Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Tư, 2024, 10:29:26 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Hồi ký Winston Spencer Churchill  (Đọc 53770 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #280 vào lúc: 26 Tháng Giêng, 2019, 09:51:08 am »


        Tất cả những sự cân nhắc, suy xét nay đã trở nên mờ nhạt trước vấn đề chiến lược chủ yếu. Giá mà chúng tôi có thể thuyết phục được Tổng thống và các Bộ trưởng quân chủng rằng đánh bại Nhật Bản không báo hiệu sự đánh bại Hitler, nhưng đánh bại được Hitler thì việc xóa sổ Nhật Bản đơn thuần chỉ là một vấn đề thời gian mà thôi? Chúng tôi đã mất rất nhiều thời gian để nghiên cứu vấn đề nghiêm trọng này. Hai tham mưu trưởng, tướng Dill và Hollis cùng tất cả các sĩ quan của ông ta đã chuẩn bị nhiều văn bản về toàn bộ vấn đề này và nhấn mạnh quan điểm rằng chiến tranh chỉ là một. Và đúng như ta sẽ thấy, những sự vất vả và lo lắng này đều tỏ ra là không cần thiết.

        Chuyến đi 8 ngày với việc buộc phải giảm bớt công việc hàng ngày, không phải tham dự các cuộc họp nội các, không phải tiếp khách, đã giúp tôi xem xét lại toàn bộ cuộc chiến tranh mà tôi đã chứng kiến và cảm nhận dưới ánh sáng của sự phát triển rộng lớn bất ngờ của nó. Tôi nhớ lại nhận xét của Napoleon về giá trị của khả năng tập trung trong đầu nhiều vấn đề trong cả một thời gian dài mà không bị mệt mỏi. Như thường lệ, tôi cố gắng nêu ra ý nghĩ của mình bằng cách đọc cho người ta đánh máy các văn bản. Để chuẩn bị cho cuộc gặp với Tổng thống và các cuộc thảo luận với Mỹ, và để bảo đảm điều đó tôi mang theo hai Tham mưu trưởng Pound và Portal và tướng Dill cũng như đảm bảo là các sự việc được Ban Thư Ký và được tướng Hollis và Ban thư ký kiểm tra kịp thời, tôi chuẩn bị 3 văn bản về chiều hướng của cuộc chiến tranh trong tương lai như cách tôi quan niệm nó phải được định hướng như vậy. Mỗi bản như vậy phải mất tới 4-5 tiếng và trải dài tận 2-3 ngày. Vì tôi đã có trong đầu mọi dữ liệu, cho nên ý kiến đến một cách dễ dàng, nhưng rất chậm. Trên thực tế, nó có thể được viết ra hai ba lần theo cách viết thông thường trong cùng thời gian đó. Khi mỗi bản được hoàn thành sau khi đã kiểm tra lại, tôi liền gửi cho một số đồng sự chuyên nghiệp như là một biểu thị về quan điểm riêng của tôi. Cùng lúc đó, các người này cũng đang chuẩn bị các văn bản riêng của mình cho các hội nghị tham mưu hỗn hợp. Tôi vui mừng nhận thấy rằng, mặc dù chủ đề của tôi có tính kỹ thuật bao quát hơn và chủ đề của họ mang tính tập trung hơn, nhưng chúng tôi vẫn đồng quan điểm về những nguyên tắc và các giá trị. Không có sự khác biệt dẫn đến tranh cãi, và có rất ít sự việc cần phải sửa lại. Vì vậy, không người nào bị ràng buộc vào một lề thói cụ thế hoặc cúng nhắc nào, và tất cả chúng tôi đều đi đến với một bộ các lý thuyết mang tính chất xây dựng, trên cơ sở đó, chúng tôi đoàn kết với nhau một cách rộng rãi.

        Văn bản thứ nhất trình bày lý do tại sao mục tiêu chủ yếu của chúng tôi trong chiến dịch 1942 ở chiến trường châu Âu là quân Anh cùng quân Mỹ phải chiếm được toàn bộ bờ biển châu Phi và của phương Đông từ Dakar đến biên giới Thổ Nhĩ Kỳ. Bản thứ hai nêu lên những biện pháp cần được tiến hành nhằm đoạt lại quyền kiểm soát Thái Bình Dương, và nêu rõ tháng 5 năm 1942 có thể sẽ là tháng đạt được điều này. Văn bản đặc biệt đề cập sự cần thiết phải tăng gấp bội số hàng không mẫu hạm bằng cách ứng chế với số lượng lớn. Bản thứ ba tuyên bố đề ra mục tiêu tối hậu là giải phóng châu Âu bằng cách đưa một lượng lớn quân Anh-Mỹ vào bất cứ nơi nào được xem là tốt nhất trong vùng lãnh thổ bị Đức chiếm đóng, và định năm 1943 là thời điểm cho đòn đánh quyết định nhất.

        Những câu chuyện đồn đại về mối ác cảm cố hữu của bản thân tôi đối với các cuộc hành quân qui mô lớn trên lục địa Âu châu này nhiều đến mức là cần phải nhấn mạnh lại sự thực. Tôi đã luôn nghĩ rằng một trận tấn công với qui mô lớn nhất có thể được vào các nước đang bị Đức chiếm đóng sẽ là cách duy nhất để chiến thắng trong cuộc chiến tranh này, và rằng nên chọn mùa hè năm 1943 là mục tiêu và thời hạn hành động. Qui mô cuộc hành quân ma tôi dự định trước cuối năm 1941 là 4 sư đoàn bọc thép cùng 1.000.000 quân khác là lực lượng cần thiết cho giai đoạn mở màn. Khi tôi thấy có một số lượng đầu sách đã viết dựa trên quan niệm sai lầm về thái độ của tôi trên vấn đề này, tôi tự cảm thấy phải hướng sự chú ý của độc giả vào những tài liệu chính xác và tin cậy được viết ra vào thời gian xảy ra sự việc, trong đó các trường hợp khác được dẫn chiếu lần theo sự mô tả các sự việc.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #281 vào lúc: 26 Tháng Giêng, 2019, 09:53:36 am »


        Tôi đưa 3 bản báo cáo này cho Tổng thống trước lễ Giáng sinh. Tôi giải thích rằng mặc dù đó là quan điểm của cá nhân tôi, nhưng không hề thay thế bất cứ các ý kiến được trao đổi chính thức giữa các Bộ tham mưu. Tôi cũng gửi chúng dưới dạng bị vong lục tới Ủy ban Tham mưu trưởng Anh quốc. Ngoài ra, tôi cũng nói với Tổng thống rằng những bản báo cáo này không phải được viết ra riêng để Tổng thống xem, mà điều quan trọng là để Tổng thống biết được tôi đang nghĩ gì, và cái mà tôi muốn làm, đứng về mặt nước Anh mà nói, và tôi sẽ cố gắng đi đến hành động. Nhận được các văn bản này, Tổng thống đã đọc ngay lập tức và ngay hôm sau hỏi tôi là liệu ông có thể giữ bản sao được không. Tôi đồng ý một cách vui vẻ.

        Thục ra tôi cảm thấy Tổng thống có cùng một đồng suy nghĩ với tôi về hành động ở Bắc Phi thuộc Pháp. Giờ đây, chúng tôi là đồng minh của nhau và phải hành động cùng nhau trên quy mô lớn hơn. Tôi tin tường rằng, Tổng thống và tôi sẽ tìm ra một sự nhất trí rộng lớn, và nền tảng thì đã được chuẩn bị sẵn rồi. Vì vậy tôi ở trong một trạng thái hy vọng, và như sau này ta sẽ thấy, cuối cùng tôi đã được Tổng thống đồng ý về một cuộc viễn chinh tới Bắc Phi (cuộc hành quân Bó đuốc). Cuộc hành quân này là sự phản công lớn hỗn hợp bằng hải-lục quân đầu tiên của chúng tôi.

        Tuy nhiên, trong khi vấn đề sống con là lập kế hoạch cho tương lai, và đôi khi cũng có thể dự đoán được trên một số khía cạnh, thì không ai có thể giữ cho thời gian biểu của những sự kiện to lớn như vậy khỏi bị xáo trộn bởi những hành động và phản công của quân địch. Mọi mục tiêu nêu trong các văn bản đã đề ra đều được quân Anh-Mỹ đạt được theo đúng thứ tự.

        Tôi hy vọng rằng tướng Auchinleck sẽ dọn quang được Libya vào tháng 2 năm 1942 nhưng điều đó đã không xảy ra. Ông đã chịu một loạt thất bại nặng nề sẽ được mô tả sau này. Hittler, có lẽ được khuyến khích bởi thành công này, quyết định một trận đánh quy mô lớn vào Tunis và hiện đang cho chừng một trăm ngàn quân sung sức tiến theo hướng đó, xuyên qua Ý và ngang qua Địa Trung Hải. Vì vậy, quân Anh - Mỹ bị kéo vào một chiến dịch lớn và lâu dài hơn ở Bắc Phi so với dự tính của tôi. Vì lý do này lịch trình bị chậm lại mất 4 tháng.

        Quân đồng minh Anh - Mỹ mãi tới tháng 5 năm 1943 mới giành được toàn bộ quyền kiểm soát các bờ biển Bắc Phi từ Tunis trải dài đến Ai Cập. Kế hoạch tối thượng vượt biển Manche để giải phóng nước Pháp mà tôi đã từng hy vọng và làm việc hết mình, vì thế không được thực hiện vào mùa hè đó và tất yếu là phải lùi lại trọn một năm cho tới hè năm 1944.

        Sự suy nghĩ tiếp theo về cái đã qua và kiến thức đầy đủ mà giờ đây chúng tôi có được làm tôi tin chắc rằng chúng tôi đã thật may mắn trong cái thất vọng. Do kế hoạch tấn công bị lùi lại đúng một năm mà chúng tôi đã tránh được cái rất có thể là một việc làm cực kỳ rủi ro với khả năng một thảm họa làm rung chuyển cả thế giới. Nếu là người khôn ngoan. Hittler đã có thể giảm được những thất bại ở Bắc Phi, và có thể đã gặp chúng tôi ở Pháp với một lực lượng mạnh gấp đôi so với năm 1944, trước khi quân đội và các bộ tham mưu mới được thành lập của Mỹ đạt được đầy đủ độ trưởng thanh và hoàn hảo về chuyên môn, và một thời gian dài trước khi những hạm đội lớn các tàu đổ bộ và các cảng nổi được xây dựng đặc biệt. Bây giờ tôi chắc chắn một điều là dù cho cuộc "Hành quân Bó đuốc" có chấm dứt như tôi mong đợi, vào năm 1944 hay thậm chí nếu nó không hề được diễn ra thì việc tìm cách vượt biển Manche năm 1943 có lẽ đã đưa đến một thất bại đẫm máu bậc nhất, với những tác động không thể đo lường được đối với kết quả cuộc chiến. Tôi nhận thức rất rõ được điều này suốt cả năm 1943 và từ đó chấp nhận việc phải trì hoãn kế hoạch "Over Lord" (chúa tể) là điều tất yếu trong khi thừa biết rằng đồng minh Liên Xô rất khó chịu và giận dữ về điều này.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #282 vào lúc: 26 Tháng Giêng, 2019, 09:57:22 am »


*

        Theo dự định, chúng tôi sẽ đi tầu trên sông Potomac và đi xe hơi đến Nhà Trắng, song gần 10 ngày lênh đênh trên biển nên chúng tôi sốt ruột muốn kết thúc chuyến đi. Vì vậy, chúng tôi đã thu xếp bay từ Hampton Roads và hạ cánh ngày 22/12 khi trơi đã tối hẳn, xuống sân bay Washington. Ở đó, Tổng thống đã chờ sẵn trong chiếc xe hơi. Bắt tay Tổng thống, tôi cảm thấy thật thoải mái và nhẹ nhõm. Lát sau, chúng tôi đã tới Nhà Trắng và trong suốt 3 tuần sau đó thì Nhà Trắng là ngôi nhà của chúng tôi về mọi phương diện. Ở đó, chúng tôi gặp đệ nhất phu nhân Roosevelt, người đã cố gắng tìm mọi cách đế giúp chúng tôi có một thời gian thực sự thoải mái.

        Tôi phải thú nhận rằng đầu óc tôi quá bận rộn trước các sự kiện xảy ra dồn dập, và những nhiệm vụ cá nhân tôi phải thực hiện đến nỗi ký ức của tôi cho tới khi dựa vào các điều được ghi lại, chỉ lưu trữ được một ân tượng mơ hồ về những ngày tháng này. Và tất nhiên nét nổi bật nhất là những lần tiếp xúc với Tổng thống. Chúng tôi gặp nhau nhiều giờ mỗi ngày, và luôn ăn với nhau, cùng với Harry Hopkins là nhân vật thứ ba. Chúng tôi nói với nhau toàn về công việc, và đi đến thống nhất ý kiến rộng rãi về rất nhiều vấn đề, lớn lẫn nhỏ. Bữa tối mang tính chất xã hội hơn nhưng cũng không kém phần gần gũi thân mật. Tổng thống tự chuẩn bị rượu Cocktail khai mạc một cách tỉ mỉ, và tôi đẩy ghế có bánh xe mà Tổng thống ngồi từ phòng khách ra thang máy như một biểu hiện của long kính trọng và trong đầu nghĩ tới ngài Walter Raleigh từng căng áo choàng của mình trước Nữ Hoàng Elizabeth. Tôi đã tạo nên một ảnh hưởng rất lớn mà ảnh hưởng này còn phát triển theo năm tháng chúng tôi cùng bên nhau, vì vị chính khách này, người đã đặt ý chí của mình trong suốt gần 10 năm nay vào sinh hoạt của nước Mỹ, và cũng là người mà con tim dường như cùng hoa nhịp vào các nhịp đập thổn thức của trái tim tôi. Vì cả hai chúng tôi, do nhu cầu hoặc do thói quen, đều buộc phải tiến hành phần lớn công việc trong phòng ngủ, nên Tổng thống hay đến phòng tôi mỗi khi ông ấy cảm thấy muốn và khuyên khích tôi cũng làm như vậy đối với ông. Hopkins ở ngay đối diện phòng ngủ của tôi, và phòng bản đồ của tôi một thời gian ngắn được thiết lập ngay bên cạnh phòng ông. Tổng thống rất thích kiểu bố trí này mà Đại úy Pim là người hoàn thiện nốt. Ông ta thích đến nghiên cứu những tấm bản đồ lớn của tất cả các chiến trường đã không mấy chốc phủ lên khắp các bức tường, ghi lại nhanh chóng và chính xác các sự vận động của những đội tàu thuyền và quân đội. Một thời gian không lâu sau, ông ta cũng có một phòng bản đồ riêng với hiệu quả cao nhất.

        Ngày tháng trôi qua được tính từng giờ một. Tôi nhanh chóng nhận ra ngay sau lễ Giáng Sinh tôi phải phát biểu trước Quốc hội Mỹ, và một vài ngày sau là trước Quốc hội Canada ở Ottawa. Những dịp trọng đại này là những đòi hỏi lớn đối với sinh mệnh và sức lực của tôi, cộng thêm vào đó là hàng đống công việc thường xuyên và các cuộc tham khảo ý kiến hàng ngày. Thực ra tôi cũng không hiểu nổi mình đã vượt qua tất cả cái đó như thế nào.

        Lễ Giáng Sinh của chúng tôi diễn ra với những cuộc liên hoan đơn giản. Cây thông Noel truyền thống được đặt trong khu vườn của Nhà Trắng, Tổng thống và tôi từ trên ban công phát biểu ngắn gọn với những đám đông tụ tập trong bóng tối lờ mờ. Ngày Giáng Sinh, Tổng thống và tôi cùng đi đến nhà thờ, và tôi thấy thật thanh thản trong lòng với lễ cầu nguyện đơn giản và cùng hát những bài thánh ca nổi tiếng và duy nhất "O Little Town of Bethlehem" (Ôi! thị trấn Bethlehem bé nhỏ) mà tôi chưa từng được nghe bao giờ. Rõ ràng là có nhiều cái để củng cố lòng tin của tất cả những người tin vào sự thống trị của vũ trụ đúng với lương tri con người.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #283 vào lúc: 26 Tháng Giêng, 2019, 10:09:09 am »


*

        Tôi thật sự xúc động là đã hoàn thành việc được mời đến phát biểu tại Quốc Hội Mỹ. Cơ hội này quan trọng vì cái mà tôi tin chắc là liên minh những dân tộc nói tiếng Anh sẽ chiến thắng tất cả. Trước đây, tôi chưa bao giờ phát biểu tại quốc hội nước ngoài. Nhưng đối với tôi, người cháu năm đời liền kề nhau, bên họ mẹ của một trung tá đã phục vụ trong quân đội của George Washington, thì có thể cảm thấy mình có quyền về mặt huyết thống phát biểu với những đại diện của nước Cộng hòa vĩ đại trong sự nghiệp chung. Việc phải diễn ra hoàn toàn như vậy chắc chắn là điều không bình thường, và một lần nữa tôi lại có cảm tưởng, mà nói ra thì xin độc giả bỏ qua, bị sử dụng, dù không xứng đáng như thế nào, trong một kế hoạch nào đó đã được ấn định từ trước.

        Tôi đã giành khá nhiều thời gian trong ngày Giáng Sinh để chuẩn bị cho bài phát biểu. Tổng thống chúc tôi may mắn hôm 26/12 khi các đại diện của Thượng - Hạ Nghị Viện đưa tôi từ Nhà Trắng tới Trụ sở Quốc hội Mỹ. Có vẻ như là rất nhiều người tụ tập ở các lối vào rộng lớn, nhưng do mức độ cẩn trọng về an ninh ở Mỹ vượt xa rất nhiều so với tập quán ở Anh, nên họ buộc phải đứng ở rất xa, và 2 hoặc 3 xe chở đầy cảnh sát mặc thường phục bao quanh đội hộ tống. Khi xuống xe, tôi muốn đi bộ tới đám đông đang cổ vũ trong tình anh em thắm thiết, nhưng điều này không được phép. Bên trong, cảnh tượng gây ấn tượng mạnh và khó mà quên được, và đại sảnh hình bán nguyệt mà tôi có thể nhìn được qua "hàng rào" micro chật ních người.

        Thật tình là tôi cảm thấy thoải mái như ở nhà vậy, và con thấy tự tin hơn một số lần trước ở Hạ Nghị Viện. Nhũng lời tôi nói mọi người đều lắng nghe rất nghiêm túc và lịch sự. Tôi nhận được những trận cười và những tràng vỗ tay đúng lúc tôi mong muốn. Sự hưởng ứng lên tới đỉnh cao khi tôi nói về hành động cực kỳ tàn bạo của ngươi Nhật và đặt câu hỏi "họ coi chúng ta là một loại dân tộc nào?" Ý thức về sức mạnh và nghị lực của dân tộc Mỹ tuôn trào về phía tôi từ cuộc họp uy nghi và đường bệ này. Ai còn hoài nghi mọi việc sẽ tốt đẹp? Sau đó, các nhà lãnh đạo cùng với tôi đi tới gần các đám đông tụ tập xung quanh tòa nhà để tôi có thể chào hỏi thân mật; và tiếp đến, lực lượng bảo vệ mật đưa xe đến và đón tôi quay về Nhà Trắng, nơi Tổng thống, người đã theo dõi cuộc gặp gỡ qua phương tiện thu thanh, nói với tôi rằng tôi đã hoàn thành bài nói chuyện một cách xuất sắc.

        Tôi đi chuyến tàu đêm 28 rạng 29/12 tới Ottawa và lưu lại đó với Huân tước Lord Athlone. Ngày 29, tôi tham dự một cuộc họp với Nội các Chiến Tranh Canada. Sau đó, ngài Thủ tướng Mackenzie King giới thiệu tôi với các lãnh đạo của Đảng Bảo Thủ đối lập, và để tôi ở lại nói chuyện riêng với họ. Không ai hơn được những người này về mặt lòng trung thành và quyết tâm, nhưng đồng thời họ cũng tiếc là không có vinh dự tự mình tiến hành chiến tranh, và phải lắng nghe quá nhiều và ủng hộ suốt cuộc đời những cung bậc tình cảm của những thành viên đảng Tự Do đối lập.

        Ngay 30, tôi phát biểu trước Quốc Hội Canada. Việc chuẩn bị cho hai bài phát biểu xuyên Đại Tây Dương của tôi được truyền đi trên toàn thế giới, giữa bộn bề công việc hành chính bất tận hàng ngày, là một việc cực kỳ vất vả. Việc phát biểu đối với một chính trị gia đã chiến đấu ngoan cường thì chẳng phải là gánh nặng lớn, nhưng xét xem nên nói gì và không nên nói gì trong một không khí náo động mới là điều lo âu, day dứt. Tôi đã cố gắng hết sức mình. Và điều thành công nhất trong bài phát biểu của tôi ở Canada là về Chính phủ Vichy mà Canada vẫn đang duy trì quan hệ:

        "Đó chính là nhiệm vụ của họ (năm 1940) và cũng là quyền lợi của họ khi đến Bắc Phi, nơi mà có lẽ họ đã là người đứng đầu của Đế Chế Pháp. Ở châu Phi, với sự trợ giúp của chúng ta, có lẽ họ đã chiếm được quyền kiểm soát biển. Họ có lẽ đã được nước Mỹ công nhận, và sử dụng tất cả số vàng họ đã gửi ở hải ngoại. Nếu họ đã làm được như vậy, Ý có lẽ đã bị đẩy ra khỏi cuộc chiến tranh này trước cuối năm 1940 và Pháp có lẽ đã được một chân trong Hội Đồng của các nước Đồng Minh và tại bàn hội nghị của những người chiến thắng. Nhưng các tướng lĩnh Pháp đã làm cho chính phủ của họ đi lạc hướng. Khi tôi cảnh cáo họ rằng nước Anh sẽ tiếp tục chiến đấu một mình cho dù họ có làm gì đi nữa, thì các tướng lĩnh Pháp nói với thủ tướng Pháp và Nội các bị chia rẽ của ông ta rằng: "Trong vòng 3 tuần nữa nước Anh sẽ bị vặn cổ như một "chú gà giò, chú gà giò nào đó! Cái cổ nào đó!".

        Điều này đã diễn ra thật tốt đẹp. Và để hồi tưởng lại, tôi xin trích dẫn 1 bài hát của ngài Harry Landaur về cuộc chiến tranh trước, bắt đầu là:

        "Nếu chúng ta cùng nhìn lại lịch sử những ngày qua, chúng ta có thể biết được chúng ta đang ở dâu".

        Trong các ghi chép của tôi có cụm từ "người nghệ sĩ hài già nua vĩ đại". Tôi cũng nghĩ đến từ "ngươi hát rong". Thật đúng là một sự cải tiến. Tôi vui mừng được biết rằng ông ta đang lắng nghe và thích thú sự dẫn chiếu này. Tôi rất sung sướng vì tôi đã tìm ra một từ thích hợp cho 1 người đã có cống hiến vô biên cho dân tộc Scotland và cho Đế chế Anh bằng những bài hát truyền cảm và chính cuộc đời dũng cảm của ông.

        Tôi có may mắn về việc định thời điểm cho các bài phát biểu nói trên ở Washington và Ottawa. Những bài phát biểu này được đưa ra vào đúng lúc mà chúng tôi có thể vui mừng trước sự ra đời của Đại Đồng Minh, với tiềm lực áp đảo, và trước khi dòng thác đổ vỡ trút xuống đầu chúng tôi từ trận tấn công được chuẩn bị lâu dài và tuyệt diệu của quân Nhật. Mặc dù khi tôi phát biểu với 1 giọng tự tin, tôi có thể cảm nhận trước được những chiếc roi sẽ sớm quất nát da thịt trơ trụi của chúng tôi. Không phải chỉ có Anh và Hà Lan phải trả những giá đáng sợ mà cả Mỹ, ở Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương và ở tất cả các nước và các hòn đảo châu Á tiếp giáp với các đại dương này.

        Chắc chắn là có một khoảng thời gian không xác định được về các thảm họa quân sự ở phía trước chúng tôi. Phải chịu đựng rất nhiều tháng ngày u tối và mệt mỏi của sự thất bại và mất mát trước khi tình hình có thể sáng sửa trở lại.

        Khi tôi đáp tàu quay trở về Washington vào đêm giao thừa, người ta yêu cầu tôi ngồi trong toa xe chật ních những nhà báo hàng đầu của Mỹ. Chẳng có gì là ảo tưởng khi tôi chúc tất cả bọn họ "một năm mới Vinh Quang". "Chúc năm 1942. Chúc một năm vất vả - một năm đấu tranh và hiểm nguy và một bước dài để tiến đến chiến thắng. Chúc tất cả chúng ta vượt qua một cách an toàn và trong danh dự!"
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #284 vào lúc: 26 Tháng Giêng, 2019, 10:15:28 am »


6

NHỮNG THỎA THUẬN CHUNG ANH - MỸ

        Kế hoạch quan trọng đầu tiên mà ông Roosevelt giới thiệu với tôi sau khi tôi từ nước Anh tới, đã vạch ra một lời Tuyên bố trịnh trọng sẽ được tất cả các quốc gia đang ở trong tình trạng chiến tranh với Đức, với Ý, hay với Nhật ký kết. Lập lại những biện pháp chúng tôi đề ra trong khuôn khổ của Hiến chương Đại Tây Dương. Ngài Tổng thống và tôi cùng chuẩn bị các dự thảo lời Tuyên bố và kết hợp 2 văn bản này một cách hài hoa. Trên nguyên tắc, về mặt tình cảm và thực ra là về mặt ngôn ngữ, chúng tôi hoàn toan nhất trí với nhau. Ở trong nước, Nội các Chiến tranh lập tức sửng sốt kinh ngạc trước quy mô hoạch định của Đại Đồng Minh (Grand Alliance). Thư từ được trao đổi nhanh chóng và đã nảy sinh ra một số khó khăn về việc các Chính phủ và quan chức nào ký vào lời Tuyên bố, và cả về thứ tự ký trên, ký dưới, trước sau nữa. Chúng tôi vui vẻ ghi nhận vị trí ký đầu bảng cho Mỹ, và trên đường tôi trở về Nhà Trắng mọi việc đã sẵn sàng cho việc ký kết Hiến chương Liên Hiệp Quốc. Nhiều bức điện được chuyển đi giữa Washington, Luân Đôn và Matxcova, nhưng đến lúc này thì mọi việc đều đã được giải quyết. Tổng thống đã nhiệt tình cố gắng để thuyết phục Litvinov, Đại sứ Liên Xô, người mới được phục hồi sự tín nhiệm do tình hình thay đổi, chấp nhận cụm từ "tự do tín ngưỡng". Để thực hiện mục đích này, Tổng thống đã mời ông Đại sứ đến dự bữa trưa với chúng tôi tại chính buồng của Tổng thống. Sau những kinh nghiệm xương máu ở nước nhà, ông Đại sứ tất nhiên là phải rất thận trọng. Sau này, Tổng thống nói chuyện riêng rất lâu với ông Đại sứ về phần hồn của ông này và những mối nguy hiểm của ngọn lửa địa ngục. Những vấn đề mà Roosevelt thuật lại cho chúng tôi biết trong nhiều dịp về những điều mà ông nói chuyện với ông Đại sứ thật gây ấn tượng. Thục ra, một lần tôi đã hứa với Roosevelt sẽ tiến cử ông ta làm Tổng giám mục xứ Canterbury nếu như ông ta thất bại trong cuộc bầu cử Tổng thống kỳ tới. Tuy vậy, tôi cũng không chính thức đề xuất ý nay với Nội các hay Nha vua và vì ông ta đã thắng cử năm 1944 nên vấn đề này được bỏ qua. Litvinov đã thực sự lo lắng và run rẩy khi báo cáo về "Tự do tín ngưỡng" với Staline - người chấp nhận điều này như là chuyện dĩ nhiên. Nội các Chiến tranh nắm được vấn đề về "An ninh xã hội" và tôi, với tư cách là tác giả của đạo luật Bảo hiểm thất nghiệp đầu tiên, đã ủng hộ chuyện này nhiệt liệt. Sau khi một loạt điện tín được chuyển đi khắp thế giới trong vòng một tuần lễ thì Đại Đồng Minh đã đi đến thống nhất ý kiến.

        Tổng thống đã thay cái tên Liên hiệp Các cường quốc (Associated Powers) bằng Liên Hiệp Quốc (United Nations). Tôi nghĩ đây là một sự cải tiến lớn. Tôi đưa cho Tổng thống xem vài dòng thơ trong bài Childe Harold của Byron:

        Here, wherer the sword United Nations drew,
        Our countrymen were warring on that day!
        And this is much - and all - which will not pass away.


        Tạm dịch là

        Và đây, nơi mà Liên Hiệp Quốc rút kiếm ra khỏi vỏ,
        Những đồng bào chúng ta đang chiến đấu vào ngày đó!
        Và đây là rất nhiều - là tất cả - và sẽ là bất tử.


        Tổng thống đến nhà tôi bằng xe lăn vào sáng mồng một tháng một. Tôi ra khỏi buồng tắm và đồng ý với bản dự thảo này. Lời tuyên bố này bản thân nó dù không đem lại chiến thắng trong các cuộc chiến, song cũng đã nói lên được: chúng tôi là ai, và chúng tôi đang chiến đấu cho cái gì. Rồi cuối ngày hôm đó, Roosevelt, tôi, Litvinov và ông Soong - đại diện cho Trung Quốc - đã ký tên vào văn bản uy nghi này tại phòng làm việc của Tổng thống. Sau đó, văn bản nay được chuyển sang cho Bộ Ngoại giao đế thu thập nốt chữ ký của 22 quốc gia còn lại. Bản cuối cùng phải được ghi lại ở đây.

        "Tuyên bố chung của các quốc gia: Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ailen. Liên bang CHXHCN Xô Viết, Trung Quốc, Úc, Bỉ, Canada, Costa Rica, Cuba, Tiệp Khắc, Cộng hòa Dominica, El Salvador, Hy Lạp, Guatemala, Haiti, Honduras, Panama, Ba Lan, Nam Phi và Nam Tư.

        Các chính phủ ký kết văn bản này: Đã nhất trí một chương trình chung về các mục đích và các nguyên tắc được nêu trong bản Tuyên bố chung của Tổng thống Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ và Thú tướng Liên hiệp vương quốc Anh và Bắc Ailen ngày 14 tháng 8 năm 1941 được gọi là Hiến chương Đại Tây Dương.

        Tin tưởng rằng một chiến thắng trọn vẹn các quân thù là điều thiết yếu để bảo vệ cuộc sống tự do, độc lập và tự do tín ngưỡng, và để gìn giữ các quyền con người và công lý trên lãnh thổ của mình củng như trên các lãnh thổ khác; và rằng tất cả các quốc gia này giờ dây đã tham gia vào cuộc chiến đấu chung chống lại những thế lực dã man và tàn bạo đang tìm cách thống trị cả thế giới, tuyên bố:

        1. Mỗi Chính phủ cam kết tận dụng các nguồn tài lực, quân sự và kinh tế để chống lại các thành viên của Hiệp ước Tay Ba và các nước cùng tham dự dang trong tình trạng có gây chiến tranh với chính phủ đó.

        2. Mọi Chính phú cam kết hợp tác với các Chính phú ký kết Tuyên bố này, và không được dình chiến hay thiết lập hòa bình riêng rẽ với các kẻ thù.

        Các nước khác có thể tham gia bán Tuyên bố trên và các nước này đang hay có thể trợ giúp vật chất và đóng góp cho cuộc đấu tranh giành chiến thắng Chủ nghĩa Hitler.

Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #285 vào lúc: 26 Tháng Giêng, 2019, 10:30:25 am »


*

        Rất có thể các nhà sử học tương lai nghĩ rằng kết quả quý giá nhất và bền vững nhất của Hội nghị Washington lần thứ nhất của chúng tôi - mang mã số "Arcadia" - là việc thành lập "Ủy ban Tham mưu trưởng Hỗn hợp" nổi tiếng lúc này. Trụ sở của Ủy ban này ở Washington, nhưng vì các Tham mưu trưởng Anh phải ở gần Chính phủ của mình, nên đã phải cử các sĩ quan cao cấp thường trực ở đó. Những đại diện này luôn giữ liên lạc với Luân Đôn hàng ngày, mà thực tế là hàng giờ, và vì vậy họ luôn có thể báo cáo và giải trình quan điểm của các Tham mưu trưởng Anh với các đồng nghiệp Hoa Kỳ bất cứ lúc nào không kể ngày hay đêm về mọi vấn đề về chiến tranh. Những cuộc hội thảo thường xuyên được tổ chức ở mọi miền trên thế giới - Casablanca, Washington, Quebec, Teheran, Cairo, Malta và Crimea - đã đưa các thủ trưởng hội tụ với nhau đôi khi đến nửa tháng. Trong số 200 cuộc họp chính thức được Ủy ban Tham mưu trưởng Hỗn hợp tổ chức trong suốt cuộc đại chiến, có không dưới 89 cuộc mà các thành viên phải mặc lễ phục tại các hội nghị này; và cũng chính tại những cuộc gặp này, phần lớn các quyết định quan trọng đã ra đời.

        Thường thì vào sáng sớm, từng ủy ban Tham mưu trưởng gặp riêng, cuối cùng 2 nhóm gặp nhau để cùng nhau thảo luận; và thường xuyên có những cuộc họp hỗn hợp tiếp vào buổi tối. Họ xem xét việc điều hành tổng thể cuộc chiến và trình lên Tổng thống và tôi những khuyên cáo đã được mọi người nhất trí. Trong khi đó, những cuộc thảo luận trực tiếp của riêng chúng tôi được thực hiện dưới hình thức nói chuyện trực tiếp hoặc điện tín và chúng tôi liên lạc mật thiết với nhóm tham mưu của mình. Sau đó, những đề xuất của các cố vấn chuyên nghiệp được đưa ra xem xét ở các phiên họp toàn thể và mệnh lệnh được truyền tới các tướng lĩnh trên trận địa. Dù cho có mâu thuẫn quan điểm như thế nào đi nữa tại các cuộc họp của Ủy ban Tham mưu trưởng Hỗn hợp, mặc dù có tranh luận thẳng thắn và căng thẳng thế nào đi nữa, thì sự trung thành đối với sự nghiệp chung vẫn vượt lên trên mọi quyền lợi quốc gia hay cá nhân. Những quyết định một khi đã đạt được và được các người đứng đầu chính phủ tán thành, được tất cả mọi người thực hiện với một sự trung thực hoàn hảo, đặc biệt là những người mà quan điểm ban đầu bị bác bỏ. Chưa bao giờ có thất bại trong việc đi đến sự thống nhất hành động hữu hiệu hay gửi những chỉ thị rõ ràng tới các tướng lĩnh ở mọi chiến trường. Mọi quan chức đều hiểu rằng mệnh lệnh mà anh ta nhận được đều mang theo chúng những ý kiến tổng hợp và sự ủy thác của cả hai Chính phủ. Chua bao giờ trong khối Đại Đồng Minh có một bộ máy chiến tranh khả dĩ hơn và tôi vui mừng rằng nó vẫn tiếp tục đến ngày hôm nay trên thực tế nếu không phải là trên hình thúc.

        Người Nga không có đại diện trong ủy ban Tham mưu trưởng Hỗn hợp. Họ có cả một mặt trận độc lập, riêng lẻ, ở xa và không cần cũng như không có phương tiện để tham gia, chỉ cần là chúng tôi biết được sự vận động tổng thể và thời điểm của sự vận động của họ, và họ cũng phải biết những điều tương tự như vậy của phía chúng tôi. Trong các vấn đề này, chúng tôi giữ liên lạc chặt chẽ với họ ở mức họ cho phép. Tôi sẽ phải kể lại những chuyến viếng thăm của cá nhân tôi đến Matxcova theo trình tự thời gian. Và ở Teheran, Yalta, và Potsdam, các Tham mưu trưởng của 3 quốc gia đều có mặt tại bàn đàm phán.

        Tôi đã kể chi tiết về việc Thống chế Dill, mặc dù không còn là Tổng tham mưu trưởng quân đội Hoàng gia, đã đến với chúng tôi trên chiến hạm Duke of York. Ông ta đã đóng đầy đủ vai trò của mình trong tất cả các cuộc thảo luận, không chỉ ở trên tàu mà thậm chí còn hơn thế cả khi chúng tôi gặp các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ. Tôi lập tức có một cảm nhận rằng uy tín và ảnh hưởng của ông đối với họ đang ở mức cao nhất. Chưa bao giờ một quan chức Anh nào mà chúng tôi phái qua Đại Tây Dương lại được người Mỹ tín nhiệm và tin tưởng ở một mức độ tương đương như vậy. Cá tính, sự thận trọng và tinh tế của ông ta đã lập tức làm cho ông chiếm được lòng tin của Tổng thống. Cũng vào thời gian đó, ông con thiết lập quan hệ chiến hữu và tình bạn riêng thực sự với tướng Marshall.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #286 vào lúc: 26 Tháng Giêng, 2019, 10:32:29 am »


        Trong lĩnh vực sản xuất, lệnh phát triển mở rộng với quy mô rất lớn được phát ra, và trong các sự phát triển này Beaverbrook có một sự thức đẩy mạnh mẽ. Chính sử của nước Mỹ về huy động công nghiệp cho chiến tranh là một bằng chứng phong phú cho vấn đề này. Donald Nelson, giám đốc điều hành của Cục sản xuất phục vụ chiến tranh của Mỹ đã lập ra những kế hoạch khổng lồ. "Nhưng" theo ghi chép của Mỹ, "Huân tước Beaverbrook đã làm cho Nelson có ấn tượng mạnh mẽ về sự cần thiết phải táo bạo". Và Nelson đã mô tả cái gì đã xảy ra bằng chính ngôn từ của mình:

        "Huân tước Beaverbrook nhấn mạnh rằng chúng tôi phái đề ra tầm nhìn về kế hoạch sản xuất cao hơn nhiều so với mức của năm 1942, để có thế đối phó với quân dịch hùng mạnh về cả vật chất lẫn tinh thần". Ông chỉ ra rằng ngay đến bây giờ chúng tôi chưa có kinh nghiệm về những tốn thất vật chất liên quan với kiểu chiến tranh mà chúng tôi đang làm. Chất men mà Huân tước Lord Beaverbrook đang tạo ra cho Nelson thì ông cũng truyền cho Tổng thống. Trong một công hàm gửi Tổng thống, Huân tước Beaverbrook đã đề ra mức sản lượng dự tính cho năm 1942 của Mỹ, Anh và Canada tính trên nhu cầu của Anh, Nga và Mỹ. So sánh cho thấy sự thiếu hụt nghiêm trọng trong kế hoạch sản xuất năm 1942. Ví dụ xe tăng thiếu 10.500 chiếc, máy bay 26.730 chiếc, pháo 22.600 chiếc, súng trường 1.600.000 chiếc. Lord Beaverbrook viết tiếp: Phái tăng hơn nữa chỉ tiêu sản lượng, và ông ta gắn niềm tin của mình vào tính hiện thực của chỉ tiêu trên cơ sớ "Khá năng vô biên của ngành còng nghiệp Mỹ". Kết quá là sự ra đời cúa một loạt mục tiêu sản xuất cao vượt cá mức Nelson đưa ra. Tống thống đã thực sự tin rằng khái niệm về năng lực công nghiệp Mỹ đã phái được "xem xét và uốn nắn" lại hoàn toàn... Ông ta đốc thúc hoàn thành kế hoạch vũ khí đạn được: gồm 45.000 máy bay chiến đấu; 45.000 xe tăng; 20.000 súng cao xạ, 14.000 súng chống tăng và 500.000 súng máy trong năm 1942".

        Những con số đáng kính nể này đã được hoàn thành vượt xa vào cuối năm 1943. Lấy chuyên chở đường thủy làm ví dụ thì trọng tải tàu mới chế tạo ở Mỹ là như sau: Năm 1942: 5.339.000 tấn. Năm 1943: 12.384.000 tấn.

        Tiếp tục tập trung suy nghĩ vào tổng thể cuộc chiến tranh, những cuộc thảo luận thường xuyên giữa tôi với Tổng thống và các cố vấn cao cấp của người và của tôi, hai bài phát biểu của tôi và chuyến đi tới Canada, cùng với dòng thác sự kiện sự việc cần được quyết định, và những bức điện giữa tôi với các đồng nghiệp trong nước, đã làm cho thời gian tôi ở Washington không những chỉ căng thẳng, vất vả mà thậm chí còn làm kiệt sức nữa. Những người bạn Mỹ của tôi nghĩ rằng tôi trông mệt mỏi rồi và nên nghỉ ngơi một chút. Và thế là ngài Stettinius đã tốt bụng mời tôi tụy ý sử dụng ngôi biệt thự nhỏ của ông ta trên bờ biển gần Palm Beach; vào ngày 4 tháng 1, tôi chuyển sang ở đó và bắt đầu có thời gian cho một số câu hỏi hóc búa vẫn đeo đẳng tôi.

        Trận Ý tấn công bằng "ngư lôi người lái" vào cảng Alexandria đã làm hư hại nặng các chiến hạm Queen Elizabeth và Valiant đã được miêu tả đầy đủ. Điều bất hạnh này, tiếp theo một loạt mất mát của hải quân chúng tôi vào thời gian này, xảy ra rất không đúng lúc và cũng gây nhiều rắc rối. Tôi lập tức thấy tính chất nghiêm trọng của nó. Hạm đội Địa Trung Hải lúc bấy giờ hầu như không còn tồn tại và hầu như không có lực lượng hải quân bảo vệ Ai Cập khỏi bị tấn công trực tiếp bằng đường biển. Trong tình trạng khẩn cấp này, có vẻ như là cần phải gửi ngay, bất kể loại máy bay phóng ngư lôi nào có thể điều động được từ bờ biển phía Nam nước Anh.

        Và như sau nay các bạn sẽ thấy, điều này đã dẫn tới một kết cục chẳng hay ho gì.

        Tôi cũng cảm thấy rất không yên tâm về những bản báo cáo ông Eden mang theo về từ Matxcova về những tham vọng lãnh thổ của Liên Xô, đặc biệt là với các nước vùng Baltic. Đây là những nước bị Peter Đại đế (Peter the Great) chinh phục, và đã trải qua 200 năm dưới quyền cai trị của các sa hoàng. Kể từ cuộc cách mạng Nga, các nước này đã trở thành nơi tiền đồn của châu Âu chống lại chủ nghĩa Bônsêvich. Và là cái mà bây giờ chúng ta gọi là "các nền dân chủ xã hội", nhưng lại rất sinh động và hung hăng. Đây chính là những con tốt đen mà Hitler đã thí trong ván cờ với Liên Xô trước khi cuộc chiến bắt đầu nổ ra năm 1939. Đã có một cuộc thanh trừng lớn của người Nga và Cộng sản. Tất cả các nhân vật và phần tử bao trùm đều bị thanh toán bằng cách này hay cách khác. Từ đó trở đi các người dân dũng tráng này phải sống trong vòng bí mật. Hiện nay, như chúng ta sẽ thấy, Hitler đã quay trở lại với một cuộc phản thanh trừng.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #287 vào lúc: 27 Tháng Giêng, 2019, 11:40:51 pm »


        Cuối cùng thì trong thắng lợi, Liên Xô đã giành lại được quyền kiểm soát. Như vậy chiếc lược của tử thần chà đi, xát lại rồi lại xát 1 lần nữa trên các nước Esthonia, Latvia, và Lithuania. Tuy nhiên cũng chẳng phải băn khoăn xem cái đúng là ở đâu. Các quốc gia vùng Baltic phải là những dân tộc có chủ quyền và độc lập.

        Tôi lên đường trở về Washington bằng tàu lửa vào đêm mồng 9 và có mặt tại Nhà trắng vào ngày 11, ở đó tôi phát hiện ra rằng ủy ban các Tham mưu trưởng Hỗn hợp đã đạt được bước tiến lớn, và hầu hết là hợp với các quan điểm của tôi. Tổng thống triệu tập một cuộc họp vào ngày 12 tháng 1 khi đã có một thỏa thuận toàn bộ về các nguyên tắc và mục tiêu lớn của cuộc chiến. Những bất đồng chỉ hạn chế trong các vấn đề về ưu tiên và trọng điểm. Và tất cả đều chịu sự chi phối của yếu tố bất khả cường và hắc búa, đó là khâu hàng hải.

        Sổ sách ghi chép của Anh viết: "Tổng thống Mỹ đã đưa ra dự trữ lớn trong việc tổ chức một cuộc viễn chinh Anh Mỹ sang Bắc Phi. Người ta đã thử lập một thời gian biểu cho việc đưa 90.000   quân Mỹ và 90.000 quân Anh cùng với một lực lượng không quân đáng kể sang Bắc Phi. Trong "Chiến lược vĩ đại", Bộ tham mưu đã thống nhất rằng "Chỉ nên tách khỏi các cuộc hành quân chiến đấu chống Đức một số tối thiểu của các lực lượng  cần thiết bảo vệ các lợi ích sống còn trên các chiến trường khác". Không ai khác ngoài tướng Marshall là người phải vất vả nhiều để đạt được quyết định quan trọng nay.

        Ngày 14, tôi chào tạm biệt Ông Roosevelt. Tổng thống có vẻ rất quan tâm đến những mối nguy hiểm của chuyến đi. Sự hiện diện của chúng tôi ở Washington bao ngày nay đã được cả thế giới biết đến, và trên bản đồ có thể thấy tới trên 20 tàu ngầm Đức ở trên đường về nước của chúng tôi. Trong thời tiết tuyệt đẹp, chúng tôi bay từ Norfolk tới Bermuda, nơi đó chiếc Duke of York cùng với các tàu khu trục đi hộ tống, đang đợi chúng tôi trong các dải san hô. Tôi đi trên một chiếc thủy phi cơ Boeing khổng lồ bay trên mặt nước, và gây cho tôi 1 ấn tượng rất tốt. Trong chuyến đi 3 giờ, tôi làm quen với phi công trưởng, đại úy Kelly Rogers, ông ta tỏ ra là một người đàn ông đầy năng lực và kinh nghiêm. Tôi thử cầm bánh lái một chút để có cảm giác về chiếc máy bay trên 30 tấn nặng nề bay trong không trung. Tôi càng quan tâm nhiều hơn tới chiếc phi cơ thủy. Lúc này tôi hỏi Rogers: "Nếu bay từ Bermuda tới Anh thì sao? Máy bay có chứa đủ nhiên liệu không?". Dưới cái bề ngoài thản nhiên như không ấy, ai cũng có thể thấy rằng ông ta đang rất hứng thú. "Tất nhiên là chúng ta có thể làm thế. Theo dự báo thời tiết lúc này thì sức gió đằng sau chúng ta là 40 dặm/giờ. Chúng ta sẽ mất 20 giờ bay". Tôi hỏi quãng đường là bao xa thì ông ta trả lời: "Khoảng 3500 dặm". Thấy vậy tôi cảm thấy phân vân.

        Tuy nhiên khi chúng tôi hạ cánh, tôi nêu vấn đề với Portal và Pound. Những sự kiện dữ dội đang xảy ra ở Malaysia, chúng tôi phải trở về ngay. Tham mưu trưởng không quân lập tức phát biểu rằng theo ông ta thì nguy cơ là điều hoàn toàn không thể lý giải được và ông ta không thể chịu trách nhiệm về vấn đề này. Đô đốc hải quân thứ nhất cũng ủng hộ ý kiến của ngươi đồng nghiệp. Tàu Duke of York, cùng với các tàu khu trục, đang sẵn sàng chờ chúng tôi, và nó có thể đem lại sự thoải mái và chắc chắn. Tôi hỏi: "Thế con những tàu ngầm của Đức hôm trước ông đã chỉ cho tôi thì thế nào?". Đô đốc làm một điệu bộ coi thường những tàu ngầm này, nó chứng tỏ thái độ thực sự của ông trước mối nguy hiểm đe dọa 1 chiến đấu hạm có tốc độ nhanh và được hộ tống một cách thích hợp. Tôi tự nhiên nghĩ hai vị tướng này cho rằng kế hoạch của tôi là tôi bay một mình và để họ quay về chiếc Duke of York, nên tôi nói: "Tất nhiên mọi người chúng ta đều có cơ hội cả". Thấy vậy cả hai rõ ràng đã thay đổi sắc mặt. Im lặng một hồi lâu rồi Portal nói có vấn đều có thể sẽ xem xét, và ông ta sẽ bàn kỹ vấn đề này với người phi công trưởng của chiếc tàu bay và bàn bạc về triển vọng của thời tiết với các quan chúc khí tượng thủy văn Tôi để chuyện này dừng lại ở đây.

        Hai giờ sau, cả hai người quay lại và ông Portal nói ông ta nghĩ rằng việc tôi nêu ra có thể làm được. Chiếc máy bay chắc chắn có thể hoàn thành nhiệm vụ trong những điều kiện phải chăng, thời tiết có vẻ rất thuận lợi vì gió thuận chiều. Rõ ràng là nhanh chóng về nước là rất quan trọng. Tướng Pound nói ông ta đánh giá rất cao lái trưởng, ngươi chắc chắn có kinh nghiệm vô song. Tất nhiên là cũng có nguy hiểm, nhưng mặt khác còn có cả tàu ngầm Đức phải coi chừng. Bởi vậy chúng tôi quyết định đi nếu thời tiết không xấu đi. Chúng tôi cho là cần phải thu gọn hành lý vào vài thùng đựng giấy từ tối quan trọng, cuộc hành trình được bắt đầu vào 2 giờ sáng ngày hôm sau. Mọi người cho rặng cần vứt bỏ bớt hành lý và chỉ để lại vài hộp giấy tờ quan trọng. Dill phải ở lại Washington với tư cách đại diện quân sự cho tôi bên cạnh Tổng thống. Đoàn của chúng tôi chỉ bao gồm chúng tôi, 2 tham mưu trưởng, Max Beaverbrook, Charles, Moretan và Hollis. Những người còn lại sẽ đi trên chiếc Duke of York.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #288 vào lúc: 28 Tháng Giêng, 2019, 11:51:48 pm »


        Không như thường lệ, sáng sớm hôm sau tôi chợt tỉnh giấc sớm và tin chắc là mình nhất định không được đi ngủ. Tôi phải thú nhận rằng tôi cảm thấy quá sợ hãi. Tôi nghĩ đến những khoảng mênh mông của đại dương, và rằng chúng tôi sẽ không cách đất liền dưới 1000 dặm cho tới khi chúng tôi tới các đảo Anh quốc. Tôi nghĩ rằng có lẽ tôi đã vội vã, làm một việc quá mạo hiểm. Luôn luôn nghĩ tới một cuộc bay ngang Đại Tây Dương tôi lại rùng mình. Nhưng số phận đã định cả rồi. Tuy vậy, tôi vẫn phải thừa nhận rằng nếu vào bữa sáng, hay thậm chí trước bữa trưa mà tôi nhận được báo cáo nói rằng thời tiết đã thay đổi và chúng tôi phải đi đường biển thì tôi có lẽ cũng phải tự điều chỉnh mình để thích hợp với chiếc tàu đã phải đi suốt cung đường để kiếm chúng tôi.

        Đúng như lời lái trưởng đã tiên đoán, cất cánh khỏi mặt nước quả thật là cả một vấn đề. Thực ra, tôi nghĩ rằng chúng tôi phải tách ra khỏi các quả đồi thấp gần cảng. Không có nguy hiểm thực sự nào hết, chúng tôi ở trong tay những người đáng tin cậy. Chiếc máy bay nặng nề bay lên khỏi dải đá ở độ cao khoảng 1/4 dặm, và chúng tôi còn lên cao được vài trăm bộ Anh nữa. Không phải nghi ngờ gì về sự thoải mái khi ở trong những loại thủy phi cơ to như thế này. Máy chạy êm, độ rung không làm ngươi ta khó chịu, và chúng tôi qua một buổi chiều dễ chịu và có 1 bữa tối vui vẻ. Chiếc tàu bay này có hai tầng và 1 lối cầu thang dẫn ra buồng lái. Màn đêm đã buông xuống và mọi báo cáo đều khả quan. Chúng tôi đang bay qua sương mù dày đặc ở độ cao chừng 7000 bộ Anh. Có thể nhìn thấy gờ phía trước của các cánh với những dòng xả khí đỏ lửa hất về phía sau trên mặt cánh. Ở những máy này, vào lúc này, có những ống cao su lớn, chốc chốc phình to ra rồi co lại để tránh quá trình băng hóa. Lái trưởng giải thích cho tôi về cơ chế vận hành của nó, và chúng tôi thi thoảng lại thấy băng vỡ nhỏ ra. Tôi vào giường và ngủ ngon lành trong nhiều giờ.

        Tôi tỉnh dậy ngay trước bình minh và đi ra phía buồng lái. Trời đang sáng dần. Còn phía dưới chúng tôi hầu như là một lớp thảm mây dày đặc.

        Sau khi ngồi một tiếng hay hơn trên chiếc ghế trống của phi hành trưởng, tôi cảm thấy một sự lo lắng nào đó len vào tâm trí tôi. Chúng tôi giả thiết rằng đang tiến gần tới Anh từ phía Tây Nam, và đã phải vượt qua nhóm đảo Scilly, nhưng chúng tôi chẳng nhìn thấy gì qua các khe hở của thân mây. Vì chúng tôi đã bay hơn 10 tiếng đồng hồ trong sương mù, và trong thời gian đó cũng mới chỉ một lần nhìn thấy một ngôi sao, nên rất có thể chúng tôi đã bay lệch hướng. Tất nhiên phải hạn chế liên lạc bằng vô tuyến điện theo nguyên tắc thông thường của thời chiến. Qua các cuộc thảo luận đang diễn ra thì rõ ràng rằng chúng tôi chẳng biết mình đang ở đâu nữa. Lúc này Portal, người đang nghiên cứu xác định kỹ vị trí của chúng tôi, sau khi trao đổi với viên phi hành trưởng, nói với tôi rằng: "Chúng ta sẽ quay về hướng Bắc ngay lập tức". Sau khi chuyển hướng được khoảng nửa giờ đồng hồ lúc thì trong mây, lúc thì ngoài mây, chúng tôi nhìn thấy nước Anh, và lát sau đã tới Plymouth, nơi chúng tôi đã hạ cánh an toàn để tránh những quả khí cầu đang chiếu sáng, và hạ cánh ngon lành.

        Khi tôi rời máy bay, viên phi hành trưởng nhận xét: "Trong cả cuộc đời tôi, tôi chưa bao giờ cảm thấy nhẹ nhõm hơn lúc này khi tôi đã đưa Ngài an toàn hạ cánh trên cảng này". Lúc đó, tôi không đánh giá ý nghĩa của câu nói này. Nhưng về sau tôi được biết rằng nếu chúng tôi chuyển hướng chậm thì chỉ thêm 5 hay 6 phút nữa chúng tôi đã nằm trong tầm ngắm của pháo cao xạ quân Đức ở Brest. Chúng tôi đã tiến về phía Tây Nam quá nhiều trong đêm. Hơn nữa, việc chỉnh lại hướng bay có tính chất quyết định đó đã đưa chúng tôi không phải ra khỏi phía Tây Nam mà chỉ khỏi phía Đông của hướng Nam - túc là từ phía địch hơn là từ hướng chúng tôi mong đợi. Vài tuần sau, người ta thông báo với tôi rằng dưới mặt đất đã tưởng máy bay chúng tôi là máy bay ném bom của địch bay từ Brest tới, và đã lệnh cho 6 máy bay Hurricane xuất kích bắn rơi máy bay chúng tôi. Tuy nhiên tốp này đã không hoàn thành được nhiệm vụ.

        Tôi diện cho Tổng thống: "Chúng tôi đã về đến đây bằng một chặng bay tốt lành từ Bermuda với sức gió là 30 dặm/giờ".
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #289 vào lúc: 29 Tháng Giêng, 2019, 11:29:54 pm »


7

SINGAPORE SỤP ĐỔ

        Người ta trông đợi là tôi sẽ có một bài phát biểu đầy đủ trước Quốc hội về nhiệm vụ của tôi tới Washington và tất cả những gì đã xảy ra trong năm tuần lễ tôi đi vắng. Trong đầu tôi nổi lên 2 sự việc. Điều thứ nhất là Liên minh Vĩ đại về lâu dài phải giành chiến thắng. Điều thứ hai là hàng loạt những thảm họa to lớn không thể lưỡng được đã xảy đến với chúng tôi trong cuộc tấn công dữ dội của Nhật Bản. Mọi người đều có thể thở phào nhẹ nhõm khi nhận thấy là cuộc sống của chúng tôi, với tư cách là một quốc gia, một đế chế, đã không còn gặp phải hiểm nguy nữa. Mặt khác, cái cảm giác về một mối nguy hiểm chết người đã được loại bỏ gần hết, tạo điều kiện cho những người bình luận, dù có thiện chí hay ác ý, được tự do chỉ ra nhiều sai lầm đã phạm phải. Hơn thế, nhiều người còn cảm thấy nhiệm vụ của họ là cải tiến cách thức chỉ đạo cuộc chiến tranh và như vậy rút ngắn được câu chuyện hãi hùng. Bản thân tôi cũng cảm thấy vô cùng phiền toái về những thất bại đã giáng lên đầu chúng tôi, và không một ai biết rõ hơn tôi một điều rằng những thất bại này không gì khác chỉ là sự khởi đầu của một con đại hồng thủy. Thái độ của Chính phủ Úc, sự chỉ trích vô tư một cách hão huyền của giới báo chí rất thạo tin, sự bủa vây liên tục, với những lời lẽ sắc sảo của 20 hay 30 thành viên có năng lực của Nghị viện, không khí ở các hành lang trong nghị viện, tất cả đều gây cho tôi cảm giác về sự lúng túng của công luận, không mấy vui vẻ, luôn gây khó khăn nhưng lại rất hời hợt, đang tăng lên đối với tôi từ mọi phía.

        Mặt khác, tôi lại ý thức được sức mạnh của vị thế của mình. Tôi có thể trông cậy vào thiện chí của mọi người dân đối với phần đóng góp của tôi vào sự sống còn của họ năm 1940. Tôi không đánh giá thấp làn sóng sâu rộng về sự trung thành với quốc gia đã đẩy tôi lên phía trước. Nội các chiến tranh và các Tham mưu trưởng đã chỉ cho tôi thấy lòng trung thành cao nhất của họ. Tôi tự tin vào bản thân mình. Tôi nói rõ, khi hoàn cảnh yêu cầu, cho tất những người xung quanh tôi, rằng tôi sẽ không tán thành một sự cắt giảm quyền lực và trách nhiệm của riêng tôi. Báo chí đầy ắp những lời gợi ý rằng tôi nên tiếp tục ở lại cương vị Thủ tướng và đưa ra những bài phát biểu, nhưng nhường việc điều khiển chiến tranh cho một ai đó khác. Tôi quyết định chẳng nhường cái gì cho bất kỳ giới nào và trục tiếp nhận lấy trách nhiệm chính đối với bản thân mình và yêu cầu Hạ viện bỏ phiếu tín nhiệm. Tôi cũng nhớ người Pháp có câu nói uyên thâm: "Người ta chỉ ngự trị trên các tâm hồn bằng sự bình tĩnh".

        Một điều cần thiết hơn cả là phải cảnh báo cho Hạ viện và đất nước về những bất hạnh lơ lửng trên đầu chúng tôi. Không có điều gì tệ hại trong việc lãnh đạo công chúng hơn là cứ nuôi mãi những hy vọng hão chóng bị tan vỡ. Người dân Anh có thế đối mặt với những hiểm họa hay bất hạnh bằng sự can đảm và tinh thần lạc quan, nhưng họ lại cay đắng giận dữ khi bị lừa dối hay nhận thấy rằng những ai có trách nhiệm về những vấn đề của họ lại đang sống trong thiên đường của một kẻ ngốc. Tôi cảm thấy một điều sống còn không phải chỉ với riêng tôi mà còn đối với toàn bộ cuộc chiến tranh, là coi nhẹ những thảm họa trong tương lai bằng cách mô tả với những lời lẽ đen tối nhất những triển vọng trước mắt. Cũng có thể làm như vậy vào lúc nay mà không hề gây hại cho tình hình quân sự hay gây bất ổn cho niềm tin nền tảng vào một chiến thắng cuối cùng mà giờ đây tất cả chúng tôi đều có quyền cảm nhận. Dù cho có những cú sốc hay sự căng thẳng hàng ngày, tôi không hề bực mình khi phải dành 12 hay 14 giờ đồng hồ tập trung suy nghĩ. Hàng vạn từ cho một bài viết độc đáo về một đề tài rộng lớn, nhiều khía cạnh đòi hòi, và trong khi ngọn lửa của cuộc chiến tranh thù địch ở Sa mạc đã bén đến chân tôi, tôi đã chuẩn bị xong cho mình bài phát biểu lượng định tình hình.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM