Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Ba, 2024, 02:51:40 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Trận mạc và giảng đường  (Đọc 14453 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #50 vào lúc: 07 Tháng Hai, 2019, 03:01:24 pm »

Chúng tôi bắt tay xây dựng kế hoạch. Đầu tiên là điều chỉnh lực lượng, tổ chức bàn giao các đơn vị cho Bộ Tư lệnh các mặt trận tại Campuchia. Đầu tháng 3-1982, bàn giao Đội điều trị 6 và Sư đoàn 9 (đang đứng chân hoạt động ở khu vực tây Quốc lộ 6 đoạn từ bắc Kôngpông Thơm lên đến khu vực Xiêm Riệp cho Mặt trận 479. Đầu tháng 4, bàn giao Sư đoàn 339, Trung đoàn 14 biên phòng, Trung đoàn công binh 550, Đoàn chuyên gia quân sự 9903 của Tiền Giang, Đoàn chuyên gia quân sự thuộc Binh đoàn 2 cho Mặt trận 979 và địa bàn đảm nhiệm từ khu vực Pu Sat – Lếch, nam bắc đường 56 kéo dài cho tới khu vực biên giới Thái Lan – Campuchia thuộc phía tây tỉnh Pu Sat. Lực lượng về nước được tổ chức hanh quân công khai theo hai hướng. Hướng đường bộ từ khu vực U Đông qua Phnôm Pênh theo đường 1 qua phà Niếc Lương về Xvay Riêng, Mộc Bài, về các căn cứ của Quân đoàn. Hướng đường sông từ khu vực bến cảng ở cầu Sập cách bắc Phnôm Pênh khoảng 10km, theo đường sông Mê Kông về cập bến Tân Cảng, Thành phố Hồ Chí Minh. Cơ động đường sông chủ yếu là vận chuyển binh khí kỹ thuật, phương tiện nặng. Ngoài kế hoạch hành quân, còn phải nghiên cứu vị trí đứng chân cho các đơn vị (lúc này có Sư đoàn bộ binh 7, Lữ đoàn pháo binh 434, Lữ đoàn phòng không 71, Lữ đoàn tăng 22, các đơn vị trực thuộc và cơ quan quân đoàn bộ).

Ngày 20-4-1983, tôi được đi cùng đồng chí Tư lệnh lên Bộ Tư lệnh 719 để thông qua kế hoạch. Tại Sở chỉ huy, tôi thấy Tư lệnh 719 – Thượng tướng Lê Đức Anh cùng các cơ quan của Bộ Quốc phòng đã có mặt đông đủ. Nhiều lần tôi được đi cùng với các Tư lệnh Quân đoàn lên thông qua kế hoạch tác chiến mùa khô, mùa mưa. Lúc nào cũng thấy Tư lệnh 719 đăm chiêu suy nghĩ công việc. Ông ít nói và rất hiếm khi thấy ông cười. Có lúc nào nghe báo cáo ông vừa đi đi lại lại rồi thỉnh thoảng hỏi một câu. Sau mỗi lần nghe báo cáo xong, ông thường nói thẳng vào công việc: đồng ý, chỗ này chưa được về cần phải thay đổi thế này, thế này… Nhưng lần này thấy ông rất khác, nét mặt tươi tắn, lắng nghe ý kiến báo cáo của Tư lệnh Quân đoàn, hầu như không hỏi câu nào. Sau khi tư lệnh Quân đoàn trả lời xong câu hỏi của một số cơ quan Bộ, ông hỏi:

- Có ai hỏi gì nữa không?

Rồi ông kết luận:

- Nhất trí với kế hoạch mà Tư lệnh Quân đoàn 4 đã báo cáo. Yêu cầu làm tốt nhiệm vụ bàn giao địa bàn cho chặt chẽ, không để địch tập kích chiếm lại. Khi về nước phải đạt được ý nghĩa cao về chính trị bởi vì chúng ta đã giành thắng lợi sau một thời gian làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn. Đây là lần đầu tiên có một đơn vị chủ lực quân tình nghuyện cấp quân đoàn hoàn thành nghĩa vụ quốc tế hành quân trở về Tổ quốc. Hệ thống chính trị, thế và lực cách mạng Campuchia đang phát triển mạnh mẽ. Sẽ còn nhiều đơn vị quân tình nguyện Việt Nam lần lượt ra về.

Nói xong, Tư lệnh 719 phê duyệt vào quyết tâm và kế hoạch của Quân đoàn, gọi tắt là “Kế hoạch K83”.

Công việc bàn giao diễn ra thuận lợi, đúng kế hoạch. Nhiệm vụ hành quân về nước, Quân đoàn phải khân trương tiếp nhận 20 xe Zil 131 của Bộ Quốc phòng Campuchia (tăng cường cho Lữ đoàn pháo binh 434 kéo pháo 155mm và 130mm), 130 xe tải (80 xe của Tổng cục Hậu cần, 50 xe của quân đội Hoàng gia Campuchia để giúp cho Sư đoàn 7). Các đơn vị hối hả thực hiện công tác chuẩn bị, giải quyết chính sách huấn luyện các động tác lên xuống xe.

Ghi nhận công lao của Quân đoàn, Chính phủ cách mạng dân tộc giải phóng đoàn kết Campuchia tặng Huân chương Ăngco, huân chương cao quý nhất của Đảng và của Chính phủ nhân dân Campuchia cho Quân đoàn 4. Tôi được vinh dự đi cùng với đồng chí Tư lệnh để đón nhận huân chương từ tay đồng chí Tổng Bí thư Heng Xom Rin. Buổi đi được chuẩn bị có lá cờ quyết chiến, quyết thắng của Binh đoàn Cửu Long. Tôi và đồng chí Hiệu, Phòng Quân huấn đi trên chiếc xe Uoat do đồng chí Nhàn lái xe tháp tùng Tư lệnh tới hội trường Hoàng Cung.

Sắp tới giờ tổ chức lễ nhận huân chương, một tình huống diễn ra cũng hơi hi hữu. Không hiểu vì sao miếng tiết bên phải của Tư lệnh Võ Văn Dần thanh nhôm bị gãy không tài nào luồn được vào khuy ve áo, trong khi ba thầy trò không kim chỉ, không tấc sắt trong tay. Trong lúc đang loay hoay không biết khắc phục bằng cách nào, tôi ra nói đồng chí Nhàn lái xe:

Chú mở cốp có miếng nào bằng đồng mà luồn được cái ve áo quân hàm của Tư lệnh thì cắt ngay đưa vào để kịp làm lễ, còn xe chú ở ngoài này sửa sau.

Đồng chí Nhàn nhanh chóng mở cốp xe kiếm được đoạn dây điện có ruột bằng đồng cắt ra để tôi kịp mang vào luồn chiếc phù hiệu gắn lên ve áo cho Tư lệnh, vừa xong cũng là lúc ban tổ chức mời Tư lệnh và tổ quân kỳ ra nhận huân chương. Có lẽ vì sự vội vàng như vậy nên Tư lệnh và hai anh em tôi đi ra hội trường ở Hoàng Cung, ba thầy trò đi không được đều và nét mặt của Tư lệnh hơi đăm chiêu. Sau khi nghe công bố quyết định của nhà nước Campuchia, đồng chí Heng Xom Rin đã gắn Huân chương Ăngco lên lá cờ quyết chiến, quyết thắng của Binh đoàn Cửu Long.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #51 vào lúc: 07 Tháng Hai, 2019, 03:10:38 pm »

Tạm biệt đất nước Chùa Tháp

Rời khỏi Hoàng Cung, xe chúng tôi khẩn trương cơ động về Sở chỉ huy ở Long Vét để Tư lệnh một lần nữa kiểm ta công tác chuẩn bị các đơn vị cơ động. Trên dọc đường từ Hoàng Cung qua đài Độc Lập, hai bên đường rợp cờ đỏ của Việt Nam và cờ năm tháp của Campuchia chuẩn bị cho cuộc tiễn đưa quân tình nguyện Việt Nam vào buổi sớm mai. Trong niềm phấn khởi, đồng chí Tư lệnh dặn tôi:

- Lợi về kiểm tra công tác chuẩn bị ở các khối, các đoàn ngày mai cơ động cho đúng quy định. Nhớ hiệp đồng với không quân để trực thăng đến và đưa về Ba Vet đúng thời gian.

Theo kế hoạch, trong ngày 1-5-1983, Binh đoàn Cửu Long hành quân về nước xuất phát từ U Đông qua Phnôm Pênh, Niếc Lương, Xvay Riêng, Mộc Bài, về Thành phố Hồ Chí Minh. Nhân dân Campuchia sẽ tổ chức tiễn đưa ở thủ đô Phnôm Pênh, bờ tây phà Niếc Lương và ở Ba Vet, tây biên giới Mộc Bài. Trong ba điểm quan trọng đó đều yêu cầu Tư lệnh Binh đoàn Cửu Long có mặt để tiếp nhận sự tiễn đưa của nhân dân, chính quyền cách mạng và lực lượng vũ trang Campuchia cũng như khi qua biên giới về Mộc Bài, Gò Dầu tiếp nhận sự tiếp đón của chính quyền nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Tây Ninh. Mọi kế hoạch chuẩn bị đã cơ bản xong. Khoảng 22 giờ đêm 30-4, tôi nắm tình hình qua trực ban rồi lên báo cáo với Tư lệnh toàn bộ công tác chuẩn bị theo đúng kế hoạch để đồng chí yên tâm.

Có lẽ đêm 30-4-1983 là đêm tất cả cán bộ, chiến sĩ của Binh đoàn Cửu Long thức trắng. Thức trắng để chia tay với nhân dân Campuchia sau hơn bốn năm đồng cam cộng khổ, chia nhau từng lon gạo, hạt muối, viên thuốc, những ngày xây dựng địa bàn, những ngày hành quân truy quét. Có lẽ nhiều người đang liên tưởng đến ngày này cách đây 8 năm, họ có mặt trong đoàn quân tiến vào giải phóng Sài Gòn. Đêm 30-4-1975, rất nhiều người không ngủ được, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc sau mấy chục năm gian khổ đã giành thắng lợi trọng vẹn. Phòng Tác chiến chúng tôi tổ chức một bữa ăn nho nhỏ vào lúc giữa đêm gọi là bồi dưỡng sức khỏe. Có nồi cháo gà, những ly rượu trắng, những ly nước thốt nốt… Ai cũng cười nói rôm rả chờ đón một buổi sáng quan trọng: Binh đoàn Cửu Long hoàn thành nhiệm vụ hành quân về Tổ quốc.

Tờ mờ sáng 1 tháng 5, các đơn vị trong từng khối hành quân đã vào vị trí xuất phát. Gương mặt cán bộ, chiến sĩ đều rạng ngời trong những bộ quân phục mới nhất. Họ hớn hở vẫy chào lẫn nhau, chào nhân dân, chào đồng chí, những người đã nhiều năm cùng kề vai sát cánh, cùng chiến đấu với quân tình nguyện Việt Nam. Những chiếc xe ô tô cũng được tu sửa, bảo dưỡng lại trông rất oai nghiêm. Bầu trời buổi sáng ngày 1-5, trên thành phố Phnôm Pênh không mưa, mát dịu. Khắp nơi ngát một mùi thơm hoa nhài trên tay các thiếu nữ và những nhà sư. Họ kết thành từng tràng hoa để tặng cho cán bộ, chiến sĩ từng đoàn đi qua. 7 giờ sáng, đi đầu đội hình vào đài Độc Lập là xe của Tư lệnh. Sau khi dừng xe nhận báo cáo của đồng chí thay mặt Quân đội Hoàng gia Campuchia, đồng chí Tư lệnh đến bắt tay, hai đồng chí ôm chầm lấy nhau. Trong giây phút nghiêm trang, đồng chí Bu Thoong và Tư lệnh Quân đoàn 4 cứ muốn ôm mãi, lưu luyến giữ kỷ niệm giữa hai quân đội, hai dân tộc đã chung vai sát cánh vì sự hồi sinh của dân tộc Campuchia. Đồng chí Bu Thoong luôn nói “Nức ná, nức ná, ocun, ocun Chơrơn, chia chuôn côn top Campuchia – Viet Nam săm ma ki” (nhớ lắm, cám ơn nhiều, nhân dân, quân đội hai nước sẽ mãi đoàn kết).

Đoàn xe từ từ lăn bánh trước hàng vạn nhân dân ăn mặc rất đẹp trên tay cầm cờ Việt Nam, cờ Campuchia vẫy chào, miệng liên tục hô “ocum con tạp Việt Nam”, “Viet Nam – Campuchia săm ma ki, Viet Nam – Campuchia săm ma ki”. Những tiếng hô không bao giờ ngớt, rồi có rất nhiều bà mẹ tới tận xe ôm hôn những chiến sĩ của chung ta, nói rằng: “em nứt côn ná, me mứt côn top Việt Nam”. Cứ như thế, đoàn xe lần lượt chậm rãi qua khỏi thành phố Phnôm Pênh trong không khí tiễn đưa đầy lưu luyến cảm động!

Đoàn quân đi qua Phnôm Pênh, qua cầu Mônivông, theo dọc đường quốc lộ số 1 xuống bờ tây phà Niếc Lương, nơi mà Đảng bộ chính quyền nhân dân tỉnh Kan Đan tổ chức tiễn đưa Binh đoàn Cử Long. Đến đây, đoàn được đồng chí Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh đón chào và đọc diễn văn tiễn đưa quân tình nguyện. Những bà mẹ tận tay bê từng quả dừa đầy ắp nước đến từng xe đưa cho chiến sĩ. Chúng tôi mỗi người trên tay cầm một quả dừa, uống những ngụm nước ngọt ngào, mát lạnh. Dòng sông Tông Lê Sáp (Mê Kông) hôm nay đã chứng kiến một cảnh tượng thật tình nghĩa giữa người đi và người ở lại. Cũng dòng sông ấy ngày 7-1-1979 đã chứng kiến quân đội tình nguyện Việt Nam với các lực lượng cách mạng Campuchia ngược dòng sông từ Niếc Lương vào thẳng Hoàng Cung tiêu diệt chế độ diệt chủng Pôn Pốt. Dòng sông ấy hôm nay rất thanh bình. Dân chài đánh cá làm ăn sinh sống hai bên bờ, hình ảnh hồi sinh của một dân tộc.

Làm xong các thủ tục ở bờ tây phà Niếc Lương cũng đã vào khoảng 14 giờ ngày 1 tháng 5. Khối đi đầu theo quốc lộ 1 đã về gần tới Chi Phu cách biên giới Việt Nam – Campuchia khoảng 15km. Tư lệnh cùng với một số đồng chí ở cơ quan Quân đoàn trong đó có tôi cơ động bằng trực thăng từ bờ tây phà Niếc Lương về khu vực Ba Vet nhập vào khối 1 để 16 giờ cùng ngày, Tư lệnh chủ trì việc đón nhận lễ tiễn đưa của Đảng bộ và chính quyền nhân dân tỉnh Xvay Riêng. Tới vị trí quy định, anh em bắn pháo sáng làm tín hiệu cho các đoàn xe trong khối bắt đầu di chuyển theo kế hoạch. Trong lúc bắn pháo sáng, không hiểu góc độ bắn thế nào một quả pháo sáng rơi xuống gần khu vực lễ đài khoảng 500m. Đang mùa khô, rơm rạ rất nhiều, lửa cháy ngùn ngụt phải triển khai cho một bộ phận dập lửa. Tại khu vực Ba Vet – Mộc Bài, những người bạn chiến đấu Quân đội Hoàng gia Campuchia đã lần lượt ôm, bắt tay, hôn thân mật từ đồng chi Tư lệnh, các sĩ quan đi cùng đến tất cả cán bộ, chiến sĩ trên từng xe.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #52 vào lúc: 07 Tháng Hai, 2019, 03:14:23 pm »

18 giờ, đoàn xe tiếp tục vượt Gò Dầu đến đất Trảng Bàng và tiến về Thành phố Hồ Chí Minh. Các đơn vị tỏa theo các vị trí tập kết đã được chuẩn bị từ trước. Về tới Trảng Bàng mới thấy ngấm mệt và đói. Tôi báo cáo với Tư lệnh:

- Mời thủ trưởng vào đây kiếm bát phở lót dạ rồi hãy đi chứ về đến căn cứ Sóng Thần đã khuya rồi.

Chắc Tư lệnh cũng đói nên rất vui vẻ vào ăn. Trong xe có bốn người nhưng khi vào tôi gọi tám tô phở, đồng chí Tư lệnh ngạc nhiên:

- Kêu gì mà nhiều vậy?

Tôi nói:

- Báo cáo thủ trưởng, đói quá, chắc thế nào cũng ăn hết đấy!

Khi chủ hàng bê ra, tôi để một tô cho Tư lệnh ăn trước. Cứ thế chúng tôi mỗi người ăn hết hai tô. Ăn xong, chiếc xe đưa chúng tôi về căn cứ 301 Sóng Thần.

Về tới căn cứ, chào Tư lệnh xong, chúng tôi về cơ quan của mình thay đồ đạc, tắm rửa và lên giường nghỉ ngơi. Cứ tưởng sẽ ngủ ngon vì đêm qua thức trắng và chặng đường đi rất mệt. Nhưng hoàn toàn trái ngược, nằm mãi vẫn không sao ngủ được. Bao nhiêu kỷ niệm lại ùa về. Cách đây hơn bốn năm, tôi được Bộ Tư lệnh gọi lên giao làm kế hoạch chiến dịch tiến công giải phóng Phnôm Pênh, lấy trục quốc lộ 1 làm hướng tiến công chủ yếu, các hướng kết hợp, nam bắc quốc lộ 1, đường sông từ dưới Tân Châu lên Niếc Lương vào khu vực Hoàng Cung. Hôm nay ngày hoàn thành nhiệm vụ quốc tế trở về tôi cũng được Bộ Tư lệnh giao làm kế hoạch cơ động tổ chức các đoàn hành quân về nước. Giờ phút này các đơn vị, các khối đã cơ bản vượt qua cửa khẩu Mộc Bài về đất mẹ và tiến vào căn cứ của mình theo quy định. Đó là một điều rất sung sướng và rất đỗi tự hào của một trợ lý tham mưu cấp chiến dịch khi được cấp trên tin tưởng giao thực hiện những kế hoạch đặc biệt.

Con đường quốc lộ 1 ngày 7-1-1979 đã chứng kiến những đoàn quân xe tăng, thiết giáp, những sư đoàn binh chủng hợp thành của Quân đoàn 4 từ khu vực đường 10 Đôn So thẳng ra quốc lộ 1 tiến về Niếc Lương, rồi tổ chức vượt phà Niếc Lương một mạch tiến thẳng vào Phnôm Pênh. Cũng con đường đó hôm nay đã rợp bóng cờ và chứng kiến đoàn quân của Binh đoàn Cửu Long ngược đường 1 trở về đất nước trong tiếng reo hò, chào đón, lưu luyến tiễn đưa của người dân Campuchia cần mẫn và rất yêu bộ đội Việt Nam. Dòng sông Mê Kông từng chứng kiến những đoàn tàu chiến của Trung đoàn hải quân 962, những chiếc phà của giao thông công chính chở những chiếc xe tăng, xe kéo pháo lần lượt tiến vào Phnôm Pênh, hôm nay lại in bóng những chiếc phà chở xe tăng, thiết giáp và binh khí kỹ thuật của Binh đoàn xuôi dòng sông trở về đất mẹ.

Cách đây bốn năm, Phnôm Pênh là một thành phố chết, một thành phố không có người dân vẫy chào tiếp đón như ngày 30-4-1975 khi đại quân tiến vào giải phóng Sài Gòn. Nhưng sáng hôm nay ngày 1-5-1983, tất cả các tầng lớp nhân dân, sư sãi, học sinh, sinh viên các quan chức của Đảng, Nhà nước Campuchia đã vẫy chào tiễn đưa Binh đoàn Cửu Long về nước một cách trang trọng, tưng bừng, chân tình và đầy tình nghĩa anh em.

Cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và bốn năm làm nhiệm vụ quốc tế trên đất bạn như một cuốn phim hiện lên đầy đủ trong trí óc tôi. Ai có dịp mỗi lần đi lên đồi 82 huyện Tịnh Biên, tỉnh Tây Ninh, sẽ thấy rõ đây là quả đồi nghĩa trang. Những người con hy sinh khi làm nhiệm vụ giữ yên biên giới từ trước ngày 7-1-1971 và những người con tình nguyện hy sinh khi làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia của Quân khu 7, của Quân đoàn 3, Quân đoàn 4 hầu hết đều mai táng ở đây. Một sự mất mát quá to lớn. trong số những người con Việt Nam đã ngã xuống vì nghĩa lớn, có cả những cán bộ cao cấp. Đó là Thiếu tướng Kim Tuấn (Tư lệnh Quân đoàn 3), đồng chí Mười Kim (Sư đoàn 9), đồng chí Phạm Dũng (Sư đoàn 339), Đại tá Trần Ngọc Chung (Sư đoàn trưởng Sư đoàn 320 Quân đoàn 3), đồng chí Bé Ba (Sư đoàn 330), đồng chí Hải Anh (Sư đoàn 2 Quân khu 5) và nhiều đồng chí khác. Điều đó cho thấy cuộc chiến rất ác liệt và gian khổ.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #53 vào lúc: 07 Tháng Hai, 2019, 03:17:29 pm »

Binh đoàn Cửu Long đã về nước, thực sự mới chỉ được một sư đoàn và một số đơn vị binh chủng, cơ quan của quân đoàn, còn lại Sư đoàn 9, Trung đoàn công binh 550 vẫn đang làm nhiệm vụ bên đó. Ngày về dứt khoát sẽ đến nhưng chưa biết diễn ra vào thời gian nào. Bọn tàn quân Pôn Pốt đang tìm moi cách, mọi biện pháp để phá hoại, ngăn cản sự phát triển của cách mạng Campuchia. Sư đoàn 7 về nước hôm nay liệu rằng có được yên tâm xây dựng củng cố huấn luyện thành một sư đoàn thiện chiến của miền Đông Nam Bộ, hay một ngày nào đó theo yêu cầu nhiệm vụ quốc tế lại phải sang đất bạn Campuchia làm nhiệm vụ theo tiếng gọi của Đảng, Chính phủ và nhân dân đất nước Chùa Tháp?

Sáng ngày 2-5-1983, tất cả các khối hành quân bộ (3 đoàn) đã về đến vị trí quy định và an toàn. Riêng đoàn cơ động đường sông, một tuần sau mới cập bến cảng Sài Gòn. Chúng tôi tổng hợp tình hình báo cáo với Tư lệnh. Đồng chí rất vui vẻ và nhắc nhở chúng tôi truyền đạt tới chỉ huy các đơn vị quản lý bộ đội thật chặt chẽ, không được vi phạm kỷ luật, tránh công thần với chính quyền, nhân dân địa phương, triển khai các kế hoạch huấn luyện, xây dựng doanh trại cho tốt… Thế là sau hơn một ngày đêm, già nửa quân đoàn cơ động trên 200 km bằng nhiều phương tiện, qua nhiều nơi tiễn đưa và đón tiếp khác nhau đã thành công tốt đẹp. Kết quả đó, xuất phát từ sự quán triệt nhiệm vụ một cách sâu sắc từ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân đoàn tới các phân đội cơ sở; từ sự tính toán cụ thể hợp lý tổ chức các đoàn, các khối ở từng trạm trên từng tuyến đường; từ sự chỉ huy, hiệp đồng chặt chẽ giữa các bộ phận; từ công tác bảo đảm hậu cần, kỹ thuật đến ý thức tự trọng chấp hành kỷ luật của chiến sĩ.

Sư đoàn 7 về nước, Bộ có ý định xây dựng thành sư đoàn bộ binh cơ giới. Để chuẩn bị thực hiện theo ý định đó, Quân đoàn cử một đoàn cán bộ của Sư đoàn 7 và cơ quan Quân đoàn trong đó có tôi đến Sư đoàn 308 Quân đoàn 1 đóng ở Xuân Mai để nghiên cứu học tập cách tổ chức biên chế, huấn luyện, sử dụng và công tác đảm bảo cho một sư đoàn bộ binh cơ giới. Sư đoàn 308 do đồng chí Đại tá Đỗ Trung Dương làm Sư đoàn trưởng. Đoàn cán bộ của Sư đoàn 7 được phân chia về các trung đoàn để theo dõi cụ thể tổ chức biên chế và học tập tính năng, tác dụng của các loại xe, học tập về phương pháp huấn luyện, phương pháp chỉ huy bảo đảm cho đơn vị cơ giới từ cấp đại đội trở lên. Sau thời gian tìm hiểu và học tập, được Sư đoàn 308 tận tình giúp đỡ, chúng tôi đã tổng hợp kết quả học tập và trở về Quân đoàn để sẵn sàng nhận nhiệm vụ của Bộ triển khai.

Về tới Quân đoàn (6-1983), tôi được Bộ Tư lệnh Quân đoàn giao chức vụ Phó phòng Tác chiến. Tôi xác định đây là một nhiệm vụ nặng nề trong thời kỳ xây dựng Quân đoàn giai đoạn cách mạng mới. tôi được cử ra Cục Tác chiến – Bộ Tổng tham mưu nghiên cứu học tập về nội dung kế hoạch chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu, diễn tập với các hình thức chiến dịch khác nhau để về truyền đạt, hướng dẫn cho cơ quan, chỉ huy các cấp thực hiện. Tới quý 3 năm 1983, tôi được cử đi học bổ túc văn hóa ở Trường Quân sự Quân đoàn để hoàn thành chương trình 10/10, chuẩn bị thực hiện các nhiệm vụ tiếp theo.

Sau hơn sáu năm công tác ở cơ quan chiến dịch từ trợ lý đến Phó phòng Tác chiến, được gần gũi giúp việc cho ba đời Tư lệnh (Trung tướng Hoàng Cầm, Đại tá Nguyễn Văn Quảng và Thiếu tướng Võ Văn Dần). Tôi đã học tập được cách tư duy nghệ thuật tác chiến cấp chiến dịch ở nhiều hình thức khác nhau (lúc phòng thủ, lúc phản công, lúc tiến công) với quy mô lực lượng rất đa dạng, cũng như xử lý các tình huống trong chiến dịch, tính kiên quyết của người Tư lệnh đã tạo điều kiện cho chiến dịch (quân đoàn) giành từ thắng lợi này tới thắng lợi khác.

Người Tư lệnh mà tôi gần gũi, thường xuyên làm việc là Thiếu tướng Võ Văn Dần. Ông sinh ra ở xã Đông Yên, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang, tính tình ít nói, rất thích thể thao, đặc biệt là môn bóng chuyền và bắn súng. Nhiều lần ông động viên tôi đưa gia đình vào Nam sinh sống. Khi tôi ra học ở Học viện Quốc phòng, ông luôn dặn: Học cho tốt để về Quân đoàn công tác.

Năm 1984, ông được Nhà nước phong quân hàm cấp tướng, cũng là lúc ông đang đi kiểm tra Sư đoàn 9 công tác giúp bạn ở Campuchia. Tham mưu trưởng Vũ Cao (cũng được phong Thiếu tướng cùng Tư lệnh) nói với tôi:

- Lợi viết điện qua Sư đoàn 9 thông báo cho Tư lệnh biết và mời Tư lệnh về nhận quyết định ở Tân Sơn Nhất, đồng thời ra báo cho chị Thoa (vợ Tư lệnh) để gia đình mừng.

Tôi ra nhà riêng Tư lệnh báo tin này cho chị Thoa, nguyên trung úy bác sĩ đã nghỉ hưu. Chị nói:

- Chị rất mừng là Quân đoàn có đồng chí Tư lệnh được phong quân hàm cấp tướng.

Tôi nói:

- Khi anh Ba về nhớ liên hoan nghe chị.

Khi Tư lệnh về nhận quyết định xong. Chị Ba làm mâm cơm kêu tôi và một số người nữa (vừa đủ một mâm) liên hoan tại nhà.

Khi tôi học xong về công tác ở Sư đoàn 7 được một thời gian thì ông nghỉ hưu. Song lúc nào hình ảnh người Tư lệnh bề ngoài nghiêm khắc, khó gần song nội tâm rất chân thành, giản dị và hết đỗi thương yêu cấp dưới vẫn luôn khắc sâu trong tâm khảm của tôi.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #54 vào lúc: 07 Tháng Hai, 2019, 03:22:54 pm »

Chương năm

TRONG ĐỘI HÌNH QUÂN ĐOÀN THỜI KỲ ĐỔI MỚI

Trở lại Sư đoàn 7

Sau gần 9 năm xa Sư đoàn, tôi được trở về công tác ngay đơn vị mình đã gắn bó từ lúc vào chiến trường, từ chiến sĩ, qua gần 13 năm công tác và chiến đấu. Đây là điều kiện tốt để tôi tiếp tục cống hiến, xây dựng Sư đoàn.

Tháng 7 năm 1987, sau khi tốt nghiệp Học viện Quốc phòng,tôi được nghỉ phép thời gian gần một tháng. Tôi tập trung hoàn tất giấy tờ để chuyển gia đình từ ngoài quê vào Thành phố Hồ Chí Minh sinh sống. Sau thời gian chuẩn bị, cả gia đình đi cùng chuyến tà từ Hà Nội vào Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu gia đình tôi ở hai gian nhà khu tập thể của Quân đoàn 4 cấp từ năm 1985 trước khi tôi đi học. Vào đến nơi, những ngày đầu gặp rất nhiều khó khăn. Được sự giúp đỡ của các bác, các anh, bạn bè đi trước, gia đình tôi dần ổn định nơi ăn chốn ở và các điều kiện sinh hoạt khác. Các cháu được nhập học đúng lớp, đúng độ tuổi. Nhà tôi tổ chức chăn nuôi gia súc kết hợp buôn bán nhỏ nên cũng tạm đủ trang trải chi tiêu hàng ngày.

Khoảng giữa tháng 8-1987, tôi lên Quân đoàn nhận nhiệm vụ về làm Phó Sư đoàn trưởng – Tham mưu trưởng Sư đoàn 7. Sư đoàn 7 tiếp tục làm nhiệm vụ ở Campuchia. Tôi cùng trợ lý cơ quan lên chiếc xe Jeep lại ngược đường 13, từ Bình Long, Lộc Ninh ra biên giới qua đồn Hoàng Diệu sang đất Campuchia, qua thị trấn Sa Nuôn trở lại thị xã Krachiê. Khi Binh đoàn Cửu Long về nước ngày 1-5-1983, Sư đoàn 7 là đơn vị chủ lực của Quân đoàn được hành quân công khai. Nhưng trước yêu cầu cách mạng của đất nước bạn, đầu năm 1987, Sư đoàn lại hành quân sang hoạt động ở khu vực đông bắc Campuchia, đại bộ phận ở tỉnh Krachiê và một phần ở tỉnh Kôngpông Chàm. Những năm 70, tại chiến trường này, Mỹ giật dây Lonnon đảo chính Xihanuc mở rộng cuộc chiến tranh sang đất nước Chùa Tháp. Trung đoàn 141 của Sư đoàn 7 cũng đã làm nhiệm vụ ở đây và đã lập được nhiều chiến công khi giải phóng thị trấn Sa Nuôn, tiêu diệt quân ngụy Sài Gòn từ Sa Nuôn chạy về Lộc Ninh. Con đường 13 huyết mạch chạy dọc vùng đông bắc Campuchia, hai bên là rừng nguyên sinh rậm rạp xanh tốt. Một địa hình kín đáo liên hoàn rất thuận lợi cho hoạt động của bọn Pôn Pốt. Chúng từ các căn cứ có thể ra phục kích bất cứ ở đoạn đường nào trên trục đường từ Sa Nuôn lên Krachiê. Xe tôi đi trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Từ đồng chí lái xe cho đến đồng chí trợ lý đi cùng và bản thân tôi, mỗi người một khẩu súng sẵn sàng trên tay, nhất là khi qua những khu vực trọng điểm Pôn Pốt thường ra phục kích. Tới buổi chiều thì xe của chúng tôi tới được thị xã Krachiê, nơi Sở chỉ huy Sư đoàn đóng tại đó và chỉ đạo các trung đoàn làm nhiệm vụ ở khu vực bắc, đông Krachiê.

Về đến Sở chỉ huy Sư đoàn, tôi báo cáo với Sư đoàn trưởng – Đại tá Nguyễn Hữu Mão và được đồng chí cho nhận bàn giao từ anh Trần Xuân Ban nguyên là Phó Sư đoàn trưởng – Tham mưu trưởng để đảm nhận chức Phó Sư đoàn trưởng thứ nhất của Sư đoàn. Lúc này do cơ chế mới, Ban chỉ huy Sư đoàn kể cả tôi mới về có 8 đồng chí. Một lần xuống tiểu đoàn liên hoan, đồng chí Thư – Tiểu đoàn trưởng nói đùa:

- Kính thưa các thủ trưởng Sư đoàn hai mâm.

Tám đồng chí gồm đồng chí Mão – Sư đoàn trưởng, đồng chí Trần Xuân Ban – Phó Sư đoàn trưởng thứ nhất, hai đồng chí Phó Sư đoàn trưởng chung là Ngô Hồng Lập và Vũ Ngọc Ính, tôi – Phó Sư đoàn trưởng kiêm Tham mưu trưởng, đồng chí Trần Văn Tảo – Phó Sư đoàn trưởng về chính trị, đồng chí Châu – Phó Sư đoàn trưởng phụ trách hậu cần và đồng chí Phượng – Phó Sư đoàn trưởng phụ trách kỹ thuật.

Sau khi nhận bàn giao, tôi cùng cơ quan Phòng Tham mưu nghiên cứu nắm tình hình. Trung đoàn 165 hoạt động ở khu vực Sa Nuôn cách biên giới Việt Nam khoảng 10 km. Trung đoàn 209 hoạt động ở phía bắc Krachiê và ở đoạn đông tây sông Mê Kông. Trung đoàn 141 hoạt động ở khu vực đường quốc lộ 2, con đường từ ngã ba Krết lên Sa Lông, một huyện của tỉnh Kôngpông Chàm. Địa bàn rộng, hoạt động phân tán, Sư đoàn có nhiều trận đánh tốt nhưng cũng có một số trận truy quét bị bọn Pôn Pốt gây tổn thất. Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 141 có lúc bị Pôn Pốt gây thương vong trên 20 đồng chí. Tôi nhanh chóng tìm hiểu và nắm bắt tình hình, tìm ra quy luật hoạt động của địch để báo cáo Sư đoàn trưởng chỉ đạo các đơn vị hoạt động cho tốt hơn.

Lúc này thời tiết đang chuẩn bị bước vào mùa khô. Các đoàn vận chuyển lương thực, các lực lượng chiến đấu của Pôn Pốt giáp Thái Lan đang rục rịch tổ chức vào sâu trong nội địa. Đồng chí Sư đoàn trưởng phân công tôi trực tiếp đi tác chiến với các hướng như Tiểu đoàn 8 của Trung đoàn 209; hoặc có lúc sang khu vực Giô Té phía tây sông Mê Kông, cách Krachiê khoảng độ 40km cùng Tiểu đoàn trinh sát 46 của Quân đoàn đang tăng cường cho Sư đoàn. Lúc này Tiểu đoàn 46 nhận nhiệm vụ sau mùa mưa sẽ trở về đội hình Quân đoàn. Tôi đã chỉ đạo Tiểu đoàn thực hiện một số trận đánh có kết quả tốt.

Giô Té là một phum cũ nhưng người dân đã bỏ đi từ lâu. Pôn Pốt tận dụng khu vực này làm điểm hẹn tổ chức những bộ phận phân công đi hoạt động sâu xuống phía đông và phía nam của bờ sông Mê Kông. Quy luật hoạt động của địch là quan sát, phát hiện thấy lực lượng của ta vào các khu căn cứ của chúng, thì chủ động gài mìn để khi ta vào vườn không nhà trống, vướng mìn của chúng. Khi ta đi ra thì chúng tổ chức phục kích hoặc quay lại để giữ khu vực ta đã rút. Tôi chỉ đạo Tiểu đoàn 46 cử một đơn vị gần 100 đồng chí hành quân vào khu vực Giô Té. Vào đến nơi chỉ ở đó một ngày rồi rút. Khi rút ra bí mật để lại 25 đồng chí do đồng chí Dương đại đội trưởng trực tiếp chỉ huy. Số còn lại hành quân về vị trí đóng quân. 25 đồng chí này ở lại chia thành ba cụm có lương khô, nước uống đủ hai ngày và không được mở máy liên lạc khi chưa nổ súng. Đúng như dự kiến, sau khi quan sát thấy lực lượng của chúng ta đã ra về, bọn Pôn Pốt quay trở lại hí hửng cười nói oang oang. Cả ba bộ phận của ta chủ động nổ súng diệt hơn chục tên thu được gần chục khẩu súng, làm chủ khu vực, sau đó ta rút quân về an toàn. Tiểu đoàn 46 đã lập công trước khi trở về đội hình của Quân đoàn.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #55 vào lúc: 07 Tháng Hai, 2019, 03:24:21 pm »

Ở các hướng khác cũng vậy. Tôi rút ra một nhận định là ta thường bị lộ nhiệm vụ trước khi hành quân, yếu tố bí mật không được giữ vững cho nên mỗi khi hiệp đồng chiến đấu hoặc giao nhiệm vụ, cán bộ địa phương của bạn có kẻ hoạt động hai mặt đã cung cấp thông tin cho Pôn Pốt. Chính vì vậy mà bộ đội ta đi đến đâu, cơ động khu vực nào, Pôn Pốt đều biết trước. Chúng tổ chức phục kích gây cho ta nhiều tổn thất. Vì vậy, mỗi lần đi với các tiểu đoàn chiến đấu, tôi đều báo cáo với đồng chí Sư đoàn trưởng:

- Anh yên tâm, tôi đi không cần liên lạc điện thoại nhiều. Khi nào đến mục tiêu, tiêu diệt được địch, tôi sẽ điện báo cáo kết quả về cho anh.

Đồng chí Sư đoàn trưởng hoàn toàn đồng ý và những lần tôi đi cùng Tiểu đoàn 8 Trung đoàn 209, Tiểu đoàn 4 Trung đoàn 165 và các đơn vị khác, bộ đội truy quét đều có kết quả tốt. Trong những lần đi như vậy, ngoài kẻ thù rình rập phục kích, chúng tôi còn phải đối phó với một loại kẻ thù khác. Rừng ở khu vực đông tây sông Mê Kông, khu vực phía bắc tỉnh Krachiê là rừng già, rừng rậm, có nhiều cây gỗ rất to. Có lần tôi phải kêu ba, bốn anh em giang tay mới ôm hết được một thân cây. Đó cũng là nơi mà sốt rét thường xuyên hoành hành. Trong một cuộc hành quân, đồng chí Toàn – Chính trị viên Tiểu đoàn 8 Trung đoàn 209, người rất to béo mạnh khoẻ nhưng chỉ sau ba ngày sốt rét đã mất. Chúng tôi bị sốt rét thường xuyên nhưng rất may là không đến mức nguy kịch.

Sau ba tháng công tác, cùng chiến đấu với cán bộ, chiến sĩ của Sư đoàn, tôi thấy việc bố trí Sở chỉ huy Sư đoàn ở Krachiê là rất bất tiện trong việc tổ chức chỉ huy các đơn vị. Như đã nói ở trên, Trung đoàn 165 ở phía sau Sư đoàn (thị trấn Sa Nuôn), Trung đoàn 141 ở hướng đường quốc lộ 2 bắc ngã ba Krết, còn Trung đoàn 209 cùng với cơ quan Sư đoàn bộ ở khu vực bắc thị xã Krachiê. Như vậy mỗi lần cơ động từ hậu phương lên rất phức tạp xa xôi, nhưng khi đi công tác chỉ đạo trung đoàn 165, Trung đoàn 141 lại phải quay về hướng biên giới Việt Nam mới gặp và giao nhiệm vụ cho các trung đoàn được.

Trước tình hình đó, tôi trao đổi xin ý kiến đồng chí Sư đoàn trưởng Nguyễn Hữu Mão. Sau đó, tôi mạnh dạn báo cáo về Tư lệnh Quân đoàn xin được chuyển Sở chỉ huy Sư đoàn về khu vực bắc ngã ba Krết thuộc tỉnh Kôngpông Chàm. Ở đây rất thuận lợi đi theo quốc lộ 2 đến Trung đoàn 141 khoảng 25 – 30 km, cũng từ ngã ba Krết đi theo quốc lộ 7 qua thị trấn Minốt đến Sa Nuôn khoảng cách 70 km. Còn Trung đoàn 209 nên ở khu vực Krachiê hoạt động giữ địa bàn cùng với bạn đảm bảo an ninh thị xã Krachiê và ngăn chặn hướng hoạt động từ bắc biên giới Campcuhia – Thái Lan cơ động xuống. Kế hoạch của Sư đoàn được Tư lệnh Quân đoàn đồng ý và phê chuẩn. Sư đoàn tổ chức hành quân di chuyển về xây dựng Sở chỉ huy ở phía bắc ngã ba Krết. Chúng tôi chủ trương không ở trong nhà dân, dựng lán trại theo dạng nhà tạm, tận dụng gỗ rừng của địa phương để xây dựng các công trình cho sở chỉ huy và các phân đội trực thuộc. Ngã ba Krết là địa bàn rất quen thuộc của chúng tôi trong những năm đầu thập niên 70 đến 3 năm 1972. Tại đây, các trung đoàn tham gia tác chiến trên quốc lộ 2 đoạn Oát Thơ Mây, Đầm Be đi Sa Lông hoặc theo quốc lộ 6 đi Suông, Chúp, ngược về cửa khẩu Xa Mát – Tây Ninh. Sở chỉ huy mới ở trên một trảng trống. Chỉ sau một tháng di chuyển đã xây dựng xong và tổ chức chỉ huy các đơn vị hoạt động trong mùa khô năm 1987-1988

Ngày 13-11-1987, tôi xuống Trung đoàn 141 kiểm tra các đơn vị về phương án chuẩn bị tác chiến hoạt động mùa khô cũng như tất cả các cơ sở kho tàng, đạn, gạo, thực phẩm. Chiều ngày 14, tôi quay về Sở chỉ huy Sư đoàn. Vừa về đến nơi được đồng chí trợ lý trinh sát kỹ thuật đến báo cáo:

- Bọn Pôn Pốt đưa tin sáng ngày 15-11 sẽ phục kích đánh ô tô chở hàng trên quốc lộ 2 của ta.

Tôi bàn với anh em cơ quan đây là điều kiện rất tốt để ta tổ chức những trận phản phục kích địch. Tôi dự kiến một phương án, báo cáo đồng chí Sư đoàn trưởng và được đồng chí nhất trí. Việc đầu tiên triển khai là phát trên sóng vô tuyến điện thông báo cho Trung đoàn 141 ngày mai tổ chức tiếp nhận 25 xe chở gạo của Sư đoàn từ ngã ba Krết đi vào (thông tin phát mở để Pôn Pốt nhận được tin này, trùng hợp với tin mà trinh sát kỹ thuật của ta đã nhận được). Thứ hai là xây dựng một kế hoạch tác chiến, cử đồng chí Thoại trợ lý trinh sát của Sư đoàn cùng hai đồng chí vệ binh đi một chiếc xe Jeep trực tiếp xuống truyền đạt nhiệm vụ cho Trung đoàn 141:

- Chỉ định đồng chí Võ Hữu Minh – Phó Trung đoàn trưởng, Tham mưu trưởng Trung đoàn trực tiếp xuống chỉ huy Tiểu đoàn 1. Thời gian nhận lệnh và báo động cho Tiểu đoàn 1 vào khoảng 21 giờ đêm (không được báo trước đề phòng bộ đội chuẩn bị thuốc men nói chuyện với dân dễ bị lộ). 21 giờ ngày 14-11-1987, Tiểu đoàn 1 cơ động vòng sâu cách tây đường 4km, sau đó triển khai từ trong rừng đánh ra đường quốc lộ 2 tức là triển khai đội hình ở phía sau trận địa phục kích của bọn Pôn Pốt bởi vì chúng phục kích cách đường tối đa chỉ khoảng 500m. Đồng chí Minh không được dùng bất cứ một phương tiện vô tuyến điện nào, chỉ sử dụng một phương tiện liên lạc là chạy bộ, khi nổ súng mới báo cáo kết quả bằng máy vô tuyến điện về Sư đoàn.

Chấp hành mệnh lệnh, đồng chí Võ Hữu Minh chỉ huy Tiểu đoàn 1 chia thành ba đường từ khu vực tây quốc lộ 2 đoạn nam Oát Thơ Mây dàn hàng ngang cơ động qua hướng đông ra mặt đường. Đúng như dự kiến, khoảng gần 5 giờ sáng, Tiểu đoàn 1 gặp lực lượng địch đang triển khai đội hình phục kích, hướng nòng súng B40, B41 ra quốc lộ 2 để sẵn sàng bắn xe ô tô chở gạo của ta từ ngã ba Krết đi vào. Tiểu đoàn thực hành xung phong từ phía sau, đánh vào đội hình đang phục kích sẵn của bọn Pôn Pốt. Do chủ quan, trận địa của chúng không có công sự vật cản, rất thuận lợi cho Tiểu đoàn 1 thực hành xung phong và tiêu diệt. Tại Sở chỉ huy Sư đoàn, chúng tôi nghe rõ tiếng súng B40, B41, đại liên của Tiểu đoàn 1 nổ ở khu vực tây Oát Thơ Mây. Tiếng súng vừa im được 10 phút thì đồng chí Võ Hữu Minh báo cáo kết quả trận đánh về Sư đoàn. Đồng chí nói ngắn gọn:

- Diễn biến trận đánh như kế hoạch thể hiện trên bản đồ mà Sư đoàn phó Tham mưu trưởng đã giao cho Trung đoàn. Kết quả tiêu diệt 17 tên địch, thu 12 súng và 2 máy bộ đàm, ta an toàn.

Đây là một trận đánh có hiệu suất cao, ta an toàn, phá được hành động chuẩn bị đánh giao thông của địch trên quốc lộ 2. Sau trận này, chúng ta làm chủ đoạn đường suốt trong hai, ba tháng. Hoạt động vận chuyển cơ động ra vào của Trung đoàn 141 không bị bọn Pôn Pốt phục kích. Trận đánh để lại bài học quý về việc giữ bí mật triển khai nhiệm vụ, nghệ thuật nghi binh, ý thức chấp hành kỷ luật nghiêm túc và chỉ huy sâu sát.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #56 vào lúc: 07 Tháng Hai, 2019, 03:30:12 pm »

Vào khoảng cuối tháng 11 năm 1987, cấp trên có ý định điều đồng chí Nguyễn Hữu Mão – Sư đoàn trưởng về làm Phó Tư lệnh – Tham mưu trưởng Quân đoàn 4. Thường vụ Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Quân đoàn thăm dò lấy phiếu tín nhiệm chọn người làm Sư đoàn trưởng thay đồng chí Mão. Đoàn cáo bộ của Quân đoàn do đồng chí Vũ Văn Thược – Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng dẫn đầu cùng với đòng chí Đồng – Phó phòng Cán bộ và một số cán bộ từ cơ quan. Đoàn xuống Sở chỉ huy Sư đoàn tập trung quán triệt cho tất cả cán bộ chủ trì phòng, ban, đầu mỗi các đơn vị về ý nghĩa, mục đích của việc lựa chọn người Sư đoàn trưởng, yêu cầu chọn cán bộ tại chỗ với đối tượng các đồng chí Phó sư đoàn trưởng quân sự.

Chiều hôm đó, khi tôi vừa mới ngủ dậy, đồng chí Phó Tư lệnh Vũ Văn Thược từ ngoài đi vào trông thấy tôi, ông cười và bảo:

- Này, phiếu mày cao lắm.

Tôi chỉ cười và nói:

- Thủ trưởng ơi, làm sao tôi làm được.

Thủ trưởng vỗ vai tôi:

- Yên tâm, nếu cấp dưới tin tưởng và cấp trên đồng tình thì tao tin tưởng mày làm tốt.

Tôi chỉ biết cám ơn đồng chí Phó Tư lệnh.

Sở chỉ huy Sư đoàn 7 ở ngã ba Krết cho tới cuối mùa khô 1987 – 1988. Tháng 3 năm 1988, Quân đoàn cử tôi về căn cứ Phú Lợi làm nhiệm vụ sửa sang doanh trại chuẩn bị nơi nơi ăn ở để đón Sư đoàn từ Campuchia rút quân về. Ngày 25 tháng 5 năm 1988, đồng chí Nguyễn Hữu Mão – Sư đoàn trưởng lên Quân đoàn nhận chức Phó Tư lệnh – Tham mưu trưởng, đồng chí Ngô Hồng Lập – Phó Sư đoàn trưởng lên làm Sư đoàn trưởng thay cho đồng chí Mão.

Tại căn cứ Phú Lợi, từ 1983-1986, Sư đoàn sau khi cùng Quân đoàn rút về nước, đã xây dựng một số nhà ở cho các đơn vị. Với quan điểm “lính xây, lính ở”, mỗi một căn nhà được xây dựng một kiểu dưới dạng chồng gạch, gác xà gỗ, lợp tôn. Những năm cuối của thời kỳ bao cấp, nền kinh tế đất nước còn nhiều khó khăn. Quân đội cũng vậy. Ngày 4-8-1988, Sư đoàn 7 hành quân về nước. Việc tiến hành cơ động được tổ chức thành 6 khối trên hai hướng. Hướng thứ nhất gồm đơn vị: Trung đoàn 141, Trung đoàn 209, Sở chỉ huy Sư đoàn và các đơn vị trực thuộc cùng với pháo binh của Sư đoàn hành quân theo quốc lộ 2 Đầm Be, Oát Thơ Mây, ngã ba Krết, qua cửa khẩu Xa Mát để về Phú Lợi. Hướng thứ 2 gồm Trung đoàn 165 hành quân đường 13 từ Sa Nuôn qua cửa khẩu Hoa Lư về Lộc Ninh, rồi về Phú Lợi. Đến ngày 29-8-1988, toàn bộ đội hình Sư đoàn 7 đã về căn cứ Phú Lợi an toàn. Tại đây, tôi tiếp nhận chức Sư đoàn trưởng Sư đoàn 7 thay đồng chí Ngô Hồng Lập được bổ nhiệm chức vụ Phó Tham mưu trưởng Quân đoàn 4. Lúc này tôi vừa tròn 41 tuổi, quân hàm trung tá.

Về căn cứ Phú lợi, nhiệm vụ đầu tiên của Sư đoàn là ổn định nơi ăn chốn ở và tiếp tục xây dựng doanh trại đủ lán trại cho bộ đội ở, sinh hoạt và học tập. Do xây dựng thiếu quy hoạch, lại không được làm thường xuyên nên chỗ ở từ sở chỉ huy Sư đoàn tới chiến sĩ đều tạm bợ. Một lần có nhà báo người Pháp tới thăm và phỏng vấn tôi ở căn cứ Phú Lợi. Khi về nước, nhà báo này có viết: “Ngài Sư đoàn trưởng của một đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam rất tinh nhuệ tiếp tôi trong một căn nhà vừa là nơi ăn, vừa là nơi làm việc của ngài. Xung quanh nhà, tường chưa tô chứ chưa nói gì đến quét vôi”. Nhiệm vụ thứ hai là phải xây dựng một trong đoàn bộ binh đủ quân theo đúng biên chế của Bộ để sẵn sàng cơ động khi chiến trường đất bạn có yêu cầu. Nhiệm vụ tiếp theo là tổ chức Sư đoàn thành khung rút gọn. Trung đoàn pháo gồm hai tiểu đoàn pháo 105 mm, một tiểu đoàn pháo 85 mm tổ chức thành đơn vị rút gọn, riêng Tiểu đoàn pháo 76,5 mm vẫn biên chế đủ quân huấn luyện và sẵn sàng chuyển giao cho đơn vị mới khi có nhu cầu. Ban chỉ huy Sư đoàn lúc này cơ bản đã thay đổi, tôi làm sư đoàn trưởng, đồng chí Nguyễn Hồng Giúp làm Phó Sư đoàn trưởng về chính trị thay đồng chí Trần Văn Tảo nhận nhiệm vụ Phó Sư đoàn trưởng về chính trị Sư đoàn 9. Phó Sư đoàn trưởng chung chỉ còn đồng chí Chín Ính. Phó Sư đoàn trưởng – Tham mưu trưởng chờ đồng chí Nguyễn Năng Nguyễn tốt nghiệp khóa 8 Học viện Quốc phòng về nhận. Các đồng chí chỉ huy các phòng cũng được bổ nhiệm bổ sung cho hoàn chỉnh. Chúng tôi tập trung xây dựng Trung đoàn 209 là đơn vị đủ quân, còn lại Trung đoàn 165, Trung đoàn 141, Trung đoàn pháo binh lần lượt trở thành những đơn vị khung rút gọn.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #57 vào lúc: 08 Tháng Hai, 2019, 10:29:55 am »

Những năm tháng gắn bó với Sư đoàn 9

Sau khi ở Campuchia rút quân về nước, Sư đoàn 9 đứng chân ở căn cứ Đồng Dù, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh. Tại khu vực này, Sư đoàn được Quân đoàn quyết định xây dựng thành sư đoàn đủ quân, sẵn sàng làm mọi nhiệm vụ cơ động chiến đấu bảo vệ Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh ở khu vực miền Đông, đặc biệt ở biên giới Campuchia – Việt Nam và vùng ven biển. Sư đoàn 9 được thành lập từ ngày 2-9-1965, là sư đoàn chủ lực được thành lập đầu tiên trên chiến trường B2, có bề dày truyền thống vẻ vang trong kháng chiến chống Mỹ giải phóng dân tộc cũng như trong nhiệm vụ giúp bạn trên đất nước Chùa Tháp.

Ở Phú Lợi được hơn một năm, cuối tháng 9-1989, tôi được Bộ Tư lệnh Quân đoàn điều động sang đảm nhiệm Sư đoàn trưởng Sư đoàn 9 thay Trung tá Nguyễn Văn Giáp nghỉ hưu. Ban chỉ huy Sư đoàn có Trung tá Trần Văn Tảo – Phó Sư đoàn trưởng về chính trị, Trung tá Huỳnh Ngọc Sơn – Phó Sư đoàn trưởng Tham mưu trưởng. Các đơn vị được xây dựng và đứng chân ở căn cứ Đồng Dù, tiếp quản từ nhiều đơn vị như lữ đoàn pháo binh, trung đoàn công binh, lữ đoàn phòng không, trường hạ sĩ quan quân đoàn. Đây là một căn cứ đã được chuyển qua rất nhiều đơn vị đến đóng quân từ sau năm 1975 trở lại đây. Hầu hết các nhà nghỉ của bộ đội là của chế độ cũ để lại, nhà vòm mái tôn rất nóng bức và chật chội. Thao trường huấn luyện thiếu rất nhiều.

Nhiệm vụ đặt ra đối với Ban chỉ huy Sư đoàn 9 là xây dựng đơn vị thành một sư đoàn chính quy của quân đoàn trên địa bàn miền Đông Nam Bộ. Sư đoàn vốn có bề dày truyền thống, nhưng về kinh nghiệm xây dựng một đơn vị chính quy, làm việc đúng tác phong, nền nếp, kế hoạch theo điều lệnh quân đội là điều còn rất mới mẻ. Trước tình hình đó, Bộ Tổng tha mưu cử một đoàn cán bộ của Quân đoàn 2 do Đại tá Đồng Quốc Sự - Chủ nhiệm Chính trị Quân đoàn dẫn đầu vào hướng dẫn, trao đổi kinh nghiệm, cùng ăn, ở, làm việc với chúng tôi từ Ban chỉ huy Sư đoàn tới các tiểu đoàn bộ binh. Nhiệm vụ của đoàn cán bộ Quân đoàn 2 là giúp Sư đoàn 9 xây dựng chương trình, kế hoạch huấn luyện, xây dựng thực hiện điều lệnh, chế độ trong ngày của quân nhân và của từng đơn vị làm sao thống nhất từ trên xuống dưới.

Trong chiến đấu đã khó, giờ thời bình đưa đơn vị vào nền nếp, bỏ qua thói quen sống tự do thiếu kế hoạch, kỷ luật… là điều khó thực hiện trong một sớm một chiều. Đảng ủy, chỉ huy Sư đoàn ra nghị quyết và các chỉ thị xây dựng sư đoàn theo hướng dẫn của Bộ và trao đổi kinh nghiệm của đơn vị bạn. Tình hình kỷ luật của Sư đoàn khi mới về nước rất phức tạp. Tính gương mẫu của một số ít cán bộ hạn chế. Trung đoàn trưởng Trung đoàn pháo binh 42 quan hệ không lành mạnh. Nhiều cán bộ thực hiện giờ giấc không nghiêm, lâu ngày ở trên đất bạn khi về nước thường la cà quán sá, chểnh mảng công việc.

Tôi và các đồng chí trong Đảng ủy – Ban chỉ huy sư đoàn bàn bạc, kiên quyết đưa sư đoàn vào nền nếp. Việc đầu tiên là kế hoạch huấn luyện từ cấp phân đội cho đến tiểu đoàn, trung đoàn, đều được làm thống nhất, thực hiện chung dưới sự chỉ huy của Sư đoàn để làm tốt nhiệm vụ này. Sư đoàn chọn Tiểu đoàn 3 của Trung đoàn 1 do Đại úy Nguyễn Hoàng làm Tiểu đoàn trưởng làm điểm cho Sư đoàn, sau đó nhân rộng ra các đơn vị khác. Tất cả các chế độ trong ngày được thực hiện nghiêm túc. Dần dần, việc thực hiện huấn luyện điều lệnh, xây dựng đơn vị có nhiều tiến bộ rõ rệt.

Song song với việc xây dựng chính quy, sư đoàn hoàn thành các phương án sẵn sàng chiến đấu theo nhiệm vụ của Bộ Tư lệnh Quân đoàn giao. Trước mắt tập trung xây dựng phương án A2 bảo vệ các mục tiêu trọng yếu trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Chúng tôi hiệp đồng với cơ quan Phòng Tác chiến Bộ Tham mưu Quân đoàn cùng với Quân khu 7, đặc biệt là Bộ Chỉ huy quân sự Thành phố Hồ Chí Minh để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ những mục tiêu quan trọng trong thành phố.

Một hôm, tôi dẫn đoàn cán bộ của Sư đoàn đi hiệp đồng tác chiến bảo vệ một số mục tiêu ở thành phố. Trên đường khảo sát từ hội trường Thống Nhất ra khu vực Đài truyền hình, đến số 9 đại lộ Lê Duẩn, thấy bà con ngồi ở đó tương đối đông, đoàn cán bộ dừng lại. Bà con tới hỏi chuyện, chúng tôi nói chuyện bình thường, không biết đó là số bà con kéo đi kiến nghị với Chính phủ một số yêu cầu về dời sống sinh hoạt, chế độ. Chúng tôi ra về vừa qua ngã tư An Sương thì có hai xe quân sự của Quân khu 7 đuổi theo yêu cầu dừng lại gặp chỉ huy. Tôi báo cáo lại tình hình Sư đoàn thực hiện nhiệm vụ theo mệnh lệnh của Quân đoàn 4. Cùng lúc đó, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4 và Bộ Tư lệnh Quân khu 7 yêu cầu tôi về Sở chỉ huy Quân khu gặp Tư lệnh Bùi Thanh Vân (Út Liêm). Chấp hành mệnh lệnh, tôi tới Sở chỉ huy Quân khu. Đồng chí Tư lệnh hỏi:

- Đồng chí có biết thành phố đang làm gì không? Đi hiệp đồng đã báo cáo với ai? Có biết bà con ở số 9 Lê Duẩn làm gì không?

Tôi trả lời:

- Thưa Tư lệnh, Sư đoàn đi hiệp đồng bảo vệ các mục tiêu quan trọng trong thành phố khi có nhiệm vụ A2 xảy ra. Trước khi đi, Sư đoàn đã báo lên Bộ Tham mưu Quân đoàn 4…

Dáng người nhỏ bé, phong cách làm việc rất nghiêm túc song lại hay nói khôi hài ở vị Tư lệnh làm tôi nhớ mãi. Ông tươi cười:

- Chủ động trong nhiệm vụ như vậy là rất tốt. Song thành phố đang Đại hội Đảng, mọi hoạt động quân sự cần được hiệp đồng, chọn thời gian tiến hành cho chặt chẽ. Thôi về chỉ huy, quản lý sư đoàn cho tốt nhé…
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #58 vào lúc: 08 Tháng Hai, 2019, 10:35:26 am »

Các phương án nhiệm vụ khác, chúng tôi đều làm theo kế hoạch chung của Quân đoàn, như việc cơ động trên tuyến biên giới Tây Nam từ Long An lên Mộc Bài, Xa Mát, tới đường 13 Hoa Lư của Lộc Ninh, Bình Phước. Việc huấn luyện, xây dựng tổ chức biên chế của Sư đoàn được kiện toàn từ cơ quan sư đoàn tới các ban chỉ huy trung đoàn, tiểu đoàn và các phân đội trực thuộc. Cán bộ đã có trách nhiệm cao trong việc xây dựng đơn vị huấn luyện sẵn sàng chiến đấu.

Tháng 8 năm 1989, Sư đoàn 9 được Đảng, Nhà nước tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân lần thứ 2. Công tác tổ chức lễ đón nhận danh hiệu anh hùng lần thứ 2 được tổ chức vào dịp 22-12-1989 nhân dịp kỷ niệm 45 năm thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam.

Tôi đến nhà riêng gặp và mời đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đến dự với Sư đoàn. Đồng chí đang bệnh nhẹ. Đồng chí nói:

- Quốc hội đang họp, tôi không ra dự được, mà đến dự với các đồng chí, báo đài đưa tin Quốc hội họ nghĩ sao?

Suy nghĩ một lát, tôi đề nghị:

- Thưa bác, bác ở trong Quân ủy Miền, người đã cùng ký quyết định thành lập Sư đoàn 9 ngày 2-9-1965. Nay Sư đoàn được tuyên dương đơn vị anh hùng đó là ngày trọng đại của Sư đoàn. Bác nên dành thời gian về dự chung vui với cán bộ, chiến sĩ. Tin rằng niềm vui khi Bác gặp lai lớp cán bộ, chiến sĩ từ năm 1965 trở lại đây, Bác sẽ phấn khởi và sẽ mau lành bệnh. Còn việc đưa tin tuyên truyền khi Bác đến thăm Sư đoàn, tôi sẽ có biện pháp bàn với các phóng viên báo đài để đưa tin khi Quốc hội kết thúc.

Tổng Bí thư vui vẻ nhận lời. Tôi phấn khởi ra về báo cáo lên Bộ Tư lệnh Quân đoàn để các đồng chí biết và chỉ đạo Sư đoàn tổ chức đón Tổng Bí thư.

Sáng 22-12-1989, Sư đoàn long trọng làm lễ đón nhận danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” lần thứ 2 và kỷ niệm 45 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam. Lần đầu tiên tất cả các đồng chí cán bộ cũ của Sư đoàn từ ngày mới thành lập đều có mặt đông đủ (những năm trước từ 1977 đến đầu năm 1989, Sư đoàn liên tục làm nhiệm vụ ở biên giới Tây Nam và trên đất bạn nên chưa có dịp tổ chức gặp mặt được). Đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đến. Đồng chí ôm hôn lần lượt các đồng chí cán bộ cũ của Sư đoàn. Những mái đầu tóc đã hoa râm, bàn tay vỗ nhẹ lên vai nhau. Cuối cùng, đồng chí đến Ban chỉ huy Sư đoàn bắt tay và nhắc nhẹ:

- Các cháu còn trẻ cố gắng công tác cho tốt, phân đầu là sư đoàn anh cả của miền Đông.

Phát biểu tại lễ mít tinh, Tổng Bí thư căn dặn cán bộ chiến sĩ Sư đoàn hãy phát huy những kết quả của mấy chục năm qua mà vững vàng trong thời kỳ đất nước đổi mới để giữ vững thành quả cách mạng của biết bao thế hệ đã đổ xương máu để có được ngày hôm nay.

Vào dịp kỷ niệm 45 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân, Quân đoàn 4 có năm đồng chí được đề bạt quân hàm từ trung tá lên đại tá (ba sao), trong đó có tôi và đồng chí Trần Văn Tảo. Những người được trao trong đợt này ở các đơn vị bạn đã nhận quân hàm trước ngày 22-12. Tôi và đồng chí Hai Tảo đã chuẩn bị sẵn quân hàm chỉ chờ thông báo là mang lên vai để kịp đó đồng chí Tổng Bí thư đến dự. Nhưng không hiểu vì lý do gì mà tới ngày 25-12 Quân đoàn mới trao quân hàm cho năm chúng tôi. Trong phim truyền thống Sư đoàn 9 có ghi hình tôi phát biểu với phụ đề Đại tá Đào Văn Lợi, nhưng cầu vai của tôi vẫn mang quân hàm trung tá nên có người gọi điện đến thắc mắc. Tôi trao đổi với đồng chí Đinh Phong – Phó Giám đốc Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh. Đồng chí nói:

- Lúc ghi hình là vậy, sau đó chú đã nhận quyết định đại tá rồi còn gì. Chi tiết quân hàm đâu quan trọng bằng việc chú là Sư đoàn trưởng đầu tiên của Sư đoàn 9 đưa Tổng Bí thư duyệt đội ngũ. Đó là vinh dự rất lớn của một quân nhân.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #59 vào lúc: 08 Tháng Hai, 2019, 10:37:44 am »

*
*   *

Năm 1991, nhân dịp về tiếp xúc cử tri để tuyên truyền chuẩn bị bầu cử Quốc hội khóa 9, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phan Văn Khải về thăm Sư đoàn 9. Cùng đi có Đại tá Phan Trung Kiên – Phó Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự Thành phố Hồ Chí Minh. Chúng tôi vừa là cử tri công dân thành phố mang tên Bác Hồ, vừa là những người lính có vinh dự tiếp đón Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Đồng chí chân tình gợi ý:

- Các đồng chí trong Sư đoàn có gì đề đạt với Đảng, Nhà nước cứ mạnh dạn phát biểu.

Thay mặt cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn, tôi đứng dậy:

- Thưa bác Sáu, tình hình quản lý cán bộ chiến sĩ của Sư đoàn trong mấy năm qua tuy có nhiều chuyển biến tích cực, song việc đào bỏ ngũ của chiến sĩ vẫn chưa chấm dứt. Trong đó có một nguyên nhân là nhà ở và chế độ ăn uống còn quá thiếu thốn. Kính mời Bác đi thăm doanh trại của Sư đoàn. Tôi là Sư đoàn trưởng nhưng khi ra gặp nhân dân rất xấu hổ. Doanh trại của một sư đoàn anh hùng nhưng vốn tiếp quản từ cơ sở của chế độ cũ để lại, tới nay đã hơn 16 năm nhưng chưa có gì thay đổi. Nhà ở vẫn nhà tôn vòm rất nóng bức, không đảm bảo sức khỏe cho bộ đội. Ăn thì tiêu chuẩn cả một ngày không bằng một tô phở buổi sáng ở thành phố. Quân phục của bộ đội chất lượng vải kém quá. Khi tôi ra ngoài không bao giờ mặc bộ quân phục mà mặc đồ dân sự.

Đồng chí ngắt lời tôi:

- Tại sao lại vậy?

Tôi trả lời:

- Bộ quân phục hôm nay tôi mặc để tiếp bác là bộ quân phục mới nhất, đây là chất lượng vải đơluyn. Bộ này mang ra chợ bán chỉ được 24-25.000 đồng, không mua nổi một cân thịt 30.000. Nó lại rất tốn điện, mỗi lần giặt xong phải là ủi vì nếu không là ủi thì không khác gì bộ lò xo ống nhún của xe honđa.

Nghe xong, đồng chí cười và nói:

- Quần áo, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt đã ký và giao cho quân đội, các đồng chí chọn mẫu mã và chất lượng vải sẽ cải tiến trong vài năm tới. Đồng chí nói tiếp di.

Tôi tiếp tục:

- Thưa bác Sáu, bác là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng phụ trách về mặt ngân sách cấp phát cho các bộ trong đo có Bộ Quốc phòng. Mong bác quan tâm tạo điều kiện giúp đỡ Sư đoàn 9 nói riêng và toàn quân nói chung để làm sao đổi mới về doanh trại, đổi mới về chế độ ăn, đổi mới về chế độ mặc để các chiến sĩ, thanh niên của mọi miền đất nước yêu mến màu xanh quân đội, màu xanh của bộ đội Cụ Hồ.

Chúng tôi mời bác ở lại dùng cơm trưa. Bác Sáu Khải quay sang nói với đồng chí Phan Trung Kiên:

- Cậu sư trưởng này nói thật. Thôi trưa nay không đi đâu hết, ở đây ăn cơm với Sư đoàn.

Trưa hôm đó, Ban chỉ huy Sư đoàn tiếp đón đoàn đại biểu Quốc hội của Thành phố Hồ Chí Minh. Bữa cơm tuy đạm bạc nhưng bác Sáu rất vui, ăn ngon miệng và nói chuyện sôi nổi. Khi ra về, bác Sáu bắt tay và căn dặn chúng tôi:

- Cố gắng xây dựng Sư đoàn cho tốt.

Năm 2002, tôi ra Hà Nội dự Hội nghị quân chính toàn quân tại Hội trường Bộ Quốc phòng. Hội nghị vinh dự đón tiếp đồng chí Phan Văn Khải, ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ tới thăm và nói chuyện. Phát biểu tại hội trường, Thủ tướng nhấn mạnh quân đội cần sử dụng kinh phí của Nhà nước đầu tư cho hiệu quả trong việc xây dựng doanh trại, các trang thiết bị cho đúng quy định. Đồng chí nhắc:

- Khi về thăm một sư đoàn ở Đồng Dù – Củ Chi, tôi được nghe anh em báo cáo tình hình ăn, ở, mặc rất khó khăn, không biết doanh trại của Sư đoàn có thay đổi gì chưa?
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM