Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 08:57:24 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử Chiến khu XI  (Đọc 9969 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #40 vào lúc: 09 Tháng Hai, 2019, 09:11:34 am »

Sau khi địch chiếm Cầu Giấy và Bưởi, Bộ chỉ huy tiền phương phán đoán địch sẽ đánh chiếm đoạn vành đai cuối cùng Bưởi - Nhật Tân, nên đã lệnh điều chỉnh lại lực lượng để chống địch: đại đội của tiểu đoàn 145 ở Tứ Tổng để một trung đội ở Phú Gia và đưa 2 trung đội về Nhật Tân.

Ngày 25 tháng 1 năm 1947, địch tập trung khoảng 500 quân, 30 xe cơ giới đánh vào 2 mục tiêu: một là Xuân Tảo, Trích Sài, hai là Nhật Tân.

Ở mục tiêu thứ nhất, địch từ Nghĩa Đô vòng lên Cáo Đỉnh đánh vào Xuân Tảo và dùng ca-nô chở quân qua Hồ Tây đổ bộ lên Trích Sài. Khi địch vào Xuân Tảo, một trung đội của ta rút từ Xuân Tảo ra Đông Khu rồi cùng trung đội ở Cáo Đỉnh phản kích diệt khoảng 30 tên. Địch chiếm Trích Sài rồi đánh sang Xuân Tảo, ta phải rút.


Ở mục tiêu thứ hai, địch tiến quân từ Yên Phụ lên và dùng ca-nô đổ bộ một đại đội lên Nhật Tân. Đại đội của tiểu đoàn 145 chưa kịp bố trí lại lực lượng theo lệnh của Bộ chỉ huy mặt trận, đã bị địch vây ở Tứ Tổng phải phá vây để rút, bị thương 10, hy sinh 18 đồng chí. Địch kết hợp hai đường thủy bộ chiếm Nhật Tân. Trong đợt tiến công này, địch bị ta diệt 140 tên, chủ yếu là ở Xuân Tảo. Song ở Tứ Tổng, vì không có tổ chức lãnh đạo, dân chạy tán loạn bị địch bắn chết và bị thương trên 100 người. Đó là một thiếu sót lớn.


Như vậy là đến ngày 25 tháng 1 năm 1947 địch đã chiếm xong vành đai ngoại thành. Tuy vậy chúng đã phải trả giá khá đắt. Quân và dân Liên khu 2 và Liên khu 3 đã chống lại 8 cuộc tiến công của địch, đánh hàng chục trận, tiêu hao tiêu diệt hàng nghìn tên và điều quan trọng là làm chậm bước tiến của địch. Từ giữa thành phố đến vành đai ngoại ô khoảng 5km địch phải mất 27 ngày (tính từ ngày 30 tháng 12 năm 1946 đến ngày 25 tháng 1 năm 1947), bình quân mỗi ngày chúng chỉ tiến được chưa đầy 200m. Đó là một thành tích rất quan trọng, làm chậm bước tiến của địch, tạo điều kiện thuận lợi cho Liên khu 1 đánh địch dài ngày hơn nữa.


Trong khi địch tập trung lực lượng đánh ra vành đai ngoại thành đồng thời siết chặt vòng vây Liên khu 1, quân và dân Liên khu 1 vẫn kiên cường giữ vững thế phòng thủ, nhằm kéo dài ngày cầm cự với địch.
Phạm vi Liên khu 1 lúc này đã bị thu hẹp nhiều. Ở phía nam là dọc phố Hàng Bông, Hàng Gai (địch ở số lẻ, ta giữ số chẵn), phố Cầu Gỗ, đến đầu Hàng Dầu; ở phía đông dọc phố Bắc Ninh (nay là phố Nguyễn Hữu Huân); ở phía bắc, địch khống chế đường Hàng Đậu, ta chốt ở khách sạn Hoa Nam và đóng ở Hàng Khoai, Hàng Lược; ở phía tây dọc Hàng Da ta chốt ở hiệu sơn Géc-ko và rạp Ô-lanh-pi-a (Olympia), giữ Hàng Mành, Hàng Thiếc, Hàng Bút, Hàng Vải Thâm, Hàng Rươi. Trong quá trình tác chiến, phạm vi này bị thu hẹp dần.


Trung đoàn Thủ đô đã tranh thủ thời gian địch chưa đánh lớn chấn chỉnh lực lượng, điều chỉnh lại thế bố trí và tăng cường công sự, chiến lũy, chướng ngại phòng ngự, chặn đánh địch dồn hẹp phạm vi, tích cực đánh du kích bằng những trận nhỏ. Lực lượng tham gia trong từng trận đánh là từng tổ nhỏ và tiểu đội. Cách đánh được vận dụng là quấy rối, bắn tỉa, tập kích, phục kích. Bị quân ta quấy rối, địch mất ăn mất ngủ và bắn lãng phí rất nhiều đạn. Địch rất sợ bị bắn tỉa không dám thò mặt ra, không dám đi lại nghênh ngang. Vì bị ta từ rạp Ô-lanh-pi-a bắn tỉa dọc Ngõ Trạm, địch phải dùng thiết giáp để tiếp tế cho quân địch đóng ở nhà thờ Tin Lành. Nhiều nơi chúng phải che cót, che bạt ngang đường để khi cơ động tránh được đạn bắn tỉa của ta.


Nhiều nơi ta cho từng tổ nhỏ leo ống máng, cậy cửa, lật ngói thả lựu đạn diệt địch đang ngủ hoặc diệt ụ súng địch ở sân thượng. Có chiến sĩ ôm chăn bông đổ xăng, đốt căn phòng địch ngủ trên gác, vì thế có tên phải nhảy liều xuống hy vọng thoát thân. Ở hiệu thuốc Noóc-man, đồng chí Lại, công nhân sửa chữa ô tô bò vào đặt mìn, ngòi ẩm không nổ phải bò ra bò vào thay ngòi nhiều lần mìn mới nổ, diệt được một tiểu đội địch, hủy được 1 trọng liên 12,7mm. Ở phố Hàng Giấy, ta đặt một trung liên ở khách sạn Hoa Nam (gần rạp Bắc Đô) phục sẵn chờ xe lửa địch chạy qua. Nhiều lần bị ta bắn, địch chết hàng trăm tên. Chúng phải đưa lực lượng tiến công hòng tiêu diệt hỏa điểm mai phục của ta, nhưng bị đánh lui. Mãi sau khi ta rút chúng mới chiếm được. Ở phố Hàng Khoai, có mấy điểm ngày địch đóng, nhưng đêm lại phải rút. Ta đưa lực lượng vào phục sẵn ban đêm, sáng địch tới ta nổ súng diệt nhiều tên.


Ngày 16 tháng 1 năm 1947, một tổ súng trường của tiểu đoàn 102 do đồng chí Bạch Ngọc Liễn chỉ huy bắn rơi một máy bay khu trục của địch. Với thành tích này, tổ được thưởng huân chương Chiến sĩ hạng ba.

Phóng viên AFP đã viết về cách đánh du kích của ta như sau:

"Trong cuộc chiến tranh kỳ dị này, người ta có thể chết một cách dễ dàng ở bất kỳ nơi nào lúc nào mà người ta không thể biết... Ban đêm họ len lỏi vào các phố một cách nhanh nhẹn, không một tiếng động, không một bóng người. Từ trên gác cao quân Pháp ném lựu đạn xuống. Họ vẫn tiến công một cách hăng hái và bền bỉ với những tiếng hét rùng rợn. Đến sáng họ lại biến như mây khói. Còn ban ngày thì họ ẩn nấp ở nơi chắc chắn, chĩa súng vào đối phương. Tiếng súng nổ ban ngày không phải ở nơi phân giới tuyến mà cả trong khu Pháp đã tảo thanh. Tiếng súng nổ ở bất kỳ nơi nào, ngay cả ở trung tâm thành phố"1 (Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, Nxb Hà Nội, 1997, tr.64 (trích lại trong cuốn Trung đoàn Thủ đô, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1963).


Như vậy là cán bộ, chiến sĩ Liên khu 1 đã vận dụng những cách đánh du kích trong thành phố làm địch rất khiếp sợ.

Trong quá trình này, vì lực lượng địch còn tập trung để đánh chiếm các cửa ô và ngoại ô, chúng chưa có lực lượng lớn để đánh Liên khu 1, nhưng các cuộc tiến công nhỏ để lấn chiếm và khép chặt vòng vây hầu như xảy ra hàng ngày ở nhiều phía, nhất là ở phía bắc và phía đông.


Ở phía bắc, từ phía Hàng Đậu địch tiến xuống theo một số đường phố Hàng Lược, Hàng Giấy, Hàng Thiếc để tiến sát dần đến Hàng Khoai. Vì khách sạn Hoa Nam là một vị trí hiểm yếu, nên chúng cố đánh chiếm cho kỳ được. Ở phía đông Liên khu 1, địch cố vít cho kỳ được quãng từ đầu phố Bắc Ninh lên đến gần cầu Long Biên, ở quãng này, theo chỉ thị của Bộ và của Bộ chỉ huy mặt trận, Liên khu giao cho tiểu đoàn 103 quyết giữ cho kỳ được hai vị trí hiểm yếu là nhà Xô-va và Trường Ke.


Địch đã nhiều lần từ nhà Bác Cổ tiến lên định đánh chiếm để bịt đường tiếp tế vận tải của Liên khu 1 nhưng đều bị đánh lui.
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #41 vào lúc: 09 Tháng Hai, 2019, 09:14:15 am »

Thường vụ Trung ương Đảng và Bộ Tổng chỉ huy theo dõi sát sao tình hình trên toàn quốc, chỉ đạo các mặt trận cùng phối hợp đánh địch.

Ở Tây Bắc, địch chiếm được Sơn La, Hát Lót và Yên Châu. Ở Thượng Lào chúng chiếm tuyến Sông Mã và đang bắt liên lạc với một số lang đạo ở nam Hòa Bình và tây bắc Thanh Hóa. Ở Đông Bắc địch đã nối Tiên Yên, Đình Lập với Lạng Sơn và đang tiến từ Đình Lập xuống Phả Lại. Chúng tập trung một trung đoàn trên đường 9 Trung Lào và điều một lực lượng từ Tây Nguyên xuống Nha Trang để đi tàu thủy ra Đà Nẵng.


14 tiểu đoàn tăng viện từ Pháp sang sẽ đến vào cuối tháng 2.

Bộ phán đoán địch sẽ từ Đà Nẵng đánh ra và từ Sê-pôn (Lào) theo đường 9 đánh xuống để giải vây Huế, đồng thời từ Lào và từ Yên Châu địch sẽ đánh chiếm vùng Mộc Châu và tây bắc Thanh Hóa.
Ở Hà Nội, chúng sẽ tiếp tục đánh vùng ngoại thành và sau khi viện binh đến sẽ đánh chiếm Liên khu 1, hoàn thành công việc đánh chiếm Hà Nội, từ đó đưa quân giải vây cho Nam Định.


Để đối phó với tình hình mới, Bộ chủ trương:

1- Kiên quyết nắm quyền chủ động chuyển sang đợt tác chiến mới trên mọi mặt trận. Tránh chuyển sang đợt mới một cách bị động lâm vào tình trạng rối loạn, tan rã, hoang mang, mỏi mệt.

2- Không đưa chủ lực đối chọi với địch để bảo toàn lực lượng, đánh lâu dài, nhưng phải đánh du kích và tập trung một phần lực lượng đánh tiêu diệt nhỏ, luôn luôn giành thắng lợi nhỏ để động viên toàn dân kháng chiến.

3- Tổ chức mặt trận Tây Tiến, phá thế uy hiếp của địch ở phía tây hậu phương của ta, nắm quyền chủ động chiến lược buộc địch phải phân tán lực lượng đối phó.

4- Đối với các thành phố đang đánh địch cần tiếp tục duy trì cuộc chiến đấu thêm một thời gian, nhưng phải có kế hoạch đánh địch giải vây; chủ động rút lui đúng lúc để bảo toàn thực lực.


Để lập mặt trận Tây Tiến, Bộ quyết định điều của Chiến khu III một tiểu đoàn, Chiến khu II một tiểu đoàn và Hà Nội một tiểu đoàn. Dự kiến sẽ điều tiểu đoàn 212 của Hà Nội, một đơn vị đã có ít nhiều kinh nghiệm tác chiến. Tiểu đoàn 212 sẽ là nòng cốt cho mặt trận Tây Tiến.


Trong khi đối phó với địch đánh ra vành đai ngoại thành, quân ta vẫn tích cực đánh địch ở nội thành. Ngày 19 tháng 1, nhân kỷ niệm một tháng kháng chiến, ta mở một đợt tập kích, quấy rối đồng loạt vào rất nhiều vị trí địch trong toàn thành. Cờ đỏ sao vàng được treo ở nhiều nơi. Khẩu sơn pháo 75mm của mặt trận được khiêng vào đặt ở Nghi Tàm bắn 20 phát vào vị trí địch ở trường Bưởi.


Thường vụ và Bộ Tổng chỉ huy theo dõi sát sao tình hình chiến sự trên cả nước, đặc biệt là Mặt trận Hà Nội và Liên khu 1 để chỉ đạo các mặt trận cùng phối hợp đánh địch. Ngày 20 tháng 1 năm 1947 (tức ngày 29 Tết Nguyên đán Đinh Hợi), đồng chí Trần Quốc Hoàn, phái viên của Trung ương và đồng chí Lê Quang Đạo, Phó bí thư Khu ủy XI đã được Trung ương cử vào Liên khu 1 để xem xét tình hình và động viên bộ đội nhân dịp năm mới. Các đồng chí đã báo cáo với Bác và Thường vụ Trung ương: Nếu được tiếp tế đều đặn đạn và lương thực, thực phẩm, Trung đoàn Thủ đô vẫn có khả năng trụ lại thêm một thời gian. Các chiến sĩ đều hăng hái, lạc quan. Nhưng con đường tiếp tế từ ngoài vào có thể bị cắt bất cứ lúc nào. Bộ đội thiếu đạn trầm trọng. Khu Đông Thành có hai khẩu trung liên đều ọc ạch, vừa bắn vừa phải sửa. Một tiểu đội ở phố Cầu Gỗ chỉ có một khẩu khai hậu, anh em gọi đùa là khẩu "thần công”. Các chiến sĩ bắt đầu phải chia nhau từng viên đạn.


Tết Đinh Hợi, năm 1947, cái tết đầu tiên của cuộc kháng chiến chống Pháp của quân và dân ta, tiếng súng ở mặt trận đã thay tiếng pháo mừng xuân. Đồng bào ở ngoại thành và lân cận Hà Nội đón xuân nhưng không quên những chiếc bánh chưng, cây giò, gói mứt gửi những người đang chiến đấu tại mặt trận Hà Nội. Các chiến sĩ Liên khu 1 còn nhận được cả một cành đào và những bó hoa tươi. Đặc biệt họ còn nhận được những tình cảm thiết tha của Hồ Chủ tịch trong bức thư của Người gửi cho cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô. Với những tình cảm trìu mến như của người Cha đối với những người con đang chiến đấu ngoài mặt trận, Bác viết:

"Cùng các chiến sĩ yêu quý Trung đoàn Thủ đô!

Các em ăn Tết thế nào? Vui vẻ lắm chứ? Tôi và nhân viên Chính phủ vì nhớ đến các em cho nên cũng không ai nỡ ăn Tết. Còn 90 phần trăm đồng bào ở hậu phương cũng giảm bớt 90 phần trăm mâm cỗ tiệc tùng, ai cũng tiết kiệm để dự bị công cuộc trường kỳ kháng chiến.

Các em là đội cảm tử. Các em cảm tử để Tổ quốc quyết sinh. Các em là đại biểu cái tinh thần tự tôn tự lập của dân tộc ta mấy nghìn năm để lại, cái tinh thần quật cường đó đã kinh qua Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, truyền lại cho các em. Nay các em gan góc tiếp tục cái tinh thần bất diệt đó, để truyền lại cho nòi giống Việt Nam muôn đời về sau..."1 (Hồ Chủ tịch với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1962, tr.26-27).


Lời động viên cổ vũ thiêng liêng của Bác đã thấm sâu vào trái tim khôi óc của từng cán bộ, chiến sĩ Thủ đô. Họ quyết tâm chiến đấu đến cùng để đáp lại lòng ước mong của Bác.

Đêm 30 Tết, các chiến sĩ Hà Nội đã mở một đợt tấn công địch ở nhiều nơi và cắm cờ đỏ sao vàng trên đỉnh Tháp Rùa, thể hiện tinh thần kiên cường bất khuất và quyết tâm chiến đấu của quân và dân ta đối với quân thù.


Sáng ngày 28 tháng 1, các đồng chí Tổng chỉ huy và Tổng tham mưu trưởng một lần nữa lại đến sở chỉ huy của Mặt trận Hà Nội đặt ở Tây Mỗ để cùng các đồng chí Nguyễn Văn Trân, Vương Thừa Vũ, Trần Độ nghiên cứu tình hình và đề ra nhiệm vụ tác chiến trong bước sắp tới. Các đồng chí đều nhất trí địch còn phải đẩy lùi lực lượng ta ra xa vành đai ngoại thành và rải quân ra đóng khu vực mới chiếm, nên phải chờ viện binh đến mới có quân đánh Liên khu 1. Vì thế Trung đoàn Thủ đô vẫn có thể tiếp tục duy trì việc đánh trong vòng vây, nhưng phải chuẩn bị để có thể rút ra ngoài được an toàn vào thời cơ thích hợp. Đồng chí Tổng chỉ huy nhấn mạnh phải giữ cho được hai vị trí Xô-va và Trường Ke ở phía đông thành phố và phải chuẩn bị thuyền đò sẵn để khi cần thì rút ra theo đường sông. Đồng chí Nguyễn Văn Trân đã giao cho đồng chí Nguyễn Hữu Mai, lúc này là Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Liên khu Trúc Lãng và đồng chí Trần Quốc Cư, trưởng ban phá hoại của mặt trận chuẩn bị thuyền đò ở khu vực Tứ Tổng và Tàm Xá sang Phúc Yên và ở khu vực Khuyến Lương sang Hưng Yên.


Đây là lần thứ ba Bộ Tổng chỉ huy và Bộ chỉ huy mặt trận quyết định kéo dài thêm một thời gian giam chân địch ở Hà Nội.
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #42 vào lúc: 09 Tháng Hai, 2019, 09:18:01 am »

4. Từng bước ngăn chăn địch tiến công đánh chiếm Liên khu 1 (6.2.1947-14.2.1947)

Để củng cố các địa bàn chiếm đóng tại Liên khu 2, Liên khu 3, ngày 6 tháng 2 địch đánh Giáp Bát, Yên Duyên; ngày 7 tháng 2, chúng tiến công Chèm, Cổ Nhuế, Hoài Đức, Mai Dịch.


Tuy nhiên, từ ngày 6 tháng 2 năm 1947, địch tập trung lực lượng để tiến công quyết tiêu diệt Trung đoàn Thủ đô ở Liên khu 1. Bắt đầu chúng đánh nhà Xô-va rồi Trường Ke ở phía đông và Hàng Thiếc ở phía tây nam Liên khu 1.


Nhà Xô-va nằm trên đường Trần Quang Khải và Trường Ke nằm trên đường Trần Nhật Duật, cách Cột Đồng Hồ1 (Cột Đồng Hồ là một vị trí ở khu đất rộng, giáp giới các phố Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải, Nguyễn Hữu Huân ngày nay) về hai phía bắc, nam khoảng 200m. Đây là hai vị trí mà từ đó ta có thể cảnh giới, bảo vệ con đường tiếp tế hàng đêm từ hậu phương qua bãi sông Hồng vào Liên khu 1.


Trước đấy chúng đã có 1 lần đánh nhà Xô-va nhưng không được. Trận đánh thứ hai vào nhà Xô-va chúng sử dụng khoảng 90 lính lê dương, một số xe tăng và xe thiết giáp. Trung đội 2 đại đội 14 tiểu đoàn 103 phòng ngự tại đây chờ bộ binh địch tiến gần mới dùng lựu đạn và súng trường chặn đánh suốt hai giờ, đánh lui bốn đợt xung phong ở cả hai hướng tiến công của địch. Địch dùng pháo bắn thẳng phá tường rồi lọt vào góc tây nam khu nhà. Quân ta buộc phải co lên gác cố thủ. Địch định xông lên. Ta dùng chai xăng cơ-rếp đốt cháy cầu thang bằng gỗ, địch không lên được. Một bộ phận men theo cành cây si ở ngôi đền phía bắc nhà Xô-va để rút về phía Hàng Mắm và báo cáo lên trên. Lực lượng còn lại tiếp tục ở thế giằng co với địch.


Phải quyết giữ bằng được vị trí nhà Xô-va, trung đoàn lệnh cho tiểu đoàn 103 đưa trung đội dự bị của tiểu đoàn đang đóng tại các phố Mã Mây, Hàng Buồm ra phản kích. Trung đội dự bị do tiểu đoàn phó Đỗ Đức Liêm (tức Vũ Lăng) trực tiếp chỉ huy, sau khi chia làm hai mũi tiếp cận ngôi nhà đã dùng lựu đạn ném vào đội hình địch. Bị tập kích bất ngờ từ sau lưng, chúng hoảng hốt tháo chạy, ta diệt và làm bị thương khoảng 40 tên địch, đốt cháy 1 xe tăng, 1 xe thiết giáp.


Sau khi bị thất bại, ngày 7 tháng 2 địch tập trung quân đánh Trường Ke. Rút kinh nghiệm, lần này địch dùng xe tăng - thiết giáp bịt các ngả ta có thể tăng viện. Tám lần địch xung phong đều bị ta đánh lui, tuy viện binh ta không đến, nhưng đơn vị phòng thủ Trường Ke vẫn kiên trì giữ vững vị trí suốt ngày 7 tháng 2.


Thắng lợi ở nhà Xô-va ngày 6 tháng 2 và ở Trường Ke ngày 7 tháng 2 là những chiến công rất có ý nghĩa của Trung đoàn Thủ đô về tác chiến phòng ngự ở thành phố. Trung đoàn đã thực hiện được chỉ thị của Bộ Tổng chỉ huy và Bộ chỉ huy Hà Nội giữ vững đường giao thông liên lạc từ Liên khu 1 với bên ngoài.


Ngay tối ngày 6 tháng 2 năm 1947, Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp đã gửi điện khen các đơn vị của tiểu đoàn 103 đã chiến đấu phòng giữ và phản kích địch lấy lại được nhà Xô-va.

Cũng ngày 7 tháng 2 năm 1947 địch tiến công mặt trận tây nam Liên khu 1. Máy bay và pháo bắn phá dữ dội các phố Hàng Nón, Hàng Thiếc, Hàng Mành, Hàng Hòm, Bát Đàn, Hàng Quạt làm sụp đổ rất nhiều nhà cửa. Địch giội xăng đốt cháy từng dãy phố. Sau đó dùng bộ binh từ Thành ra, chia làm hai mũi, có xe tăng dẫn đầu để tiến công lực lượng ta trụ bám tại phố Hàng Thiếc. Một mũi từ phố Bát Đàn đánh xuống, mũi kia từ Hàng Quạt đánh quặt lên. Phố Hàng Thiếc bị chặn đánh từ hai đầu. Quân địch dùng súng ba-dô-ca bắn và ném lựu đạn hơi ngạt vào vị trí quân ta. Trung đội Tô Hiệu của tiểu đoàn 102 phòng ngự tại đây do đồng chí Nguyễn Thừa Tuyên làm trung đội trưởng, đồng chí Trần Đan làm chính trị viên đã ngoan cường đánh trả quân địch, giành giật từng căn nhà, góc phố, đoạn đường, ụ đất. Nhiều gương chiến đấu dũng cảm xuất hiện. Đồng chí Tuyên chờ địch đến gần, giật mìn ném lựu đạn. Đồng chí Anh Dũng dùng khẩu trung liên duy nhất của trung đội cơ động suốt từ đầu đến cuối phố bí mật, bất ngờ diệt nhiều tên. Tổ đồng chí Trần Đan dùng lựu đạn, súng trường, tiểu liên đánh gần, giành gật từng căn buồng, từng gờ tường. Trong một lần ném lựu đạn, chính trị viên Trần Đan bị thương cụt bàn tay phải, máu chảy ròng ròng vẫn động viên đồng đội giữ vững vị trí chiến đấu.


Tối ngày 7 tháng 2, quân ta phải bỏ dãy số nhà chẵn sang cố thủ dãy số lẻ. Hai bên ta và địch mỗi bên giữ một dãy phố, cách nhau chỉ hơn chục mét, suốt 4 ngày, giành giật với nhau từng căn nhà, thưốc đất. Chúng phun xăng đốt, ta dùng chậu hứng xăng, tôi đến đem xăng đốt địch. Địch tổn thất gần một trăm tên. Ta vẫn giữ vững dãy nhà số lẻ.


Địch đồng thời cũng tiến công phố Hàng Quạt, ngõ Tô Tịch, đầu phố Cầu Gỗ và đều bị ta chặn lại.
Như vậy là cuộc tiến công của địch vào phía đông Liên khu 1 bị thất bại, cuộc tiến công vào phía tây nam cũng bị chặn lại.


Địch chuyển hướng tiến công lên khu vực Đồng Xuân ở phía bắc. Ban chỉ huy Trung đoàn Thủ đô lệnh cho tiểu đoàn 101 phải kiên quyết chặn từng bước tiến của địch, tích cực tiêu hao, làm thất bại âm mưu của chúng. Tuy là một tiểu đoàn nhưng ta chỉ có 110 người trực tiếp chiến đấu. Tiểu đoàn lấy trọng điểm phòng ngự là chợ Đồng Xuân và gấp rút tô chức một điểm tựa để chặn địch.


Trận phòng ngự khu vực Đồng Xuân diễn ra rất ác liệt trong suốt ngày 14 tháng 2 năm 1947. Địch dùng phi pháo oanh tạc mãnh liệt, tổ chức ba đợt xung phong từ nhiều hướng có xe tăng thiết giáp dẫn đầu đánh vào khu chợ. Hai đợt đầu bị ta đánh lui. Đồng chí Nguyễn Văn Bật dùng trung liên diệt 60 tên, đồng chí Phạm Luận cũng dùng trung liên diệt 40 tên, cả hai đồng chí đều anh dũng hy sinh.


Đến đợt xung phong cuối cùng địch chiếm được chợ và dãy số chẵn phố Hàng Chiếu. Ban chỉ huy trung đoàn trực tiếp xuống tiểu đoàn để chỉ đạo. Trung đoàn đã kịp thời tăng cường lực lượng phản kích chiếm lại dãy số chẵn phố Hàng Chiếu, chặn hẳn quân địch lại. Trong trận này ta tiêu diệt khoảng 200 địch. Ta hy sinh 15, bị thương 19 đồng chí.


Các chiến sĩ "quyết tử quân" ở trận Đồng Xuân đã góp phần làm rạng rỡ truyền thông của Thủ đô Hà Nội anh hùng.
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #43 vào lúc: 09 Tháng Hai, 2019, 09:21:29 am »

5. Rút Trung đoàn Thủ đô ra khỏi Liên khu 1, tích cực đánh địch ở các liên khu 2, 3 và ngoại thành để phối hợp (15-19.2.1947)

Sau trận Đồng Xuân, Trung đoàn Thủ đô chỉ còn 5 ngày lương thực, mỗi khẩu súng còn 7 viên đạn. Mức nước ở nhiều giếng còn rất thấp. Trước tình hình đó, Bộ chỉ huy Mặt trận Hà Nội đã hội ý báo cáo lên trên, đề nghị cho rút Trung đoàn Thủ đô ra ngoài. Ngay tối 14 tháng 2 Quân ủy đã hội ý cấp tốc, quyết định đề nghị Bác và Thường vụ Trung ương cho rút Trung đoàn Thủ đô ra ngoài.


Sáng 15, Bác và đồng chí Trường Chinh đều đồng ý cho rút, nhưng phải tổ chức rút chu đáo an toàn bí mật. Bác yêu cầu chuyển lời khen ngợi của Bác tới cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô: "Các chú giam chân địch một tháng là thắng lợi. Đến nay giữ Hà Nội được hai tháng là đại thắng lợi"1 (Lịch sử Đảng bộ thành phố Hà Nội, Nxb Hà Nội, 2004, tr.193).


Tuy gặp nhiều khó khăn song tinh thần chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô không hề giảm sút. Trong khi lệnh rút quân đang được truyền đạt xuống thì chiều ngày 15 tháng 2 năm 1947 đồng chí Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp còn nhận được bức điện của Trung đoàn trưởng Hoàng Siêu Hải và Chính trị viên Lê Trung Toản với nội dung: "Đề nghị cho trung đoàn ở lại tiếp tục chiến đấu". Tuy nhiên để bảo toàn lực lượng, Tổng chỉ huy vẫn chỉ thị cho Bộ Tổng Tham mưu: "Lệnh cho trung đoàn rút đúng thời gian quy định".


Chiều 15 tháng 2 năm 1947, Liên khu ủy 1 khi chưa nhận được lệnh trên, cũng họp mở rộng, có Ủy ban kháng chiến Liên khu, Ban chỉ huy trung đoàn cùng các trưởng ban, các bí thư chi bộ, các ban chỉ huy tiểu đoàn tham gia, để đánh giá tình hình và đề ra chủ trương kế hoạch đối phó mới.


Tuy cũng có ý kiến nên tiếp tục đánh, nhưng sau khi phân tích tình hình mọi mặt, hội nghị đi đến chủ trương rút quân ra khỏi vòng vây của địch để bảo tồn lực lượng. Vả lại, trước khi tác chiến, khi giao nhiệm vụ cho Liên khu 1, Ủy ban kháng chiến Hà Nội và Bộ chỉ huy Khu XI đã nêu rõ: ta cố đánh giam chân địch càng lâu càng tốt nhưng việc rút lui của Liên khu 1 sẽ tùy tình hình cụ thể có thể tự quyết định cho thích hợp.


Nhưng rút theo đường nào là vấn đề hắc búa nhất. Không thể rút theo đường Yên Phụ - Nhật Tân ở phía tây bắc và đường Bác Cổ - Vĩnh Tuy ở phía nam vì ở hai hướng này địch đã đóng nhiều điểm. Đường giao thông tiếp tế từ Lãng Bạc vào bị tắc nghẽn từ sau khi địch chiếm Nhật Tân (25-1). Đường cống ngầm ra Vĩnh Tuy có dùng vài lần nhưng bị địch phát hiện đã bịt lại và canh gác cẩn mật. Vả lại hàng nghìn người và thương binh không thể đi theo đường này. Chỉ còn đường vượt sông Hồng. Nhưng địch canh gác kỹ cầu Long Biên, có đèn pha chiếu sáng, bên kia cầu là Gia Lâm địch đóng. Lại phải qua hai ba lần sông, chưa biết có thuyền đò để chở một lúc hơn một nghìn con người không.


Chấp hành mệnh lệnh của Ủy ban kháng chiến và Bộ chỉ huy Mặt trận Hà Nội, 23 giờ ngày 15 tháng 2, tiểu đội liên lạc đặc biệt do trung đội trưởng tự vệ chiến đấu Nguyễn Ngọc Nại trực tiếp chỉ huy đưa được một chuyến tiếp tế vào. Đường liên lạc bị tắc nghẽn từ sau Tết được nối lại.


Sau khi tìm hiểu đường vào của tiểu đội và biết trên đã có kế hoạch chuẩn bị thuyền đò phục vụ cho việc rút quân của trung đoàn, sáng 16 tháng 2 Liên khu ủy quyết định sẽ bí mật rút ra theo đường ấy và giữ tiểu đội liên lạc để dẫn đường.


Kế hoạch rút tóm lại như sau:

Thời gian rút: 20 giờ ngày 17 tháng 2. Rút vào ngày 17 là phù hợp nhất vì theo phán đoán của ta, kể từ ngày 14 đánh Đồng Xuân địch còn phải mất 5 ngày mới mở được đợt tiến công khác.

Thứ tự rút: tiểu đoàn 101 đi đầu, tiếp sau là trung đoàn bộ, rồi đến tiểu đoàn 102, tiểu đoàn 103 đi cuối. Tiểu đoàn 101 cho một trung đội bí mật chốt ở dưới đầu cầu Long Biên để bảo vệ đường rút. Tiểu đoàn 103 cho một trung đội chốt ở khu vực Cột Đồng Hồ để bảo vệ sau lưng. Đội liên lạc Nguyễn Ngọc Nại làm nhiệm vụ dẫn đường và bảo vệ cho trung đoàn trong quá trình rút quân.

10 giờ ngày 17 mới phổ biến kê hoạch này cho các ban chỉ huy tiểu đoàn để tiểu đoàn kịp đặt kế hoạch phổ biến cho cấp đại đội. 17 giờ mới ra mệnh lệnh rút đến chiến sĩ, coi như một mệnh lệnh chiến đấu.
Một việc đột xuất xảy ra. Trưa ngày 16 tháng 2, Tổng lãnh sự Trung Hoa dân quốc Viên Tử Kiên đề nghị giúp lương thực, chất đốt cho người Hoa và ngừng bắn vào ngày 18 hoặc 20 để rút hết người Hoa ra khỏi Liên khu 1.

Biết rõ Viên Tử Kiên muốn nhân thể thăm dò giúp người Pháp, nhưng tương kế tựu kế ta đồng ý sẽ giúp 5 tạ gạo, 2 tạ ngô và có thể ngừng bắn vào ngày 18 tháng 2 nếu phía Pháp cũng đồng ý làm theo.

Chấp hành mệnh lệnh của Bộ về việc tổ chức đánh nghi binh phục vụ cho việc rút quân của Trung đoàn Thủ đô, Bộ chỉ huy Mặt trận Hà Nội ra lệnh cho các liên khu 2, 3 đánh mạnh các vị trí địch trên địa bàn mình. Đêm 15 tháng 2, lực lượng Liên khu 2 tiến công Ô Cầu Dền; các đơn vị Liên khu 3 đánh vào Hàng Bột, Cầu Giấy, Kim Mã, vận dụng các cách đánh quấy rối, tập kích, biệt kích, nghi binh.


21 giờ ngày 15 tháng 2, tiểu đoàn 145 tập kích Đông Ngạc, Mai Dịch, Hoài Đức và cho một số tổ luồn vào nội thành quấy rối.

Đêm 16, theo lệnh của Bộ chỉ huy Mặt trận, các đơn vị lại tiếp tục nổ súng trên toàn ngoại thành. Liên khu 1 cũng đánh một số vị trí địch vừa chiếm đóng và quấy rối một số nơi khác.

Ngày 17, cơ bản không có đánh nhau lớn. Địch đang chuẩn bị đợt tiến công mới vào Liên khu 1. Sáng 18 viện binh địch mới từ Hải Phòng lên.

20 giờ tối ngày 17 tháng 2, theo kế hoạch đã định, ta bí mật bắt đầu rút quân từ đình Phất Lộc ra Cột Đồng Hồ vượt đê, dọc theo bờ sông vượt gầm cầu Long Biên thẳng lên rồi rẽ phải lội qua sông sang Bãi Giữa Trung Hà. Tại trạm gác cầu Long Biên tuy còn đèn sáng nhưng sương mù dày đặc, địch không phát hiện được. Cho đến 24 giờ, đồng chí Hoàng Phương, Tham mưu trưởng chỉ huy bộ phận cuối cùng rút khỏi Liên khu 1 sang tới Bãi Giữa.


Sang Bãi Giữa, bộ đội phải đi qua bến đò Cụ Canh sang vùng bãi Tứ Tổng, Tam Lạc, Tàm Xá. Theo lệnh của Khu ủy và Bộ chỉ huy Mặt trận, đồng chí Trần Quốc Cư đã cùng với chính quyền địa phương vận động nhân dân các xã Tứ Tổng, Tam Lạc, Tàm Xá... và cả vùng Bãi giữa Trung Hà đem thuyền tam bản mà nhà nào cũng có ra chở bộ đội qua sông. Nhân dân địa phương được tin đã tích cực tham gia. 44 chiếc thuyền đã được huy động chở bộ đội trong suốt đêm. Mỗi thuyền phải qua lại nhiều chuyến mới chở hết đoàn quân qua sông. Đêm tối như bưng, thuyền đi thuyền về dễ va vào nhau, sông rộng bảy tám trăm mét, lại không được thắp đèn tín hiệu, phải căng tai căng mắt để nhận biết nơi cập bến, tuy nhiên nhân dân vùng bãi đã quen với sông nước nên việc chèo lái khá trót lọt.


Sau khi tập kết tại Tàm Xá, trong ngày 18 quân ta hành quân lên phía đình Tàm Xá để vượt sông Hồng sang Dâu Canh thuộc địa phận Đông Anh. Đội quân nhân dân vận tải thuyền đò tối hôm trước lại được huy động chuyển thuyền lên bến Cụ Mai để thực hiện nhiệm vụ này. Nhiều thuyền đã được tổ chức khiêng trên bộ ngược bãi lên bến sông này. Mọi việc chuẩn bị cho đêm thứ hai vượt sông phải xong trước xẩm tối.


Ngoài số thuyền đêm trước, lại được bổ sung thêm một số thuyền ở khu vực này, có những chiếc thuyền to chở được năm sáu chục người nên việc đưa bộ đội qua sông đêm thứ hai thực hiện khá nhanh gọn. Khoảng 11 giờ đêm ngày 18 tuyệt đại bộ phận cán bộ, chiến sĩ trung đoàn đã sang tới Dâu Canh.


Sáng 19 tháng 2, khi địch phát hiện quân ta đã rút khỏi Liên khu 1, chúng liền huy động thủy lục không quân đuổi theo hòng tiêu diệt Trung đoàn Thủ đô. Lúc này chỉ còn một tiểu đội của Trung đoàn Thủ đô chưa qua được sông1 (Tiểu đội này đi lạc nên đến sáng 19 tháng 2 mới tới khu vực Tàm Xá).


Nghe có tiếng súng nổ ở phía Tứ Tổng, đồng chí Nguyễn Ngọc Nại liền trèo lên một cây cao ở chùa Tàm Xá, nơi đóng quân của đội liên lạc đặc biệt để quan sát và phát hiện địch đang truy kích. Đồng chí lập tức lệnh cho 2 đội viên tiếp tục dẫn đường cho tiểu đội sau cùng của trung đoàn vượt sông, còn bản thân mình chỉ huy số còn lại vừa chặn đánh và rút sang phía tây nhằm đánh lạc hướng truy kích của địch. Đồng chí Nại đã chỉ huy đội liên lạc chiến đấu anh dũng. Khi còn lại 2 người (đồng chí Nại và đồng chí Lực) và một quả lựu đạn, địch xông vào bắt sống, đồng chí Nại đã cho nổ lựu đạn, một số tên địch bị chết, đồng chí đã hy sinh. Địch lồng lộn tàn sát trên 50 người dân lành ở xã Tứ Tổng và Tàm Xá. Cuộc chiến đấu và sự hy sinh anh dũng của 8 đồng chí trong đó có tấm gương lẫm liệt của đội trưởng Nguyễn Ngọc Nại, cùng sự chở đò vô cùng vất vả và sự hy sinh đau thương của nhân dân Tứ Tổng, Tàm Xá đã tạo điều kiện cho toàn bộ Trung đoàn Thủ đô rút lui an toàn. Từ đó ngày 19 tháng 2 hàng năm trỏ thành ngày "giỗ trận" để tưởng nhớ những người con anh dũng của Đội liên lạc đặc biệt Nguyễn Ngọc Nại và dân làng Tứ Tổng hy sinh năm xưa.


Bộ Tổng chỉ huy đánh giá việc rút lui thành công của Trung đoàn Thủ đô ra khỏi Liên khu 1 là một thắng lợi rất to lớn.

Đợt chiến đấu mở đầu Toàn quốc kháng chiến của quân dân Hà Nội đã kết thúc tốt đẹp. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp đã gửi thư khen ngợi:

"... Các cấp chỉ huy,

Các chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô.

Tôi thay mặt toàn thể Quân đội Quốc gia Việt Nam hoan nghênh tinh thần anh dũng của các chiến sĩ.
Các chiến sĩ đã chiến đấu hai tháng ròng rã để giữ vững ngọn cờ nước Việt giữa Thủ đô Hà Nội. Các chiến sĩ đã nêu cao tinh thần oanh liệt của nhân dân Việt Nam và thanh danh rực rỡ của Quân đội Quốc gia Việt nam.

Các chiến sĩ lại mở được con đường máu vượt qua vòng vây quân địch để thực hiện chỉ thị bảo tồn chủ lực. Các chiến sĩ sẽ tiếp tục chiến đấu cho Tổ quốc Việt Nam. Chúng ta sẽ chiến đấu 10 năm hay lâu hơn nữa nếu cần.

Cho đến ngày Tổ quốc độc lập thống nhất.

Cho đến ngày Thủ đô Hà Nội được rạng mặt làm Thủ đô của một nước Việt Nam thống nhất!

Ta thề Thủ đô sẽ chiến thắng quân thù!

Muôn năm, tinh thần oanh liệt Thủ đô!

Muôn năm tinh thần trung dũng của Trung đoàn Thủ đô!".


Chủ trương rút Trung đoàn Thủ đô ra ngoài là chủ trương rất sáng suốt từ cấp chỉ huy cao nhất là Bộ Tổng chỉ huy cho tới Bộ chỉ huy Mặt trận Hà Nội và Ban chỉ huy trung đoàn. Quyết định đó được đề ra đúng thời điểm thích hợp, lại được Ủy ban kháng chiến và Mặt trận Hà Nội tổ chức chu đáo, do đó đã bảo toàn được lực lượng, rút ra ngoài an toàn.
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #44 vào lúc: 10 Tháng Hai, 2019, 08:04:16 am »

Chương 4
TRUNG ĐOÀN THĂNG LONG RA ĐỜI
PHÁT TRIỂN CHIẾN TRANH DU KÍCH
TẠI NGOẠI THÀNH HÀ NỘI VÀ CÁC TỈNH HÀ ĐÔNG, SƠN TÂY

(19.2.1947- 1.1948)


Sau khi Trung đoàn Thủ đô rút khỏi Liên khu 1, các đơn vị bộ đội chủ lực khác cũng lui dần ra ngoài các cửa ô, địch cơ bản chiếm được nội thành. Tuy vậy lực lượng tự vệ tại chỗ của các khu vực ven nội thành vẫn còn khá đông đảo, tinh thần chiến đấu vẫn được giữ vững.


Khu ủy và Bộ chỉ huy Khu XI đã chỉ đạo các lực lượng tự vệ Hà Nội còn lại liên tục bám đánh địch, chặn bước tiến của chúng, về phía tây bắc thành phố các đại đội tự vệ của các khu phố Trúc Bạch, Hồng Hà, Thăng Long, đại đội tự vệ nhà máy bia Ô-men, phối hợp với các đại đội tự vệ khu Đại La và Lãng Bạc, tổ chức chiến đấu ngăn chặn địch trên tuyến sông Nhuệ, về phía tây nam thành phố, các đại đội của ga Hàng Cỏ, tự vệ khu phố Văn Miếu, Khâm Thiên... cùng các lực lượng tự vệ Đống Đa bám đánh địch trên tuyến đường 11 (Ngã Tư Sở - Hà Đông) chặn từng bước tiến của địch ở Mọc Quan Nhân, Cự Lộc, Chính Kinh, Kim Lũ. Về phía nam, các đơn vị tự vệ của các khu phố Bạch Mai, Phố Huế, tự vệ nhà máy Stai, A-vi-a, Nhà Rượu... cùng với tự vệ các khu Đề Thám, Mê Linh chiến đấu chặn địch trên đê Vĩnh Tuy, Thanh Trì, Yên Duyên và trên tuyến đường số 1 Giáp Bát - Văn Điển.


Do tương quan lực lượng giữa ta và địch quá chênh lệch, bất lợi cho ta, các lực lượng vũ trang Khu XI phải lùi dần ra ngoài địa phận Hà Nội tiếp tục chiến đấu trên đất các huyện Hoài Đức, Đan Phượng, Thanh Oai, Thanh Trì (thuộc tỉnh Hà Đông) tiếp giáp với ngoại thành Hà Nội. Nhân dân các xã ngoại thành tiếp tục triệt để tản cư, thực hiện "vườn không nhà trống" phá hoại giao thông, tiêu thổ kháng chiến.


Sau khi Trung đoàn Thủ đô và một số tiểu đoàn được điều động đi nơi khác, thực chất lực lượng chủ lực của Chiến khu XI chiến đấu tại ven Hà Nội chỉ còn các tiểu đoàn 145, 523 và 77. Đây là các đơn vị đã từng kiên cường chiến đấu trong suốt 60 ngày đêm mỏ đầu Toàn quốc kháng chiến. Để thống nhất chỉ huy các tiểu đoàn, Bộ chỉ huy Chiến khu đã quyết định sáp nhập các đơn vị thành một trung đoàn mới - Trung đoàn 801 (Sau này được đổi phiên hiệu là Trung đoàn 48. Theo Quyết định 180/TCH ngày 12.5.1948 của Bộ trưởng Quốc phòng, Trung đoàn 48 được mang danh hiệu Trung đoàn Thăng Long). Đồng chí An Giao, nguyên tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 523 được giao nhiệm vụ trung đoàn trưởng. Đồng chí Trương Công Cẩn, nguyên Chủ nhiệm chính trị Chiến khu XI làm chính ủy. Ngày 27 tháng 2 năm 1947 tại đình Mậu Lương (nay thuộc thị xã Hà Đông), trung đoàn đã làm lễ thành lập. Chỉ huy Chiến khu XI Vương Thừa Vũ cùng đại diện các đơn vị trực thuộc trung đoàn, đại biểu các quận ngoại thành Hà Nội, đại biểu một số đơn vị và địa bàn trung đoàn đóng quân đã tới dự. Buổi lễ tuy đơn giản nhưng đầy hào khí quyết tâm chiến đấu và tinh thần đoàn kết giữa các đơn vị trong trung đoàn, giữa Trung đoàn 80 với các đơn vị bạn và các địa phương trung đoàn đóng quân1 (Theo tư liệu của đồng chí Nguyễn Việt Chiến, cán bộ thuộc Khu bộ XI, từ cuối tháng 1 năm 1947, tại vị trí di chuyển ở Đại Mỗ (Hà Đông), Bộ chỉ huy Khu XI đã có chủ trương thành lập Trung đoàn 80. Đến 27 tháng 2 năm 1947 mới có điều kiện tổ chức lễ ra mắt trung đoàn. Ngày 27 tháng 2 năm 1947 đã được lấy làm ngày truyền thống của Trung đoàn 80, sau là Trung đoàn 48 - Thăng Long). Cuối tháng 2 năm 1947, địch nhận được quân tăng viện từ Pháp sang, chúng ra sức củng cố khu vực nội thành và ngoại thành mới chiếm đóng, mặt khác tập trung lực lượng và phương tiện cơ giới, mở các cuộc tấn công thọc sâu vào vùng hậu phương ta nhằm truy kích bộ đội chủ lực, chụp bắt các cơ quan lãnh đạo, phá các kho tàng, tiếp tục đẩy các lực lượng kháng chiến của ta ra xa Hà Nội. Tù đó nối thông liên lạc giữa Hà Nội và các thành phố, thị xã đã chiếm được, liên kết Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định và một số đầu mối giao thông quan trọng thành một hệ thống chiếm đóng, tạo ra chỗ đứng chân để mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược, biến Hà Nội thành căn cứ quan trọng bậc nhất ở chiến trường Bắc Đông Dương.


Nhiệm vụ của Trung đoàn 80 và du kích các địa phương là tiếp tục ngăn chặn địch tiến ra hậu phương ta ở phía tây và nam Hà Nội, về phía các tỉnh Hà Đông và Sơn Tây, hướng mà các cơ quan Trung ương và nhân dân tản cư đông nhất. Do tương quan lực lượng chênh lệch bất lợi cho ta, ta chủ yếu tìm cách sát thương, làm chậm bước tiến của địch, không dàn trận cố thủ. Chiến sự đã diễn ra quyết liệt ở Văn Điển, thị xã Hà Đông, Chèm, Cầu Diễn.


Ngày 2 tháng 3 năm 1947, quân Pháp mở cuộc tiến công lớn ra phía tây Hà Nội, đánh chiếm thị xã Hà Đông và Ba La - Bông Đỏ. Sau đó dùng xe tăng, cơ giới mở cuộc hành quân chớp nhoáng đánh thọc qua Mai Lĩnh vòng lên địa hạt Quốc Oai. Một cánh quân khác xuất phát từ Nhật Tân theo tuyến đê sông Hồng tiến lên Chèm qua Bồng Lai, Bá Giang về Phùng, đánh vào khu vực Sấu, Giá (Đan Phượng), hình thành thế gọng kìm để tìm diệt lực lượng bộ đội ta ở Hà Nội rút ra. Phối hợp với các cuộc hành binh trên, chúng còn dùng một lực lượng chia làm hai mũi: một mũi từ Ngã Tư Vọng đánh xuống Văn Điển, một mũi từ Vĩnh Tuy đánh xuống khu vực Khuyến Lương, Yên Duyên, Sở Thượng và Đông Trạch.


Không chỉ kiên cường kìm giữ, ngăn chặn việc mở rộng vùng chiếm đóng của địch, Bộ chỉ huy Chiến khu XI còn tổ chức cả những trận phản kích, thu hồi mục tiêu đã mất. Từ đêm 18 tháng 3 đến sáng 20 tháng 3 năm 1947, Bộ chỉ huy Chiến khu đã tổ chức một lực lượng lớn gồm các tiểu đoàn 56, 64 và 523 tiến công thị xã Hà Đông, nơi địch mới chiếm được. Đồng chí Vương Thừa Vũ, Chỉ huy trưởng Chiến khu XI trực tiếp chỉ huy. Tiểu đoàn 56 là mũi tiến công chủ yếu đánh vào hướng tây nam thị xã, tiểu đoàn 64 tiến công hướng đông bắc, tiểu đoàn 523 chặn viện binh địch từ Hà Nội vào. Ta chiếm được một nửa thị xã, song địch phản kích quyết liệt, hai bên ở thế giằng co tại chỗ. Sáng ngày 19 tháng 3, lực lượng tại chỗ của địch và viện binh địch từ Hà Nội kéo vào hợp lực với nhau phản kích lại ta. Dựa vào hệ thống công sự dày đặc trong thị xã, cán bộ, chiến sĩ ta đánh bại nhiều cuộc tiến công của chúng. Đến cuối ngày 19 tháng 3, trận đánh kết thúc, ta rút về làng Đơ cố thủ. Sáng 20 tháng 3 rút ra ngoài. Kết quả 88 tên địch bị diệt, bị thương, 1 khẩu 12,7mm và 1 xe Jeep của chúng bị phá hủy. Ta bị thiệt hại cũng khá nặng nề.


Rõ ràng, trong thời gian này các lực lượng vũ trang của ta chưa đủ sức tiến công vào một thị xã địch chiếm đóng.

Từ ngày 21 tháng 3 đến ngày 6 tháng 4 năm 1947, phối hợp với cánh quân từ Nam Định kéo lên, địch mở cuộc tiến công lớn ở phía nam Hà Nội, đánh vào khu vực Ứng Hoà và Chương Mỹ (tỉnh Hà Đông), nơi có nhiều cơ quan và đồng bào Hà Nội tản cư, một cánh quân khác của địch tiến đánh Ba Thá, Miếu Môn, Chợ Bến... nơi nằm sâu trong vùng hậu phương ta, nơi tập trung nhiều cơ quan Trung ương của ta từ Hà Nội chuyển ra trước khi lên Chiến khu Việt Bắc.


Sau những trận tiến công trong tháng 3 và đầu tháng 4 năm 1947, giặc Pháp đã thiết lập và củng cố được phòng tuyến thứ nhất bảo vệ nội thành Hà Nội từ Nhật Tân qua Bưởi, Cầu Giấy, Ngã Tư Vọng, Mai Động, Vĩnh Tuy. Chúng ráo riết xúc tiến lập phòng tuyến thứ hai theo tuyến sông Nhuệ.
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #45 vào lúc: 10 Tháng Hai, 2019, 08:09:44 am »

Vừa đối phó với các hoạt động của địch, Đảng ủy và Ủy ban kháng chiến Khu XI, vừa chấn chỉnh tổ chức, sắp xếp lại bộ máy lãnh đạo và chỉ huy, củng cố các lực lượng vũ trang cho phù hợp với tình hình mới.


Từ đầu tháng 3 năm 1947, khu vực ngoại thành được chia làm ba quận. Các quận Lãng Bạc và Đại La sáp nhập thành quận 4, khu Đống Đa đổi thành quận 5. Hai khu Đề Thám và Mê Linh gộp lại thành quận 6. Các cơ quan chỉ đạo của Đảng, chính quyền đoàn thể quần chúng, Ban Dân quân Khu XI và các ban chỉ huy quân sự ở các quận được thành lập1 (Quận 4 lúc đầu do đồng chí Nguyễn Mai làm bí thư, đồng chí Nguyễn Quang Tuân làm chủ tịch, đồng chí Nguyễn Văn Vi làm quận đội trưởng. Quận 5, đồng chí Hán làm bí thư, đồng chí Hoàng Dụ làm chủ tịch, đồng chí Lê Thanh làm quận đội trưởng. Quận 6, đồng chí Nguyễn Tiến Đức làm bí thư, đồng chí Dương Ngà làm chủ tịch, đồng chí Lâm Văn Sơn làm quận đội trưởng. Ban Dân quân khu XI do đồng chí Trần Vĩ làm chỉ huy trưởng, đồng chí Văn Mỹ làm chính trị viên).


Các lực lượng tự vệ, công an, quân báo được củng cố và tổ chức lại. Trong số các đại đội tự vệ của nội và ngoại thành rút ra, ta lựa chọn số anh em trẻ, khoẻ, chiến đấu dũng cảm, gan dạ, tổ chức biên chế 13 đại đội du kích tập trung và thống nhất gọi là Du kích Thủ đô, đặt dưới quyền chỉ huy chung của Ban Dân quân Khu XI và giao cho các ban chỉ huy các quận 4, 5, 6 trực tiếp chỉ huy (quận 4 có 5 đại đội, quận 5 và 6 mỗi quận có 4 đại đội). Số còn lại được lựa chọn bổ sung cho các đơn vị bộ đội chủ lực thuộc Trung đoàn 80.


Sau khi được củng cố, các đại đội Du kích Thủ đô được bố trí theo khu vực tác chiến có nhiệm vụ chặn đánh quân địch mở rộng vùng kiểm soát và lập các đường phòng tuyến, quấy rối tiêu hao lực lượng địch ở các vị trí chúng mới chiếm đóng, phối hợp với dân quân du kích ở các huyện, vận động nhân dân rào làng chiến đấu.


Các đơn vị du kích tập trung quận 4 vừa đẩy mạnh các hoạt động phục kích tập kích, đánh địa lôi... trên địa bàn các huyện Hoài Đức, Đan Phượng và Quốc Oai, vừa thường xuyên tổ chức các trận đánh quấy rối vị trí địch như Chèm, Cổ Nhuế, Cầu Giấy, Nghĩa Đô, Mai Dịch, Cầu Đôi, Đại Mỗ... Các đơn vị du kích tập trung quận 5, vừa bố trí chiến đấu ngăn chặn địch trên đất Thanh Oai, vừa luồn về đánh địch ở vị trí Quang Bằng, Đình Công, Kim Lũ, sân bay Bạch Mai, Ngã Tư Sở... Các đại đội du kích quận 6 liên tục bám đánh địch trên đất Thường Tín, Thanh Trì trên trục đường số 1 và đê Đại Hà phía nam, thường xuyên quấy rối và tiêu hao địch ở Vĩnh Tuy, Văn Điển, Tứ Kỳ... gây cho địch nhiều thiệt hại.


Ngày 27 tháng 3 năm 1947, trong trận tiến công xuông phía nam thị xã Hà Đông, giặc Pháp phát hiện được một đơn vị của ta đang đóng tại làng Cự Đà (huyện Thanh Oai, Hà Đông). Đây là một trung đội du kích tập trung thuộc quận 5 Hà Nội chuyển ra do đồng chí Vũ Văn Sự làm trung đội trưởng, đồng chí Nguyễn Đôn Tự làm chính trị viên. Trung đội này đang được tăng cường cho tiểu đoàn 523 chiến đấu ở khu vực nam Hà Nội tới thị xã Hà Đông. Địch đã cho 200 quân bao vây làng Cự Đà. Chúng cho xe tăng dẫn đầu tiến vào làng và bao vây chặt ngôi nhà có ban chỉ huy trung đội đang đóng quân. Không kịp liên lạc với các tiểu đội đóng trong làng, các đồng chí chỉ huy cùng các đồng chí trong trung đội bộ tại đây đã nêu quyết tâm cố thủ chiến đấu đến cùng.


Sau một ngày chiến đấu quyết liệt và đẫm máu, địch đã phải rút đi mà không tiêu diệt được ban chỉ huy trung đội. Ta hy sinh 2 đồng chí, địch bị chết và bị thương hàng chục tên.

Trận Cự Đà (Hà Đông) là một trận đánh tiêu biểu cho ý chí kiên cường bất khuất, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng không chịu đầu hàng giặc của các cán bộ, chiến sĩ Mặt trận Hà Nội. Trận đánh đã được Tổng bí thư Trường Chinh đánh giá cao và biểu dương: "Thật đáng nêu gương cho toàn quốc".


Ngày 2 tháng 4 năm 1947 một trung đội du kích quận 4 do trung đội trưởng Nguyễn Văn Kính và chính trị viên trung đội Hoàng Việt chỉ huy, đã phục kích một đoàn xe cơ giới địch trên đê sông Đáy thuộc xã Yên sở, huyện Đan Phượng phá huỷ một số xe vận tải, diệt 50 tên địch, giải thoát gần 100 đồng bào và lấy lại được một số trâu, bò. Bên ta hy sinh 5 chiến sĩ, trong đó có em Dương Văn Nội là một liên lạc viên rất dũng cảm. Em Nội đã được Chính phủ truy tặng huân chương Chiến công hạng nhì.


Ngày 19 tháng 5 năm 1947, du kích quận 5 tập kích vào vị trí địch ở Mậu Lương, Đa Sĩ (Hà Đông) diệt 24 tên, thu 14 súng.

Ngày 27 tháng 6 năm 1947, địch cho quân nhảy dù xuống Bồ Nâu - Ước Lễ hòng chụp bắt cơ quan chỉ đạo kháng chiến của Hà Nội, Du kích Thủ đô đã kiên cường chiến đấu, diệt 32 tên.

Tháng 7 năm 1947 địch lập xong phòng tuyến bảo vệ thứ hai là Chèm qua Cầu Diễn, Đại Mỗ, thị xã Hà Đông, Thanh Liệt, Văn Điển, Đông Trạch mở rộng vùng kiểm soát của chúng ra hết đất ngoại thành.

Ngày 29 tháng 7, địch tiến công chiếm đóng vị trí cầu Phùng (Đan Phượng) nhằm thiết lập phòng tuyến thứ ba trên tuyến đê sông Đáy.
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #46 vào lúc: 10 Tháng Hai, 2019, 08:12:22 am »

Do tình hình chiến sự ngày càng lan rộng, cuộc sống của đồng bào tản cư về Hà Nội ngày một đông, nhất là đồng bào ngoại thành phải trở về bám đồng ruộng, làng mạc để sản xuất và sinh sống. Tuy hoàn cảnh buộc phải trở về vùng địch tạm kiểm soát, nhưng đại đa số nhân dân vẫn hướng về kháng chiến, nung nấu lòng căm thù giặc Pháp xâm lược. Trong khi đó bọn địch thi hành chế độ quân quản, thẳng tay đàn áp khủng bố, hòng dập tắt tinh thần yêu nước và kháng chiến của nhân dân. Ở nội thành chúng dựa vào một số tên Việt gian phản động lập ra "Ủy ban quản lý lâm thời hành chính và xã hội", sau lại đổi tên là "Hội liên hiệp quốc gia Việt Nam”. Chúng còn cho tổ chức "Hội bảo trợ đồng bào hồi cư" do Phòng nhì Pháp điều khiển để mua chuộc, lôi kéo, dụ dỗ đồng bào trở về nội thành làm ăn sinh sống, thực chất là để tuyên truyền, kêu gọi những người kháng chiến trở về đầu hàng chúng. Mặt khác qua những người hồi cư, chúng khai khác mọi mặt của tình hình kháng chiến rồi tìm cách chống phá. Chúng cố biến Hà Nội thành khu vực hậu phương an toàn, một căn cứ quân sự vững chắc, một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của chế độ thực dân trong vùng chúng chiếm đóng.


Quán triệt đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh của Trung ương Đảng trong Chỉ thị "Toàn dân kháng chiến” ngày 22 tháng 12 năm 1946 và Nghị quyết Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ hai (họp từ ngày 3 đến ngày 6 tháng 4 năm 1947) đã nêu rõ: "Để nắm chắc thời cơ thắng lợi, phải mở mặt trận ở bất cứ nơi nào có bóng địch, đánh ngay cả sau lưng địch, trong ruột địch... phải kiên quyết chuyển sang du kích vận động chiến; du kích vận động chiến phải là cách đánh của toàn dân, chống thói quen đánh trận địa hay phòng ngự theo lối trận địa, phải phát động phong trào dân quân và võ trang toàn dân". "Cấp tốc việc tổ chức huấn luyện vũ trang và lãnh đạo dân quân, chuyển một bộ phận bộ đội chủ lực để dìu dắt dân quân du kích mau trưởng thành"1 (Văn kiện quân sự Đảng, tập 2, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr.127).


Trên tinh thần ấy, Hội nghị Đảng bộ Khu XI họp tại Quốc Oai, Hà Đông (4 - 1947) đã tự phê bình vì thiếu kinh nghiệm nên không có một kế hoạch chung từ trước để bố trí cơ sở và lực lượng bí mật nằm lại trong thành phố. Còn ở ngoại thành, khi nhân dân triệt để tản cư ra hậu phương, cán bộ chính quyền và đoàn thể cùng rút theo dân, nên cơ sở của ta hầu như không còn gì. Hội nghị đã quyết định sắp xếp tổ chức, bố trí lại lực lượng để trở về hoạt động trong lòng địch, chủ trương đưa một số cán bộ ở các quận theo nắm đồng bào hồi cư, trở về vùng địch tạm chiếm để gây cơ sở. Từ tháng 5, tháng 6 năm 1947, một số đơn vị du kích tập trung cùng các đội tuyên truyền xung phong bắt đầu vào hoạt động gây dựng cơ sở ở ngoại thành.


Ngày 25 tháng 7 năm 1947, theo quyết định của Chính phủ, Chiến khu XI được tách ra khỏi Chiến khu II. Chiến khu XI được mở rộng bao gồm cả Hà Nội, Hà Đông và Sơn Tây, còn gọi là Sơn Lưỡng Hà. Để thúc đẩy việc gây dựng cơ sở ở Hà Nội, tháng 9 năm 1947 Khu ủy XI quyết định lập lại Thành ủy Hà Nội  do đồng chí Đào Văn An (tức Nguyễn Văn Đào) làm Bí thư. Khu ủy cũng quyết định sáp nhập 4 huyện Hoài Đức, Đan Phượng, Thanh Oai và Thanh Trì của tỉnh Hà Đông vào Hà Nội để mở rộng địa bàn hoạt động của lực lượng vũ trang Hà Nội. Thành ủy Hà Nội đã chia địa bàn Hà Nội, gồm cả nội thành, 3 quận ngoại thành và 4 huyện mới sáp nhập thành hai liên quận huyện 1 và 2, chỉ định các liên quận, huyện ủy và lập tiểu ban nội thành do Thường vụ Thành ủy phụ trách. Liên quận huyện 1 gồm quận 4 và Hoài Đức, Đan Phượng do đồng chí Nguyễn Đức Lạc làm bí thư. Liên quận huyện 2 gồm quận 5, quận 6, Thanh Oai và Thanh Trì do đồng chí Biên làm bí thư. Trung đoàn 80 cũng được chấn chỉnh và đổi phiên hiệu thành Trung đoàn 48.


Trong Trung đoàn 48 cũng có một số thay đổi. Tiểu đoàn 145 đổi phiên hiệu thành tiểu đoàn 164 do đồng chí Mạnh Quân làm tiểu đoàn trưởng, đồng chí Lê Vinh làm chính trị viên, được khu điều động cho mặt trận Tây Tiến. Trung đoàn tiếp nhận tiểu đoàn 185 của Trung đoàn 66, tiếp tục hoạt động trên địa bàn Sơn Tây.


Đầu tháng 9 năm 1947, sau khi đồng chí Trần Độ, Chính ủy Khu XI được điều động về Cục Chính trị Bộ Quốc phòng, đồng chí Đỗ Đức Kiên, nguyên Chính ủy Chiến khu XII  được trên điều về làm Chính ủy Khu XI.


Ngày 20 tháng 9 năm 1947, Thành đội bộ dân quân Hà Nội được thành lập để chăm lo phát triển lực lượng dân quân du kích và chỉ đạo phong trào chiến tranh du kích trong thành phố. Đồng chí Vị Hải (tức Nguyễn Văn Vỵ), nguyên quận đội trưởng quận đội 4 được cử làm Thành đội trưởng; đồng chí Nguyễn Tiến Đức, nguyên chính trị viên quận 6 được cử làm chính trị viên thành đội. Bộ máy chỉ huy dân quân toàn thành được củng cố. Lực lượng du kích tập trung toàn thành lúc này có tất cả 11 đại đội với quân số 1.600 người, được trang bị hơn 400 khẩu súng các loại, còn chủ yếu trang bị bằng các loại vũ khí thô sơ, tự chế.
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #47 vào lúc: 10 Tháng Hai, 2019, 08:14:31 am »

Thu đông năm 1947, giặc Pháp tập trung một lực lượng lớn bao gồm cả thuỷ, lục, không quân với khoảng 2 vạn quân cùng nhiều phương tiện chiến tranh, huy động hầu hết số máy bay hiện có ở Đông Dương, lấy Hà Nội làm căn cứ xuất phát mở cuộc tiến công lớn lên căn cứ địa Việt Bắc, nhằm thực hiện ý đồ chiến lược: Tiêu diệt gọn cơ quan đầu não kháng chiến và bộ đội chủ lực của ta, phá căn cứ hậu phương chính của ta, tạo điều kiện lôi kéo Bảo Đại về lập chính quyền bù nhìn toàn quốc nhanh chóng kết thúc chiến tranh. Toàn bộ chiến dịch lớn này được mang tên là "Kế hoạch Clô-clô" do Xa-lăng, chỉ huy quân Pháp ở miền Bắc Đông Dương trực tiếp chỉ huy.


Ngày 7 tháng 10 năm 1947, địch bắt đầu mở cuộc tiến công lên Việt Bắc nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến của ta. Đồng thời chúng cho một tiểu đoàn tiến lên Sơn Tây, Trung Hà, Hưng Hoá, vừa nghi binh vừa phối hợp với hướng chính để đánh ta. Lực lượng dự bị vẫn để ở Hà Nội, sẵn sàng tung vào những nơi cần ứng cứu.


Phối hợp với quân dân Việt Bắc, các đơn vị du kích Thủ đô và các tỉnh Hà Đông, Sơn Tây đã đẩy mạnh hoạt động, chiến đấu chặn địch trên các đường tiến quân của chúng.

Ngày 10 tháng 10 năm 1947 một đơn vị du kích Thủ đô đã phục kích tại Phú Lễ - Cần Kiệm chặn đánh một mũi tiến công của địch từ Sơn Tây vào Thạch Thất, diệt 82 tên. Ở nội thành công an ta được sự giúp đỡ của nhân dân, đã dũng cảm mưu trí ném lựu đạn vào xe tăng của Trương Đình Tri, Chủ tịch Hội đồng an dân Bắc Việt tại Cổng Đục, giết chết tên này ngay trước cửa nhà hắn.


Chấp hành chỉ thị ngày 15 tháng 10 năm 1947 của Thường vụ Trung ương Đảng "Phải phá cuộc tiến công mùa Đông của Pháp", Khu ủy XI, các cấp ủy Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây chủ trương phá kế hoạch khôi phục an ninh trật tự, xây dựng hậu phương an toàn của địch xung quanh Hà Nội. Trong tháng 11 và tháng 12 năm 1947, các lực lượng vũ trang Hà Nội cùng một số đơn vị bộ đội chủ lực của Trung đoàn 48 đã đẩy mạnh đánh địch trên các phòng tuyến chúng vừa mới thiết lập, liên tiếp tập kích vào các vị trí địch ở Ngải Cầu, Giá, Đại Mỗ, Cầu Giấy, Quang Tó, Văn Điển, Đông Trạch, Mễ Trì, Thạch Bích, Vĩnh Tuy... diệt gần 200 tên địch. Trong trận đánh bốt Vĩnh Tuy, đồng chí Dương Văn Bé, một chiến sĩ du kích dũng cảm và gan dạ, đã ôm bom lao vào vị trí giặc (đóng tại nhà tên Chánh Thụ ở Vĩnh Tuy Đoài) làm sập một ngôi nhà hai tầng, diệt hơn 20 tên địch, đồng chí Bé đã hy sinh anh dũng.


Đặc biệt thời gian này ta đã đẩy mạnh phong trào "địa lôi chiến" suốt từ phía bắc xuống phía nam Hà Nội, đánh vào các đoàn xe cơ giới địch. Ở phía bắc có phong trào tháo gỡ mìn của địch cài ở xung quanh các vị trí đem về làm địa lôi. Một trong những đơn vị mở đầu cho phong trào này là trung đội du kích thuộc đại đội 355, du kích quận 4 do đồng chí Nguyễn Văn Dưới chỉ huy, trong một đêm đã tháo gỡ được hơn 100 quả mìn của địch ở vị trí Cầu Đôi, đem về đánh các đoàn xe tăng địch trên đê Kẻ, đê Giá1 (Trong cuộc gỡ mìn sau đó, đồng chí Nguyễn Văn Dưới hi sinh vì địch đã đối phó bằng cách chôn hai quả mìn chồng lẫn nhau, khi gỡ quả mìn ở trên nhấc ra thì bị quả mìn ở dưới nổ). Anh chị em du kích ở đoàn nam Hà Nội còn dùng những đầu đạn đại bác và đạn súng cối của địch chưa nổ, sửa chữa lại thành địa lôi để đánh xe tăng địch trên đường số 1 và đê Đại Hà... Chỉ tính đến cuối năm 1947, số xe cơ giới địch bị phá huỷ vì địa lôi của du kích đã lên tới 89 xe, gồm 10 xe tăng, 14 xe thiết giáp, 50 xe tải, 15 xe Jeep.


Ngày 13 tháng 11 năm 1947, ta đã tổ chức trận tổng phá tề đầu tiên ở quận 6, bắt được hơn 100 tên tề, thu 40 khẩu súng, làm cho hàng ngũ tề hoang mang hoảng sợ. Ta còn phá các tổ chức bảo an của địch ở Cổ Nhuế, Xuân Tảo, Cáo Đỉnh, Phú Mỹ, Yên Duyên, Tứ Kỳ...


Đầu tháng 12 cuộc tiến công lên Việt Bắc bị sa lầy và tổn thất nặng nề, quân Pháp buộc phải tổ chức rút chạy về Hà Nội. Ngày 19 tháng 12 năm 1947 những tên lính cuối cùng của cả hai cánh quân thủy, bộ đã về tới Hà Nội. Cuộc hành binh mùa khô năm 1947 lên Việt Bắc là cố gắng cao nhất của thực dân Pháp sau một năm mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược ra toàn cõi Đông Dương. Thất bại có ý nghĩa chiến lược đó đã dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng cả về quân sự và chính trị. Âm mưu chiến lược "đánh nhanh, giải quyết nhanh" của thực dân Pháp đã hoàn toàn bị phá sản.


Địch quay về củng cố các vùng chúng tạm chiếm. Để bảo vệ Hà Nội sào huyệt của chúng, địch ra sức củng cố các phòng tuyến đã có và xúc tiến lập phòng tuyến thứ ba, từ Bồng Lai qua Phùng, Giá, Mai Lĩnh, Thạch Bích, Khúc Thuỷ, Quán Gánh, Bằng Sở. Trên ba phòng tuyến, địch đóng tất cả 32 vị trí với trên 2.000 quân, chưa kể số quân cơ động bảo vệ Hà Nội thường xuyên có khoảng 6.000 tên. Chúng thường xuyên cho quân lính từ các vị trí sục vào các xã hoặc phục kích trên các đường giao thông, tổ chức các đội tuần tiễu, thành lập hội tề, hương dũng ở các xã, tổ chức canh phòng ngày đêm. Chúng dùng các đội quân lưu động cỡ đại đội, tiểu đoàn, phối hợp với quân đóng ở các vị trí, mở các cuộc càn quét hòng quét lực lượng ta đang hoạt động giữa các phòng tuyến, ngăn chặn không cho lực lượng vũ trang của ta đột nhập vào nội thành.


Để đối phó với âm mưu và hoạt động mới của địch, Hội nghị Khu ủy khu XI ngày 26 tháng 12 năm 1947 đã ra quyết định phá kế hoạch lập phòng tuyến của địch: "... Chúng ta phải làm cho các đường phòng tuyến đó trở nên vô hiệu, nghĩa là không thể ngăn cản được những hoạt động của ta vào nội thành. Muốn vậy, chúng ta phải duy trì và phát triển được các lực lượng kháng chiến của ta giữa các đường phòng tuyến để tiến tới bao vây lại các vị trí địch". Thực hiện chủ trương trên, ta đã phát động và đẩy mạnh chiến tranh du kích giữa các đường phòng tuyến, phục kích các đội tuần tiễu lẻ tẻ của địch, mở rộng địa lôi chiến, tập trung lực lượng đánh vận động tiêu diệt các đồn lẻ của địch. Các đơn vị du kích tập trung đã phối hợp với các đơn vị Trung đoàn 48 vận động tập kích quấy rối các vị trí của địch trên các phòng tuyến như: Thạch Bích, Văn Điển, Phùng, Giá, Mai Lĩnh, Chèm... Đồng thời chặn đánh các toán quân địch đi lùng sục cướp phá như ở làng Gồ (Quốc Oai), phục kích đánh địch ở Bối Khê, Đại Định truy kích địch ở Bình Đà, dùng súng ba-dô-ca bắn cháy 2 xe tăng địch ở liên quận 2, v.v...


Ngày 25 tháng 1 năm 1948, thực hiện sắc lệnh số 120/SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Quốc phòng tổ chức lại các khu trong cả nước1 (Biên niên sự kiện Bộ Quốc phòng, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2003, tr.54). Trong đó tại Bắc Bộ, Chiến khu I và Chiến Khu XII được nhập lại thành Liên khu 1, Chiến khu XI được hợp nhất với các chiến khu II, III thành Liên khu III, Chiến khu IV đổi là Liên khu IV bao gồm cả Bình - Trị - Thiên.

Chiến khu XI đã kết thúc nhiệm vụ vẻ vang của mình trong trận Tổng giao chiến đấu đầu tiên của quân và dân ta với quân Pháp.


Tuy quân Pháp đã chiếm được Hà Nội và không ngừng củng cố địa bàn chiếm đóng, song hậu phương của chúng chưa bao giờ yên ổn. Cuộc chiến đấu tại địa bàn Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây còn tiếp tục không ngừng cho đến khi thắng lợi hoàn toàn. Bộ tư lệnh Liên khu 3 sẽ trực tiếp phụ trách về mặt quân sự với các mặt trận Hà Nội, Hà Đông và Sơn Tây.


Trong gần 1 năm chỉ đạo chiến tranh trên địa bàn ngoại vi Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây, sau khi địch đã tạm chiếm Hà Nội, Khu ủy, Bộ chỉ huy Chiến khu XI đã không ngừng lãnh đạo quân dân trên địa bàn tiến hành chiến tranh du kích, tiêu hao tiêu diệt sinh lực địch, ngăn chặn bước tiến nhằm mỏ rộng phạm vi chiếm đóng, tiếp tục làm phá sản chiến lược "đánh nhanh thắng nhanh" của chúng. Trước các cuộc tiến công, càn quét của địch, ta chủ yếu tập trung vào đối phó, ngăn chặn những cuộc tiến công càn quét của chúng. Hoạt động của ta lúc này chủ yếu là do các đơn vị du kích tập trung, các phân đội nhỏ của Trung đoàn 80 sau là Trung đoàn 48, hoặc phối hợp cả bộ đội và du kích địa phương thực hiện, phần nhiều là đánh quấy rối, tiêu hao địch, chưa có khả năng đánh tiêu diệt các vị trí của chúng. Việc xây dựng lực lượng kháng chiến trong lòng địch có nhiều khó khăn. Ta mới tập trung gây dựng được cơ sở kháng chiến ở bốn huyện Thanh Oai, Thanh Trì, Hoài Đức, Đan Phượng, còn ở các quận ngoại thành, cơ sở đảng, cơ sở quần chúng và dân quân du kích còn ít và rất non yếu, cơ sở ở nội thành hầu như chưa có gì. Công tác gây dựng cơ sở tuy mới thu được kết quả bước đầu, nhưng rất quan trọng làm cơ sở để phát triển cuộc chiến tranh du kích vào thành phố sau này.
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #48 vào lúc: 11 Tháng Hai, 2019, 08:28:40 am »

KẾT LUẬN


Trong thời kỳ tồn tại của mình, từ tháng 10 năm 1946 tới tháng 1 năm 1948, Chiến khu XI đã chỉ đạo chiến tranh với hai thời kỳ rõ rệt.

Thời kỳ thứ nhất bắt nguồn từ sự phát triển từ Bộ chỉ huy Khu đặc biệt Hà Nội thành Bộ chỉ huy Chiến khu XI, tháng 10 năm 1946, cho tới khi Trung đoàn Thủ đô rút ra ngoài (19-2-1947), kết thúc thời kỳ oanh liệt, 60 ngày đêm chiến đấu vẻ vang. Thời kỳ này cuộc chiến đấu ở Hà Nội mang sắc thái điển hình của một cuộc chiến tranh nhân dân trên địa bàn đô thị ở nước ta.


Trong 60 ngày đêm từ ngày 19 tháng 12 nảm 1946 đến ngày 18 tháng 12 năm 1947, quân và dân Hà Nội đã đánh gần 200 trận, tiêu diệt và loại khỏi vòng chiến đấu gần 2.000 tên địch, buộc Bộ chỉ huy Pháp phải đối phó lúng túng với tình huống và bị giam chân tới 2 tháng tại mặt trận này. Trong khi đó, quân và dân ta vừa đánh vừa xây dựng lực lượng. Lực lượng vũ trang được rèn luyện và tích luỹ thêm nhiều kinh nghiệm. Từ 5 tiểu đoàn khi mới nổ súng, ta đã phát triển thành 5 trung đoàn, trong đó có Trung đoàn Thủ đô, Trung đoàn Thăng Long... nổi tiếng.


Trong cuộc chiến đấu quyết liệt của những ngày đầu kháng chiến, Mặt trận Hà Nội đã huy động được sức mạnh đoàn kết to lớn của các tầng lớp nhân dân cùng đứng lên đánh giặc.


Có thể tóm tắt thành tích của quân dân Chiến khu XI trong cuộc chiến đấu 60 ngày đêm ở mấy điểm lớn:

Góp phần rất quan trọng bảo vệ cơ quan đầu não được an toàn.

Địch muôn tiêu diệt các cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến để thắng nhanh. Nhưng ngay từ sau Cách mạng Tháng Tám, Hà Nội đã làm tốt việc bảo vệ cơ quan đầu não trong tình thế thù trong giặc ngoài hết sức phức tạp. Khi Kháng chiến toàn quốc sắp bùng nổ, Hà Nội đã góp phần rất quan trọng vào việc tìm ATK, di chuyển cơ quan đầu não kịp thời bí mật, an toàn, nhờ đó duy trì được sự lãnh đạo và chỉ huy kịp thời, liên tục của Thường vụ và Bộ Tổng chỉ huy, không những đốỉ với Hà Nội, mà đối với toàn quốc. Đây là một thành tích hết sức quan trọng.


Tiêu hao tiêu diệt khá nhiều lực lượng tinh nhuệ của địch.

Với binh lực ít hơn địch nhiều lần, trang bị kém, trình độ bộ đội, cán bộ còn thấp lại đánh địch trong thế cơ bản phải phòng ngự, Hà Nội vừa tiêu hao tiêu diệt được khá nhiều địch, phá hủy, phá hỏng nhiều phương tiện chiến tranh của chúng. Số địch bị diệt là gần 2.000 tên. Tổng số xe bị phá là 22 xe tăng và xe thiết giáp, 31 xe vận tải. Ta còn bắn rơi và bắn hỏng 7 máy bay địch, bắn chìm 2 ca-nô1 (Thành ủy Hà Nội, Quân khu Thủ đô, Tổng kết 60 ngày đêm chiến đấu mở đầu Toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Thủ đô Hà Nội, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995, tr.168). Lực lượng địch bị tiêu hao tiêu diệt thuộc những đơn vị tinh nhuệ bậc nhất đã từng tham gia giải phóng nước Pháp, giải phóng Pa-ri, đã từng đánh chiếm Tây Đức.


Đó là một kết quả tiêu hao tiêu diệt địch đáng được khen ngợi khi mở đầu kháng chiến trong thời điểm quân ta còn ấu trĩ, chưa hề có kinh nghiệm tác chiến.


Giam chân địch được 60 ngày đêm, vượt mức yêu cầu trên giao.

Tuy ta cố gắng đánh địch trong một tháng và trong mệnh lệnh chỉ nói 15 ngày, nhưng trên thực tế Bộ Tổng chỉ huy và Bộ chỉ huy Mặt trận đã ba lần chủ trương kéo dài thêm thời gian và quân dân Hà Nội đã đạt được mục tiêu đó.

Đúng như lời Bác khen: "Giam chân địch ở Hà Nội được một tháng là thắng lợi, nay giữ được Hà Nội hai tháng là đại thắng lợi".

Giam chân địch thời gian vượt mức yêu cầu là kết quả quan trong nhất. Nhưng có bảo vệ được cơ quan đầu não và tiêu hao tiêu diệt địch làm cho chúng bị tổn thất ngoài dự kiến mới đạt được kết quả giam chân địch.
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #49 vào lúc: 11 Tháng Hai, 2019, 08:33:09 am »

Giữ gìn và làm lớn mạnh lực lượng ta.

Qua 60 ngày đêm chiến đấu liên tục, Hà Nội đã thực hiện tốt nhiệm vụ bảo tồn thực lực để kháng chiến lâu dài. Tuy có một số nơi ta chủ trương chiến đấu quyết liệt để ngăn chặn địch như ở Bắc Bộ Phủ, Toà Thị chính... nhưng nhìn chung ta không đem lực lượng quyết chiến, không có một đại đội nào bị địch tiêu diệt hết. Mặc dù chiến đấu dưới bom đạn khá ác liệt của địch nhưng số hy sinh không nhiều (khoảng 800 người). Riêng Trung đoàn Thủ đô chỉ có 160 người hy sinh.


Không những ta bảo toàn được lực lượng mà sau 60 ngày đêm lại lớn mạnh thêm rất nhiều. Từ một số tiểu đoàn lúc đầu ta đã phát triển thành một số trung đoàn. Trung đoàn Thủ đô vốn là 2 đại đội của tiểu đoàn 101 được bổ sung thêm Tự vệ chiến đấu, Tự vệ Thành, Công an xung phong và cả dân thường nên trở thành một trung đoàn quân chính quy. Sau này với phiên hiệu 102, trung đoàn nằm trong biên chế của Đại đoàn Quân tiên phong 308.


Sau 60 ngày đêm, các tiểu đoàn 523, 145, 77 của Mặt trận Hà Nội được tập hợp lại thành Trung đoàn 80, sau được chấn chỉnh thành Trung đoàn 48 rồi Trung đoàn Thăng Long, một trung đoàn chủ công của Đại đoàn Đồng Bằng 320.


Tiểu đoàn 212 của Hà Nội chiến đấu trong phạm vi Liên khu 2 đã được điều đi làm nòng cốt cùng tiểu đoàn 62 (Ký Con) của Chiến khu 3 và một tiểu đoàn mới xây dựng của Chiến khu 2 để thành lập Mặt trận Tây Tiến, mấy tháng sau đổi thành Trung đoàn 52 (Trung đoàn Tây Tiến), một trung đoàn của Đại đoàn 320 sau này.


Tiểu đoàn 56 của Hà Đông tăng cường cho Mặt trận Hà Nội, trải qua thử thách trong chiến đấu đã trở thành cốt cán để xây dựng Trung đoàn 35, có nhiệm vụ đánh địch trên đường số 6 Hà Đông - Hoà Bình.


Tiểu đoàn 45 của Trung đoàn 13 (Hà Đông) và tiểu đoàn 69 của Trung đoàn 9 (Sơn Tây) được rèn luyện trong khói lửa của Mặt trận Hà Nội, đã cùng một tiểu đoàn mối xây dựng để trở thành Trung đoàn 37, có nhiệm vụ đánh địch trên trục Hà Nội - Sơn Tây. Hai trung đoàn 35 và 37 sau được sáp nhập thành Trung đoàn 66 - trung đoàn chủ công của Đại đoàn 304.


Một điểm cần chú ý là nhiều bộ phận tự vệ thành, tự vệ chiến đấu đã được bổ sung cho các tiểu đoàn Vệ quốc đoàn hoặc được tổ chức thành một số đơn vị dân quân du kích đánh địch ở các quận ngoại thành hoặc trở thành những đội biệt động nội thành.


Điều quan trọng hơn là trong 60 ngày đêm chiến đấu, bộ đội Hà Nội đã được thử thách trong khói lửa. Từ chỗ chiến sĩ, cán bộ chưa hề có kinh nghiệm, họ đã được đọ sức với địch trong nhiều trận nảy lửa, đã hiểu được địch một phần, có lòng tin có thể đánh thắng địch.


Qua các điểm nói trên, có thể nói quân và dân Hà Nội đã hoàn thành vượt mức nhiệm vụ mà Bác, Thường vụ, Bộ Quốc phòng - Tổng chỉ huy giao cho.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM