Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Ba, 2024, 01:34:40 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Hồi ký Winston Spencer Churchill  (Đọc 53164 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #260 vào lúc: 22 Tháng Giêng, 2019, 11:42:51 pm »


        Chính chủ Xô Viết có cảm tưởng rằng họ đang ban ơn lớn cho chúng tôi bằng cách chiến đấu trên đất nước của chính họ để giành lại cuộc sống cho chính họ vậy. Họ càng chiến đấu thì chúng tôi càng mắc nợ nhiều hơn. Đây không phải là một quan điểm cân đối. Đã hai ba lần trong mối quan hệ thư từ kéo dài giữa chúng tôi, tôi đã phải phản đối bằng những lời lẽ thẳng thừng, nhưng đặc biệt là việc đối xử bất công với các thủy thủ của chúng tôi, những người đã chịu bao nguy hiểm đem đồ tiếp tế tới Murmansk và Archangel. Tuy nhiên, tôi hầu như luôn luôn chịu đựng sự hăm dọa, chỉ trích bằng: "Một cái nhún vai kiên nhẫn; vì dung thứ là huy chương" của tất cả những ai phải đối phó với Kremlin. Hơn nữa, tôi luôn xét đến những sức ép mà Staline cùng dân tộc Nga dũng cảm của ông ta đã chịu đựng.

        Trong câu chuyện này tôi không thế làm được gì nhiều hơn là đặt trước độc giả những nét nổi bật về một cuộc chiến đấu mới của các lực lượng quân đội, của các dân cư giờ đây đã bắt đầu trên qui mô khổng lồ. Trong tháng đầu tiên, những người Đức đã tấn công, đã ngoạm và ngốn sâu tới hàng 300 dặm vào đất Nga, nhưng vào cuối tháng bảy nổ ra sự bất đồng ý kiến giữa Hitler và Brauchitsch Tổng tư lệnh, Brauchitsch cho rằng quân đoàn của Timosenko bố trí tại phía trước Matxcơva là sức mạnh quân sự chính của Nga và do đó cần phải bị đánh bại. Đây là một học thuyết chính thống. Va sau đó, Brauchitsch khẳng định Mátxcơva, trung tâm đầu não về công nghiệp, chính trị và quân sự của toàn nước Nga, cần phải được chiếm đóng. Con Hitler lại phản đối kịch liệt. Ông ta mong giành được lãnh thổ và tiêu diệt quân đội Nga trên trận tuyến rộng nhất. Ớ miền Bắc, ông ta yêu cầu chiếm đóng Leningrad, và ở miền Nam, là khu công nghiệp lòng chảo Donets, Crimea và cả vùng của ngõ dẫn tới khu cung cấp dầu lửa Caucase của Nga. Trong khi đó Mátxcova có thể chờ đến lượt mình.

        Sau cuộc thảo luận quyết liệt. Hitler đã bác bỏ ý kiến các tư lệnh của mình. Tập đoàn quân đội phía Bắc được tăng cường thêm bằng đạo quân thuộc mặt trận phía giữa nhận lệnh hành quân gây sức ép với Leningrad. Tập đoàn quân phía giữa được đẩy xuống nhiệm vụ phòng thủ. Họ được lệnh điều một đoàn tăng Panzer (Con Báo) xuống phía Nam tập kích vào sườn quân Nga đang bị Rundstedt đuổi chạy qua sông Dnieper. Trong đợt dàn quân này, những người Đức giành được thắng lợi. Vào đầu tháng Chín, một lực lượng lớn Nga bị cố lập đang được hình thanh quanh vùng Kiev và tới hơn nửa triệu người đã bị giết hoặc bị bắt giữ trong cuộc chiến tuyệt vọng kéo dài suốt tháng đó. Ở miền Bắc không thấy nói là đã thu được thắng lợi nào kiểu này. Leningrad bị bao vây nhưng chua bị chiếm giữ. Quyết định của Hitler là sai lầm. Ông ta giờ đây phải hướng lại tâm trí và sức mạnh của ý chí của mình về địa bàn phía giữa. Những lực lượng vây hãm Leningrad được lệnh tách những nhóm di động và một phần lực lượng hỗ trợ không quân trực thuộc để tăng cường cho một cuộc tấn công mới vào Mátxcova. Đoàn tăng Panzer, vốn được điều về miền Nam cho tướng Rundstedt, giờ lại kéo về tham gia vào cuộc tấn công này. Vào cuối tháng Chín, người ta đã phải chuẩn bị lại việc đánh thọc vào trung tâm mà trước đó bị hủy bỏ, trong khi đó các cánh quân phía Nam lại tiếp tục tiến về phía Đông tới hạ lưu sông Don, nơi mà từ đó vùng Caucase sẽ là vùng bỏ trống.

        Nhưng vào lúc này, còn có mặt khác của câu chuyện. Dù bị thất bại nặng nề đến kinh hoàng, nhưng sự kháng cự của Nga vẫn dai dẳng và ngoan cường. Những người lính của họ đã chiến đấu tới hơi thở cuối cùng, và quân đội của họ cũng đã trưởng thành về kinh nghiệm và kỹ năng. Du kích đã xuất hiện phía sau các trận tuyến của Đức và quấy rối việc thông tin liên lạc trong một cuộc chiến tranh tàn khốc không thương tiếc. Hệ thống đường sắt của Nga bị Đức chiếm giữ đang chứng tỏ không có hiệu quả; các con đương đang bị tắc nghẽn của các phương tiện giao thông có mật độ dày đặc làm hỏng, việc đi lại không có đường xá sau mưa thường là không thể thực hiện nổi. Các phương tiện chuyên chở đã bắt đầu cho thấy những dấu hiệu hao mòn, hỏng hóc. Chỉ còn xấp xỉ hai tháng là đến mùa đông đáng sợ của nước Nga. Liệu vào lúc ấy, Mátxcơva có bị chiếm đóng không? Và nếu điều đó xảy ra thì, liệu đã đủ chưa? Và đây là câu hòi mang tính quyết định. Dù Hitler vẫn còn đang rất phấn chấn về chiến thắng tại Kiev, các tướng lĩnh Đức có lẽ cũng cảm nhận rõ ràng được là những hoài nghi ban đầu của họ giờ đã được minh chứng. Đã có một sự chậm trễ bốn tuần đối với cái giờ đây trở thành mặt trận quyết định. Nhiệm vụ "Hủy diệt lực lượng quân thù ở Bạch Nga" được trao cho Quân đoàn Trung tâm giờ đây vẫn chưa được thực hiện. Nhưng mùa thu cứ trôi qua và cuộc khủng hoảng cực độ đã xuất hiện trên mặt trận Nga, những yêu cầu của Liên Xô đối với chúng tôi trở nên thôi thúc hơn.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #261 vào lúc: 22 Tháng Giêng, 2019, 11:43:56 pm »


*


        Huân tước Lord Beaverbrook từ Mỹ trở về đã kích thích những lực lượng vốn đã hùng mạnh lại tập trung vào việc tăng sản xuất. Giờ đây ông ta đã trở thành một chiến sĩ về viện trợ cho Nga trong Nội các Chiến tranh. Trong việc này, ông ta có một công lao lớn. Khi chúng tôi nhớ lại những sức ép đối với chúng tôi khi chuẩn bị trận chiến tại sa mạc Libi, và những nỗi lo lắng sâu sắc về Nhật Bản, làm cho các vấn đề của chúng tôi ở Malaysia và Viễn Đông rối bời lên, và tất cả những thứ gửi cho Nga đã phải rút ra từ những nhu cầu tối quan trọng của Anh, thì điều cần thiết là những yêu cầu của người Nga phải được ủng hộ mạnh mẽ ở đỉnh cao của tư duy chiến tranh của chúng tôi.

        Tôi cố gắng sắp xếp cân đối mảng chính của công việc trong đầu và chia sẻ những căng thẳng của bản thân với các đồng nghiệp. Để có một đồng minh mới, một người đồng minh hay cáu kỉnh, hầm hề, tham lam và gần đây nhất quá đỗi thơ ơ đối với sự sống còn của chúng tôi, chúng tôi đã phải chịu đựng cái việc không lấy gì làm dễ chịu là quá trình phơi bày an ninh cũng những kế hoạch sống còn của chính chúng tôi trước sự thất bại...

        Tôi cảm thấy rằng khi Beaverbrook và Averell Harriman từ Washington trở về và chúng tôi có thể kiểm tra tất cả những triển vọng về đạn dược lẫn đồ hậu cần, hai ông này nên tới Mátxcova và trao cho phía Nga tất cả những gì chúng tôi đã có thể dám làm và giành ra được. Những cuộc tranh luận đau lòng và kéo dài đã diễn ra. Các bộ quân chủng cảm thấy việc ấy như cào cấu từng thớ thịt làn da của họ vậy. Tuy nhiên, chúng tôi đã tập hợp sức mạnh tối đa trong quyền hạn của mình và đã đồng ý dành ra một phần lớn của tất cả những gì mà chúng tôi mong mỏi phía Mỹ giúp cho chính mình để có thể đóng góp một cách có hiệu quả vào cuộc kháng chiến của những người dân Xô Viết. Tôi đề xuất cử Huân tước Lord Beaverbrook tới Mátxcova trước các đồng nghiệp của tôi vào ngày 28/8. Nội các có vẻ rất muốn ông ta sẽ trình bày vấn đề nay với Staline và Ngài Tổng thống cảm thấy Harriman đại diện xúng đáng và đầy đủ cho mình.

        Như là một biện pháp sơ bộ cho phái đoàn này, trong một bức thư gửi cho Staline, tôi đã nêu lên những nét chính trong lập trường bằng những ngôn từ chung chung, và vào tối ngày 4/9, M.Maisky yêu cầu gặp tôi để chuyển câu trả lời của Staline. Đây là bức thông điệp cá nhân đầu tiên kể từ tháng Bảy. Sau khi cảm ơn chúng tôi đã cung cấp cho ông ta thêm 200 máy bay chiến đấu nữa, ông ta bắt đầu đi sâu vào các vấn đề thực tế.

        "... Sự ổn dinh tương dối trên mặt trận mà chúng tôi đã giành được 3 tuần trước đây (ông ta đã đánh điện) đã tan vỡ trong tuần qua do việc Đức chuyến sang mặt trận phía Đông từ 30 đến 34 sư đoàn bộ binh nguyên vẹn cùng một lượng rất lớn xe tăng, máy bay, củng như sự gia tăng lớn về hoạt động của 20 sư đoàn Phần Lan và 26 sư đoàn Rumani. Người Đức coi những nguy hiểm ở phía Tây chỉ là trò lừa bịp, và đang chuyển toàn bộ lực lượng của mình về phía Đông mà không bị trừng phạt, họ tin rằng sẽ không thể có một mặt trận thứ hai ở phía Tây, và sẽ không có một mặt trận thứ hai nào cả. Người Đức coi việc họ đánh gục từng ké thù một là điều hoàn toàn có thể làm được: Trước hết là Nga, rồi sau đó đến Anh.

        Kết quá là chúng tôi đã mất đi hơn nửa Ucraina, và thêm vào đó, kẻ thù đang đứng trước các cửa ngõ vào Leningrad. Tôi thiết nghĩ chỉ còn một cách duy nhất để thoát khỏi tình trạng này - đó là thiết lập một mặt trận thứ hai tại đâu đó, ở Bancăng hoặc ở Pháp trong năm nay, có khả năng thu hút từ 30 đến 40 sư đoàn khỏi mặt trận phía Đông, đồng thời phái báo đảm cho

        Liên bang Xô Viết 30.000 tấn nhôm vào dầu tháng Mười tới cùng một số lượng viện trợ tối thiểu hàng tháng lên tới 460 máy bay, 500 xe tăng (loại nhỏ hoặc trung bình)..."
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #262 vào lúc: 22 Tháng Giêng, 2019, 11:45:11 pm »


*


        Đại sứ Xô Viết, người được ông Eden đi cùng, đã ở lại nói chuyện với tôi một tiếng rưỡi đồng hồ. Ông ta nhấn mạnh, bằng những 1ời lẽ cay đắng, việc Nga đã hầu như một mình phải chịu đựng sự giết chóc tàn bạo của người Đức suốt 11 tuần qua. Quân đội Nga lúc này đã phải chịu gánh nặng của một cuộc tấn công mà trước đây chưa có trận nào sánh nổi. Ông ta nói ông ta không muốn sử dụng những lời lẽ kịch tính, nhưng đây có thể là một bước ngoặt trong lịch sử. Nếu nước Nga Xô Viết thất thủ, làm sao chúng tôi có thể giành thắng lợi đây? Ông Maisky nhấn mạnh tính chất nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng trên mặt trận Nga bằng những lời lẽ bi đát khiến tôi phải cảm thông. Nhưng lúc này, khi tôi cảm nhận được ý đồ hăm dọa trong lời kêu gọi của ông ta, tôi lại tức giận. Tôi nói với vị đại sứ, người mà tôi đã quen biết nhiều năm rằng, "Hãy nhớ rằng chỉ mới 4 tháng trước đây chúng tôi, ở trên hòn đảo này, không hề biết là liệu các ông có không hùa theo Đức để chống lại chúng tôi hay không? Thực tế, chúng tôi đã nghĩ rất có thể các ông sẽ làm như vậy. Thậm chí lúc ấy chúng tôi vẫn cảm thấy rằng cuối cùng chúng tôi sẽ chiến thắng. Chúng tôi chưa bao giờ  nghĩ là sự sống còn của chúng tôi lại phải phụ thuộc vào hành động thù địch hay không của các ông. Cho dù có điều gì xảy ra đi chăng nữa, cho dù các ông có làm gì đi chăng nữa thì, trong tất cả mọi người, các ông không có quyền trách cứ chúng tôi". Vì thấy tôi đi vào vấn đề, ông đại sứ kêu lên: "Ông bạn Churchill thân mến của tôi, xin ông hãy bình tĩnh", nhưng sau đó giọng ông ta thay đổi rõ rệt.

        Cuộc trao đổi tiếp tục trên nền tảng của những bức điện được trao đổi. Vị đại sứ khẩn thiết yêu cầu đổ bộ khẩn cấp tại vùng biển của Pháp hoặc Hà Lan. Tôi đã lý giải những lý do quân sự đã khiến cho việc này không thể thực hiện được, và rằng đó không thể làm đỡ gánh cho nước Nga được. Tôi nói rằng ngày hôm đó tôi đã phải mất đến 5 tiếng đồng hồ xem xét các phương tiện để tăng mạnh công suất tuyến đường sắt xuyên Ba Tư cùng các chuyên gia của chúng tôi. Tôi đã nói về nhiệm vụ của Beaverbrook - Harriman và về lòng quyết tâm của chúng tôi sẵn sàng cung cấp toàn bộ số đồ tiếp tế mà chúng tôi có thể dành ra hoặc chuyên chở được. Cuối cùng ông Eden và tôi đã nói với ông ta rằng về phần chúng tôi, chúng tôi đã sẵn sàng nói thẳng với người Phần Lan rằng chúng tôi sẽ tuyên chiến với họ nếu họ tiến sâu vào Nga, vượt quá ranh giới năm 1918 của họ. Lẽ tất nhiên là ông M.Maisky không thể dừng việc kêu gọi mở thêm 1 mặt trận thứ hai ngay lập tức, và chẳng con tác dụng gì nữa khi kéo dài thêm cuộc tranh cãi.

        Ngay lập tức tôi đã tham khảo ý kiến của Nội các về vấn đề nêu trong cuộc đối thoại này và trong bức thông điệp của Staline, và tối đó tôi đã gửi câu trả lời, mà trong đó những đoạn sau đây đều gắn với vấn đề:

        "Cho dù (tôi viết) chúng tôi không nên lưỡng lự trong các cố gắng, song trên thực tế không hề có khả năng về một hành động nào đó của Anh ở phía Tây, ngoại trừ sự hoạt động của không quân, có thể kéo quân Đức khỏi phía Đông trước khi mùa Đông tới. Không hề có khả năng về bất kỳ một mặt trận thứ hai nào được hình thành tại vùng Balkan mà lại thiếu được sự giúp đỡ của Thổ Nhĩ Kỳ. Tôi sẽ, nếu như Ngài mong muốn, đưa ra toàn bộ những lý do đã khiến các tham mưu trưởng của chúng tôi đi đến những kết luận này. Những lý do ấy đã được thảo luận với vị đại sứ của các ngài trong cuộc họp ngày hôm nay với Bộ trưởng Ngoại giao và các Tham mưu trưởng. Một hành dộng, cho dù có những thiện ý như thế nào đi chăng nữa mà chỉ dẫn tới những thất bại tốn kém sẽ chẳng thể có tác dụng gì cho bất kỳ ai, ngoại trừ Hitler.

        Giờ dây chúng tòi đã sẵn sàng cùng với Ngài vạch ra kế hoạch. Việc liệu quân đội Anh có đủ mạnh để kéo vào lục địa Âu châu trong năm 1942 hay không, phải phụ thuộc vào những sự kiện không thể dự đoán trước được. Tuy nhiên, việc trợ giúp các Ngài ở vùng cực Bắc khi bầu trời tối hơn là điều có thể làm được. Chúng tôi dang hy vọng có thể tăng thêm lực lượng quân đội của chúng tôi ở vùng Trung Đông tới 750 vạn quân vào mùa hè 1942. Một khi quân Ý - Đức ở Libi đã bị tiêu diệt, thì toàn bộ lực lượng này sẽ sẵn sàng có mặt bên sườn phía Nam của các Ngài và người ta hy vọng sẽ khuyến khích được Thổ Nhĩ Kỳ giữ được chí ít là ở mức trung lập tin cậy. Trong khi dó chúng tôi sẽ tiếp tục đánh phá đều đặn nước Đức ngày một khốc liệt hơn bằng không quân và giữ cho vùng biển không bị bao vây và bản thân chúng tôi vẫn sống còn...".


        Tôi nghĩ toàn bộ vấn đề quan trọng tới mức là tôi cũng đồng thời gửi cả bức điện sau đây cho Tổng thống trong khi trong tâm trí tôi ấn tượng vẫn còn nguyên vẹn:

        "Vị đại sứ Xô Viết dùng thứ ngôn ngữ mơ hồ về tính chất nghiêm trọng của thời điểm và thể hiện sự thay đổi, xuất phát từ câu trả lời của chúng tôi. Mặc dầu không một điều gì trong những lời ông ta nói bảo đảm cho cái giả thiết của ông ta cả, chúng tôi cũng không thể bỏ qua ấn tượng là có thể họ đang nghĩ về những điều kiện riêng biệt... Tôi cảm thấy rằng đây có thể là thời điểm quyết định. Chúng tôi chỉ có thể làm tất cả những gì chúng tôi có thể".

        Vào ngày 15 tháng Chín, tôi nhận được một bức điện khác từ Staline:

        "Tòi không hề nghi ngờ việc Chính phủ Anh mong muốn nhìn thấy Liên bang Xô Viết chiến thắng và đang tìm cách cũng như các phương tiện, để dạt được điều này. Như họ nghĩ, nếu việc thiết lập một mặt trận thứ hai ở phía Tây vào lúc này là điều không thể làm được, thì có lẽ có thể tìm ra được một biện pháp khác để tích cực giúp Liên Xô về mặt quân sự?

        Đối với tôi, dường như Anh có thể đổ bộ lên Archangel từ 25 tới 30 sư đoàn mà không gặp rủi ro, hay qua Iran (Persia) điều lực lượng này tới những vùng đất thuộc miền Nam Liên Xô. Bằng cách này, quân đội Liên Xô và quân đội Anh có thể cộng tác với nhau trên lãnh thổ Xô Viết. Đã có một tình huống tương tự như vậy xảy ra trong cuộc chiến trước tại Pháp. Việc sắp xếp mà tôi đã nói trên có thể là một sự giúp đỡ to lớn. Đó sẽ là một đòn giáng mạnh vào sự xâm lược của Hitler...".


        Một điều hầu như không thể tin được là người đứng đầu chính phủ Nga với tất cả những sự khuyến cáo của các chuyên gia quân sự của mình, lại có thể tự cam kết với những điều vô lý như vậy. Dường như thật tuyệt vọng khi phải tranh cãi với một con người có tư duy không thực tế một chút nào, và tôi đã gửi cho ông ta một câu trả lời hay nhất mà tôi có thể có.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #263 vào lúc: 23 Tháng Giêng, 2019, 10:33:50 pm »


*


        Trong khi ở Luân Đôn cuộc đàm phán Beaverbrook - Harriman đã hoàn tất, thì vào ngày 22/9 một phái đoàn tiếp viện Anh -  Mỹ đã khởi hành trên chiếc tuần dương hạm Luân Đôn từ Scapa Flow qua Bắc Cực đến Archangel rồi từ đó theo đường hàng không tới Mátxcơva. Rất nhiều điều phụ thuộc vào họ. Sự đón tiếp họ thật buồn tẻ và các cuộc thảo luận thật chẳng thân mật chút nào. Người ta gần như đã nghĩ rằng cái cảnh ngộ mà những người Xô Viết đang gặp phải là do lỗi của chúng tôi. Các tướng lĩnh, các quan chúc Xô Viết không hề trao cho những đồng sự Anh, Mỹ của họ bất kỳ một loại thông tin nao. Họ thậm chí cũng không hề thông báo cho những người này biết cơ sở mà họ đã dựa vào đó để tính toán những nhu cầu về vật liệu chiến tranh quí giá của chúng tôi. Và phái đoàn này không có được bất kỳ một loại hình nghỉ ngơi giải trí nào cho tới hầu như là đêm cuối cùng, khi họ được mời tới ăn tối ở Kremlin. Không nghĩ rằng một thời điểm như vậy giữa những người đang bấu bíu với những vấn đề nghiêm trọng nhất lại không thế có ích cho quá trình công việc. Ngược lại, rất nhiều những cuộc trao đổi cá nhân diễn ra lại mang lại một bầu không khí mà trong đó người ta có thể cùng nhau đạt được các thỏa hiệp. Nhưng giờ đây cái bầu không khí ấy có rất ít và có thể là hầu như chúng tôi lại là những người đã phải tới để yêu cầu có được đặc ân.

        Một sự việc đã được tướng Ismay ghi chép lại dưới hình thức bịa đặt và phần nào sống động lại có thể được phép đưa ra làm cho câu chuyện kể lại bớt nặng nề. Lính cần vụ của ông ta, một thủy quân Hoàng gia đã được một trong những hướng dẫn viên du lịch chỉ cho thấy những hình ảnh về Mátxcova. "Đây", người Nga nói, "là khách sạn Eden, trước là khách sạn Ribbentrop. Đây là phố Churchill, trước là phố Hitler. Đây là nhà ga Beaverbrook, trước là nhà ga Goering, mời đồng chí hút thuốc". Viên lính thủy đánh bộ trả lời. "Cảm ơn đồng chí, đồ con hoang trước đây!". Câu chuyện nay, dù có mang tính hài hước, nhưng cũng minh họa được cái không khí kỳ lạ của những cuộc họp này.

        Cuối cùng thì người ta cũng đạt được một thỏa hiệp hữu nghị. Một nghị định thư được ký về những đồ tiếp tế mà nước Anh và Hoa Kỳ có thể cung cấp cho Nga trong suốt quãng thời gian từ tháng 10/1941 đến tháng 6/1942. Nghị định thư này kéo theo những đảo lộn kế hoạch quân sự của chúng tôi, những kế hoạch vốn đã bị ảnh hưởng bởi sự thiếu thốn đồ tiếp tế nghiêm trọng. Tất cả đổ lên đầu chúng tôi bởi lẽ chúng tôi không chỉ phải giao toàn bộ các sản phẩm của chính chúng tôi mà còn phải từ bỏ hầu hết những đồ tiếp tế quan trọng mà người Mỹ lẽ ra đã có thể gửi tới cho chúng tôi. cả người Mỹ lẫn bản thân chúng tôi không hề có bất cứ cam kết nào về việc vận chuyển những đồ tiếp tế này xuyên qua tuyến đường Bắc cục và đại dương đầy khó khăn và hiểm nguy này. Xét tới những lời trách móc có tính xúc phạm mà Staline đã thốt ra khi chúng tôi gợi ý rằng đoàn vận chuyển nên đợi cho đến khi băng đã lùi xa rồi mới ra khơi, thì điều cần phải ghi nhớ là chúng tôi bảo đảm là đồ tiếp tế sẽ "được chất sẵn, đầy đủ tại các trung tâm sản xuất của Anh và Mỹ". Lòi mở đầu của nghị định thư nay kết thúc bằng những từ ngữ sau: "Anh và Mỹ sẽ viện trợ cho việc vận chuyển những vật liệu này tới Liên bang Xô Viết và sẽ giúp đỡ việc bốc dỡ".

        Lord Beaverbrook điện tới cho tôi: "Hiệu quả của thỏa hiệp này, là một sự củng cố tinh thần rất lớn đối với Mátxcơva. Việc duy trì tinh thần này phụ thuộc vào việc bốc dỡ...".

        "Tôi không coi tình hình chiến sự ở đây là an toàn cho những tháng mùa đông. Tôi thực sự nghĩ rằng tinh thần sẽ khiến cho tình hình an toàn".

        Dù tướng Ismay đã hoàn toàn có quyền và có đủ tư cách, trình độ, để thảo luận cũng như giải thích tình hình chiến sự ở mọi biến thể khác nhau của nó cho các nhà lãnh đạo Xô Viết, Beaverbrook và Harriman vẫn quyết không làm phức tạp thêm nhiệm vụ của họ bởi những vấn đề mà sẽ không thể có được những thỏa hiệp. Chính vì vậy, khía cạnh này đã không được đề cập đến ở Mátxcơva. Những người Nga vẫn không chính thức yêu cầu mở ngay một mặt trận thứ hai và họ dường như hoàn toàn trơ trơ trước bất cứ những lý lẽ nào cho thấy tính chất bất khả thi của việc này. Sự hấp hối là lời giải thích của họ. Vị đại sứ của chúng tôi phải hứng chịu điều này.

        Đã là cuối mùa thu rồi. Vào ngày 2/10, tập đoan quân phía giữa của Von Bock lại mở đợt tấn công tiếp vào Mátxcova, với hai đạo quân di chuyển thẳng vào thủ đô từ vùng Tây Nam và một tốp Panzer dàn rộng ra hai bên sườn. Thành phố Orel vào ngày 8/10 và một tuần sau Kalinin trên chặng đường Mátxcova tới Leningrad đã bị chiếm giữ. Do hai bên sườn lâm vào tình trạng nguy hiểm và nằm dưới sức ép nặng nề của cuộc tấn công hướng giữa của quân đội Đức, Thống chế Timoshenko đã rút lực lượng  của mình về 1 tuyến chừng 40 dặm phía Tây Mátxcova, nơi ông ta một lần nữa lại có thể đứng dậy chiến đấu. Vị trí của Nga vào thời điểm này là vô cùng nghiêm trọng. Chính phủ Nga, ngoại giao đoàn và toàn bộ các nhà máy có thể di chuyển được, đều rời khỏi thành phố và sơ tán xa hơn về phía đông, cách Kuibyshev chừng hơn 500 dặm. Ngày 19/10 Staline tuyên bố về tình trạng bị bao vây ở thủ đô và ban hành một nhật lệnh: "Mátxcova sẽ chiến đấu đến người lính cuối cùng". Mệnh lệnh của ông ta được chấp hành nghiêm túc. Mặc dù tốp quân thiết giáp của Guderian từ Orel đã tiến sâu tới thành phố Tula, mặc dù Mátxcova giờ đây bị bao vây ba phía, và có cả một số vụ oanh kích từ trên không, song những ngày cuối tháng 10 đã mang lại một sự kiên quyết kháng chiến rõ nét của người Nga và chặn đứng bước tiến của quân Đức.

*


        Vợ tôi cảm nhận sâu sắc rằng việc chúng tôi không có khả năng mang lại cho nước Nga bất cứ một sự giúp đỡ quân sự nào đã làm cho đất nước lâm vào cảnh ngày một cùng quẫn đau khổ khi mà những tháng trôi qua và quân Đức tràn qua các thảo nguyên. Tôi nói với bà ấy rằng việc mở một mặt trận thứ hai là điều không thể được và tất cả những gì có thế làm được trong một thời gian dài sẽ là việc gửi đồ tiếp viện gồm đủ các loại, trên qui mô lớn. Ông Eden và tôi khuyến khích bà ấy thăm dò khả năng gây quĩ cứu trợ y tế từ những người tình nguyện. Việc này đã được bắt đầu làm bởi tổ chức chữ thập đỏ của Anh và tổ chức Order of St John, và 2 tổ chức này đồng mời vợ tôi đứng ra kêu gọi "Viện trợ cho nước Nga". Vào cuối tháng 10, dưới sự bảo trợ của họ, bà ấy đã ra lời kêu gọi đầu tiên của mình. Ngay lập tức lời kêu gọi đã được hưởng ứng một cách mạnh mẽ. 4 năm sau đó, bà ấy đã cống hiến cả bản thân mình cho nhiệm vụ này bằng tất cả trách nhiệm và lòng nhiệt tình mà bà có. Gần 8 triệu bảng Anh đã được cả người giàu lẫn người nghèo đóng góp gây quỹ. Nhiều ngươi giàu đã quyên góp rất hào phóng, nhưng số tiền có được ấy chủ yếu là từ sự đóng góp hàng tuần của quảng đại quần chúng trong nước. Chính vì thế, thông qua tổ chức Chữ Thập Đỏ hùng mạnh và St. John, và cho dù có những tổn thất nặng nề trong những đoàn vận tải qua vùng Bắc cực, song những thuốc men, thiết bị phẫu thuật và tất cả mọi đồ dùng, cho đủ các loại tiện nghi, trang thiết bị đặc biệt khác đã liên tục tìm được con đường xuyên qua những vùng biển băng giá, chết người, để tới được tận tay quân đội và nhân dân Nga dũng cảm..
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #264 vào lúc: 23 Tháng Giêng, 2019, 10:35:31 pm »


2

CUỘC GẶP CỦA TÔI VỚI ROOSEVELT

        Tại thời điểm nay nhiều sự kiện đã xảy ra ở thế giới nói tiếng Anh. Vào giữa tháng Bảy, ông Harry Hopkins đã đến nước Anh để thực thi nhiệm vụ thứ hai của mình do Tổng thống giao phó. Việc đầu tiên mà ông nêu lên với tôi là tình hình mới do cuộc xâm lăng nước Nga mà Đức gây ra và tác động của nó tới tất cả những nguồn cung cấp theo thỏa ước "thuê mượn vũ khí" mà chúng tôi trông đợi ở Mỹ. Điều thứ hai, một vị tướng người Mỹ đã làm một bản báo cáo tỏ ý nghi ngờ về khả năng của chúng tôi trong việc chống lại sự xâm chiếm của Đức sau khi ông ta được cung cấp những phương tiện đầy đủ nhất cho việc thanh tra. Điều nay đã gây lo ngại cho Tổng thống. Điều thứ ba và cũng là kết quả, là những nghi ngờ của Tổng thống về việc chúng tôi cố gắng bảo vệ Ai Cập và Trung đông đã bị khoét sâu thêm. Liệu chúng tôi có thể mất tất cả vì cố gắng làm quá nhiều không? Cuối cùng là vấn đề bố trí sớm một cuộc gặp gỡ giữa tôi và Roosevelt bằng cách này hay cách khác ở một nơi nào đó.

        Lần này thì Hopkins không đơn độc. ỏ Luân Đôn có một số sĩ quan cao cấp của Quân đội và Hải quân Hoa Kỳ cũng có vẻ quan tâm đến Thỏa ước thuê mượn vũ khí, đặc biệt là Đô đốc Ghomley, ông này đã làm việc thường xuyên với bộ Hải quân về vấn đề Đại Tây Dương, và sự đóng góp của Mỹ vào giải pháp có liên quan. Tôi có một cuộc họp với đoàn của Hopkins và Tham mưu trưởng vào ngày 24 tháng 7 tại nhà số 10. Cùng đi với Hopkins, ngoài Đô đốc Ghormley còn có Trung tướng Chaney, người được gọi là "nhà quan sát đặc biệt" và Thiếu tướng Lee, tùy viên quân sự của Mỹ. Averell Harriman là người cuối cùng của đoàn, ông ta vừa trở về từ Ai Cập và đã được chỉ dẫn mọi thứ theo sự hướng dẫn của tôi.

        Hopkins nói "những người nắm giữ các vị trí quan trọng ở Mỹ và đã ra quyết định về các vấn đề phòng thủ" cho rằng Trung đông là nơi không thể phòng thủ được đối với Đế chế Anh và rằng đang có quá nhiều hy sinh to lớn để duy trì nó. Theo ý kiến họ, trận đánh trên Đại Tây Dương sẽ là trận đánh quyết định chiến tranh và mọi thứ phải được tập trung vào đây. Ông ta cũng cho biết là Tổng thống nghiêng về việc ủng hộ cuộc đấu tranh ở Trung đông vì cần phải đánh kẻ thù ở nơi nào mà chúng xuất hiện. Sau đó, tướng Chaney đã đặt ra bốn vấn đề Đế chế Anh theo thứ tự sau: việc phòng thủ Vương quốc Anh và các hải lộ trên Đại Tây Dương; việc phong thủ Singapore và các đương bể đi đến úc và Tân Tây Lan, việc phòng thủ các tuyến đường biển nói chung; và cuối cùng là phòng thủ Trung đông. Tất cả đều quan trọng nhưng ông ta đã sắp xếp theo thứ tự đó. Tướng Lee cũng đồng ý với tướng Chaney. Đô đốc Ghormley lo lắng về con đường tiếp tế tới Trung đông, không biết liệu những vũ khí đạn dược của Mỹ có đến đó với số lượng lớn được không. Liệu điều nay không làm yếu đi mặt trận ở Đại Tây Dương hay không?

        Tiếp đó tôi yêu cầu các Tham mưu trưởng của Anh bày tỏ quan điểm của mình. Đệ nhất Đô đốc Hải quân Anh đã giải thích tại sao năm nay ông ta cảm thấy thậm chí tin tưởng hơn năm ngoái vào việc đánh tan quân xâm lược. Tham mưu trưởng Không quân chỉ ra rằng không lực Hoàng gia đã mạnh hơn của Đức nhiều đến mức hơn hẳn so với tháng 9 năm ngoái, và nói về sức mạnh mới tăng lên của chúng tôi nhằm đập tan những cảng bị xâm chiếm. Tổng Tham mưu trưởng Hoàng gia cũng phát biểu với mục đích làm yên lòng, và nói quân đội giờ đây mạnh hơn rất nhiều so với tháng 9 năm trước. Tôi đã xen vào để giải thích những giải pháp đặc biệt mà chúng tôi đưa ra cho việc bảo vệ các sân bay sau những bài học từ Crete. Tôi mời những vị khách của chúng tôi đi thăm bất kỳ một sân bay nào mà họ quan tâm. "Đối phương có thể sử dụng hơi ngạt nhưng nếu như vậy thì đây lại chính là điểm bất lợi cho chúng, bởi vì chúng tôi đã chuẩn bị cho sự đánh trả tức thì và có thể có những mục tiêu tập trung tuyệt hảo mà đối phương xây dựng ở bờ biển. Chiến tranh bằng hơi ngạt sẽ có thể diễn ra ở ngay quê hương của chúng". Sau đó tôi yêu cầu Dill nói về Trung đông, ông ta đã đưa ra những lời giải thích hùng hồn về một số lý do khiến chúng tôi thấy cần thiết phải ở lại nơi này.

        Kết thúc cuộc thảo luận này, tôi cảm thấy là những người bạn Mỹ của chúng tôi đã bị thuyết phục bởi những lời phát biểu của chúng tôi, cũng có ấn tượng mạnh về sự đoàn kết của chúng tôi.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #265 vào lúc: 23 Tháng Giêng, 2019, 10:37:41 pm »


        Tuy nhiên, chúng tôi cảm thấy tin tưởng vào sự phòng thủ trên đảo Anh nhưng chua có lòng tin đó đối với Viễn đông nếu Nhật Bản tiến hành chiến tranh với chúng tôi. Những lo lắng này cũng làm phiền lòng ngài John Dill. Tôi vẫn giữ cái cảm giác là trong suy nghĩ của ông ta Singapore có ưu thế hơn hẳn Cairo. Đây thực sự là bi kịch, giống như là phải lựa chọn xem nên giết đứa nào, con trai hay con gái của bạn đây! về phần mình, tôi không tin là bất cứ điều gì xảy ra ở Malaysia có thể tương đương với một phần năm sự mất Ai Cập, kênh đao Suez và Trung đông. Tôi sẽ không tha thứ ý nghĩ từ bỏ cuộc chiến đấu cho Ai Cập và không chịu bất cứ sự bắt bí nào ở Malaysia. Các đồng sự của tôi cũng nhất trí với quan điểm này.

        Một buổi chiều, Harry Hopkins đi vào vườn Bộ Ngoại giao và cùng toi ngồi dưới ánh nắng. Hiện thời, ông ta nói rằng Tổng thống rất muốn gặp tôi ở một vịnh vắng vẻ nào đó hay ở chỗ khác cũng được. Tôi trả lời ngay lập tức rằng tôi chắc chắn Nội các sẽ để tôi đi. Vì vậy mọi việc đã được dàn xếp sớm. Vịnh Placentia ở New-Foundland đã được chọn, ngày cố định là ngày 9 tháng 8 và chiếc thiết giáp hạm mới nhất của chúng tôi, chiếc "Hoàng tử xứ Wales" đã đợi sẵn chờ lệnh. Tôi rất mong được gặp ông Roosevelt, ngươi mà tôi đã giao thiệp ngày càng thân mật qua thư từ trong vòng hai năm nay. Hơn nữa, một cuộc hội nghị hai bên sẽ công bố mối quan hệ ngày càng thân thiết giữa Anh và Mỹ, sẽ gây lo lắng cho đối phương, khiến cho Nhật Bản phải cân nhắc và tạo sự phấn khích cho bạn bè của chúng tôi. Cũng còn nhiều việc phải được giải quyết như việc can thiệp của Mỹ ở Đại Tây Dương; viện trợ cho Nga; nguồn cung cấp cho bản thân chúng ta và trên hết là mối đe dọa ngày một tăng của Nhật.

        Cùng đi với tôi là Ngài Alexander Cadogan từ Bộ Ngoại giao, Huân tước Chenvell, đại tá Hollis và đại tá Jacob từ Bộ Quốc phòng cùng các nhân viên của tôi. Thêm vào đó còn có một số các quan chức cao cấp của các ngành hành chính và kỹ thuật và của Vụ kế hoạch. Tổng thống nói ông sẽ đưa theo các người đứng đầu các    quân chủng chiến đấu    của Hoa Kỳ và ông Summer Welles từ Bộ Ngoại giao, cần thiết phải giữ bí mật tuyệt đối bởi vì lúc bấy giờ có rất nhiều tầu ngầm của Đức ở vùng biển Bắc Đại Tây Dương. Vì vậy Tổng thống giả bộ là đi nghỉ trên biển đã đổi tàu sang chiếc tuần dương hạm Augusta và để lại chiếc du thuyền nhằm đánh lạc hướng. Trong khi đó, mặc dù không được khỏe, Harry Hopkins được sự ủy thác của Tổng thống, bay tới Matxcova, một hành trình dài, mệt mỏi và nguy hiểm qua Na Uy, Thụy Điển và Phần Lan nhằm lấy thông tin đầy đủ, trực tiếp từ Staline về hoàn cảnh và nhu cầu của Liên Xô. Ông ta sẽ lên tàu "Hoàng tử xứ Wales" ở Scapa Flow.

        Đoàn tàu dài và đặc biệt đã đón tôi ở nhà ga gần Chequers, chở tất cả đoàn chúng tôi bao gồm cả một nhóm gồm nhiều cơ yếu. Từ chiếc tàu khu trục chúng tôi đã lên tàu "Hoàng tử xứ Wales" ở Scapa. Trước khi màn đêm buông xuống ngày 4 tháng 8, chiếc tàu "Hoàng tử xứ Wales" cùng với những tàu khu trục hộ tống đã tiến ra khơi Đại Tây Dương. Tôi thấy Harry Hopkins rất mệt mỏi sau những chuyến đi máy bay dài ngày và những cuộc hội nghị ở Matxcova đòi hỏi phải có cố gắng lớn của ông ta. Thực tế, ông ta đã đến Scapa hai ngày trước đây trong tình trạng mà Đô đốc chỉ huy hạm đội buộc ông ta phải lên giường nghỉ ngơi ngay và giữ ông ta ở đó. Tuy nhiên, ông ta vẫn vui vẻ như xưa nay, súc khỏe được hồi phục dần dần trong chuyến hành trình và nói với tôi về toàn bộ nhiệm vụ của ông ta.

        Mạn tàu rộng rãi trên khoang máy chân vịt, khi ở cảng là nơi thoải mái nhất, thì nay trở nên hầu như không thể chịu đựng được do bị rung trong thời tiết khắc nghiệt ngoài biển, vì vậy tôi chuyển lên phòng của Đô đốc ở trên đài chỉ huy tàu để ngủ và làm việc. Tôi rất quý mến viên thuyền trưởng của tàu, ông Leach, một ngươi đàn ông có duyên, đáng yêu và hội tụ tất cả các phẩm chất mà một thủy thủ Anh cần có. Chao ôi! Chỉ trong vòng bốn tháng, ông và các chiến hữu của mình cùng với con tàu lộng lẫy của ông đã bị chìm vĩnh viễn dưới các con sóng. Sang đến ngày thứ hai, biển động dữ dội tới mức mà chúng tôi phải lựa chọn giữa việc đi chậm lại hoặc bỏ lại đội tàu hộ tống. Đô đốc Pound, chủ tịch hội đồng Đô đốc đã đưa ra quyết định. Từ đó trở đi chúng tôi tiếp tục cho tàu chạy một mình với tốc độ cao. Có nhiều tàu ngầm Đức bị phát hiện, chúng tôi chạy ngoằn ngoèo và đảo rộng hướng để tránh. Tuyệt đối không phát sóng vô tuyến điện. Chúng tôi có thể nhận tin tức, nhưng trong thời gian ngắn chúng tôi không thể trả lời ngay mà phải chờ từng lúc. Vì vậy, có một khoảng thời gian yên tĩnh trong lịch làm việc hàng ngày của tôi và một cảm giác nhàn rỗi kỳ lạ mà tôi đã không được biết đến kể từ khi chiến tranh nổ ra. Lần đầu tiên trong nhiều tháng tôi có thể đọc một cuốn sách để giải trí. Chiver Lyttentoh Quốc vụ khanh ở Cairo đã đưa cho tôi cuốn "Đại úy Homblower"1, một cuốn mà tôi thấy rất hay. Khi có cơ hội là tôi gửi cho ông ta một lời nhắn: "Tôi thấy Homblower thật đáng ngưỡng mộ". Điều này đã gây bối rối cho Sở chỉ huy ở Trung đông vì người ta tưởng rằng "Homblower" là mật mã của một hoạt động đặc biệt nào đó mà họ không được báo cho biết.

----------------
        1. Tiểu thuyết của C.S Forester.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #266 vào lúc: 23 Tháng Giêng, 2019, 10:44:49 pm »


        Chúng tôi đến điểm hẹn vào lúc 9 giờ sáng ngày thứ bảy, 9/8 và ngay sau khi đã trao đổi các lễ nghi kiểu Hải quân truyền thống, tôi lên chiếc Augusta và chào Tổng thống Roosevelt, ông đón tiếp tôi rất long trọng. Ông đứng vịn vào tay con trai ông Elliott trong khi cử nhạc quốc ca của hai nước và sau đó chào mừng tôi bằng những lời lẽ nồng nhiệt nhất. Tôi trao cho ông bức thư của Nhà Vua và giới thiệu các thành viên trong đoàn của mình. Các cuộc nói chuyện bắt đầu sau đó giữa Tổng thống và tôi, giữa ông Summer Welles và Ngài Alexander Cadogan và giữa các sĩ quan tham mưu của cả hai bên. Các cuộc nói chuyện được tiếp tục vào những ngày còn lại của chương trình, đôi khi là giữa hai người, đôi khi là cả nhóm.

        Vào sáng Chủ nhật, ngày 10 tháng 8, Tổng thống Roosevelt bước lên tàu "Hoàng tử xứ Wales" cùng với các sĩ quan tham mưu và khoảng một trăm đại diện của các cấp bậc trong lực lượng Hải quân và lính thủy đánh bộ Mỹ, đã tham dự vào buổi lễ thánh trên boong lớn của tàu. Tất cả chúng tôi đều cảm thấy buổi lễ là một biểu hiện rất sâu sắc của sự tin tưởng thống nhất giữa hai dân tộc và không ai đã tham dự sẽ quên được cảnh tượng diễn ra trong buổi sáng chan hoa ánh nắng đó trên boong lái đông người. Sự tượng trưng cho cờ Anh và cờ Mỹ được treo cạnh nhau trên bục thuyết trình. Các cha tuyên úy người Anh và người Mỹ cùng đọc lời cầu nguyện. Các sĩ quan không quân, quân đội, hải quân cao cấp nhất của Anh và Mỹ cùng tập hợp ở đằng sau Tổng thống và tôi, các thủy thủ Anh và Mỹ xếp lẫn với nhau thành hàng san sát, cùng chung nhau cuốn kinh thánh, cùng cầu nguyện và hát những bài thánh ca quen thuộc của hai nước một cách nồng nhiệt.

        Chính tôi chọn bài thánh ca - "Cầu nguyện cho những con chiên gặp nguy hiểm trên biển" và "Hãy tiến lên, những người lính đạo Cơ đốc". Chúng tôi kết thúc với bài thánh ca "Ôi Chúa, đấng cứu sinh muốn đòi". Từng lời trong bài thánh ca dương như đã khuấy động con tim. Đó là khoảnh khắc vĩ đại để sống. Gần một nửa trong số những người đã hát sẽ chết sau đó không lâu.

        Tại một trong những cuộc nói chuyện đầu tiên giữa chúng tôi, Tổng thống Roosevelt nói rằng ông nghĩ sẽ là điều tốt nếu như chúng tôi có thể soạn thảo một bản tuyên bố chung đặt ra một số nguyên tắc chung để định hướng các chính sách của cả hai nước cùng đi một con đường. Mong muốn hưởng ứng tích cực  gọi ý bổ ích nhất này, cùng vào ngày Chủ nhật đó, tôi đã đưa cho ông ta một bản phác thảo của một bản tuyên bố như vậy và sau rất nhiều các cuộc thảo luận giữa chúng tôi cũng như các cuộc thảo luận qua điện đài với Nội các Chiến tranh ở Luân Đôn. Chúng tôi đã đưa ra một bản tai liệu sau đây:

        Tuyên bố chung giữa Tổng thống Mỹ và Thủ tướng Anh ngày 12-8-1941

        "Tổng thống Hoa Kỳ và Thủ tướng Churchill, đại điện cho chính phủ Vương quốc Anh tại Liên Hiệp Anh đã gặp nhau và thấy rằng cần phải đưa ra một số nguyên tắc chung trong chính sách quốc gia của đất nước mình, qua đó họ đặt cơ sở cho niềm hy vọng của mình vào một tương lai tốt đẹp hơn cho toàn thế giới.

        Trước hết, nước họ không tìm kiếm mớ rộng đất đai, lãnh thổ hay cái gì khác.

        Thứ hai, họ mong muốn không nhìn thấy có sự thay dổi về lãnh thổ không phù hợp với những ý nguyện được tự do bày tỏ của các dân tộc có liên quan.

        Thứ ba, họ tôn trọng quyền của tất cá các dân tộc tự chọn cho mình hình thức chính phủ mà họ sẽ tuân theo, và họ ước mong được thấy những người đã bị tước đoạt chủ quyền lấy lại được những quyền đó.

        Thứ tư, với sự tôn trọng những nghĩa vụ hiện hữu, mọi quốc gia lớn hay nhỏ thắng trận hoặc bại trận, được tiếp cận, trên các điều khoản bình đẳng trong việc buôn bán và khai thác các nguyên liệu cần thiết cho sự thịnh vượng của nền kinh tế của mình.

        Thứ năm, họ mong muốn mang lại sự hợp tác đầy đủ nhất giữa tất cả các nước trong lĩnh vực kinh tế với mục tiêu bảo đảm tất cả những tiêu chuẩn lao động đã được cải thiện, tiến bộ kinh tế và an ninh xã hội.

        Thứ sáu, sau sự sụp đổ cuối cùng của chế độ chuyên chế Quốc Xã họ hy vọng một nền hòa bình được thiết lập sẽ giúp cho mọi quốc gia được sống an toàn trong vòng biên giới của mình, và đảm bảo cho tất cả mọi người trên thế giới có thể sống trọn đời trong tự do, thoát khỏi nỗi lo sợ và sự thiếu thốn.

        Thứ bảy, một nền hòa bình như vậy sẽ tạo điều kiện cho mọi người vượt qua vùng biển quốc tế và các dại dương mà không có trở ngại.

        Thứ tám, họ tin tưởng rằng tất cả các quốc gia trên thế giới vì những lý do thực tế hay lý do tâm linh cần phải đi đến việc từ bỏ sử dụng vũ lực. Vì nền hòa bình trong tương lai sẽ không thể duy trì được nếu như các quốc gia vẫn tiếp tục sử dụng các lực lượng hải lục không quân đe dọa hoặc có thể đe dọa sự an toàn ở bên ngoài biên giới của mình, họ tin rằng trong khi chưa thiết lập được một hệ thống an ninh chung rộng hơn và lâu dài hơn thì chính những quốc gia này phái giải trừ quân bị. Cũng như vậy ho sẽ giúp và khuyến khích tất cá các biện pháp làm nhẹ gánh nặng về vũ trang cho các dân tộc yêu chuộng hòa bình”.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #267 vào lúc: 23 Tháng Giêng, 2019, 10:47:18 pm »


        Tầm quan trọng có ảnh hưởng sâu rộng của cái được gọi là "bản Hiến chương Đại Tây Dương" là rõ ràng. Chỉ riêng việc Mỹ, một nước về mặt kỹ thuật vẫn là trung lập, đã cùng một cường quốc tham chiến, đã tham gia vào một bản tuyên bố như vậy thì thật là đáng kinh ngạc. Việc đưa vào trong bản tuyên bố lời dẫn chiếu "sự sụp đổ cuối cùng của chế độ chuyên chế Quốc Xã" (cụm từ này dựa vào một câu cơ bản trong phác thảo gốc của tôi) đã là một thách thức mà trong các thời điểm bình thường có thể hàm ý một hành động chiến tranh. Cuối cùng, không kém nổi bật là tính hiện thực của đoạn cuối bản tuyên bố, trong đó gián tiếp chỉ ra một cách rõ ràng và cương quyết là sau chiến tranh Mỹ sẽ cùng với chúng tôi giữ gìn trật tự thế giới cho đến khi thiết lập được một trật tự tốt hơn.

        Những hội nghị liên tiếp cũng diễn ra giữa các tướng lĩnh Hải quân và các chỉ huy quân sự, và đã có một sự thỏa hiệp trên quy mô lớn. Mối đe dọa từ Viễn Đông khiến chúng tôi phải suy nghĩ nhiều. Trong vòng nhiều tháng chính phủ Anh và Mỹ đã kết hợp chặt trong hành động đối với Nhật Bản. Vào cuối tháng 7 người Nhật đã hoàn thành việc chiếm đóng Đông Dương. Bằng hành động xâm lược không che đậy này, rõ ràng là họ buộc phải tập trung lực lượng đánh vào người Anh ỏ Malaysia, người Mỹ ở Philippines và người Hà Lan ở Đông Ấn. Ngày 24 tháng 7, như là bước khỏi đầu cho việc giải quyết tống thể, Tổng thống Roosevelt đã yêu cầu Nhật phải rút quân ra và Đông Dương phải được trung lập hóa. Để tăng sức mạnh cho những yêu cầu trên, một lệnh của hành pháp đã được ban hành nhằm phong tỏa tất cả tài sản của người Nhật ở Mỹ. Điều này khiến cho thương mại bị dậm chân tại chỗ. Người Anh cũng đồng thời có hành động tương tự và sau đó là người Hà Lan. Sự tham gia của người Hà Lan có nghĩa là Nhật Bản đã bị cắt gọn ngay nguồn cung cấp dầu lửa trọng yếu.

        Chuyến đi quay về Băng đảo không có biến cố gì xảy ra, mặc dù tại một điểm có sự cần thiết phải thay đổi hướng đi do có báo cáo về sự xuất hiện của tàu ngầm Đức gần đó. Đội tàu hộ tống của chúng tôi bao gồm hai tầu khu trục của Mỹ, Thiếu úy Hải quân Flanklin D.Roosevelt, con trai của Tổng thống ở trên một trong hai con tàu đó. Vào ngày 15, chúng tôi đã gặp đội tàu hộ tống hỗn hợp trên đường về bến nha bao gồm 73 tầu, tất cả đều theo hàng ngũ chỉnh tề và rất đúng vị trí sau một chuyến đi may mắn qua Đại Tây Dương. Đó là một cảnh tượng rất xúc động và cả những chiếc tàu buôn cũng vui mừng ngắm nhìn tầu "Hoàng tử xứ Wales".

        Chúng tôi đến đảo vào sáng thứ bảy, ngày 16 tháng 8 và thả neo ở vịnh Hvals Fiord, từ đó chuyển sang chiếc khu trục hạm để đi tới Reykjavik. Khi tới cảng, tôi đã nhận được sự đón tiếp rất nồng hậu và náo nhiệt từ đám đông mà những lời chào mừng thân thiện được lặp lại mỗi khi chúng tôi xuất hiện trong thời gian ở đây, để rồi lên tới điểm đỉnh khi chúng tôi ra đi vào buổi chiều và được thể hiện qua các cảnh biểu thị sự nhiệt tình tha thiết, kềm theo các tiếng hoan hô, vỗ tay, ít khi nghe thấy ở các phố của Reykyavik (ngươi ta bảo đảm với tôi như vậy). Sau chuyến thăm ngắn ngủi Althingishus để chào nhiếp chính và các thành viên trong nội các của Băng đảo, tôi đã tiến hành một cuộc liên kiểm lực lượng của Anh và Mỹ. Đoàn diễu hành dàn hàng ba trong đó giai điệu "Lực lượng Hải quân Hoa Kỳ" khắc sâu vào ký úc tôi tới mức mà tôi không thể đẩy nó ra khỏi đầu óc của mình được. Tôi dành thời gian đi thăm những sân bay mới chúng tôi đang xây dựng và đồng thời tôi cũng đi thăm thú những suối nước nóng và nhà kính được làm để phục vụ. Ngay lập tức tôi nghĩ rằng chúng cũng phải được dùng để sưởi ấm cho Reykjavik và còn cố gắng để đẩy mạnh kế hoạch này ngay cả khi đang có chiến tranh. Tôi rất vui mừng là bây giờ điều này đã được tiến hành. Tôi chào đáp lễ con trai Tổng thống đang đứng bên cạnh tôi, và cuộc diễu hành lại là một minh chứng nổi bật mới của sự đoàn kết Anh - Mỹ.

        Khi quay lại vịnh Hvals Fiord tôi đã lên thăm tàu Ramillies và đã nói chuyện với đại diện các thủy thủ đoàn của các tàu Anh và Mỹ ở chỗ neo tầu, bao gồm cả hai tàu Hecla và Churchill. Khi màn đêm buông xuống sau một chuyến đi đầy thử thách, dài ngày và mệt mỏi này, chúng tôi đã đi tầu đến Scapa an toàn vào sáng sớm ngày 18 mà không gặp thêm rắc rối nào và đã tới Luân Đôn vào ngày hôm sau.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #268 vào lúc: 23 Tháng Giêng, 2019, 10:48:39 pm »


3

BA TƯ VÀ SA MẠC

        Nhu cầu vận chuyển tất cả các loại đạn dược và đồ tiếp tế cho chính phủ Nga cùng những khó khăn cực kỳ to lớn gặp phải trên tuyến đường Bắc cực và những khả năng về mặt chiến lược trong tương lai, đã khiến cho việc mở một đường giao thông huyết mạch tới Liên Xô và Ba Tư trở nên cực kỳ quan trọng. Tôi có phần nào lo lắng về việc con phải tiến hành một chiến dịch nữa ở Trung Đông, một vấn đề rất hấp dẫn và thú vị. Những mỏ dầu của Ba Tư là một trong số những nguyên nhân chính dẫn đến chiến tranh. Nếu Liên Xô bị thua thì chúng tôi sẽ phải sẵn sàng tự giành lấy chúng. Và đe dọa đối với Ấn Độ. Thành công trong việc đập tan cuộc nổi loạn ở Irắc và việc Anh và Pháp chiếm Siri tuy rất thấp nhưng đã đập tan được kế hoạch Đông tiến của Hitler. Nhưng nếu quân Nga quị vì đuối sức, thì Hitler sẽ có thể thử lại kế hoạch này. Một phái đoàn đông đảo Đức hoạt động tích cực đã tự đặt trụ sở ở Teheran và uy tín của nước Đức đang lên cao. Ngay trước chuyến đi tới Placentia, tôi đã thanh lập một Ủy ban đặc biệt để phối hợp kế hoạch hành quân chống lại Ba Tư, và trong suốt thời gian tôi vắng mặt ở biển, tôi được ủy ban này thông báo bằng điện kết quả công việc của họ đã được Nội các chiến tranh thông qua. Rõ ràng là người Ba Tư sẽ không đuổi các nhân viên và kiều dân Đức đi và chúng tôi sẽ phải cần đến vũ lực. Ngày 13 tháng 8, ông Eden đã tiếp M. Maisky tại bộ ngoại giao và cùng nhau thỏa thuận về các điều khoản trong bản thông điệp của mỗi bên gửi cho Teheran. Bản thông điệp chung giữa Anh và Nga ngày 17 tháng 8 đã không nhận được câu trả 1ời thỏa đáng. Ngày mà quân Nga và Anh kéo vào Ba Tư được ấn định là ngày 25.

        Mọi công việc đã được hoàn tất trong vòng 4 ngày. Một lữ đoàn bộ binh đã chiếm nhà máy lọc dầu Abadan sau khi xuất phát từ cảng Bashra và đổ bộ vào Ba Tư rạng sáng ngày 25 tháng 8. Phần lớn quân của Ba Tư đều bị bất ngờ và bỏ chạy bằng xe tải. Một vài vụ nổ súng diễn ra trên đường phố và chúng tôi đã chiếm được một số tàu của hải quân Ba Tư, đồng thời từ trong đất liền chiếm được cảng Khurramshahr. Một cánh quân cũng được lệnh tiến theo hướng Bắc về phía Ahwaz. Trong khi đang kéo quân gần tới Ahwaz, chúng tôi nhận được tin "ngừng bắn" của Shah và vị tướng chỉ huy Ba Tư đã lệnh cho quân quay lại doanh trại. Các mỏ dầu ở phía Bắc được chiếm một cách dễ dàng. Thiệt hại về người của chúng tôi là 22 bị chết và 42 bị thương.

        Mọi thỏa thuận với Nga đã đạt được dễ dàng và nhanh chóng. Những điều khoản chủ yếu đặt ra với chính phủ Ba Tư là chấm dứt mọi hành động đề kháng, tống khứ người Đức, trung lập trong chiến tranh, cho quân Đồng minh sử dụng các tuyến giao thông của Ba Tư để vận chuyển nguồn tiếp tế chiến tranh cho Nga. Việc chiếm nốt Ba Tư được hoàn tất trong hòa bình. Cả quân Anh và Nga gặp nhau trong tình bè bạn và cùng chiếm Teheran ngày 17 tháng 9. Đức vua Iran đã thoái vị một hôm trước đó và nhường ngôi cho đứa con trai 20 tuổi có năng khiếu của mình. Ông vua mới này, với sự cố vấn của Đồng minh, ngày 20 tháng 9 đã khôi phục chế độ quân chủ lập hiến. Còn bố của ông ta chẳng bao lâu sau đó đi sống lưu vong và chết tại Johannesburg vào tháng 7 năm 1944. Phần lớn quân của chúng tôi đã rút khỏi Ba Tư và chỉ để lại một số đơn vị tách ra nhằm đảm bảo giao thông. Quân Anh và Nga đã hoàn toàn rút khỏi Teheran vào ngày 18 tháng 10. Ngay sau đó, đội quân của chúng tôi, dưới sự chỉ huy của tướng Quinan, đã tham gia vào việc chuẩn bị phong thủ chống lại cuộc tấn công chớp nhoáng của Đức có thể xảy ra từ hướng Thổ Nhĩ Kỳ hoặc từ Caucase và đang chuẩn bị về mặt hành chính cho các lực lượng tăng viện lớn có thể kéo đến nếu sự xâm lăng đó có vẻ sắp xảy ra.

        Việc tạo ra một con đường tiếp tế lớn cho Nga qua vịnh Ba Tư đã trở thành mục tiêu chính của chúng tôi. Với một chính phủ Teheran khá thân thiện, các cảng đã được mở rộng, các phương tiện vận chuyển đương sông phát triển, đường bộ được xây dựng và đường tàu hỏa được phục hồi.

        Công trình này được bắt đầu từ tháng 9 năm 1941 do quân đội Anh triển khai thực hiện mà sau đó do Mỹ kế tục và mở rộng, đã cho phép chúng tôi vận chuyển đồ tiếp tế cho Nga. Trong suốt 4 năm rưỡi, 5 triệu tấn hàng đã được chuyển cho Nga. Cả Anh và Nga đều đang tham gia cuộc chiến vì sự sinh tồn của mình. Chúng tôi giờ đây có thể vui mừng vì trong chiến thắng này nền độc lập của Ba Tư đã được bảo toàn.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #269 vào lúc: 23 Tháng Giêng, 2019, 10:49:21 pm »


*

        Chúng tôi bây giờ phải quay trở lại với chiến trường quan trọng nhất ở Địa Trung Hải. Tướng Auchinleck đã nhận nhiệm vụ tư lệnh chính thức vùng Trung Đông ngày 5 tháng 7 và tôi bắt đầu quan hệ với Tổng Tư lệnh mới của chúng tôi với nhiều hy vọng. Nhưng việc trao đổi điện tín đã nhanh chóng chỉ ra sự khác biệt nghiêm trọng về giá trị và quan điểm giữa chúng tôi. Ông ta đề nghị tiếp viện cho Cyprus một sư đoàn càng nhanh càng tốt và đồng thời tán thành việc chiếm lại Cyrenaica, nhưng lại không chắc rằng sau tháng 9 vẫn có thể giữ được Tobruk. Ông ta cho rằng những đặc điểm và cách trang bị lực lượng dự bị của các xe tăng mới Mỹ đã dẫn đến các sự thay đổi cách sử dụng về mặt chiến thuật và cần phải có thời gian để nghiên cứu lại những bài học này; ông thừa nhận rằng đến cuối tháng 7 ông ta có thể có khoảng 500 xe tăng tuần tiễu, tăng bộ binh và tăng Mỹ. Tuy nhiên trong bất cứ cuộc hành quân nào cũng phải có 50% xe tăng dự trữ bởi như thế sẽ cho phép 25% trong xuống và 25% để thay thế ngay cho số xe đã tổn thất trên mặt trận. Đây dường như là một điều không thế thực hiện được. Các vị tướng chỉ có thế có được các tiện nghi này trên thiên đường. Còn những người yêu cầu những tiện nghi này không phải lúc nào cũng lên trên đó. Auchlinleck nhấn mạnh đến sự quan trọng của thời gian đào tạo cá nhân và tập thể, đến tinh thần đồng đội có ảnh hưởng lớn tới mức độ hiệu quả chiến đấu. Ông cho rằng phía Bắc (nơi quân Đức có thể tấn công qua Thổ Nhĩ Kỳ, Syri và Palestine) có thể sẽ trở thành mặt trận mang tính quyết định chứ không phải ở sa mạc.

        Tất cả những điều này đã khiến tôi rất thất vọng. Những quyết định ban đầu của vị tướng này cũng gây bối rối. Cuối cùng với sự kiên trì của mình, tôi đã thuyết phục thành công để đưa được sư đoàn 50 của Anh sang Ai Cập. Tôi rất nhạy cảm đối với tuyên truyền thù địch rằng chính sách của Anh là đánh nhau bằng các đội quân khác để tránh sự đổ máu của binh lính Anh. Thiệt hại của binh sĩ Anh ở Trung Đông, gồm cả ở Ai Cập và Crete, trong thực tế con lớn hơn tổng số thiệt hại của toàn bộ các lực lượng khác của chúng tôi ở tất cả mọi chiến trường, nhưng những danh sách lập theo lối thương lệ lại dễ đưa lại ấn tượng sai về sự thật. Các sư đoàn Ấn Độ mà trong đó một phần ba bộ binh và toàn bộ pháo binh đều là người Anh lại không được gọi là các sư đoàn Anh - Ấn. Các sư đoàn thiết giáp, bộ phận chiến đấu chủ lực, đều hoàn toàn là người Anh nhưng lại không được ghi đúng tên của họ. Cái sự việc quân "Anh" hiếm khi được kế đến trong bất kể những tin tức chiến sự nào đã tô vẽ thêm cho sự nhạo báng của kẻ thù và đã đưa lại nhiều điều bình luận bất lợi không chỉ ở Mỹ mà cả ở Úc. Tôi đã mong đợi sư đoàn 50 kéo đến như là cách chống lại  có hiệu quả những luồng tin tức hạ thấp danh dự của quân Anh. Quyết định của tướng Auchinleck điều sư đoàn này tới Cyprus chắc chắn là đáng tiếc và đã trở thanh cái cớ cho những lời chỉ trích không công bằng mà chúng tôi phải hứng chịu.

        Về mặt quân sự, các Tham mưu trưởng ở trong nước cũng rất ngạc nhiên trước cách sử dụng kỳ lạ như vậy của ông ta đối với lực lượng ưu tú này.

        Tướng Auchinleck đã đưa ra một quyết định nghiêm trọng hơn nhiều là trì hoãn mọi hành động chống tướng Rommel ở sa mạc phía Tây, ban đầu chỉ định kéo dài 3 tháng nhưng cuối cùng đã lên đến hơn 4 tháng rưỡi. Sự biện hộ cho cuộc hành quân "lưỡi rìu của trận đánh" của tướng Wavell ngày 15 tháng 6 nằm trong sự việc là mặc dù phần nào đó chúng tôi đã thua và phải rút về vị trí ban đầu, nhưng người Đức hoàn toàn không thể tiến thêm được nữa trong thời gian kéo dài. Bị Tobruk uy hiếp, các tuyến giao thông của họ không đủ để chuyển tải các lực lượng tăng cường cần thiết cho quân thiết giáp hoặc thậm chí cả đạn pháo để Rommel có thể làm hơn ngoài cái việc bám lấy trận địa bằng ý chí và uy tín của mình. Việc nuôi dưỡng lực lượng của mình làm ông ta suy kiệt đến mức là quy mô quân số chỉ có thể tăng trưởng từng bước một. Trong hoàn cảnh đó, họ lại luôn phải đụng độ với quân Anh - một đội quân mạnh về tiếp tế bằng đường bộ đường sắt và đường thủy, lại liên tục được tăng cường về người và vũ khí.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM