Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Ba, 2024, 04:04:52 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Trận mạc và giảng đường  (Đọc 14455 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #30 vào lúc: 13 Tháng Giêng, 2019, 10:40:54 am »

Trong phòng bố trí sẵn bản đồ Đông Dương, tôi chỉ khu vực Kra Ché trên bản đồ. Đồng chí chuyên gia sau khi nghe phiên dịch, đến ôm nhấc bổng tôi lên (ông cao khoảng 1,8m, nặng hơn 100kg, tôi có hơn 50kg nên nằm gọn trong vòng tay ông) và bắt tay chúc tôi hoàn thành nhiệm vụ ở cương vị mới.

Khi bảo vệ xong, về vị trí tôi được các thầy giáo tới chúc mừng, cũng có đồng chí khuyên tôi nên ở lại làm giảng viên của Học viện, vừa gần gia đình lại đỡ vất vả. Tôi thầm cám ơn những lời khuyên chân tình đó, song vẫn giữ một quyết tâm không thay đổi, đó là tiếp tục ra chiến trường. Trong buổi lễ tổng kết khóa học, phát bằng tốt nghiệp, đồng chí Đoàn Khuê – Tổng Tham mưu trưởng, Chủ tịch Hội đồng thi quốc gia đến dự trao bằng. Tôi rất hạnh phúc được đồng chí trao bằng, bắt tay chúc mừng. Nhận bằng xong, tôi nói với Giám đốc Hoàng Minh Thảo:

- Thưa Giám đốc, em còn thiếu một cái bằng nữa.

- Còn thiếu bằng gì? Giám đốc hỏi.

- Bằng bán đồ ở chợ Bưởi. Tôi trả lời.

Cả thủ trưởng Đoàn Khuê, thủ trưởng Hoàng Minh Thảo và những người cùng ngồi đấy đều cười. Phải nói những năm cuối thập niên 80, chế độ tem phiếu rất thịnh hành. Tất cả từ ly bia cho đến bánh xà bông, khăn mặt, cân đường, gạo, thịt, cá… đều qua tem phiếu. Đó là thời điểm cuối gia đoạn bao cấp, là lúc nền kinh tế đất nước gặp nhiều khó khăn. Có lần cháu Đào Đức Tiến, con trai út của tôi lên chơi, ở cùng phòng có đồng chí Ngô Chí Sâm người Yên Thành – Nghệ An. Mỗi bữa lấy hai suất cơm về cho ba người ăn, hai anh em tôi đều nhường cháu Tiến ăn trước, bây giờ cháu vẫn còn nhắc và nhớ ơn chú Sâm. Mỗi lần nhìn các thầy giáo cấp tướng, cấp đại tá xếp hàng mua bia, nhận bao gạo 20kg mà thấy nao lòng. Đồng chí Tư lệnh Quân đoàn Võ Văn Dần mỗi lần ra Hà Nội họp đều tới thăm hai anh em chúng tôi, kèm theo gói quà chè, thuốc. Trong điều kiện khó khăn, thiếu thốn như vậy, số tem phiếu được cấp theo tiêu chuẩn, tôi giao cho anh Giáp mang ra chợ Bưởi bán để lấy tiền tiêu.

Tháng 7 năm 1987, tôi rời khỏi Học viện Quốc phòng về nhận công tác làm Phó Sư đoàn trưởng kiêm Tham mưu trưởng Sư đoàn 7, rồi Sư đoàn trưởng Sư đoàn 7, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 9.Tháng 4 năm 1993, tôi được Đảng ủy Quân sự Trung ương cử đi học lớp bổ túc chính trị A tại Học viện Chính trị Quân sự, trong thời gian 5 tháng. Cùng ở địa bàn Quân khu 7 có các đồng chí Lê Thành Tâm, Phan Trung Kiên học khóa này. Trước khi đi học, tôi và anh Ba Kiên được các đồng chí Huyện ủy - Ủy ban nhân dân huyện Củ Chi mời ăn cơm liên hoan. Đó là một kỷ niệm đẹp về tình cảm của Đảng bộ địa phương giành cho tôi sau hơn 4 năm làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn 9 ở căn cứ Đồng Dù – Củ Chi. Tôi nhớ trong một lần chỉ huy đơn vị làm nhiệm vụ hành quân dã ngoại, xây dựng địa bàn (làm công tác dân vận) ở khu vực địa đạo Củ Chi, gặp lại nhiều gia đình cách mạng, có má nói:

- Tao tưởng tụi bay sống ở thành phố quên dân địa đạo này rồi. Từ sau năm 1975, nay là đơn vị bộ đội đầu tiên ở cùng dân đấy.

Nghe má nói mà như muối xát ruột. Nghị quyết 8B của Đảng về công tác vận động quần chúng kịp ra đời đã khởi động phong trào nhà tình nghĩa… Tôi nói với anh Ba Kiên:

- Vừa qua, Sư đoàn đã làm được hai nhà tình nghĩa và góp trên 2.000 ngày công giúp nhân dân sản xuất, làm đường sá. Ra ngoài đó, em mang theo chiếc Honđa để có điều kiện anh em mình đi Hà Nội thăm thành phố và thăm bạn bè.

Anh Ba chỉ cười, tưởng tôi nói chơi, đâu ngờ đi máy bay ra được ba ngày thì honđa tôi gửi đường tàu hỏa cũng tới.

Lớp chúng tôi là khóa thứ 3 bổ túc chính trị A. Lớp có hơn 20 người, quá nửa là cán bộ quân sự, quân hàm từ trung tá đến thiếu tướng, chức vụ cũng rất đa dạng. Sau hai ngày ổn định, chúng tôi bắt tay vào học tập. Môn học đầu tiên là lý luận chính trị Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là môn học thường rất khó đối với cán bộ chỉ huy quân sự. Người chịu khó nhất trong học tập là anh Ba Kiên. Mỗi lần ôn kiểm tra, anh tự trả lời cầu hỏi vào máy ghi âm rồi mở nghe và sửa. Thấy anh học vất vả, thương quá, tôi nói:

- Anh phải thay đổi cách học đi, học thế này sao mà nhớ hết được và hết thời gian nghỉ ngơi, không may ốm thì khổ.

Sau đó anh đồng tình với phương pháp học mà tôi trao đổi. Sau 5 tháng, anh em chúng tôi cùng hoàn thành chương trình lớp bổ túc chính trị A. Trong lớp này, sau khi về đơn vị, hầu hết đều trưởng thành, đảm nhiệm nhiều cương vị ở các quân khu, quân đoàn, cơ quan bộ và học viện, nhà trường.

Sau khi học xong lớp bổ túc chính trị A tôi được cấp trên điều động về giữ chức Phó Tư lệnh Tham mưu trưởng Quân đoàn 4.
« Sửa lần cuối: 27 Tháng Giêng, 2019, 02:41:38 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #31 vào lúc: 27 Tháng Giêng, 2019, 02:38:51 pm »

Chương bốn

CHIẾN TRƯỜNG TÂY NAM VÀ LÀM NHIỆM VỤ QUỐC TẾ

Tháng 5 năm 1976, sau khi kết thúc lớp học bổ túc trung cấp binh chủng hợp thành K22C ở Học viện Quân sự tại Đà Lạt, tôi được cấp trên giao quyết định về công tác ở Quân khu 7. Khi nhận quyết định, tôi hỏi các đồng chí ở Cục Cán bộ:

- Tại sao khi đi học tôi ở Quân đoàn 4, bây giờ lại điều tôi về Quân khu 7?

Các anh giải thích:

- Khi đi học, đồng chí ở chiến trường B2, học xong thì trở về địa bàn của B2, tức là Quân khu 7.

Tôi về trạm T67 tại số 5 đường Trương Quốc Dung, cách cổng Bộ Tư lệnh Quân khu 7 chưa đầy 1km mang các quyết định nộp cho cơ quan Quân khu. Trưởng phòng Cán bộ Quân khu là anh Năm Nhẫn, nguyên là cán bộ từ B2, có ý định điều tôi về công tác ở trường H12 của Quân khu, lúc đó đóng ở căn cứ Vạn Kiếp, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Nhiều lần tôi làm đơn kiến nghị xin được trở về Quân đoàn 4 công tác. Đồng chí Tư Thanh nguyên Chính ủy Sư đoàn 7 lúc này là Chủ nhiệm Chính trị Quân đoàn 4 và đồng chí Lê Nam Phong – Sư trưởng Sư đoàn 7 đặt vấn đề với Quân đoàn xin tôi từ Quân khu 7 trở về Quân đoàn 4 công tác. Sau ba tháng nằm chờ ở trạm T.67, cuối cùng cấp trên cũng chấp thuận cho tôi trở về Quân đoàn 4. Tôi vào nhận hồ sơ sinh hoạt Đảng và mang thẳng về Sư đàn 7 rồi xuống Ban chỉ huy Trung đoàn 141 để nhận công tác. Các giấy tờ quyết định, điều động, chuyển tiếp do cơ quan của Bộ sẽ chuyển theo đường công văn.

Tôi về Ban chỉ huy Trung đoàn 141 như trở về nhà mình được gặp lại bao đồng chí, bạn chiến đấu thân thiết. Điều sung sướng nhất là lại được công tác, chiến đấu ở trung đoàn cùng mình đi B, trải qua nhiều dấu mốc lịch sử, nhiều trận đánh. Tuy có vất vả hơn ở Trường Quân sự Quân khu, nhưng tôi tin là sẽ hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đồng chí Trần Xuân Ban, quyền Trung đoàn trưởng và nhiều đồng chí khác tiếp đón tôi rât thân mật. tại Trung đoàn, tôi được giao nhiệm vụ làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1, đóng tại căn cứ Lai Khê. Tiểu đoàn trưởng trước tôi là đồng chí Xuân, Chính trị viên Tiểu đoàn là đồng chí Thai, cả hai đều được điều động đi nhận nhiệm vụ khác. Chính trị viên mới là đồng chí Khanh quê ở Thanh Hóa. Đồng chí Gương là Tiểu đoàn phó được cử đi học ở Học viện Quân sự Đà Lạt. Ban chỉ huy Tiểu đoàn còn lại có tôi và đồng chí Khanh. Chúng tôi nhận bàn giao của Ban chỉ huy cũ do đồng chí Thiết trợ lý hậu cần chuyển lại (vì hai đồng chí đã đi nhận nhiệm vụ từ trước).

Tôi chỉ huy Tiểu đoàn 15 tổ chức huấn luyện, xây dựng ở khu vực Lai Khê, Đồng Sổ và khu vực Lai Hưng. Được 5 tháng, Trung đoàn lệnh đưa đơn vị lên đóng dã ngoại ở khu vực Bầu Chư (Phú Giáo – Bình Dương) làm nhiệm vụ phát rừng làm rẫy, trồng lúa, trồng mì, sản xuất lương thực, thực phẩm. Đó là thời điểm giáp tết. Chúng tôi di chuyển đến một khu rừng ở phía đông của Bầu Chư. Toàn Tiểu đoàn phát cây, dọn cỏ, dựng lán trại để nghỉ ăn tết năm Đinh Tỵ, 1977. Tại đây, chúng tôi được giao một khu rừng gân 50 ha để khai phá, trồng lương thực. Ngoài việc làm rẫy, đơn vị còn được Sư đoàn giao nhiệm vụ dọn đắp, ngăn hồ Bầu Chư để làm nơi nuôi cá cho Sư đoàn. Bầu Chư là địa bàn chiến trường cũ, con đường 14 Phú Giáo – Đồng Xoài quá quen thuộc với lớp cán bộ cũ chúng tôi. Tại đây, sau Hiệp định Pari (27-1-1973), Trung đoàn 141 làm “nhà hòa giải hòa hợp dân tộc”. Hôm nay trở lại nhìn cánh rừng rộng mênh mông, bát ngát, lòng tôi rộn lên một mơ ước sẽ biến nơi đây thành một khu kinh tế với vườn cà phê, tiêu, điều, rừng cao su, sản xuất gạch ngói, khu chăn nuôi trù phú với cơ ngơi doanh trại khang trang ngói đỏ soi mình xuống mặt hồ Bầu Chư lung linh gợn sóng.

Trong những năm đầu sau giải phóng, tình hình kinh tế đất nước còn rất khó khăn, lương thực thiếu thốn. Bộ đội ăn ngày một bữa cơm, còn lại hai bữa ăn bo bo. Lao động vất vả, sáng ra lên rừng làm rẫy hoặc đi xuống hố đề đào ao, đắp đập nhưng khẩu phần ăn thì rất đạm bạc, không đảm bảo dinh dưỡng. Tư tưởng của bộ đội có nhiều diễn biến phức tạp. Nhiều đồng chí đào ngũ dăm bảy ngày về quê hoặc đi gặp người thân ở Thành phố Hồ Chí Minh sau đó trở lại đơn vị công tác. Tất nhiên, ngoài lao động kinh tế, chúng tôi vẫn thực hiện nhiệm vụ huấn luyện.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #32 vào lúc: 27 Tháng Giêng, 2019, 02:44:34 pm »

Từ đầu năm 1977, trên tuyến biên giới Tây Nam, từ địa bàn Quân khu 7 đến địa bàn Quân khu 9, tập đoàn phản động Pôn Pốt liên tục cho quân xâm lấn biên giới, chúng đốt nhà, giết người, cướp của, gây nhiều tội ác với nhân dân ta. Tình hình chiến sự ngày càng phức tạp và mối quan hệ hai nước ngày càng có chiều hướng xấu đi. Điển hình là đêm 30-4-1977, Pôn Pốt cho sư đoàn bộ binh 2 và quân địa phương bất ngờ tiến công vào 13 xã của biên giới tỉnh An Giang. Đi đến đâu, chúng thực hiện chính sách đốt phá, cướp của, giết người đến đó. Trên địa bàn của Quân khu 7, từ tháng 6 đến tháng 7 năm 1977, chúng tăng cường đánh phá ở khu vực từ Xa Mát đến Bến Cầu.

Tháng 7-1977, chúng tôi được giao nhiệm vụ tổ chức trinh sát trên địa hình biên giới Việt Nam – Campuchia từ khu vực Bến Cầu đến khu vực Xa Mát. Bên kia biên giới, hoạt động của tập đoàn Pôn Pốt đã lộ nguyên hình chống phá cách mạng Việt Nam. Chúng liên tục lấn chiếm và gây ra thương vong ở vùng biên giới. Có nơi chúng đi sâu vào đất liền Việt Nam từ 3 đến 7 km để đánh phá tàn sát nhân dân, gây mất ổn định ở khu vực biên giới. Đối tượng tác chiến mới hôm qua còn kề vai sát cánh với Việt Nam đánh Mỹ giải phóng đất nước. Một kẻ thù mới đang dần được hình thành, bộ mặt xâm lược của Pôn Pốt ngày càng lộ rõ. Tiểu đoàn tôi được giao nhiệm vụ tập trung huấn luyện các hình thức chiến thuật ngay trên địa hình khu vực Bầu Chư.

Tình hình diễn biến rất phức tạp. Chiến tranh chắc chắn không tránh khỏi. Trên địa bàn biên giới Tây Ninh đã có các lực lượng của Quân khu 7, một phần lực lượng của Quân đoàn 4 đứng chân chiến đấu ngăn chặn hành động xâm lược của địch, bảo vệ biên giới và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Ở Bảy Núi và khu vực Tịnh Biên, An Giang, Bộ đã điều động Sư đoàn 341 của Quân đoàn 4 xuống tác chiến. Để tăng cường thêm lực lượng, Bộ quyết định điều Trung đoàn 141 của Sư đoàn 7 về làm nhiệm vụ ở khu vực Châu Đốc, An Giang. Ngày 14-8-1977, Trung đoàn hành quân bằng cơ giới xuống địa bàn Châu Đốc.

Tiểu đoàn 1 của tôi ở Bầu Chư, được tăng cường 18 xe ô tô vận tải để cơ động. Sau một ngày đêm hành quân, sáng ngày 15, toàn bộ trung đoàn đã có mặt ở Châu Đốc. Tiểu đoạn 1 đóng ở khu vực xã Khánh Hòa, địa bàn cách Châu Đốc khoảng 5 km. Lực lượng các đơn vị của Trung đoàn đảm nhiệm dọc bờ kênh Vĩnh Tế cho đến khu vực chốt biên phòng Vĩnh Nguyên giáp An Giang và Đồng Tháp. Toàn trung đoàn làm nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu đảm bảo an ninh không cho lực lượng Pôn Pốt đột nhập vào thị xã Châu Đốc, giữ an ninh chính trị và tính mạng của nhân dân trong khu vực này. Tiểu đoàn 1 là lực lượng cơ động phía sau của trung đoàn. Trong thời gian ba tháng ở địa bàn Châu Đốc, quân Pôn Pốt không có trận đánh nào vào đội hình trung đoàn đảm nhiệm. Chúng tôi, ngoài nhiệm vụ huấn luyện còn làm công tác dân vận và vận động quần chúng, được nhân dân rất quý mến. Cuối tháng 11-1977, cấp trên yêu cầu Trung đoàn 141 trở về đội hình của Sư đoàn 7 để sẵn sàng làm nhiệm vụ ở khu vực biên giới Tây Ninh.

Ngày 3-12-1977, toàn trung đoàn hành quân bằng cơ giới rời Châu Đốc về Gò Dầu, Tây Ninh. Sáng sớm, toàn bộ đơn vị triển khai đội hình hành quân. Chính quyền, nhân dân Châu Đốc ra hai bên đường vẫy tay tiễn đưa cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 141. Quân dân lưu luyến chia tay.

Đêm 5-12-1977, toàn bộ đội hình về đến Tây Ninh. Tiểu đoàn 1 tập kết ở khu vực đông Gò Dầu. Sáng hôm sau, tôi được triệu tập lên Sở chỉ huy Trung đoàn nhận nhiệm vụ. Sở chỉ huy là một vườn nhà dân giáp trên quốc lộ 22. Tại đây tội gặp đồng chí Đỗ Mạnh Thứ - Tham mưu trưởng của Sư đoàn 7 cũ, lúc này là Sư đoàn phó – Tham mưu trưởng Sư đoàn 341. Khi thành phần đã đông đủ, đồng chí thay mặt cho Sư đoàn giao nhiệm vụ cho chúng tôi. Tấm bản đồ được treo lên với mũi tên dài từ Mộc Bài qua Bavet tới tận Chi Phu, theo dọc đường quốc lộ 1 tới khu vực cầu Prasot, hướng bắc là hướng tiến công từ đồn Cây Me, tây Bến Cầu đánh xuống quốc lộ 1.

Nhiệm vụ của Trung đoàn 141 là thực hành tiến công theo quốc lộ 1 từ Mộc Bài đến Chi Phu và đến cầu Tà Yên. Nhiệm vụ này được giao cho Tiểu đoàn 1 thực hiện. Tiểu đoàn được tăng cường 1 đại đội xe tăng, 1 đại đội ô tô vận tải để thực hiện tác chiến trong điều kiện hành quân cơ giới, với sự chi viện của hỏa lực của các cấp. Tiểu đoàn 2 do đồng chí Dũng làm Tiểu đoàn trưởng là đơn vị đi sau. Tiểu đoàn 3 do đồng chí Ngô Hồng Lập làm Tiểu đoàn trưởng là đơn vị đánh ở phía nam đường 1 – khu vực rừng Sở để đảm bảo cho hướng tấn công chủ yếu của Trung đoàn được thuận lợi.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #33 vào lúc: 27 Tháng Giêng, 2019, 02:50:28 pm »

Nhận nhiệm vụ xong, trở về vị trí chỉ huy Tiểu đoàn. Tôi và đồng chí Chính trị viên Tiểu đoàn (lúc này đồng chí Khanh – Chính trị viên Tiểu đoàn đi học, đồng chí Vũ Tiến Thả trợ lý tổ chức của Trung đoàn xuống làm Chính trị viên) trao đổi nhiệm vụ của trên giao. Chiều ngày 5-12-1977, chúng tôi đi trinh sát chuẩn bị chiến đấu. Đoàn trinh sát có cán bộ Trung đoàn 141 và đồng chí Mười Kim – Tham mưu trưởng Sư đoàn 7. Trên đài quan sát, tôi chú ý nắm thật chắc khu vực, vật chuẩn, các mục tiêu mà ngày mai Tiểu đoàn phải thực hiện tác chiến. Mọi công tác chuẩn bị ở đơn vị đã được đồng chí Chính trị viên và các đại đội chuẩn bi tương đối tốt. Theo kế hoạch, sáng ngày 6-12-1977 chúng tôi triển khai chiếm lĩnh trận địa. Lúc này Tiểu đoàn đang thiếu Tiểu đoàn phó, cấp trên điều đồng chí Đinh Ngọc Sự từ Trường Quân sự về làm Tiểu đoàn phó. Chúng tôi đón đồng chí ở ngay khu vực triển khai đội hình chiến đấu phía đông Mộc Bài. 5 giờ sáng, hỏa lực các cấp bắt đầu chế áp, bắn vào các khu vực mục tiêu. Dưới sự chỉ huy của Ban chỉ huy Trung đoàn, Tiểu đoàn 1 cùng với các đơn vị binh chủng tăng thiết giáp và phân đội đi đầu – đại đội 1 của Tiểu đoàn, chuẩn bị hành động theo kế hoạch.

Từ 5 giờ 25 phút sáng ngày 6 tháng 12, toàn vùng biên giới Tây Ninh ầm vang tiếng pháo, tiếng rú của xe tăng thiết giáp. Tôi lệnh cho đại đội 1 thực hành mở cửa và các loại hỏa lực ĐKZ, cối 82mm, 12,7mm cùng tham gia bắn chi viện để đại đội 1 xung phong đánh chiếm mục tiêu đầu tiên ở khu vực đông rừng Sở trên quốc lộ 1. Diễn biến trận chiến đấu diễn ra đúng như kế hoạch dưới sự chống trả yếu ớt của địch. Cửa mở đã thông, tôi lệnh cho đại đội 2 và đại đội 3 cùng với cơ giới thực hành vượt qua đại đội 1 thọc sâu vào đánh chiếm khu vực Chi Phu. Đến tây cửa khẩu Mộc Bài khoảng 3km, chúng tôi gặp chướng ngại xe của dân và xe của địch nằm ngồn ngang, hoảng hốt tháo chạy. Nhận định kẻ địch không kịp gài mìn trên quốc lộ 1, cần phải tăng tốc độ tiến công của cơ giới, tôi ra lệnh cho bộ đội dùng nòng pháo gạt những chướng ngại trên đường, đặc biệt là vượt qua xe của địch còn lại để thông đường, tiếp tục cơ động tới khu vực Chi Phu.

Sau hơn một giờ chiến đấu, đại bộ phận lực lượng của Tiểu đoàn đã cơ động qua khu vực rừng Sở. Lúc này Tiểu đoàn 2 đã đến khu vực đông rừng Sở. Tiểu đoàn 3 đi sau truy quét địch ở hai bên đường quốc lộ 1 từ Bavet đến khu vực rừng Sở. tôi báo cáo kết quả sơ bộ về Trung đoàn, đồng chí Trung đoàn trưởng Bế Ích Quân lệnh cho Tiểu đoàn nhanh chóng tổ chức các đơn vị đánh chiếm Chi Phu. Sau đó khi xếp lại đội hình, tiếp tục cho hỏa lực chi viện, 1 giờ sau chúng tôi chiếm được thị trấn Chi Phu. Khi tới nơi, vũ khí địch bỏ lại ta thu được hơn chục khẩu súng, còn đại bộ phận chúng chạy về hướng tây. Bộ đội tiếp tục truy kích và đuổi địch đến tận cầu Tà Yên cách Chi Phu 5 km thì dừng lại. Tôi cho đại đội 1 ở lại giữ khu vực đó, còn đại bộ phận quay về khu vực Chi Phu triển khai đội hình đảm bảo trục hành lang quốc lộ 1 chờ lệnh tiếp tục tiến công.

Vào khoảng 10 giờ 30 phút, đồng chí Tham mưu trưởng Quân đoàn 4 Hoàng Nghĩa Khánh đi kiểm tra trận địa, ra tận cầu Tà Yên (tới lúc này tôi mới biết đồng chí đó là Tham mưu trưởng qua đồng chí Trợ lý tác chiến Quân đoàn nói lại). Tôi báo cáo tình hình và nhận chỉ thị của Tham mưu trưởng là đưa hết lực lượng về Chi Phu không giữ cầu Tà Yên nữa. Chấp hành mệnh lệnh, tôi cho Đại đội 1 cơ động về vị trí quy định và đóng án ngữ khu vực tây Chi Phu để đảm bảo cho Tiểu đoàn 2 đánh lên phía bắc Chi Phu khoảng 4 km.

Đêm hôm đó, Tiểu đoàn nhận được nhiệm vụ giữ ngã ba Chi Phu để đảm bảo việc vận chuyển thương binh, tử sĩ, tiếp tế lương thực, thực phẩm cho các đơn vị phái trước, đặc biệt là các mũi tiến công của Trung đoàn 165 ở hướng bắc cũng như Sư đoàn 341 tác chiến ở phía tây huyện Bến Cầu. Chúng tôi dừng lại ở thị trấn Chi Phu nhưng tất cả phải ra công sự, hầm hào sẵn sàng đánh địch tập kích ban đêm. Đúng như dự kiến, khoảng 23 giờ, bọn chúng lợi dụng bờ mương, trời tối dùng B40, B41 tập kích vào nam Chi Phu. Nhưng địch ở xa bắn vào nên không có đồng chí nào thương vong. Sáng ngày hôm sau, Sư đoàn 341 đánh chia cắt từ khu vực ngã tư Nhà Thương xuống cầu Prasot trên quốc lộ 1 (cách tây Chi Phu 15 km). Tiểu đoàn 1 chúng tôi nhận lệnh đánh chiếm cầu Tà Yên hỗ trợ cho Sư đoàn 341 ở phía bắc đánh xuống.

Thực hiện nhiệm vụ này, tôi tổ chức một trung đội xe tăng 3 chiếc và đại đội bộ binh 1 dưới sự chỉ huy của đồng chí Tiểu đoàn phó Đinh Ngọc Sự. Triển khai xong đội hình, vừa cơ động lên đoạn 1 km thì gặp phải sự kháng cự rất quyết liệt của quân Pôn Pốt. Chúng lợi dụng bờ mương, bờ đê dọc kênh Tà Yên để làm công sự, dùng B40, B41, ĐKZ bắn vào đội hình đại đội 1. Tiểu đoàn bị cháy 1 xe tăng, đồng chí Sự Tiểu đoàn phó bị thương. Tôi trực tiếp chỉ huy các đội hỏa lực (ĐKZ, 12,7mm, cối 82mm) và pháo 100mm trên xe tăng bắn mãnh liệt vào các ụ súng, chi viện cho đại đội 1 (do đại đội trưởng Nguyễn Văn Ba chỉ huy) tận dụng bờ mương, vòng tránh, đánh vào sườn tây nam cầu. Sau gần 2 giờ chiến đấu, đại đội 1 đã làm chủ cầu Tà Yên.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #34 vào lúc: 27 Tháng Giêng, 2019, 02:55:47 pm »

Như vậy là sau 2 ngày chiến đấu, đơn vị chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ đánh chiếm đúng mục tiêu, giữ vững được khu vực đã chiếm và đảm bảo thế phát triển thuận lợi trên chiến trường. Ban chỉ huy Tiểu đoàn chỉ còn tôi và đồng chí Thả - Chính trị viên chỉ huy đơn vị trong những trận chiến đấu tiếp theo. Đây là trận chiến đấu hành tiến bằng bộ binh – cơ giới làm phân đội thọc sâu của chiến dịch. Đơn vị đã nhanh chóng vượt qua cửa mở, tiêu diệt gọn các mục tiêu trên đường và hai bên đường; khắc phục các chướng ngại vật do kẻ địch hoặc người dân (đồ dùng, phương tiện cơ động) tạo ra; tiến chắc, đánh chiếm từng mục tiêu có hỗ trợ chi viện kịp thời; nắm chắc thời cơ (địch rút chạy không kịp gài mìn) chỉ huy kiên quyết, hiệp đồng chặt chẽ giữa các phân đội trong Tiểu đoàn với đơn vị bạn.

Từ ngày 6 đến ngày 10-12-1977, trên nhiều hướng, các đơn vị chủ lực của ta từ biên giới Tây Ninh đẩy địch dạt sang đất Campuchia. Quân đội Việt Nam vào đến các phum, sóc của Campuchia đều thấy cảnh hoang tàn, vườn không nhà trống. Nhân dân bị lực lượng Khơ me đỏ dồn vào các trang trại tập trung lao động khổ sai. Khi quân đội Việt Nam đánh sang, nhân dân chạy theo bộ đội cảm ơn trong niềm vui trào nước mắt. Từng đoàn người cứ nối đuôi nhau từ Chi Phu, Pô Pet theo quốc lộ 1 về Bavet, rừng Sở, khu vực cửa khẩu Mộc Bài. Tại đây, Đảng và Nhà nước Việt Nam tổ chức giúp đỡ, tạo điều kiện cho đồng bào Campuchia ổn định cuộc sống, chờ ngày trở về đất nước của họ.

Các đơn vị quân chủ lực Việt Nam sau khi tiến sang đất Campuchia, tổ chức dừng lại để củng cố, thực hiện nhiệm vụ tiếp theo. Quân Pôn Pốt cơ động về khu vực Xvay Riêng, sau đó liên tục tổ chức lực lượng phản kích về khu vực đường 1 đông Xvay Riêng đến khu vực Chi Phu. Nhiều đơn vị của Sư đoàn 7, đặc biệt là Trung đoàn 165 (các tiểu đoàn mới thành lập) ở khu vực ngã ba Cốc, tây Kokixom liên tục bị lực lượng Pôn Pốt phản kích, gây nhiều tổn thất. Chúng chiếm lại một số khu vực như Kokixom, giữ vững những khu vực đó và tổ chức chiến đấu ngăn chặn chúng ta từ biên giới đánh sang.

Trước tình hình trên, Trung đoàn 141 lên kế hoạch thực hành nhiệm vụ tiêu diệt địch ở khu vực Kokixom. Chiều ngày 17-12-1977, tôi chỉ huy Tiểu đoàn hành quân từ Chi Phu qua Pô Pet đi lên khu vực nam Kokixom. Thời tiết đang vào mùa khô. Cánh đồng lúa vào mùa chín rộ nhưng không có ai thu hoạch. Đang đi, chúng tôi quan sát thấy phía mép nam phum Kokixom có một dãy bờ mương đất mới làm. Bộ đội phải triển khai đi thưa, đi thấp tiến cận về hướng đó. Đến cách bờ đập nước khoảng 500m, chúng tôi bị hỏa lực ĐKZ của Pôn Pốt bắn vào đội hình. Ban chỉ huy Tiểu đoàn gồm tôi và đồng chí Thả đang đi bị một quả ĐKZ bắn xèo qua đầu nổ ở phía sau khoảng 20m. May mà mảnh đạn tập trung ở phía trước nên hai anh em không ai bị thương. Tôi cho Tiểu đoàn dừng lại, triển khai lực lượng vào khu vực mép tây phum Tà Y.

Chiều hôm đó, chúng tôi được lệnh cơ động về khu vực ngã ba Châu Chếch để cùng Tiểu đoàn 3 thực hiện đánh theo con đường lộ 241 từ đông sang tây tức là qua Kokixom tiến qua ngã ba Cốc, ngã ba Nhà Thương giải tỏa cho nhiều đơn vị của chúng ta đang bị kẹt ở đó. Tôi thấy tình hình ở phía nam Kokixom bờ đập nước rất dài, địch đã triển khai trận địa. Nếu như ta chỉ đánh chính diện theo hai mũi nam và bắc đường thì sẽ bị Pôn Pốt chống trả quyết liệt và yếu tố giành thắng lợi sẽ khó khăn. Tôi mạnh dạn đề nghị với đồng chí Thức, Trung đoàn phó xin Tiểu đoàn 1 không cơ động về ngã ba Châu Chếch mà ở lại khu vực nam Kokixom, chờ đến sáng mai, khi đội hình Trung đoàn tiến công (chủ yếu là Tiểu đoàn 3) đánh chính diện từ ngã ba Châu Chếch vào khu vực Kokixom, Tiểu đoàn 1 sẽ đánh từ phía nam lên. Mặc dù gặp tường ủi sẽ khó khăn nhưng đây là điều kiện chia cắt đội hình có tính nghệ thuật cao và ta sẽ giành thắng lợi lớn. Tôi hứa với cấp trên sẽ bắt được tù binh và thu được vũ khí mang về nộp lại cho Trung đoàn. Kiến nghị đó đã được đồng chí Tham mưu trưởng Sư đoàn Mười Kim cùng Ban chỉ huy Trung đoàn đồng ý. Sau đó chúng tôi triển khai ngay trong trong đêm, chiếm lĩnh trận địa ở phía nam đập nước.

Sáng hôm sau, khi những loại hỏa lực của Sư đoàn 7 bắn chế áp vào khu vực Kokixom, các đơn vị của Trung đoàn gồm Tiểu đoàn 3, Tiểu đoàn 2 đánh chính diện từ ngã ba Châu Chếch vào khu vực Kokixom. Tiểu đoàn 1 vẫn án binh bất động, nghi binh địch. Khi các lực lượng của Tiểu đoàn 3 vào được một phần ba làng Kokixom, lực lượng địch ở đập nước khoảng 1 đại đội quay nòng súng hướng hỏa lực vào Tiểu đoàn 3 chặn đánh quyết liệt. Trong lúc địch đang tập trung đối phó hướng chính diện của Trung đoàn, tôi lệnh cho các đại đội thực hành xung phong từ phía nam đánh lên hồ nước. Hướng đánh bất ngờ từ phía sau lên đã làm cho chúng bị hở sườn, trở tay không kịp nên luống cuống chống trả rồi bỏ chạy. Trung đoàn giành chiến thắng, tiêu diệt được toàn bộ lực lượng ở khu vực đập nước. Riêng Tiểu đoàn 1 bắt 6 tên địch, thu gần 20 súng (trong số bị bắt có nhiều tên giữ chứng minh thư sĩ quan của cán bộ ta mà ngay hôm trước chúng đã tấn công sát hại). Sau trận đánh, Trung đoàn truy kích địch ra khỏi khu vực Kokixom đến ngã ba Cốc, khôi phục lại một số trận địa của các đơn vị bạn. Tiểu đoàn chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ, tiếp tục đứng chân ở Kokixom làm lực lượng dự bị tác chiến trong những trận tiếp theo. Đây là trận đánh cấp trung đoàn vận động tiến công tiêu diệt lực lượng địch mới tạm chiếm được gần 2 ngày đêm. Nghệ thuật của trận đánh là kết hợp tiến công chính diện với bên sườn bằng lực lượng mạnh, nhanh chóng phá vỡ thế trận của địch, chỉ huy dân chủ, kiên quyết.
« Sửa lần cuối: 06 Tháng Hai, 2019, 03:50:37 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #35 vào lúc: 27 Tháng Giêng, 2019, 03:00:23 pm »

Trong những ngày cuối tháng 12-1977, cấp trên yêu cầu tất cả lực lượng bộ đội Việt Nam đang làm nhiệm vụ trên đất Campuchia rút về nước. từ ngày 4 đến 6-1-1978, Trung đoàn cơ động toàn bộ lực lượng về làm nhiệm vụ ở khu vực biên giới tỉnh Tây Ninh. Sau gần một tháng chiến đấu với đối tượng mới ở chiến trường mới, Trung đoàn đã hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tiểu đoàn 1 của chúng tôi lập công xuất sắc và được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba.

Về đến biên giới, Tiểu đoàn 1 được phân công đóng ở khu vực đồn Cây Me. Đây là một dải đất nhô ra, nằm sâu sang đất Campuchia, nơi gần nhất cách đường quốc lộ số 1 khoảng 4km. Tại đây, đơn vị tiếp tục làm nhiệm vụ củng cố, huấn luyện, giữ vững khu vực vùng biên giới, đảm bảo an ninh chính trị, an toàn cho nhân dân.

Đầu năm 1978, bọn Pôn Pốt bổ sung quân số, củng cố lực lượng, đưa quân áp sát các đơn vị bộ đội ta ở khu vực biên giới. Cách đánh của địch lúc này chủ yếu là dùng phân đội nhỏ cấp đại đội luồn lách, tập kích vào các vị trí chủ chốt, nằm sâu trong biên giới gây tổn thất thương vong cho nhân dân. Chúng gài mìn, chông ở các hướng nghi có quân ta tiến công sang. Nắm vững quy luật hoạt động của địch chủ yếu diễn ra vào ban đêm, tôi tổ chức một đội bắn tỉa gồm 5 đồng chí trang bị súng bắn tỉa hiện đại bố trí bí mật từ ban đêm ở những khu vững trống trải và sát xuống phía bắc đường 1 để ban ngày từ những khu vực bí mật đó quan sát hành động của địch và thực hành bắn tỉa. Việc làm trên rất hiệu quả, mỗi ngày diệt được 5 đến 7 tên, hạn chế việc trinh sát nắm tình hình của địch, ban đêm chúng không dám tiến công đánh phá vào chốt của ta.

Một lần tôi cho khoảng 30 đồng chí từ 15 giờ triển khai đội hình sâu xuống nam Cây Me sát với khu vực đường 1, cơ động vừa bí mật vừa công khai để cho lực lượng Pôn Pốt quan sát thấy hành động của ta, dụ chúng chuyển sang tấn công theo hướng từ tây đánh sang, không đánh từ hướng nam lên. Đến chập tối, tôi cho Đại đội 2, Đại đội 5 triển khai chiếm lĩnh dọc bờ mương thoát nước, lấy khẩu đội cối 82mm của Đại đội 5 làm đơn vị chặn đầu. Đúng theo dự kiến, khoảng 23 giờ ngày 22-2-1978, địch cho gần 1 đại đội đi từ hướng tây theo con đường mương thủy lợi để tập kích vào khu vực đóng quân của Tiểu đoàn. Chờ cho lực lượng đi đầu vào cách khẩu cối 82mm khoảng 200m, tôi lệnh cho cối bắn chặn phía sau, các pháo thủ dùng súng bộ binh ở phía trước trận địa thực hiện nổ sùng và đại đội 2 từ bên trong xung phong đánh vào hai bên bờ mương. Đại bộ phận quân địch nằm gọn trong trận địa. Ta diệt tại chỗ 15 tên và thu được 12 khẩu súng, bị tổn thất nặng ở khu vực đồn Cây Me, trong một thời gian dài, địch không dám tới tập kích.

Sau hai năm cùng công tác, chiến đấu với cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 1, đầu tháng 4-1978, tôi được cấp trên điều động lên làm Tham mưu phó Trung đoàn 141.

Lúc này, trên toàn tuyến biên giới, Pôn Pốt tăng cường lực lượng với quy mô lớn có nơi tới cấp trung đoàn, sư đoàn thiếu; thực hành lấn chiếm và đánh sâu sang đất của chúng ta, đặc biệt là khu vực Long Giang, Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh. Nhiều trận chiến đấu cấp trung đoàn hoặc cấp trung đoàn tăng cường của sư đoàn đã diễn ra ở khu vực này. Các trận đánh nhỏ, lẻ liên tục xảy ra với chiến thuật ngăn chặn, be bờ, phòng ngự giữ vững từng tấc đất ở khu vực biên giới. Pháo binh Pôn Pốt liên tục cơ động theo trục đường 1 lên bắn sâu vào khu vực thị trấn Bến Cầu, Gò Dầu và nhiều nơi đông dân cư khác. Kẻ địch gia tăng áp lực biên gới khi ta đang có những điều chỉnh, củng cố và cài thế trận.

Trước tình hình trên, Bộ Tổng tham mưu chỉ đạo các đơn vị chủ lực phản kích đẩy quân địch ra xa, không cho chúng bu bám, quấy rối nhân dân ở khu vực biên giới, đặc biệt là không được dùng pháo binh bắn vào khu vực thị trấn, làng mạc của nhân dân. Nhiệm vụ của Trung đoàn 141 là đảm nhiệm hướng tấn công chủ yếu của Sư đoàn 7 ở khu vực Tà Nô, Tà Y, theo đường 241 đánh chiếm Ốt-đô-miên-chay phát triển lên Kokixom, Cốc và Chốp. Sau thời gian nghiên cứu địa hình và lực lượng địch ở phía trước, Sư đoàn 7 mở đợt tấn công vào ngày 26-4-1978. Chỉ huy Trung đoàn là Trung đoàn phó Phạm Văn Thức (Trung đoàn trưởng Bế Ích Quân đang nghỉ phép, sau này là Sư đoàn trưởng 346 Quân khu 1. Hiện nay anh đã nghỉ hưu ở Cao Bằng).

Đêm 25-4-1978, toàn đội hình của Trung đoàn triển khai cơ động chiến đấu. Tiểu đoàn 3 từ tây nam Phước Trường vừa luồn sang bên kia biên giới thì gặp địch. Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn 2 vừa tới khu vực Tà Y cũng gặp địch ngăn chặn khi chưa bắt liên lạc được với trinh sát của Sư đoàn. Khả năng chiếm lĩnh vị trí trong khoảng thời gian từ 15 giờ đến 23 giờ là rất khó khăn. Tại Sở chỉ huy trung đoàn, đồng chí Thức, Chính ủy Nguyễn Văn Khải và tôi cùng hội ý quyết tâm thực hiện theo đúng kế hoạch, phương án đã được Sư đoàn phê duyệt. Đồng chí Thức lệnh cho các tiểu đoàn tiếp tục vòng tránh, khắc phục mìn, cơ động lực lượng vào vị trí quy định. Đến khoảng 3 giờ ngày 26 tháng 4, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3 báo cáo đã vào chiếm lĩnh đúng vị trí. Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn 2 được trinh sát của Sư đoàn dẫn đường vào khu vực tập kết an toàn. Trong Sở chỉ huy Trung đoàn, không khí đã bớt căng thẳng, mọi người đã có thể cười nói vui vẻ.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #36 vào lúc: 27 Tháng Giêng, 2019, 03:03:59 pm »

Đến 5 giờ 30 phút ngày 26-4-1978, theo đúng giờ quy định, hỏa lực các cấp bắn vào các mục tiêu theo quy định. Các hướng mũi tấn công theo lệnh của Sư đoàn. Tiểu đoàn 3 của Trung đoàn 141 thực hành đánh chiếm cửa mở, bị địch ngăn chặn và gặp chướng ngại vật, khó vượt qua được. Trong lúc đó, Trung đoàn 165 đã mở cửa đánh chiếm khu vực Tà Nô, Tà Y. Trung đoàn 141 nhận lệnh chuyển hướng tấn công vòng theo hướng cửa mở của Trung đoàn 165, từ đây đánh lên Tà Y, khu vực ngã ba Châu Chếch và phát triển vào khu vực Kokixom. Tới 11 giờ trưa ngày 26, toàn bộ Trung đoàn đã vào địa điểm quy định. Sự chống trả của địch chủ yếu diễn ra trên hướng Trung đoàn 165. Đại bộ phận quân địch đang chiếm giữ khu vực nam Kokixom từ khu vực Toten xuống tới Brasot ở trên khu vực đường 1. Trung đoàn 209 cũng đã chiếm được Kokixom vỏng ra ngã ba Cốc. Các đơn vị bạn ở khu vực Bến Sỏi cũng đánh xuống khu vực ngã tư Nhà Thương, bắt liên lạc với nhau. Hết ngày 26 và 28, Trung đoàn 141 điều chỉnh đội hình và chuẩn bị làm nhiệm vụ vào khu vực Kokixom, ngã ba Cốc để thay cho Trung đoàn 209.

Trưa ngày 29-4, Tiểu đoàn 2 của Trung đoàn 141 hành quân qua Kokixom, tiến vào ngã ba Cốc làm nhiệm vụ phòng ngự, giữ khu vực ngã ba thay cho Tiểu đoàn 7 của Trung đoàn 209 cơ động về làm nhiệm vụ khác. Tiểu đoàn 3 vào Tà Oan, Tiểu đoàn 1 vẫn ở vi trí cũ. Ban chỉ huy Trung đoàn vào Kokixom. Chiều hôm đó, đồng chí Hảo – Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2 dẫn đội hình vào ngã ba Cốc làm nhiệm vụ nhận bàn giao trận địa của Tiểu đoàn 7. Do không giữ được bí mật nên cả ngày 28 và buổi sáng 29 lực lượng Pôn Pốt triển khai lực lượng, áp sát tiền duyên.

Trong lúc đang cơ động và điều chỉnh đội hình, đồng chí Chính ủy Trung đoàn Nguyễn Văn Khải đi xe Jeep vào thẳng bã ba Cốc. Khi đồng chí Khải tới ngã ba Cốc gặp Ban chỉ huy Tiểu đoàn 2 cũng là lúc đại bộ phận chiến sĩ Tiểu đoàn 7 cơ động về phía sau. Quân Pôn Pốt thấy vậy tưởng lực lượng của ta rút, đã thừa cơ xung phong tiến công vào khu vực ngã ba Cốc. Lúc này các đơn vị của Tiểu đoàn 2 mới bước vào vị trí tập kết, chưa có hiệp đồng tác chiến và chưa nắm bắt được tình hình, mạng chỉ huy chưa có Bộ đội thấy vậy bỏ trận địa cơ động theo chiến sĩ của Tiểu đoàn 7. Đồng chí Chính ủy Trung đoàn cùng khẩu đại liên và tổ thông tin cố thủ tại khu vực ngã ba. Xung quanh ba phía bắc, tây, nam Cốc, bọn Pôn Pốt đã vây chặt. Đồng chí Khải điện về thông báo tình hình và yêu cầu chúng tôi chi viện khẩn cấp để giữ ngã ba Cốc và cứu đồng chí Khải.

 Tại Sở chỉ huy Trung đoàn, tôi và đồng chí Thức cùng trao đổi va đi đến thống nhất: đồng chí Thức chỉ huy chung và lệnh cho Tiểu đoàn 1 cơ động một đại đội bộ binh theo đường quốc lộ 241 từ Kokixom để lên ngã ba Cốc. Tôi làm việc với đồng chí Công – Tiểu đoàn trưởng thiết giáp của Lữ đoàn 22. Anh em rất hăng hái và cử một đại đội thiết giáp cơ động từ khu vực bắc Kokixom vòng đến ngã ba Tà Oan đánh vào ngã ba Cốc. Cách Ban chỉ huy Trung đoàn khoảng 200m, triển khai ngay đại đội cối 120mm. Lúc này đang có hai xe vận chuyển đại cối 120mm của sư đoàn dừng lại ở khu vực chỉ huy. Chúng tôi yêu cầu hai xe đạn cung cấp để cho trận địa cối thực hành nhiệm vụ. Hỏa lực cối 120mm bắn ngăn chặn địch ở hướng tây và hướng nam ngã ba Cốc, không cho chúng tiến vào chiếm khu vực ngã ba, còn lại một đại đội bộ binh với đại đội thiết giáp tiến đánh từ hướng bắc, đông bắc xuống. Sau hơn một tiếng đồng hồ chiến đấu, trận địa cối 120mm chúng tôi đã bắn chi viện trên 200 quả (Chưa bao giờ bắn nhiều đạn liên tục như vậy, súng rất nóng, anh em dội nước cho nguội lại tiếp tục bắn). Trên hướng bắc, đại đội thiết giáp tấn công bị quân của Pôn Pốt bắn cháy một xe. Đồng chí đại đội trưởng thiết giáp quê ở Hà Nội hy sinh trước khi đưa đại đội vào chiếm ngã ba Cốc để khôi phục, giữ vững trận địa. Đến khoảng 24 giờ ngày 29, Tiểu đoàn 2 vào chiếm lĩnh trận địa, giữ vững khu vực ngã ba Cốc. Trận chiến đấu để lại một bài học đắt giá về tình huống làm nhiệm vụ thay phiên chiến đấu phòng ngự trong lúc kẻ địch đã áp sát mục tiêu.

Từ ngày 1 đến ngày 10-5-1978, lực lượng Pôn Pốt liên tục đánh phá, tập kích đội hình Trung đoàn, đặc biệt là khu vực ngã ba Cốc của Tiểu đoàn 2 và khu vực của Tiểu đoàn 3. Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 7 tăng cường đồng chí Dương Liễu – Tham mưu phó Sư đoàn xuống khu vực chỉ huy Trung đoàn (đồng chí Trung đoàn trưởng Bế Ích Quân đi phép chưa vào). Chiều ngày 5-5-1978, tôi và đồng chí Trung đoàn phó Phạm Văn Thức từ Sở chỉ huy Kokixom đi ra bờ tường ủi để chọn trận địa bố trí cho Tiểu đoàn 3 cơ động làm nhiệm vụ ngăn chặn tiêu diệt địch khi chúng phản kích vào khu vực ngã ba Cốc, thống nhất trận địa khu vực bố trí cho cán bộ Tiểu đoàn 3 và trợ lí cơ quan để triển khai. Đêm hôm đó, chờ đến 23 và 24 giờ, đồng chí Dương Liễu rất nóng lòng nên đã lệnh cho đồng chí Thức đi xuống kiểm tra, xem Tiểu đoàn 3 ở đâu để đưa vào đúng trận địa kịp chiến đấu ngày hôm sau. Đồng chí Thức đi được một đoạn, tôi cũng đi theo. Ra khỏi làng Kokixom khoảng 100m, vẫn lối mòn đi từ chiều hôm trước, đồng chí Thức tạt vào đi tiểu, một quả mìn nổ, đồng chí Thức bị thương. Đồng chí chỉ kịp kêu lên:

- Tôi bị thương, các đồng chí ơi…!

Tôi lệnh cho anh em cơ quan đến băng bó cho đồng chí Thức rồi đưa về Sở chỉ huy Trung đoàn. Sáng hôm sau, Sư đoàn điều một máy bay từ sân bay Tân Sơn Nhất lên đưa đồng chí Thức về cấp cứu ở bệnh viện tuyến trên. Do vết thương quá nặng, đồng chí Thức bị cưa một ống chân trái. Sáng ngày 6, Tiểu đoàn 3 cũng về được vị trí quy định để kịp thời làm nhiệm vụ chiến đấu.

Tại vị trí chiến đấu mới, Trung đoàn 141 tổ chức tác chiến nhỏ lẻ. Số bộ đội thương vong ngày một nhiều. Riêng Tiểu đoàn 2 chốt giữ ở khu vực ngã ba Cốc, mỗi ngày thương vong 20 đến 30 đồng chí. Ban chỉ huy Trung đoàn quyết định đề nghị Sư đoàn tổ chức vận dụng những trận đánh phục kích khác, không nên giữ chốt quá lâu. Tôi lên Sư đoàn gặp đồng chí Sư đoàn trưởng Lê Nam Phong. Tôi chào ông nhưng ông không trả lời. Vẻ mặt Sư đoàn trưởng đăm chiêu, bộ râu dài có lẽ cả tuần chưa cạo. Chắc ông rất đau lòng trước những thương vong của cán bộ chiến sĩ các đơn vị trong Sư đoàn. Sau giây lát trầm tư, Sư đoàn trưởng bảo tôi lên làm việc với Tham mưu trưởng Mười Kim. Sau khi báo cáo toàn bộ tình hình và đề xuất xin Sư đoàn không giữ ngã ba Cốc mà cơ động ra phục kích đánh hai, ba trận cấp trung đoàn để tiêu diệt một số sinh lực địch, tạo khí thế cho Trung đoàn làm nhiệm vụ tiếp theo. Đồng chí Tham mưu trưởng đồng tình. Sư đoàn trưởng cũng đồng ý. Khi tôi về, Sư đoàn trưởng còn dặn:

- Phải cố gắng làm sao để anh em trong Trung đoàn dừng sa sút ý chí.

Tôi chỉ biết vâng lời và nói:

- Thủ trưởng tin chúng tôi, còn nếu cứ dùng Trung đoàn 141 đảm nhiệm giữ các chốt như vậy thì không khác gì nhà khó tiêu tiền rách.

Câu nói đó đã làm cho thủ trưởng nở nụ cười và ông cũng tin tưởng Trung đoàn chúng tôi sẽ làm được nhiệm vụ như báo cáo.

Từ tháng 5 cho đến cuối tháng 6, Trung đoàn 141 tổ chức nhiều trận đánh nhỏ lẻ, phục kích cấp trung đoàn hoặc là tiến công trong đội hình của Sư đoàn, phát triển xuống phía bắc Brasot. Trung đoàn hoàn thành được nhiệm vụ và khí thế tinh thần chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ được nâng lên rất nhiều.

Cuối tháng 6-1978, tôi được cấp trên điều lên làm Trợ lý Tác chiến của Sư đoàn 7.
« Sửa lần cuối: 06 Tháng Hai, 2019, 03:44:50 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #37 vào lúc: 27 Tháng Giêng, 2019, 03:10:15 pm »

*
*   *

Tôi lên Ban Tác chiến Phòng Tham mưu Sư đoàn, nhận nhiệm vụ tổng hợp theo dõi, nắm chắc tình hình hoạt động của các đơn vị, các hướng, đề xuất với Trưởng ban hoặc Tham mưu trưởng phương án chỉ đạo các đơn vị chiến đấu. Trưởng ban Tác chiến Sư đoàn lúc này là đồng chí Hà Thạch Cừ.

Có nhiều kỷ niệm trong những lần đi công tác. Tôi nhớ nhất là ngày 21-7-1978, tôi cùng đồng chí Mười Kim – Tham mưu trưởng Sư đoàn đi qua ngã ba Chóp để kiểm tra Trung đoàn 141. Đường trở về Sở chỉ huy Sư đoàn (nằm ở khu vực đông Kokixom khoảng 2km) là con đường đất, mùa mưa lầy lội khó đi. Thanh niên xung phong Thành phố Hồ Chí Minh tới tăng cường cho Sư đoàn, cùng chúng tôi làm nhiệm vụ vận chuyển, cung cấp lương thực thực phẩm và cáng thương binh từ phía trước về phía sau hoặc giữ các chốt ở trên các trục đường. Khoảng 20 giờ khi về đến ngã ba Cốc, trên hướng quốc lộ 1 từ Xvay Riêng đến bắc Brasot, pháo sáng của Pôn Pốt bắn liên tục. Tiếng động cơ xe tăng và tiếng ô tô vận chuyển nghe rất rõ. Khoảng 22 giờ ngày 21, tôi và đồng chí Tham mưu trưởng về đến Sở chỉ huy Sư đoàn, tôi thắc mắc: “Tại sao đêm nay lại khác các đêm trước, pháo sáng Pôn Pốt bắn dọc quốc lộ 1 hơi nhiều”.

Sau này tìm hiểu mới biết đêm đó, Pôn Pốt đã cơ động 4 tiểu đoàn đặc công được huấn luyện rất cơ bản từ Phnôm Pênh theo quốc lộ 1 qua Xvay Riêng tập kết ở khu vực Brasot. Từ đó 4 tiểu đoàn này luồn lách vào cá mục tiêu ở bên trong trận địa phòng ngự của các đơn vị ta. Trên hướng bắc Brasot về hướng Toten, Kokixom, chúng sử dụng 1 tiểu đoàn. Lợi dụng pháo sáng và đêm tối, chúng luồn lách qua hầu hết các chốt phía trước của Trung đoàn 165 vào tới bắc làng Toten.

Điểm đầu tiên lính Pôn Pốt tập kích là một chốt của thanh niên xung phong (chốt này nằm sau trận địa Trung đoàn 165 trên 10km). Tại chốt, có 24 anh chị em được trang bị đủ súng chiến đấu làm nhiệm vu giữ đường, vận chuyển đạn bổ sung cho phía trước và cáng thương binh tử sĩ (nếu có) về phía sau. Bọn chúng đã vây và bất ngờ tập kích. Do quá chênh lệch về lực lượng, 24 thanh niên xung phong đã anh dũng hy sinh. Sau đó địch phát triển lên Kokixom, nơi bố trí hậu phương của Trung đoàn 141. Tại kho của Trung đoàn có bia, mì tôm, đường, sữa… Bọn chúng đã tranh nhau lấy, ăn uống rồi tiếp tục phát triển về hướng Sở chỉ huy Sư đoàn. Nghe tiếng nổ ngày một gần, tại hầm “tác chiến thất”, Sư đoàn đã nhắc nhở các đơn vị trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. 5 giờ ngày 22 tháng 7, khi trời vừa mờ sáng, một bộ phận đi đầu của Pôn Pốt vượt qua Kokixom vào cách Sở chỉ huy Sư đoàn khoảng 250m. Chúng cứ tiến theo con đường đất, men theo bờ ruộng để cơ động lên. Đồng chí Tham mưu trưởng lệnh cho tôi trực tiếp xuống chỉ huy đại đội vệ binh. Anh Bảy Giáp – Chủ nhiệm Công binh xuống chỉ huy tiểu đoàn thông tin đánh từ hướng bắc xuống mép làng Kokixom. Tôi chỉ huy đại đội vệ binh đánh chính diện cùng với khẩu trung liên đặt cách Sở chỉ huy Sư đoàn khoảng 100m bắn quét dọc đường. Và một trung đội vòng xuống phía sau bên sườn theo con lộ đánh lên. Trước hướng đánh chính diện của đại đội vệ binh, 10 tên bị tiêu diệt ngay trước trận địa, buộc chúng phải lùi về phía làng Kokixom, cũng là lúc tiểu đoàn thông tin từ hướng bắc đánh xuống tiêu diệt cơ bản đại đội đi đầu. Xác lính Pôn Pốt nằm đầy hai bên đường và bờ ruộng.

Khi đã chiếm được Kokixom, tôi cùng đại đội vệ binh phát triển lên tây Kokixom để truy kích lực lượng địch còn lại và phát triển xuống hướng Toten. Cùng lúc này, Sư đoàn lệnh cho Trung đoàn 165, các lực lượng ở phía trước triển khai đón đánh tiêu diệt toàn bộ các lực lượng địch đã luồn lọt sâu vào trong trận địa ta. Khi chúng trên đường quay ra bị các Tiểu đoàn 5, 6 của Trung đoàn 165 tiêu diệt. Trong lúc đang nhắc nhở anh em thu dọn lương thực thực phẩm của Trung đoàn 141, tôi nghe thấy tiếng kêu từ trong bụi dứa gai gần dấy:

- Chú Lợi ơi, cứu cháu!

- Ai ở trong đó? Tôi hỏi.

- Cháu là liên lạc của chú Quân, Trung đoàn trưởng.

Tôi biết cậu này ở phía sau cùng hậu phương, giữ gìn căn cứ hậu cần của Trung đoàn. Tôi nói:

- Đồng chí ra đi, Pôn Pốt đi rồi.

- Cháu không thể ra được, chú cứu cháu.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #38 vào lúc: 27 Tháng Giêng, 2019, 03:14:16 pm »

Vậy là tôi phải tổ chức một trung đội mang dao phát bụi dứa từ ngoài vào. Khi có Pôn Pốt đến, đồng chí này chui vào được nhưng giờ chui ra không được. Sau hơn 1 giờ, trung đội vệ binh phát hết bụi dứa thì mới đưa được đồng chí liên lạc an toàn trở về.

Khi ra kiểm tra ở chốt thanh niên xung phong, thấy anh chị em bị chúng giết chết rất thương tâm. Ban Chỉ huy Sư đoàn tổ chức lực lượng khâm liệm đưa 24 tử sĩ ra đường, lên ô tô chuyển về phía sau. Đây là một tổn thất rất lớn của lực lượng thanh niên xung phong Thành phố Hồ Chí Minh, những người đã kề vai sát cánh chiến đấu không mệt mỏi với chúng tôi.

Dọc đường về Sở chỉ huy Sư đoàn, trong tôi luôn hiện lên câu hỏi: Tại sao một tiểu đoàn đặc công của Pôn Pốt lại luồn lách qua một đội hình bố trí trận Phải chăng đội hình phòng ngự của trung đoàn trải trên một chính diện quá dài (trên 20km), lực lượng chiến đấu quân số thiếu hụt nhiều. Trận địa chủ yếu bố trí ở các phum của dân bỏ lại nên khoảng cách là rất lớn. Địa hình hầu hết ruộng lúa đã được thủy lợi hóa nên có nhiều con kênh, mương thuận lợi cho bọn địch lợi dụng luồn sâu. Mặc dù vậy, cũng phải khách quan nhận xét rằng công việc nắm địch chưa chắc. Các phân đội phía trước (tiền duyên) không phát hiện được đường, hướng, cơ động của địch. Công tác hiệp đồng chiến đấu chi viện ban đêm chưa được huấn luyện nhiều. Khi Pôn Pốt nổ súng đánh chiếm chốt thanh niên xung phong, không có đơn vị nào tới ứng cứu chi viện. Chế độ trực chỉ huy, bảo đảm thông tin liên lạc ban đêm còn yếu nên không chủ động đối phó từ xa, để Pôn Pốt vào sát Sở chỉ huy, Sư đoàn mới biết.

Mùa khô năm 1978-1979, trên chiến trường đối diện biên giới của tỉnh Tây Ninh, lực lượng Pôn Pốt huy động có lúc tới 3 hoặc 5 sư đoàn. Chúng triển khai đội hình từ nam đường 1 cho tới bắc đường 1, đối diện với khu vực Gò Dầu của Tây Ninh. Hỏa lực, pháo binh 105mm, 122mm của chúng bắn phá liên tục vào các ấp của ta ở ven biên giới, đặc biệt là ở thị xã Tây Ninh, thị trấn Gò Dầu.

Quân đoàn 4 lúc này được cấp trên tăng cường Sư đoàn bộ binh 2 từ Quân khu 5. Toàn Quân đoàn có 4 sư đoàn bộ binh. Cùng chiến đấu với Quân đoàn có các đơn vị quân binh chủng, các đơn vị địa phương, đặc biệt là các trung đoàn chiến đấu của các tỉnh Tây Ninh, Long An.

Mùa khô năm 1978, địch chuẩn bị đánh chiếm những mục tiêu quan trọng của ta ở biên giới Tây Nam với quy mô lớn. Các cơ quan chiến dịch của Quân đoàn 4 được tăng cường thêm lực lượng, đặc biệt là cơ quan nắm địch, cơ quan tác chiến. Tháng 10 năm 1978, tôi được điều động về làm trợ lý Phòng Tác chiến Quân đoàn. Bộ Tư lệnh Quân đoàn lúc này có các đồng chí: Trung tướng Hoàng Cầm – Tư lệnh kiêm Chính ủy; Thiếu tướng Trần Nguyên Độ - Phó Chính ủy; Thiếu tướng Nguyễn Thế Bôn và Thiếu tướng Bùi Cát Vũ, là Phó Tư lệnh; Đại tá Lê Nam Phong – Tham mưu trưởng. Cơ quan Quân đoàn đóng ở rừng cao su Thanh Đức, phía bắc thị trấn Gò Dầu, nam thị xã Tây Ninh, phía đông của sông Vàm Cỏ. đây là một nơi rất thuận lợi cơ động lên Tây Ninh, qua khu vực Bến Sỏi, hoặc đường quốc lộ 1 qua Mộc Bài vào hướng đông tỉnh Xvay Riêng. Phòng Tác chiến do Thượng tá Trần Kính làm Trưởng phòng, Thủ tưởng Nam Phong thường gọi là “Kính tây”, bởi vì anh rất cao, to được học ở Học viện Phòng không của Liên Xô cũ. Phó phòng là đồng chí Trần Viết Phùng quê Thanh Hóa đã có nhiều năm công tác ở Phòng Tác chiến. Trong Phòng Tác chiến có rất nhiều bộ phận: bộ phận tổng hợp, bộ phận chiến trường, bộ phận sĩ quan hướng, bộ phận chỉ huy và ban bảo đảm vật chất.

Tôi được các đồng chí phân công về ban tổng hợp, nhiệm vụ là thường xuyên theo dõi nắm chắc hoạt động tác chiến của các đơn vị trong Quân đoàn trên chiến trường, quan hệ với cơ quan Phòng Quân báo để nắm hoạt động của địch tổng hợp báo cáo trực tiếp cho Trưởng phòng, cho Tham mưu trưởng và Bộ Tư lệnh; đề xuất các phương án tác chiến cũng như truyền đạt các chỉ thị, quyết định của Tư lệnh qua nhiều phương tiện xuống cho các cấp thực hiện. Đây là một nhiệm vụ rất khó khăn, yêu cầu phải có tính khái quát cao, theo dõi tình hình phải liên tục, nhạy bén trong việc đánh giá và khi cấp trên kết luận để kịp thời truyền đạt những tinh thần đó xuống các đơn vị. Là trợ lý tổng hợp, tôi thường xuyên được dự các buổi giao ban của Bộ Tư lệnh Quân đoàn, nghe thông báo về địch, hoạt động của các đơn vị trong toàn quân. Điều này tạo cho tôi nhiều thuận lợi khi làm báo cáo tổng hợp hàng tuần, hàng tháng hoặc đột xuất báo cáo tình hình với Tham mưu trưởng hoặc Bộ Tư lệnh khi có yêu cầu. Phòng Tác chiến có 30 anh em, đại bộ phận là sĩ quan đã được đào tạo ở Học viện Lục quân. Có đồng chí đã qua chỉ huy tiểu đoàn, trung đoàn hoặc ở cơ quan trung đoàn, sư đoàn. Có đồng chi từ Học viện về thẳng Phòng Tác chiến. Trong bộ phận tổng hợp có ba anh em: tôi, đồng chí Phi, đồng chí Viễn. Hai đồng chí này cũng đã qua đào tạo ở Học viện. (Sau này, đồng chí Viễn xuống làm cán bộ Trung đoàn của Sư đoàn 7 và hy sinh ở trên chiến trường Campuchia. Còn đồng chí Phí đi nhận công tác thành lập Quân đoàn 7 ở Đà Nẵng, sau đó đơn vị này giải thể và đồng chí nghỉ hưu tại địa phương).
« Sửa lần cuối: 07 Tháng Hai, 2019, 02:30:04 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #39 vào lúc: 27 Tháng Giêng, 2019, 03:21:48 pm »

Những ngày đầu ở Phòng Tác chiến, tôi chủ yếu làm quen, nắm tình hình, phương pháp làm việc với các đơn vị liên quan, nhất là với Phòng Quân báo vốn có quan hệ mật thiết với Phòng Tác chiến. Cũng may đồng chí Tám Danh – Trưởng phòng, đồng chí Nguyễn Văn Đán – Phó phòng đều là cán bộ của Trung đoàn 141 lên. Được sự hướng dẫn của đồng chí Trưởng phòng, các đồng chí đi trước trong Phòng Tác chiến và các cơ quan bạn, tôi dần dần nắm bắt được tình hình, hiểu được nhiệm vụ và bắt tay thực hiện theo sự phân công của cấp trên.

Đầu tháng 12 năm 1978, Pôn Pốt – Iêng Xari huy động 19 trong số 22 sư đoàn bộ binh và hầu hết các đơn vị binh chủng triển khai trên toàn tuyến biên giới Campuchia – Việt Nam. Trên hướng chủ yếu đối diện với Tây Ninh, Bình Phước và một phần Long An, chúng sử dụng 12 sư đoàn, gọi là quân khu Đông. Cũng đầu tháng 12, có một sự kiện hết sức quan trọng. Đó là ngày 2-12-1978, tại Xnuôn, Mặt trận Đoàn kết Dân tộc cứu nước Campuchia ra đời. Mặt trận kêu gọi nhân dân Việt Nam và các nước yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới ủng hộ, sát cánh cùng nhân dân Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt.

Giữa tháng 12 năm 1978, Pôn Pốt huy động ba sư đoàn 703, 221, 340 tấn công vào khu vực tây Bến Sỏi. Tới ngày 20, địch chiếm được rừng Hòa Hội. Tại khu vực này, cối 120mm của chúng có thể bắn được vào thị xã Tây ninh. Một số đơn vị địch đã vào được rạch làng Đinh ở khu vực bắc, tây bắc Tây Ninh.

Chiều 19-12-1978, tại Sở chỉ huy Quân đoàn ở Thanh Đức, Tư lệnh Hoàng Cầm, Tham mưu trưởng Lê Nam Phong gọi Trưởng phòng Quân báo, Trưởng phòng Tác chiến và tôi lên. Vừa bước vào phòng làm việc của Tư lệnh. Tham mưu trưởng nói:

- Phòng Tác chiến làm kế hoạch tiến công mùa khô để kịp báo cáo Bộ và chuẩn bị triển khai cho toàn Quân đoàn thực hiện.

Tư lệnh chỉ thị:

- Tình hình địch như các đồng chí đã biết, theo chỉ đạo của Bộ, Quân đoàn sẽ triển khai chiến dịch theo ba giai đoạn: Giai đoạn 1, mở chiến dịch phản công tiêu diệt 3 sư đoàn Pôn Pốt đã vào rừng Hòa Hội – làng Đinh, quy mô quân đoàn, thời gian trước 31-12-1978. Giai đoạn 2, mở chiến dịch tiến công trên toàn tuyến đường 10 Đôn So phát triển xuống đường số 1 chiếm Bra Nhây (cách tây Xvay Riêng 20km), sau đó nhanh chóng phát triển ra bờ đông sông Mê Kông chiếm giữ phà Niếc Lương (cả hai bên bờ). Gia đoạn 3, hành tiến vào thủ đô Phnôm Pênh. Cụ thể sử dụng lực lượng, đường, hướng tiến công giao Phòng Tác chiến đề xuất.

Trước khi chúng tôi ra về, Tư lệnh dặn thêm:

- Cố gắng đêm nay xong mang lên tôi ký, phải xong trước 22 giờ, sáng mai anh Lê Nam Phong thay tôi đi báo cáo Bộ ở Tân Sơn Nhất vì tôi còn chủ trì họp Đảng ủy ở nhà.

Nói xong, ông bắt tay từng người và dặn thêm:

- Cố gắng, cố gắng.

Tôi quan sát cứ mỗi lần bắt tay Tư lệnh lại nở một nụ cười, nét mặt thủ trưởng rạng rỡ tươi tắn.

Nhận lệnh xong, tôi theo Trưởng phòng Trần Kính về phòng làm việc, thầm nghĩ rằng một ngày không xa nữa đại quân của Quân đoàn 4 và các hướng khác cùng hội tụ ở Pnôm Pênh chứng kiến chế độ diệt chủng Pôn Pốt – Iêng Xari sụp đổ. Đồng chí Trần Kính thống nhất với tôi những hướng chính và các lực lượng tham gia trên từng hướng theo từng giai đoạn chiến dịch để thực hiện. Tôi đề xuất:

- Khi đánh chiếm Phnôm Pênh cần bổ bộ đường không khoảng một tiểu đoàn bộ binh ở U Đông và khu phà Đếch Đam (bắc Phnôm Pênh 30km) trên đường 5 để chặn đường tháo chạy của địch.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM