ở khu vực Kôngpông Chàm, đường số 2 Đầm Be – Oát Thơ Mây, đường 22 từ Tây Ninh lên ngã ba Krết, Suông Chúp. Khu vực này cũng diễn ra nhiều trận đánh lớn của Sư đoàn 7 trong đó Trung đoàn 141 đều tham gia.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #17 vào lúc: 13 Tháng Giêng, 2019, 08:15:48 am »

*
*   *

Sau nhiều năm Mỹ chuyển chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” dùng hỏa lực Mỹ, xung lực ngụy đã bị thất bại ở nhiều chiến trường từ năm 1970-1971. Trên chiến trường B2 (miền Đông Nam Bộ), chủ trương của Bộ Tư lệnh Miền mở chiến dịch Nguyễn Huệ tiến công tiêu diệt đại bội phận lực lượng sư đoàn 5 ngụy ở khu vực bắc Bình Phước và giải phóng thị trấn Lộc Ninh – thị xã An Lộc (Bình Long), mở rộng vùng giải phóng, làm cơ sở cho chính phủ cách mạng lâm thời về đứng chân và lập căn cứ hậu phương tiếp nhận vật chất từ ngoài Bắc chuyển vào chuẩn bị cho các chiến dịch tiếp theo từ phía bắc Sài Gòn.

Thực hiện mục đích đó, Bộ Tư lệnh Miền đã dùng Sư đoàn bộ binh 5 cùng binh khí kỹ thuật mở màn chiến dịch tiến công giải phóng Lộc Ninh, sau đó, sử dụng Sư đoàn 9 tiến công thị xã An Lộc. Trung đoàn 209 Sư đoàn 7 tham gia tiến công giải phóng khu ngã ba Đồng Tâm. Sư đoàn 7 (thiếu) làm nhiệm vụ chốt chặn tiêu diệt địch trên đường 13 đoạn từ Chơn Thành lên Tân Khai.

Sau những trận đánh với quân ngụy Lon Non và quân ngụy Sài Gòn trên đất nước Chùa Tháp, đầu năm 1972, Sư đoàn 7 hành quân về nước tham gia chiến dịch Nguyễn Huệ. Trung đoàn 141 được giao nhiệm vụ chốt chặn ở khu vực Tàu Ô – xóm Ruộng trên đường 13 nằm phía bắc thị trấn Chơn Thành trên 10 km.

Tháng 3 năm 1972, đồng chí Mai Đạt ra Hà Nội học, tôi được giao nhiệm vụ Trưởng tiểu ban quân lực của Trung đoàn 141. Tôi xác định trách nhiệm về công tác tổ chức lực lượng, đảm bảo trang bị cho chiến dịch dài ngày quan trọng này ở cương vị mới và tự nghĩ bản thân phải cố gắng hoàn thành nhiệm vụ đáp lại sự kỳ vọng tin tưởng của cấp trên. Chiều ngày 1 tháng 4, toàn Trung đoàn nhận nhiệm vụ xuống đường với không khí phấn khởi được quay lại chiến trường quen thuộc. Sau bốn ngày hành quân, chiều 4 tháng 4, đơn vị có mặt tại khu vực quy định phía tây đường 13, cách khu vực Tàu Ô khoảng 5 – 10km.

Đêm 4 rạng 5 tháng 4, toàn đơn vị vào vị trí chiếm lĩnh. Xa nhất là Tiểu đoàn 2 sang bên khu vực đông đường 13 làm nhiệm vụ chốt chặn giữa cống Ông Tề với bắc Xóm Ruộng. Tiểu đoàn 1 làm nhiệm vụ ở trục đường 13 từ bắc Tàu Ô lên đến nam Tân Khai. Tôi được Trung đoàn trưởng Nguyễn Văn Lối giao nhiệm vụ tổ chức bộ phận của cơ quan tham mưu Trung đoàn vận chuyển vật liệu cung cấp cho các đơn vị xây dựng chốt chủ yếu ngay trên quốc lộ 13 và phân công anh em đào hố dặt mìn chống tăng trên mặt đường ở phía trước các chốt. Ngay tối hôm đó, tôi cùng anh em của cơ quan và vệ binh cùng đào hầm với bộ đội ở chốt Đại đội 1. Bản thân tôi cùng hai đồng chí nữa đào ba hố mìn chống trăng trên đường 13. Con đường này do Pháp làm từ đầu thế kỷ XX, vật liệu chủ yếu là đá, nhựa không đáng kể. Đường 13 lúc đó nhỏ chứ không to như bây giờ. Hai bên đường cách vào 150 mét đến 200 mét rừng cây vẫn còn rậm rạp. Đến khoảng 4 giờ sáng, công việc Trung đoàn trưởng giao đã hoàn thành. Trên đường trở về sở chỉ huy Trung đoàn, chúng tôi nghe tiếng súng ở khu vực Lộc Ninh đã nổ, mở màn chiến dịch Nguyễn Huệ, giải phóng huyện lỵ Lộc Ninh (huyện đầu tiên của chiến trường miền Đông Nam Bộ được giải phóng, trở thành căn cứ cho Trung ương Cục miền Nam, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Bộ Tư lệnh Miền đứng chân lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ đến ngày toàn thắng).

Địa hình Tàu Ô là một vị trí quân sự quan trọng. Phía trước là cống Ông Tề, có con suối chảy đông tây vắt ngang đường 13, nơi chọn làm tiền duyên phòng ngự rất hiệu quả. Chỉ có bộ binh mang vác bình thường mới có thể vượt qua con suối này được. Còn nếu sử dụng đến phương tiện binh khí kỹ thuật bằng cơ giới vào chiến đấu bắt buộc tất cả các phương tiện trên đều cơ động thành hàng dọc đi qua cống Ông Tề, qua Tàu Ô mới triển khai đội hình tiến công theo các hướng. Vị trí quan trọng này được cấp trên tin tưởng giao cho Trung đoàn 141 đảm nhiệm. Cuộc chiến đấu ở Tàu Ô diễn ra rất ác liệt và kéo dài từ cuối mùa khô đến hết mùa mưa năm 1972. Nhiều đơn vị phải thay đổi phiên hiệu hai, ba lần.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #18 vào lúc: 13 Tháng Giêng, 2019, 08:23:00 am »

Chiến dịch tiến công chiến lược năm 1972, Quân giải phóng miền Nam Việt Nam đã có sự trưởng thành vượt bậc về mọi mặt. Các đơn vị giải phóng Lộc Ninh, tiến công Bình Long đều có xe tăng chi viện. Nghệ thuật tác chiến hiệp đồng binh chủng hình thanh với sự phối hợp chặt chẽ giữa bộ đội chủ lực với lực lượng vũ trang địa phương. Trình độ tổ chức chỉ huy ngày càng cao. Sư đoàn 7 làm nhiệm vụ phòng ngự cũng được tăng cường hỏa lực pháo xe kéo (pháo lựu 122mm, pháo 85mm) để chi viện cho các trung đoàn thực hiện chiến đấu. có cả vũ khí lần đầu tiên xuất hiện ở chiến trường. Đó là A.72, còn có tên gọi là “tên lửa vác vai” do Liên Xô chi viện. Trung đoàn 141 được tăng cường ba cơ cấu phóng A.72. Buổi chiều, anh em tới Sở chỉ huy Trung đoàn nhận nhiệm vụ và ngay trong đêm đưa ra khu vực tây Tàu Ô. Sáng hôm sau, toàn mặt trận chờ máy bay Mỹ từ sân bay Tân Sơn Nhất hoặc sân bay Biên Hòa lên để xem kết quả chiến đấu của “tên lửa vác vai”.

Khoảng 9 giờ, xuất hiện 2 tốp máy bay A37 của ngụy lên đánh phá vào các chốt của ta trên đường 13. Ngay loạt đầu ở trận địa phòng không khu vực Tàu Ô chỉ với hai cơ cấu phòng không, ta đã bắn rơi 2 chiếc máy bay A37 của Mỹ. Nhìn thấy máy bay rơi tại chỗ, tinh thần chiến đấu của chiến sĩ bộ binh được kích thích cao độ. Nhưng đây là loại tên lửa nhiệt, bắn đuổi là chính và yếu tố bất ngờ cũng không được lâu. Chỉ 3-5 ngày sau, không quân ngụy Sài Gòn đã tìm cách khắc phục. Mỗi khi lên đánh bom vào trận địa ta, chúng thường dùng máy bay đến thả dù pháo sáng trước, sau đó các tốp đánh bom mới tới thả bom. Lúc này ta có phóng A.72 lên thì tia nhiệt hướng quả đạn vào các dù pháo sáng nhiều hơn là hướng vào đuôi máy bay phản lực. Cách thay đổi đó đã phần nào hạn chế được hiệu quả của loại vũ khí này.

Loại vũ khí mới nữa là tên lửa chống tăng B.72, dùng bắn xe tăng, xe thiết giáp. Đây là loại vũ khí gây bất ngờ cho địch. Khi xe tăng thiết giáp ngụy cùng bộ binh triển khai đội hình, vào đúng tầm bắn, anh em bấm nút bắn những quả tên lửa có dây điều khiển tới đúng mục tiêu làm cho xe thiết giáp của địch bốc cháy. Bộ đội trong trận địa đứng cả dậy tận mắt nhìn những chiếc xe địch bốc cháy bằng vũ khí mới của ta. Có những lúc vị trí trận địa quá thấp không thể đặt B.72 để bắn được, Sư đoàn trưởng Đàm Văn Ngụy lệnh cho Trung đoàn trưởng Nguyễn Văn Lối:

- Anh phải đưa B.72 treo lên cây mà bắn.

Đây là mệnh lệnh táo bạo của người chỉ huy. Để bắn tên lửa có điều khiển này, người điều khiển phải quan sát được mục tiêu để đưa quả tên lửa tới. Cũng như tên lửa A.72 sau một thời gian, quân địch thiết kế một hàng rào lưới B.40 gắn ở phía trước và hai bên sườn của xe mỗi khi đưa xe lên chiến đấu. Đạn B.72 gặp lưới B.40 thì dừng lại không nổ. Nhưng “vỏ quýt dày có móng tay nhọn”, ta chuyển không đánh chính diện mà bắn bên sườn và phía sau xe. Cách đánh này rất có kết quả.

Sau một thời gian sử dụng bộ binh và xe tăng thiết giáp tiến lên theo đường 13 không thành công, Bộ tổng tham mưu ngụy buộc phải điều sư đoàn dù từ Tây Nguyên về giải tỏa thị xã Bình Long. Trước tiên chúng dùng một tiểu đoàn đổ xuống khu vực cách đông đường 13. Sau khi hỏa lực dọn bãi, chúng đổ cách vị trí sở chỉ huy của Tiểu đoàn 2 chỗ đồng chí Tiểu đoàn trưởng Bế Ích Quân và đồng chí Chính trị viên Nguyễn Văn Đình khoảng 500 mét. Khi địch đổ quân vừa xong cũng là lúc Tiểu đoàn 2 tập trung lực lượng tập kích ngay và tiêu diệt được một bộ phận, bọn còn lại chạy dạt về hướng đông chờ chi viện.

Trong khi thị xã Bình Long có nguy cơ bị Quân giải phóng đánh chiếm, đường 13 lại bị chặn ở khu vực Tàu Ô cho nên quân ngụy đã điều một tiểu đoàn dù đổ bộ xuống khu vực Tân Khai kết hợp với lực lượng đã đổ ở Núi Gió để đánh vào nam và đông nam thị xã Bình Long. Trung đoàn 141 được lệnh cơ động lên cùng Sư đoàn 5 thực hành tiến công tiêu diệt lực lượng dù ở Núi Gió. Sau hai ngày đêm chiến đấu, phần lớn lực lượng dù bị tiêu diệt, số còn lại phải rời về phía sau để củng cố. Ý định chi viện giải tỏa cho Bình Long của địch bị phá sản.

Tại Sở chỉ huy của Trung đoàn 141 ở rừng cao su khu vực phía đông ấp Long Vinh – Đức Vinh – Tân Khai, một buổi chiều, anh em đại đội 16 cối 82mm báo cáo về có một lực lượng lính dù đang tới gần trận địa. Trung đoàn lệnh cho Đại đội 16 triển khai chặn đánh. Đơn vị triển khai trận địa vừa xong thì những tên đi đầu đã giơ tay hàng. Đây là trung đội dù đầu tiên ra hàng Quân giải phóng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #19 vào lúc: 13 Tháng Giêng, 2019, 08:23:46 am »

Trong số những tên ra hàng có thiếu úy trung đội trưởng Nguyễn Phúc Hải. Sau khi thực hiện mọi chính sách đối với hàng binh, Trung đoàn bàn giao cho cấp trên đưa về phía sau để khai thác. Lính dù trong những năm đó là con cưng số một của quân lực Việt Nam cộng hòa nhưng khi vào chiến trường đường 13 Tàu Ô – Bình Long đã có biểu hiện đầu hàng tập thể chứng tỏ tinh thần chiến đấu của quân đội ngụy xuống cấp rất nhiều.

Sau khi tham gia đánh địch ở Núi Gió, Trung đoàn lại cơ động về khu vực trận địa phòng ngự phía bắc Tàu Ô, tiếp tục làm nhiệm vụ ngăn chặn địch ở đây. Càng ngày cuộc chiến đấu càng phức tạp. Địch điều Sư đoàn 9 bộ binh, sư đoàn 25 bộ binh, thiết đoàn 15 xe tăng thiết giáp từ đồng bằng sông Cửu Long cơ động lên để đột phá khu vực Tàu Ô. Nhưng với sự chiến đấu kiên cường của các Trung đoàn 141, 165, 209, chúng vẫn không thể vượt qua được. Trong những trận chiến đấu, giằng co với địch, có lúc chúng chiếm được một chốt, hai chốt của ta rồi anh em lại tổ chức đánh chiếm lại.

Với nhiệm vụ đảm bảo quân số duy trì sức chiến đấu cho các đơn vị được liên tục, Tiểu ban quân lực chúng tôi phải thường xuyên theo dõi nắm bắt tình hình, tổn thất về người và trang bị của từng đơn vị, củ động báo cáo,đề nghị bổ sung quân số, trang bị cho kịp thời. Những lần đó anh em tân binh quê ở miền Bắc vào chỉ nhận qua số sách rồi biên chế xuống từng đại đội. Có những đồng chí về đơn vị chưa biết mặt trung đội trưởng hoặc văn thư đại đội chưa kịp ghi tên trong sổ quân nhân ngày hôm sau đã hy sinh rồi. Tôi nhớ cuốn tiểu thuyết của nhà văn Nga “Tên anh chưa có trong danh sách” đã viết rất hay về sự hy sinh của những người lính mới về đơn vị trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Cuộc chiến đấu ở Tàu Ô rất ác liệt và mức độ hy sinh tổn thất rất lớn. Buổi sáng, anh em ở chốt ra đo chiều sâu của những hố do pháo khoan mà ban đêm địch bắn vào trận địa, có hố sâu hơn 2 mét. Nhiều quả pháo bắn sập hầm ẩn nấp của bộ đội, bộ đội phải thường xuyên đào bới cứu chữa, đưa thương binh, tử sĩ về phía sau.

Mức độ ác liệt không chỉ diễn ra ở trên chốt mà khắp toàn bộ trận địa chiến đấu của Trung đoàn. Tiểu ban quân lực của tôi ở tại vị trí sở chỉ huy Trung đoàn cách Tàu Ô khoảng 5km. Tại đây, chúng tôi làm việc trong hầm tác chiến của Trung đoàn (hầm này dành cho cơ quan Ban tham mưu), nơi nhận các chỉ thị từ trên xuống, các báo cáo ở các đơn vị về để tổng hợp báo cáo cho Trung đoàn trưởng xử lý. Hàng ngày, chúng tôi theo dõi nắm tình hình tổn thất thương vong của từng đơn vị để đề nghị điều chỉnh bổ sung con người cũng như cơ sở vật chất súng đạn cho các phân đội trước khi trời sáng. Một buổi chiều, có đoàn hậu cần chở hàng từ biên giới Campuchia xuống. Tôi gặp anh Phạm Thái Mười – Trưởng tiểu ban tài chính, anh nói:

- Có mang xuống được mấy con gà.

Tôi bảo:

- Anh để lại cho chúng tôi một con để buổi tối nấu cháo.

Trong hầm tác chiến có anh Tư Tuân, trợ lý tác chiến rất vui vẻ, người liên tục có 22 giờ nồi cháo gà đã chín. Trước khi ăn tôi nỏi:

- Có thủ trưởng Nguyễn Hải Bằng, Sư đoàn phó đang xuống chỉ đạo Trung đoàn, để tôi sang mời thủ trưởng qua cùng ăn.

Lần thứ nhất mời thủ trưởng không sang, lần thứ hai tôi xuống tận hầm mời, dắt tay, thủ trưởng mới chịu sang. Khi chúng tôi vừa xuống hầm tác chiến cũng là lúc pháo binh địch ở Chơn Thành, Lai Khê bắn liên tục vào sở chỉ huy. Một quả pháo bắn trúng vào hầm của đồng chí Nguyễn Hải Bằng. Người còn lại ở hầm đó là chiến sĩ liên lạc tên Hưng bị thương ở bẹn (hiện nay đồng chí Hưng đã về công tác ở địa phương Nam Trực, Nam Định).

Cuộc chiến đấu chốt chặn ở Tàu Ô kéo dài liên tục trong 156 ngày đêm. Con đường 13 trở thành “con đường máu lửa”, con đường của những chiến công của Quân giải phóng. Kết quả hoạt động của Sư đoàn 7 nói chung, của Trung đoàn 141 nói riêng trong thời gian ấy đã góp phần không nhỏ vào việc giữ vững một vùng giải phóng rộng lớn ở bắc Bình Long, căn cứ của Trung ương Cục miền Nam và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Bộ Tư lệnh Miền. Chiến thắng đường 13 đã ngăn chặn không cho một tên địch, một xe tăng nào có thể vượt qua chốt Tàu Ô lên chi viện cho căn cứ Bình Long, nơi Sư đoàn 9 Quân giải phóng đang chiến đấu giải phóng thị xã Hớn Quản. Đúng như tờ Bưu điện Oa-sinh-tơn đã thú nhận: “Trận đánh ở đường 13 chứng minh sự bất lực của quân đội Sài Gòn với hỏa lực của không quân Mỹ”.
« Sửa lần cuối: 06 Tháng Hai, 2019, 04:28:05 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM