Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 05:26:21 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Hồi ký De Gaulle  (Đọc 37379 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #190 vào lúc: 07 Tháng Hai, 2019, 09:53:27 pm »


        Từ Mạc Tư Khoa cũng đưa lại nhiều dấu hiệu khích lệ chúng tôi. Chính phủ Sô viết biết rõ người Anh muốn làm gì ở Bắc Phi. Theo phúc trình của Litvinov từ Hoa Thịnh Đốn gửi về, họ biết rõ thái độ của Hoa KỲ, Roosevelt muốn trở thành trọng tài phân xử việc tranh chấp giữa các phe nhóm Pháp, họ rất lo ngại khuynh hướng bá chủ của Hoa Kỳ. Ông Bogomolov muốn cho tôi hiểu rằng về phần chánh phủ của ông thì Nga Sô đã tham gia vào cuộc chiến một mất một còn với kẻ xâm lăng, lúc này không thể can thiệp một cách trực tiếp, nhưng Nga Sô không tán thành chính sách của người Anh, nếu người Anh đi quá giới hạn thì Nga Sô sẽ chống lại. Ngày 28 tháng chín Mạc Tư Khoa đưa ra một thông cáo phổ biến rộng rãi, công bố rằng Liên Xô thừa nhận Pháp Chiến Đấu là «toàn thể những công dân và những lãnh thổ Pháp dùng hết mọi phương tiện thuộc quyền mình và bất cứ ở đâu để thực, hiện cuộc giải phỏng nước Pháp ». Họ thừa nhận ủy Ban Toàn Quốc Pháp là «cơ quan chỉ huy của Pháp Chiến Đấu, ủy Ban ấy là cơ quan duy nhất có thẩm quyền để tổ chức sự tham gia chiến cuộc của công dân và lãnh thổ Pháp » Như vậy, trước mắt người Nga, giữa Vichy và Pháp Chiến Đấu không làm gì có lực lượng thứ ba và quyền thử ba.

        Cần phải nói rằng vai trò của nước Mỹ mới nổi bật trên lịch sử thế giới, họ tưởng rằng họ có thể điều khiển được dân tộc Pháp ; còn như các quốc gia Âu Châu đã có kinh nghiệm hàng thế kỷ nay, họ đều không hề có ảo tưởng ấy. Nước Pháp đã tự mình chọn lựa vận mệnh của mình. Tin tức đưa lại hàng ngày chửng tỏ rằng mặt trận kháng chiến không ngừng lớn mạnh, nói thế tức là nói rằng những người tham gia mặt trận ấy đã hướng về nhóm de Gaulle, bất cứ chánh phủ nào thành lập ở ngoài nhóm của ông sẽ bị quần chúng loại bỏ ngay lúc giải phóng nước Pháp.

        Vả chăng thái độ của kẻ chiếm đóng và kẻ cộng tác với họ tại chánh quốc cũng làm cho tình hình biến chuyền theo chiều hướng ấy. Ngày 22 tháng sáu, ông Layal tuyên bố trước sự công phẫn của mọi người : « Tôi cầu chúc cho nước Đức thắng trận. » Đến tháng bảy, mỗi đội « lê dương » gồm các thanh niên Pháp mặc đồng phục Đức và đặt dưới quyền chỉ huy của người Đức được gửi sang Nga. Đến tháng tám, Thống Chế ban hành đạo luật chấm dứt « hoạt động » của hai viện Quốc Hội, thực ra hai viện này chỉ làm ra vẻ có mặt mà thôi. Do đấy, dân biểu và nghị sĩ nguyền rủa chế độ chính họ đã thành lập. Các ông Jeanneney Chủ tịch thượng viện và Herriot, chủ tịch hạ viện, gửi cho Thống Chế một văn thư phản đối công khai. Ông Herriot gửi trả huy chương Bắc Đẩu bội tinh để bày tỏ sự phản đổi việc gắn huy chương cho những người « tình nguyện » đầu quân sang Nga, sau đấy ít lâu ông bị bắt. Còn các ông Paul Reynaud, Daladier, Blum, Mandel, tướng Gamelin v.v. vẫn bị cầm tù ; chánh phủ Vichy đã ra lệnh tống giam ngay hôm sau cuộc đảo chánh, không định rõ tội và cũng không xét xử. Suốt mùa hè, cuộc đàn áp người Do Thái càng ngày càng thêm ác liệt do bàn tay của một ban « cảnh sát » đặc biệt hợp lực với quân xâm lăng. Đến tháng chín, Đức quốc đòi hỏi một số nhân công mỗi ngày mỗi nhiều hơn, số người tình nguyện không đủ, người ta bèn thi hành việc cưỡng bách lao công. Tổng sổ chi phí cho việc chiếm đóng lên tới 200 tỷ vào đầu tháng ấy, nghĩa là gấp đôi con sổ tháng chín năm trước. Sau hết sự đàn áp của người Đức ngày càng thêm tàn bạo. Cũng trong bốn tuần lễ ấy, một ngàn người bị xử bắn, 116 người tại núi Valérien ; hơu 6000 người bị cầm tù hay đưa đi trại tập trung.

        Khi tôi ở Trung Đông trở về Phi Châu, tôi thấy biết bao nhiêu nhân chứng và bằng chứng đợi tôi ở Luân Đôn, những chứng cớ này không chối cãi được. Frenay, lãnh tụ mặt trận Combat và d’Astier, lãnh tụ mặt trận Giải Phóng, tường trình với tôi hoạt động tại khu vực không bị chiếm đóng. Phúc trình của họ làm nỗi bật sự hăng hái của các tố chức và áp lực thúc đầy họ đi đến việc thống nhất, nhưng cũng cho thấy khuynh hướng cá nhân của các lãnh tụ do đó mà có sự tương tranh. Tuy nhiên, khi đã biết những khó khăn mà đồng minh gây ra cho chúng ta và biết rõ những gì sắp xảy ra ở Algérie và Maroc, ắt là họ sẽ hiểu rằng cần phải có sự đoàn kết ở Chánh quổc.

        Tôi ra chỉ thị để thành lập gấp rút Hội đòng quốc gia kháng chiến quy tụ các đại diện của mọi tổ chức, nghiệp đoàn và đảng phái xung quanh ông Jean Moulin. Tôi cũng bách thúc họ gửi những đơn vị tác chiến sang lực lượng quân sự bí mật sắp thành hình. Những đơn vị này sẽ tùy thuộc một vị đại lý duy nhất ở mỗi vùng : một đại lý quân sự do tôi chỉ định. Trong vùng bị chiếm đỏng, tôi ủy nhiệm ông Rémy mang chỉ thị của tôi xuống cho các phong trào : « Tố Chức Dân Sự và Quân Sự », « Những người của giải phóng », « Những người của Kháng Chiến », « Giải Phỏng Bắc », « Tiếng nói miền Bắc », cả cho tổ chức « Du Kích và Đảng viên », tổ chức này bị cộng sản đe dọa cho nên xin sáp nhập vào lực lượng của chúng tôi.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #191 vào lúc: 07 Tháng Hai, 2019, 09:56:34 pm »


        Tất nhiên, chúng tôi không quên thông báo cho Luân Đôn và Hoa Thịnh Đốn biết tin tức nhận được ở Pháp. Frénay và d’Astier đến tiếp xúc với các bộ trưởng và các cơ quan công quyền Anh, với các nhà ngoại giao và các sở thông tin Mỹ. André Philip đi Hoa Thịnh Đốn, đem theo đủ bằng chứng và tài liệu, ông được ủy nhiệm trao cho Roosevelt một bức thư của tướng de Gaulle trình bày thực trạng của nước Pháp. Mendès-France ra khỏi được Chánh quốc bèn sang Hoa Kỳ lãnh sứ mạng thông tin để làm tỏ rạng lập trường của nước Pháp. Felix Gouin, sang đây từ tháng tám theo lời ủy nhiệm của đảng xã hội, thông báo cho đảng lao động Anh biết rằng tại Pháp, cảnh tả bây giờ theo đảng Croix để Lorraine (de Gaulle ). Sau đó ít lâu, Brossolette ở vùng chiếm đóng trả về, đem theo Charles Vallin, một trong những hy vọng của cảnh tả cũ và liên minh « Croix de feu ». Vallin, trước đây tin tưởng chế độ Vichy, bây giờ đã biết mình lầm lẫn và chối bỏ chế độ ấy. Ông là một người yêu nước hăng say, một tín đồ của phong tục cổ truyền, ông sang theo tôi với tất cả tâm hồn của ông. Ông công bố lý do cho mọi người biết và nhận cầm đầu một liên đội ra mặt trận. Tướng d’Astier de La Vigerie, tướng Cochet, các trưởng phi đoàn, lần lượt sang tập kết. Phe cộng sản cũng không đứng ngoài; họ sửa soạn gửi sang đây ông Fernand Grenier. Trong khi ấy ở Mạc Tư Khoa, André Marty đến thăm viên đại biểu của chúng tôi nhiều lần để cho biết rằng ông ta sẵn sàng về với chúng tôi. Sau hết những người thuộc các thành phần khác nhau như Mandel, Jouhaux, Léon Blum, (bị giam ở Vichy), Jeanneney, Louis Marin, Jacquinot, Dautry, Louis Gillet, v.v. đều gửi thư sang xin gia nhập phong trào Pháp Tự Do.

        Xem như vậy thì đủ biết sự đoàn kết trong hàng ngũ kháng chiến mỗi ngày thêm vững mạnh, mặc dầu sự hoạt động tại Pháp gặp nhiều khó khăn trọng đại vì nguy hiếm và tổn thất, vì các lãnh tụ tranh chấp với nhau, vì có một vài nhóm hoạt động riêng rẽ và bị ngoại nhân lợi dụng. Tôi đã gây được tinh thần nhất chí và thống nhất được sự chỉ huy để tránh được mầm rối loạn, lúc cần tôi sẽ có một công cụ hữu hiệu để chống lại quân thù, đối với đồng minh, tôi có một điểm tựa then chốt để theo đuổi chánh sách độc lập và thống nhất.

        Đã đến những ngày đầu tháng một 1942. Bất cứ lúc nào, nước Mỹ cũng có thể khởi sự cuộc thánh chiến ở Tây Phương và đưa tầu bè, bộ đội, phi cơ vào Phi Châu. Từ ngày 18 tháng mười, người Anh, với sự giúp sức của lực lượng Pháp đã khởi công lùa quân Đức và quân Ý ra khỏi Libye, họ sẽ liên lạc với nhau ở Tunisie và hội nhập vào lực lượng Hoa Kỳ, không chừng, vào lực lượng Pháp. Phía đẳng kia, bên sông Volga và trong vùng Caucase, địch đã mỏi mệt vì sức mạnh quân Nga.

        Nước Pháp còn gặp sự may ! Đối với những đứa con của đất nước đang quằn quại trong đau khổ, bây giờ cái gì cũng rõ ràng và giản dị, mặc dù trong nước ma xui quỷ ám gây ra chia rẽ trầm trọng và bên ngoài có hung thần thúc đẩy ngoại bang lợi dụng sự tranh chấp nội bộ. Tôi không khỏi lo ngại khi chờ đợi tấm màn vén lên, thảm kịch bước sang giai đoạn khác. Nhưng tôi tin chắc nơi người của tôi. Tôi cho rằng họ cũng tin tôi. Tôi biết rằng nước Pháp trông về đâu. Nào ! Hãy đánh ba tiếng trống!
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #192 vào lúc: 07 Tháng Hai, 2019, 10:00:12 pm »


BI KỊCH

        Suốt ngày mùng 7 tháng một, các đài phát thanh Mỹ và Anh nhắc đi nhắc lại : «Robert đến ! Robert đến !» Nghe tiếng nói ấy, tôi chắc rằng chữ Robert — tên họ của Murphy — là mật ngữ để báo tin cho người Pháp ở Phi Châu biết quân Mỹ kéo sang, người Pháp sẽ phụ lực. Nghĩa là cuộc đổ bộ bắt đầu. Sáng hôm sau tôi nhận được tin.

        Đến trưa, Churchill mời tôi đến Dowing Street. Eden cũng ở đây. Trong cuộc hội đàm, Thủ Tướng tỏ tình thân hữu nhưng không giấu giếm vẻ lúng túng, ông nói rằng tuy thủy quân và không quân Anh đóng vai trò chính trong cuộc tấn công nhưng lục quân Anh chỉ hoạt động hỗ trợ. Hẳn là lúc này nước Anh nhường cho Hoa Kỳ lãnh trách nhiệm hoàn toàn, quyền chỉ huy về tay Eisenhower. Người Mỹ muốn gạt hẳn người Pháp tự do ra ngoài. Churchill nói : « Chúng tôi bắt buộc phải hành động như vậy. Ông hãy tin rằng chúng tôi không gạt bỏ những gì đã thỏa hiệp với ông. Chúng tôi đã hứa hẹn nâng đỡ các ông từ năm 1940. Mặc dầu đã xảy ra nhiều chuyện chẳng hay nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục giữ lời hứa. vả chăng, dần dần cuộc chiến sẽ mở rộng, người Anh chúng tôi phải nhận lấy vai trò. Bấy giờ chúng tôi sẽ có lời nói lại. Chủng tôi sẽ nói để ủng hộ các ông.» Rồi ô. Churchill cảm động mà nói tiếp : «Các ông đã sát cánh với tôi trong những giờ phút bi thảm của chiến cuộc. Chúng tôi sẽ không bỏ các ông khi chân trời đã lóe sảng.»

        Các bộ trưởng Anh giải thích cho tôi nghe ràng người Mỹ đang đổ bộ ở nhiều nơi trên lãnh thổ Maroc, Oran và Alger. Cuộc hành quân không phải là không có đau khổ, nhất là ở Casablanca, nơi người Pháp chổng cự mãnh liệt. Tướng Giraud lên một chiếc tầu đậu ngoài khơi Côte d’Azur, một chiếc tiềm thủy đĩnh Anh đã đưa ông tới Gibraltar. Người Mỹ đợi ông đến chỉ huy các đơn vị Pháp ở Bắc Phi và lật ngược tình thế. Nhưng người ta đã thấy khó lòng mà thành công được. Ông Churchill còn nói : « ông có biết hiện giờ tướng Darlan ở Alger không ? »

        Người ta chất vấn tôi, tôi trả lời đầy đủ chi tiết như sau : « Việc quân Mỹ đổ bộ lên Bắc Phi, nơi mà quân Anh và người Pháp Tự Do chúng tôi chiến đấu từ hai năm nay, việc ấy tự nó đã là một ý kiến tốt đẹp. Trong việc này tôi trông thấy cơ hội để người Pháp tái lập được quân đội và có lẽ một hạm đội để chiến đấu giải phóng xứ sở. Tướng Giraud là một quân nhân thượng thặng. Tôi vẫn khen ngợi những cố gắng thử thời vận của ông. Đáng tiếc rằng đồng minh đã làm cho ông không thể đồng ý với tôi được, nếu không tôi đã có thể góp sức với ông chứ không phải chỉ khen ngợi suông. Nhưng chẳng sớm thì muộn chúng tôi sẽ thỏa thuận với nhau nhất là nếu đồng minh đừng nhúng tay vào nhiều. Còn như cuộc hành quân hiện thời, tôi không lấy làm lạ rằng nó rất cam go. Ở Algérie và Maroc có nhiều quân nhân năm trước đã chiến đấu ở Syrie mà các ông đã không giữ lại để họ ra đi mặc dầu có lời cảnh cảo của tôi. Mặc khác, tại Bắc Phi, người Mỹ muốn dùng Vichy để chống lại de Gaulle. Chưa bao giờ tôi ngừng tin tưởng rằng sẽ đến lúc họ phải trả cái giá ấy. Ngoài thực tế thì bây giờ họ phải trả đó, mà chúng tôi cũng phải trả nữa. Tuy nhiên, chính nghĩa. Còn in sâu trong tâm hồn người chiến sĩ, tôi cho rằng trận đánh này sẽ không lâu. Nhưng chóng thì chóng, quân Đức cũng sẽ thúc quân của họ tới bây giờ. »

        Tôi cho hai ông Churchill và Eden biết sự ngạc nhiên của tôi khi nhận thấy sách lược của đồng minh sao không nhắm ngay vào Bizerte ngay từ đầu. Tất nhiên quân Đức và quân Ý phải đi qua đấy mới đến được Tunisie. Người Mỹ đã không muốn mạo hiểm đổ bộ lên đấy một cách trực tiếp, nhưng nếu họ hỏi qua ý kiến tôi thì ta có thể đổ bộ sư đoàn của Koenig. Các bộ trưởng Anh chấp nhận quan điếm của tôi nhưng họ nhắc đi nhắc lại rằng cuộc hành quân này do người Mỹ chịu trách nhiệm. Tôi bảo họ: «Tôi không hiểu tại sao các ông lại khoán trắng cho người ta một việc có tầm quan trọng hàng đầu đối với Âu Châu.»

        Ông Churchill hỏi tôi sau đây tôi có ý kiến gì về mối liên hệ giữa Pháp Chiến Đấu và nhà cầm quyền Bắc Phi. Tôi trả lời rằng đối với tôi thì chỉ cần thống nhất các lực lượng. Điều ấy giả thiết rằng sự liên lạc có thể thực hiện rất mau lẹ. Điều ấy cũng giả thiết rẳng tại Alger, chế độ Vichy và những nhân vật chính của chế độ ấy phải gạt ngay ra khỏi chính trường, và toàn thể lực lượng kháng chiến đều không chấp nhận cho họ ở lại. Thí dụ, nếu Darlan nắm trọn quyền hành ở Bắc Phi thì không thể nào có sự thỏa hiệp được. Sau cùng tôi nói rằng : «Dầu sao chăng nữa, không có gì cần thiết hơn là lúc này phải chấm dứt cuộc giao tranh. Còn về sau sẽ hay.»
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #193 vào lúc: 07 Tháng Hai, 2019, 10:03:02 pm »


        Đến tối, trong bản hiệu triệu trên đài phát thanh gửi cho «các sĩ quan, quân nhân, thủy thủ, phi công, công chức, thực dân Pháp ở Bắc Phi», tôi kêu gọi họ : « Anh em hãy đứng lên ! Hãy tiếp tay với đồng minh ! Hãy hợp tác với họ không chút dè dặt 1 Không nên để ý đến tên người, đến công thức ! Đã đến lúc lo đại sự rồi đây. Đã đến lúc cần lương tri và can đảm... Hỡi người Pháp ở Bắc Phi, tôi mong rằng nhờ các anh em ở đây mà chúng ta lấy lại được vị thế ở suốt ven bờ Địa Trung Hải, cuộc chiến tranh này đồng minh sẽ thắng nhờ có người Pháp ! »

        Thực ra, tin tức gửi về « Carlton Gardens » cho biết người Mỹ tiếp tục đụng độ với sức kháng cự mạnh mẽ của Địch. Đành rằng họ đã sử dụng được lực lượng nội ứng, đành rằng tướng Mast chỉ huy sư đoàn Alger, tướng Monsabert, chỉ huy những đơn vị ở Blida, cũng như các tá Jousse, Baril, Chrẻtien, hải quân trung tá Barjot v.v. đã có thể giúp họ sự dễ dàng trong một vài giờ, trong khi ở Casablanca tướng Bẻthouart cố gắng giúp đồng minh một cách vô vọng. Đành rằng những đơn vị của de Gaulle hoạt động dưới quyền chỉ huy của Paufilet, Vanhecke, Achiary, Esquerre, Aboulker, Calvet, Pillafort, Dreyfus (hai người sau tử trận) đã chiếm được một vài công thự ở Alger trong một thời gian, và cầm giữ tướng Darlan ở biệt thự Oliviers trọn một đêm. Đành rằng một số nhân sĩ như các ông Rigault, Lemaigre-Dubreuil, để Saint-Hardouin, đã điều đình với người Mỹ và đã giữ vai trò liên lạc và thông tin. Đành rằng bản tuyên ngôn của tướng Giraud — không nói gì đến quân Pháp Chiến Đấu đã được phổ biến rộng rãi bằng đài phát thanh và truyền đơn Mỹ, trong khi các sĩ quan tận tâm và những lực lượng kháng chiến đủ loại tổ chức cho ông một hành dinh ở Dar-Mahidine. Nhưng nói chung thỉ chương trình của Leahy, Murphy và Clark tổ chức cuộc đô bộ ăn chắc của đồng minh và những điện văn của Roosevelt gửi cho Pétain, Noguès, Estéva, đều không đạt được kết quả mong muốn.

        Ngày mùng 9 tháng một tình hình không có gì là tốt đẹp. Nhà cầm quyền Vichy ở đâu cũng giữ được lợi thế. Thống chế đã ra lệnh nghiêm ngặt phải đánh đuổi «kẻ công kích». Tại Gibraltar, Tướng Giraud nhận thấy đồng minh không chịu chấp nhận quyền chỉ huy của mình, ông chưa chịu sang Bắc Phi, vả chăng bản tuyên ngôn của ông không có ảnh hưởng gì ở đây. Tại Alger, tướng Darlan tuy mới xuống lệnh «ngưng bắn» cho đồn của ông, nhưng vẫn để cho các nơi khác thực hiện « chương trình phòng thủ » và tiếp tục hướng về Pétain và Layal. Tại Oran, người ta đánh nhau kịch liệt. Nhưng cuộc giao tranh dữ dội nhất xảy ra ở Maroc. Tại Casablanca, Port - Lyautey, Fedala, có nhiều cuộc giao tranh ác liệt. Sau hết, đô đốc Platon cập bến Tunis, ông là người của Vichy phái đến để ra lệnh cho đô đốc Estẻva, khâm sử, và đô đốc Derrien, hải quân khu trưởng cảng Bizerte, phải để cho quân Đức đi qua. Quân Đức đã nhảy dù xuống bãi E1 Alaouina mà không phải chịu đựng một phát súng nào.

        Tối hôm ấy có cuộc tranh luận rất lâu giữa các đồng minh ở Luân Đôn. Người ta tự hỏi xem cuộc hành quân này có đưa đến những trận giao tranh kẻo dài giữa các bộ đội Pháp và bộ đội của Eisenhower, có đưa đến tình trạng lực lượng địch tràn sang khắp vùng, thêm vào đó còn có quân Y Pha Nho, dù sao chăng nữa cũng phải theo họ.

        Nhưng tại Phi Châu người ta cũng biết nghe theo lương tri. Tướng Juin chỉ huy cho đến khi Darlan sang tới nơi, từ đẩy ông xuống làm chỉ huy phó. Ông biết rằng giao tranh với đồng minh thì thật là phi lý, hậu quả tai hại là làm cho quân Đức và quân Ý tràn xuống Phi Châu. Ông biết rằng đó là ý kiến của những người cấp dưới, ông bách thúc tướng Darlan ra lệnh «ngưng bắn» toàn diện, đến mùng 10 tháng một thì ông này cùng phải nghe theo. Bấy giờ Juin mới tiếp xúc với Giraud, lúc này Giraud đã đến Dar-Mahidine. Ông tiếp đón Giraud ở biệt thự Olivier và sẵn sàng nhường chỗ cho Giraud. Ông ra lệnh cho tướng Barré, chỉ huy trưởng ở Tunisie, thu quân về Medjez-el-Bab và sửa soạn quay súng trở lại nhả đạn vào quân Đức. Ngày 11 tháng một, trên khắp các mặt trận, quân Pháp và quân Đồng minh chấm dứt cuộc giao tranh.

        Hai bên đều phải trả giá đắt. Phía Pháp có 3.000 người chết hoặc bị thương. Còn chiến hạm thì tổn thất như sau : Tuần dương hạm Prímauguet, khu trục hạm Abrams, Epervier, Milan, 7 phóng thủy lôi, 10 tiềm thủy đĩnh, nhiều chiến hạm cỡ nhỏ như thông báo hạm, tuần tiễu hạm, tầu hộ tống, và nhiều tầu chở hàng khác. Ngoài ra còn có chiếc thiết giáp hạm Jean.Bart bị hư hại nặng, hai tiềm thủy đĩnh trở về Toulon để sau bị đánh chìm. Sau cùng, trong số 168 phi cơ để ở Maroc và Algérie, 135 chiếc bị phá hủy tại phi trường hay ngoài mặt trận. Về phía đồng minh có hơn 3000 người chết, bi thương hay mất tích. Thủy quân Anh thiệt hại 2 chiếc khu trục hạm Broke và Malcolm, hai chiếc tầu hộ tống Walney và Hartland cùng nhiều tầu chuyên chở khác. Thủy quân Mỹ mất chiếc thiết giáp hạm Massachusetts, 2 chiếc tuần dương hạm Wichita và Brooklyn, hai chiếc khu trục hạm Murphy và Ludlow bị tốn hại nặng nề ; độ một trăm tầu cỡ nhỏ dùng để đổ bộ, bị đánh chìm ở ngoài biển hay trên bãi cát; 70 phi cơ bị bắn rớt.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #194 vào lúc: 07 Tháng Hai, 2019, 10:05:53 pm »


        Trong khi đình chỉ những trận giao tranh phi lý ấy, tôi tìm cách liên lạc vời Bắc Phi thuộc Pháp. Từ buổi trưa ngày mùng 9 tháng một, tôi đã cho mời đô đốc Stark đến. Ông đến nơi, hai mắt rưng rưng hạt lệ, xúc động vô cùng, ông nói rằng có nghe lời kêu gọi của tôi trên đài phát thanh hôm trước, nhưng cũng kinh ngạc vì có giao tranh giữa quân Mỹ và quân Pháp, điều mà ông không thể tin là có được. Ông nói : « Chính Eisenhower cũng kinh ngạc và buồn rầu. » Tôi nói :« Tôi muốn gửi một phái đoàn sang Alger. Tôi đã thông báo cho Hoa Kỳ thi hành mọi biện pháp để phái đoàn có thể sang tới nơi. » Stark đã hứa sẽ giúp tôi việc ấy. Ngày hôm sau tôi viết thư cho Churchill, yêu cầu ông can thiệp với Roosevelt và chỉ định cho Pleven, Billotte, d’Astier và Frẻnay khởi hành khi nhận được lệnh.

        Ngày 11 tháng một có một phiên hợp quan trọng của những người «Pháp ở Anh», phiên họp này được dự định từ lâu. Chưa bao giờ trụ sở Albert-Hall lại quy tụ nhiều người như vậy. Hẳn là mọi người đều nghĩ đến Bắc Phi.

        Nghe biết chuyện ấy tôi cảm thấy rằng dưới làn sóng phấn khởi, người ta vẫn nửa buồn nửa vui. Người ta ước mong thống nhất thật, nhưng người ta không khỏi lo sợ tướng de Gaulle và nhóm Pháp Chiến Đấu có mưu đồ đen tối. Một đại tướng hồi hưu tản cư sang Anh đứng trên lầu cao gào thét bảo tôi phải theo tướng Giraud ; ngay lúc ấy ông ta bị những người điên tiết kéo xuông đẩy ra ngoài đường cho công chúng la ó.

        Trong bài diễn văn của tôi, tôi xác định mục đích của chúng ta giữa các biến cố đang xảy ra hay báo trước sắp xảy đến. Tôi dùng lời lẽ ôn hòa, để ngỏ cửa cho những người thiện chí, nhưng cũng minh bạch để nói cho mọi người biết rằng tôi nói sao thì sẽ làm như vậy. Tôi bắt đầu nghiêng mình đón chào giai đoạn mới của cuộc chiến ; sau bao nhiêu đợt rút lui, bây giờ đã đến lúc cán cân lực lượng nghiêng về phía tự do. Cũng như mọi khi, tôi nhận định rằng nước Pháp là trung tâm của tấn thảm kịch. Rồi lên tiếng gọi thống nhất, tôi tuyên bố: «Nước Phảp ! Nước Pháp là một dân tộc, một lãnh thổ, một luật pháp ! » Tôi muốn chửng tỏ rằng dân tộc ta ly tán vì thảm họa, nay sẽ tập hợp lại trong phong trào kháng chiến, phong trào toàn quốc ấy, phong trào hướng dẫn và quy tụ quốc dân ấy, chính là nhóm Pháp Chiến Đấu chứ không phải cái gì khác.

        Tôi nói:

        « Xi măng Thống nhất nước Pháp chính là máu của người Pháp ; người Pháp chưa bao giờ kể đến cuộc đình chiến, đến những người sau trận Rethondes, dẫu sao, cũng chết cho nước Pháp. Trung tâm quy tụ mọi người xây dựng lại nền thống nhất của nước Pháp chính là chúng tôi, chính là nhóm Pháp đang chiến đấu. Chúng tôi không chấp nhận một quốc gia bị cầm tù, ngay từ đầu, chúng tôi chủ trương tranh đấu và ánh sáng, bởi thế cho nên hàng ngày quốc dân biểu quyết cho nhóm Pháp Chiến Đấu... Bởi thế cho nên chúng tôi muốn tập hợp toàn thể quốc dân và toàn thể lãnh thổ... Bởi thế cho nên chúng tôi không chấp nhận kẻ nào chia rẽ tổ quốc trong nỗ lực chiến tranh bằng cách hoạt động song song, nghĩa là riêng rẽ. Ý muốn của toàn dân, âm thầm nhưng mãnh liệt sẽ phán xét họ... Bởi thế cho nên ủy Ban Toàn Quốc Pháp nhân danh nước Pháp kêu gọi toàn dân hợp lực để cứu nguy tổ quốc đang rên xiết dưới gót sắt quân thù và chế độ Vichy, để xây dựng lại nền tự do toàn vẹn của nước Pháp, để bắt buộc mọi người phải tôn trọng pháp luật của nền Cộng Hòa.» Để kết luận, tôi hô to : «Một mặt trận duy nhất phục vụ một tổ quốc duy nhất! »

        Những người có mặt ở đây hiểu rõ rằng, trong ván bài khó đánh này, tôi sẵn sàng hợp lực với bất cứ ai tỏ ra người xứng đáng, nhưng tôi nhất định không từ bỏ chút gì khi tôi đã lãnh sứ mạng ủy thác. Tiếng hoan hô vang dậy cho tôi biết rằng hội nghị đã tán đồng ý kiến của tôi. Nhưng sau đấy tôi nhận thấy các nước đồng minh lại có ý kiến khác hẳn. Giới chỉ huy của họ và phát ngôn nhân của họ chỉ lắc đầu thở dài và chê trách thái độ ương ngạnh của chúng ta.

        Họ trở nên người bớt khó tính. Chắc là người Mỹ rất ngạc nhiên và bất mãn vì sự thất bại của tướng Giraud. Nhưng vì Eisenhower không có cách nào khác cách thỏa hiệp với tướng Darlan để khỏi bận tâm với sức kháng cự của Vichy, cho nên người Mỹ sẽ nói chuyện với Darlan.

        Ngày mùng 10 tháng một, nhận được báo cáo của đô đốc về lệnh ngưng bắn, tướng Clark lên giọng kẻ chiến thẳng thu phục kẻ chiến bại, tuyên bố rằng, trong điều kiện ấy thì « toàn thể những người cầm quyền dân sự và quân sự đều được ở lại giữ chức vụ trước. » Ngày 13 tháng một, Noguès, Chatel, Bergeret đều theo Darlan. Họ đã đồng ý với nhau để đô đốc làm cao ủy tại Bắc Phi. Boisson vội vàng cúi đầu thần phục. Giraud, bị cô lập về phía Vichy cũng như về phía de Gaulle, đã mau mắn hơn Boisson, nhờ thế ông ta được ủy nhiệm tổng tư lệnh quân đội. Ngày 15, Darlan loan báo những tin tức trên đây và tuyên bố rằng ông đã « nhân danh Thống Chế mà ban hành những biện pháp ấy. »
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #195 vào lúc: 07 Tháng Hai, 2019, 10:08:24 pm »


        Vì nguồn tin không chắc chắn cho nên cần phải có hình thức pháp lý phủ ngoài. Người ta tuyên bố rằng Noguès đã nhận được giấy ủy quyền của Thống chế trong lúc Darlan bị tạm giữ và đã đưa đến cho đô đốc, và như vậy là đô đốc được phục chức. Nhưng chẳng bao lâu luận điệu ấy không xuôi tai, người ít thận trọng nhất cũng không tin. Quả vậy, Pétain lâm vào tình trạng khó xử, theo tin tức tôi nhận được thì một đằng Weygand và Auphan thúc giục ông chấp thuận việc « ngưng bắn » ở Bắc Phi, đằng kia Layal yêu cầu ông lên án việc « ngưng bắn » ; rút cục Pétain nghe lời Layal. Pétain nói trên đài phát thanh và trên mặt báo chí, tỏ vẻ phẫn nộ đến cao độ về sự «phản bội» của các đại lý chấp chính, ông tuyên bố rằng «Darlan đã không làm tròn sứ mạng». Ông công bổ bức thư của tướng Giraud gửi cho ông ngày mùng 4 tháng năm theo đó tướng Giraud lấy danh dự mà thề rằng sẽ không làm gì để chống lại đường lối chánh trị của thống chế cũng như của Layal. Pétain còn cho biết rằng chính ông sẽ đảm nhiệm việc chỉ huy quân đội Pháp, ông nhắc lại lệnh đánh quân Anh và để ngỏ cửa cho quân đội Trục đi qua. Ngày mùng một tháng chạp, đô đốc Platon, tổng trưởng phủ thống chế Pétain và được ủy nhiệm «phối hợp hải lục không quân », dùng đài phát thanh tuyên bố rằng : «Trải qua bao nhiêu cuộc thử thách, bây giờ Thống Chế và chính phủ của ông sẽ tái lập quân đội quốc gia tại nước Pháp... Nước Pháp sẽ tái chinh phục Phi Châu. Bấy giờ đồng bào sẽ thấy quân phản quốc tẩu thoát ra nước ngoài trên những toa tầu của ngoại quốc. »

        Như vậy, phải tìm ra một mánh lới để « chính thức hóa» quyền hành của Darlan. Người ta trưng ra một bức điện văn của một nhân viên phụ thuộc ; bức điện văn này không bao giờ được công bổ, người ta chỉ nhắc đến nó để các nhóm phù thủy có thể gợi ý rằng chính Pétain đã kín đáo chấp thuận. Sau hết, lý do tối thượng của những người được Vichy gọi là «những lời thề giả dối», chính là sự kiện sau đây : Vì miền nam bị chiếm đóng cho nên Thống chế bị người Đức bao vây, không thể ra lệnh hữu hiệu, do đó quyền hành thuộc về những người đã được Thống chế trao quyền khi còn được tự do hành động.

        Chỉ có thế, không cần nhiều hơn, cũng đủ cho Tống Thống Roosevelt không cần đếm xỉa đến những nguyên tắc dân chủ và pháp lý mà từ hai năm nay ông vận đưa ra để chống lại de Gaulle, ông được rảnh tay để điều đình với Darlan. Theo lệnh của Roosevelt, tướng Clark thừa nhận viên cao ủy và ngồi thảo luận với ông ta những thỏa hiệp ngày 22 tháng một, theo đó tướng Darlan cầm quyền và chỉ huy, miễn là ông ta thỏa mãn những đòi hỏi của người Anh thắng trận. Hẳn là, Tổng Thống ra một tuyên ngôn xác nhận rằng những thỏa hiệp chánh trị ký kết giữa Eisenhower và Darlan chỉ là «một kế sách tạm thời.» Nhưng ngày 23, Roosevelt tiếp André Philip và Tixier, ông tỏ vẻ bực tức vì hai người này kháng nghị và kêu lên: «Tất nhiên, tôi điều đình với Darlan vì Darlan cho tôi Alger ! Ngày mai tôi sẽ điều đình với Layal nếu Layal chơ tôi Paris !» Tuy nhiên ông nói thêm : «Tôi rất muốn tiếp xúc với tướng de Gaulle để bàn với ông ta những chuyện ấy và tôi yêu cầu các ông thông báo cho ông ta biết tôi mong mỏi ông ta đến thăm Hoa Thịnh Đốn.» Sau hết, ngày mùng 7 tháng chạp, Darlan được sự thỏa thuận của đồng minh, tự ra lệnh cho mình làm Quổc Trưởng Bắc Phi thuộc Pháp và chỉ huy thủy lực không quân với sự trự giúp của một « hội đồng khâm sai» gồm có Noguès, Giraud, Chatel, Boisson và Bergeret.

        Trong khi những người đương cuộc trở lại chỗ cũ ở Alger, Casablanca, Dakar, tại Pháp cũng có phản ứng của kẻ thù. Lực lượng Đức tràn xuống khu vực « tự do ». Vichy ngăn cấm không cho chống lại. « Quân đội đình chiến » phải buông súng trong khi chờ đợi giải ngũ. Tưởng De Lattre với một chút ảo tưởng nào đó, cố gắng phòng thủ một cách anh dũng và chiếm một vị trí trong vùng Montagne Noire với lực lượng ở Montpellier. Chẳng bao lâu ông bị cầm tù và bị mọi người ruồng bỏ. Chính vì thế mà ông tiếp xúc với nhóm Pháp Chiến Đấu, nhóm này giúp ông vượt ngục đưa ông về Luân Đôn và ông dứt khoát theo tôi. Tướng Weygand tìm cách trốn ở Guéret, bị quân Gestapo bắt giữ và đưa sang Đức. Như vậy là Vichy không hề bắn một phát súng vào quân Địch mà nền độc lập giả tưởng và giả dối của chế độ ấy chẩm dứt — nền độc lập mà chế độ ấy dùng làm bình phong để biện minh cho sự đầu hàng và đánh lừa biết bao người Pháp. Thứ chủ quyền bề ngoài ấy tan rã, chỉ còn lại hạm đội Toulon Nhưng cũng chẳng được bao lâu.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #196 vào lúc: 08 Tháng Hai, 2019, 12:37:03 am »


        Một phần của hạm đội ấy lúc nào cũng sẵn sàng để chiến đấu, đặt dưới quyền chỉ huy của đô đốc Laborde ; phần khác đã giải giới, tùy thuộc quyền chỉ huy trực tiếp của đô đốc Marquis, hải quân khu trưởng ; phần này vẫn theo Pétain và từ chối không chịu đến Phi Châu mặc dầu tướng Darlan đã hối thúc nhiều lần ; quân Đức đã kéo đến quân cảng chỉ cách có một tầm súng. Hòa ước « trung lập » của Vichy ký với địch ngăn cấm các thủy thủ của chúng ta vùng dậy một trận tối hậu. Đó là giai đoạn đi đến sự tan rã. Đối với tôi thì tôi càng tin tưởng như vậy, khi trước đây tôi bí mật viết thư cho đô đốc Laborde nói cho ông biết con đường vinh dự và bổn phận nên theo, tôi biết rằng ông đã hạ lời mạt sát tôi và đe dọa sứ giả của tôi, đại tá Fourcault; tuy nhiên ông không quên giữ lại bức thư. Từ ngày 26 tháng một, quân Đức tràn xuống Toulon và chiếm đoạt hạm đội của chúng ta.

        Họ đã cẩn thận chiếm trước những núi cao trông xuống hải xưởng, để sẵn oanh tạc cơ gần hải cảng và đặt mìn bao vây cửa biển, bởi vậy họ có đủ phương tiện uy hiếp hạm đội Pháp. Trong tinh trạng ấy, Thống Chế và các tổng trưởng, vị hải quân khu trưởng, vị tổng chỉ huy hạm đội, bị tê liệt vì cô lập, không thế làm gì khác hơn đảnh chìm các tầu chiến. Ba thiết giáp hạm : Dunkerque, Strasbourg, Provence, 8 tuần dương hạm: Colbert, Dupieix, Foch, Algérie, Jean-để-vienne, la Galissionnière, Marseillaise, Mogador, 17 khu trục hạm, 16 phóng thủy lôi, 16 tiềm thủy đĩnh, 7 thông báo hạm, 3 tuần tiễu hạm, độ 60 chiếc tầu vận tải, chở dầu, vớt mìn, tầu kẻo, như vậy là một cách tự vẫn thảm hại và vô bỗ nhất mà người ta có thể tưởng tượng ra. Còn lại 1 khu trục hạm, 1 phỏng thủy lôi, 5 tàu chở dầu, chưa kịp phá hủy, đều lọt vào tay quân Đức. Chỉ có 5 tiềm thủy đĩnh nhờ sáng kiến của người chỉ huy can đảm, đã theo phe «ly khai » và tìm cách ra khỏi bến : « Casablanca, thuyền trưởng Lherminier, Gloricux, thuyền trưởng Meynier, Marsouin, thuyền trưởng Mine, ba chiếc này về được tới Alger ; còn chiếc Iris, thuyền trưởng Degẻ, thiếu nhiên liệu, phải trú ẩn tại một hải cảng Y Pha Nho. Chiếc Vénus, thuyền trưởng Crescent bị đánh chìm ngay trong vũng tầu. Tôi chỉ biết đau khổ và tức giận mà thấy tiêu hủy một trong những cơ may chính yếu của nước Pháp, tôi chỉ biết đón chào trên làn sóng phát thanh một vài cử chỉ can đảm trong cơn tai biến và nhận lời chia buồn trên điện thoại của Thủ Tướng Anh ; ông bày tỏ lời chia buồn một cách cao nhã nhưng trong thâm tâm ông thỏa mãn vô cùng.

        Tuy nhiên, tình hình không thể không tăng cường sự đoàn kết người Pháp ở khắp nơi xung quanh tướng de Gaulle, ông cũng ở một thế thuận lợi để thu hút những người khác. Vichy đã bỏ liều mọi người trong lúc nguy biến. Chính quốc bị chiếm đóng toàn vẹn, tình trạng ấy đủ cho thấy nhỏm kháng chiến là lực lượng kháng chiến duy nhất. Mặt khác, triều đại Darlan ngự trị Bắc Phi dựa vào thế lực Hoa KỲ làm cho mọi người công phẫn. Về phương diện ấy tôi được sự tán đồng của mọi người, chưa bao giờ có sự đồng thanh như vậy đối với các vấn đề khác. Hẳn là mọi người cảm thấy mình bị tước đoạt và tủi hờn khi trông thấy đồng minh của mình thỏa hiệp với những người chống đối mình — và đây là trường hợp của chúng tôi. Nhưng trong sự chê trách của họ còn có ý kình chống và ngưỡng vọng lý tưởng. Thí dụ, chúng tôi nổi lòng căm phẫn mà nghe đài phát thanh Mỹ tiếp vận qua đài BBC, lè rè nhắc lại khẩu hiệu của Pháp Tự do : «Danh dự và Tổ Quốc» để loan báo lời nói, hành động và cử chỉ của đô đốc Darlan. Sau hết, chúng tôi nhận thấy quốc dân qua những trận thử thách ấy, lên án cả chế độ chiến bại lẫn chế độ hợp tác ; chúng tôi chắc chắn rằng nếu de Gaulle rút lui hay thất thế thì ý thức hệ cộng sản sẽ thu hút đảm quần chúng chán chường ấy. Ủy Ban Toàn Quốc tin tưởng như vậy. Các chiến hữu của chúng ta ở nơi nào cũng tin tưởng không kém. Bởi lẽ ấy cũng như những lẽ khác, tôi chắc chắn rằng tôi dựa vào một khối không kẻ hở khi tôi cho Hoa Thịnh Đốn và Luân Đôn biết rằng họ không có chút hy vọng nào để dàn hòa Pháp Chiến Đấu với vị « Cao ủy » Bắc Phi.

        Từ ngày 12 tháng một tôi đã yêu cầu đô đốc stark thông báo lập trường của tôi cho chính phủ ông biết. Tại Hoa Thịnh Đổn, Philip và Tixier cũng nhắc lại nguyên văn lời nói của tôi cho ông Summer Welles nghe ngày 13, ông Cordell Hull ngày 14 ; Ngày 20, đại tá de Chevignẻ nhắc lại cho ông Mac Cloy. Ngày 23 Philip và Tixier lớn tiếng xác định với Roosevelt. Ngày 16 tháng một tôi đến thăm Churchill và Eden, họ mời tôi đến hội đàm khi nhận được bản tuyên cáo của Darlan loan báo ông nhiệm quyền nhân danh Thống chế và với sự đồng ý của đồng minh. Phải nói rằng tin ấy gây ra một sự bất bình sâu xa trong nhiều giới bên Anh và cả trong tòa nội các Anh, tại Luân Đôn có luồng dư luận cho rằng đây là một vụ xịt căng đan. Ngày hôm ấy bầu không khí căng thẳng hơn bao giờ, Thủ Tướng Anh tuy không phản đối Roosevelt nhưng bày tỏ một vài sự dè dặt đối với chính sách của Tổng Thống Mỹ.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #197 vào lúc: 08 Tháng Hai, 2019, 10:49:02 pm »


        Ông tuyên bố thẳng với tôi rằng ông hiểu tôi và thông cảm với tôi nhưng điều cần hơn hết là đánh đuổi quân Đức và quân Ý ra khỏi Phi Châu. Ông cam đoan với tôi rằng những biện pháp của Eisenhower về vấn đề Alger hoàn toàn có tính cách tạm thời và ông đưa cho tôi đọc những bức điện văn chính tay ông trao đổi với Roosevelt về vấn đề ấy. Ông xác định : « Chỉ thi hành với điều kiện đây là một mưu chước được nước Anh tán đồng.»

        Tôi trả lời các tổng trưởng Anh : «Tôi ghi nhận lập trường của nước Anh. Lập trường của chúng tôi thì khác. Các ông nêu ra lý do chiến lược, nhưng mâu thuẫn với phương diện tinh thần của cuộc chiến này cũng là một lỗi lầm chiến lược. Chúng ta không còn sống ở thế kỷ XVIII, vua Frederic đút lót tiền bạc cho những người trong triều đình Vienne để thôn tính Silẻsie, chúng ta cũng không sống ở thời đại Phục Hưng Ý, người ta dùng cảnh binh ở Milan hay kiếm khách ở Florence, vả chăng người ta cũng không để cho họ cầm đầu các dân tộc được giải phóng. Ngày nay chúng ta đảnh trận với linh hồn, máu huyết và đau khổ của các dân tộc ». Tôi đưa cho Churchill và Eden coi những bức điện tín nhận được từ Pháp gửi sang, biểu lộ sự kinh hoảng của dư luận quần chúng. Tôi nói : « Quý ông thử nghĩ đến hậu quả có thể xảy đến. Nếu một ngày kia nước Pháp nhận thấy vì nước Anh mà sự giải phóng của họ có nghĩa là Darlan lên cầm quyền, thì các ông có thể chiến thắng về phương diện binh bị nhưng các ông sẽ thất bại về phương diện tinh thần, rốt cuộc chỉ có một kẻ chiến thắng là Staline».

        Sau đấy người ta nói đến một bản thông cảo của ủy Ban Toàn Quốc Pháp tuyên bố họ không dây dưa gì đến mưu đồ của đồng minh ở Alger. Muốn đạt được sự phổ biến rộng rãi, chúng tôi cần sử dụng đài phát thanh BBC. Tôi yêu cầu Thủ Tướng Anh đừng tìm cách cản trở mặc dầu đài phát thanh Luân Đôn phải lệ thuộc người Mỹ về các vấn đề Bắc Phi. Ông Churchill trả lời: «Đòng ý ! vả chăng tôi sẽ gửi điện văn cho Roosevelt báo cho ông ta biết rẳng tướng de Gaulle cần có phương tiện đế công bố lập trường của mình ».

        Lủc sắp cáo từ, Eden cảm động đến rưng rưng hạt lệ, ông nói riêng với tôi rằng riêng ông, ông rất bổi rối về việc này. Tôi trả lời rằng tôi không lấy làm kinh ngạc vì dứng trên phương diện « con người đổi xử với con người thì chúng ta phải công nhận rằng việc này không sạch sẽ ». Thải độ của Eden xác nhận cảm tưởng của tôi, hẳn là chính ông và một phần nội các Anh không sẵn lòng theo chính sách của người Mỹ như Churchill.

        Sau bữa ăn sảng ở Downing Street mà bà Churchill dùng hết tài khéo léo để tạo bầu không khí vui vẻ giữa các bà xao xuyến và các ông lo âu, vị Thủ Tướng và tôi trở lại cuộc đàm phán. Churchill nói : « Đối với ông, thời cơ khó khăn thật, nhưng vị thế rất tốt đẹp. Ngay từ lúc này Giraud đã bị thanh toán trên sân khấu chánh trị. Sẽ đến lúc Darlan không thể làm gì được nữa. Ông sẽ là người độc nhất có đủ uy tín. » Ông còn nói thêm : « Không nên đương đầu thẳng với người Mỹ. Nên kiên nhẫn ! Rồi sẽ phải cần đến ông, họ không còn cách nào khác để lựa chọn ». Tôi nói : « Có lẽ ! Nhưng trong lúc chờ đợi, đĩa hát đã đổ vỡ tan tành ! Còn như ông, quả thật là tôi không hiểu ông. Ông đánh trận ngay từ lúc đầu. Người ta có thể nỏi rằng chính ông là cuộc chiến này. Quân của ông đang tiến ở Libve. Sẽ không có quân Mỹ ở Phi Châu nếu ông không bận giao tranh với Rommel. Vào giờ này chưa có người lính Mỹ nào đụng độ với một người lính của Hitler, còn như quân lỉnh của ông, họ đã chiến đấu ở khắp nơi từ ba năm nay. Vả chăng, trong vụ Phi Châu, chính Âu Châu mới là cái đích của chiến cuộc, mà nước Anh thuộc về Âu Châu. Ấy thế mà ông để cho người Mỹ điều khiển chiến cuộc. Nhưng chính người Anh phải giữ vai trò ấy, ít ra về phương diện tinh thần, ông hãy làm đi ! Dư luận Âu Châu sẽ theo ông. »

        Lời lẽ ẩy xúc động Churchill. Tôi thấy người ông lắc lư trên ghế. Chúng tôi ra về sau khi đồng ý với nhau rằng không nên để cho cuộc khủng hoảng lúc này làm thương tồn sự đoàn kết Anh Pháp, sự đoàn kết ấy hơn bao giờ hết sẽ phù hợp với trật tự thiên nhiên của sự vật khi mà người Mỹ tìm cách can thiệp vào việc của cựu lục địa.

        Như tôi đã yêu cầu, tôi hôm ấy đài phát thanh Luân Đôn loan báo rằng «tướng de Gaulle và Ủy Ban Toàn Quốc không tham dự phần nào và không chịu một trách nhiệm nào trong các cuộc điều đình ở Alger », « nếu những cuộc điều đình ẩy đưa đến giải pháp duy trì chế độ Vichy tại Bắc Phi, tất nhiên Pháp Chiến Đấu không chấp nhận giải pháp ấy. » Bản thông cáo của chúng tôi kết luận : « Sự đoàn kết mọi lãnh thổ hải ngoại trong cuộc chiến tranh giải phóng chỉ có thể thực hiện được trong những điều kiện phù hợp với nguyện vọng và danh dự của dân tộc Pháp. »
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #198 vào lúc: 09 Tháng Hai, 2019, 10:31:55 pm »


        Nhưng mỹ ý của người Anh không chống lại áp lực Mỹ được lâu. Ba ngày sau nội cách Anh từ chổi không cho chúng tôi sử dụng đài BBC để phổ biến một bản tuyên ngôn của các tổ chức khảng chiến Pháp hỗ trợ lập trường của chúng tôi. Đây là một văn thư gởi từ Pháp sang nhắn nhủ các chảnh phủ đồng minh, có chữ ký của đại diện ba phong trào miền nam : « Combat », « Liberation », « Franc-Tưeur », và của « Lực lượng thợ thuyền Pháp » quy tụ Tổng Công Đoàn và các nghiệp đoàn công giảo của bốn đảng chánh trị: ủy ban dân vận của đảng Xã Hội, Liên Đoàn cộng hòa, Dân chủ bình dân, Cấp tiến. Bản văn này tuyên bố : «Tướng de Gaulle là lãnh tụ khảng chiến hiển nhiên, hơn bao giờ hết, ông quy tụ sau lưng ông toàn thể quốc dân... Trong bất cứ trường hợp nào chúng tôi không chấp nhận rằng việc hồi chánh của những thủ phạm quân sự và chánh trị phản quốc lại có thể bào chữa cho tội lỗi của họ... Chúng tôi khẩn thiết yêu cầu đồng minh trao vận mệnh Bắc Phì thuộc Pháp giải phóng cho tướng de Gaulle càng sớm càng hay. » Nhân viên giám sát từ Hoa Thịnh Đốn sang đã dùng quyền phủ quyết ngăn cản sự công bố bản tài liệu ấy.

        Ngày 21 tháng mười một chính tôi cũng gặp sự chống đối của họ. Trong một bản hiệu triệu gửi quốc dân Pháp đã ghi âm tại đài BBC, tôi đặt câu hỏi: «Danh dự của phong trào giải phóng quốc gia có bị tổn thương không ?» Dĩ nhiên, tôi trả lời : «Không !» Trước giờ phổ biến bản hiệu triệu ông Charles Peake đến bảo tôi : « Chiếu theo điều khoản thực thi những thỏa hiệp của các nước đồng minh và vì lý do quân sự, đài phát thanh Luân Đôn không thể loan báo những tin tức liên quan đến Bắc Phi nếu không có sự thỏa thuận của chính phủ Hoa Kỳ, về bản hiệu triệu của tôi đã có lời thỉnh cầu sự thỏa thuận ẩy nhưng chính phủ Anh xin lỗi vì phải đợi một thời gian mới có trả lời.» Như vậy, chỉ có đài phát thanh của Pháp Chiến Đấu ở Brazzayille, Douala và Beyrouth phổ biến bản thông điệp của tôi và của phe khảng chiến vì các đài này không có sự can thiệp của ngoại bang.

        Ngày 24 tháng một, trong một cuộc hội đàm, ông Churchill, vẻ hơi lúng túng, cho rằng cần phải thanh minh với tôi về việc đài BBC phổ biến chậm trễ bài diễn văn của tôi. Ông nói : « Vì những vấn đề ấy liên hệ tới tính mạng lính Mỹ và Anh, tôi cho rằng cần phải gửi điện văn cho Tổng Thống Roosevelt để yêu cầu ông chấp thuận. Ông vẫn chưa chấp thuận». Tôi trả lời: «Tôi biết rằng tại lãnh thổ Anh, đài phát thanh không phải của tôi.» Nhưng thái độ của ông Churchill cho thấy rằng nó cũng không phải của ông nốt.

        Như vậy, giữa những trận xao động ấy, tôi cố gắng không để ai lay chuyển được tôi. Vả chăng, tôi hành động theo lý trí cũng như tính tình. Vì hệ thống xây dựng ở Alger có vẻ giả tạo quá, khó lòng mà cầm cự được trước các biến cố mạnh như vũ bảo, mặc dầu có sự nâng đỡ ở bên ngoài. Hiến nhiên là những người chỉ huy bị hỏng cẳng không thích ứng được với những khuynh hướng của dư luận. Họ đứng đối lập với de Gaulle, họ bị Pétain nguyền rủa, họ gây xúc động cho những người có thải độ chờ đợi, họ không được một luồng sóng nào nâng đỡ; không có một ý tưởng thần bí nào chổng đỡ những người lãnh đạo, người ta thấy rõ là thái độ của họ chỉ là thái độ lợi dụng. Tại sao lại trao quyền cho những người làm chánh trị quả đầu, không tương lai và không hy vọng? Người ta càng ít tin tưởng hơn khi quyền hành của họ được thiết lập ở Alger thì ở nơi khác thời gian đã sửa soạn để nhóm của chúng tôi lớn mạnh. Ngay sau cuộc đổ bộ của quân Mỹ lên Maroc và Algẻrie, quyền hành của nhóm Pháp Chiến Đấu lan rộng khắp toàn thể lãnh địa Pháp trong Ấn Độ Dương.

        Trong số các thuộc địa ấy, đảo Réunion trở lại theo chúng tôi trước tiên. Đảo Bourbon chưa được kể đến trong kế hoạch của đồng minh vì ở miền hẻo lánh các biển phía Nam, xa cách đường đi của các đoàn tầu vượt Mũi Hảo Vọng, nghèo nàn tài nguyên, dân cư gồm nhiều sắc tộc nhưng nhiệt thành theo Pháp. Nhưng vẫn có thể bị Nhật và Đức đe dọa, nhất là từ khi họ không đặt chân được lên đảo Madagascar. Mặt khác, chúng tôi không lạ rằng đa số người ở đảo Réunion cầu chúc cho nước mình tham dự cuộc chiến. Đã từ lâu, tôi tìm cơ hội sáp nhập đảo này vào mặt trận của Pháp Chiến Đấu. Nhưng người Anh làm trì trệ cuộc can thiệp của tôi để tránh sự dòm ngó của Vichy và địch, trong khi họ sửa soạn đánh Madagascar và trong khi người Mỹ sẵn sàng để tiến quân ở Phi Châu. Bây giờ thì họ không còn lý do gì để chống đối tôi cả. Bởi vậy, ngày 11 tháng một, tôi quyết định thực hiện cuộc tập kết đảo Réunion.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #199 vào lúc: 09 Tháng Hai, 2019, 10:34:28 pm »


        Từ nhiều tháng nay, chiếc khu trục hạm Léopard dưởi sự chỉ huy của hải quân trung tả Richard-Evenou, tham dự những cuộc hộ tổng và tuần tiễu ngoài khơi Nam Phi với ý định ấy. Tôi ra lệnh cho ông đến đảo Réunion thực hiện những việc cần thiết, tầu chở theo vị trưởng hành chánh Capogorry, được bổ nhiệm từ trước làm thống đốc. Ngày 28 tháng một tầu tởi Saint-Denis. Trông thẩy cờ Croix để Lorraine, dân chúng đỗ xô đến bến tầu đón rước thủy thủ trong khi nhiều công chức và quân nhân tỏ thiện cảm. Chỉ có giàn súng ở mũi Galets có hành động thù nghịch. Chiến hạm Léopard trả lời bằng một loạt súng đại bác và đánh ngã quỵ một chi đội. Sau có sự dàn xếp của viên trưởng ty công chánh Decugis và một nhóm người địa phương hăng hái, cuộc chạm súng bất ngờ được dẹp yên ngay. Chẳng may, Decugis bị giết ngay tại chỗ cùng với một vài người đứng quan sát. Viên thống đốc Aubert rút về nhà riêng trên núi, thuyền trưởng Richard- Evenou đến tận nơi tiếp xúc với ông. Với mục đích làm «dịu tình hình », người ta thỏa thuận với nhau chấm dứt mọi sự kháng cự và viên thống đốc Capogorry sẽ nhận trách nhiệm về hòn đảo này. Trong niềm phấn khởi rộn rã nhất của dân chúng, viên đại diện của tướng de Gaulle nhậm chức thống đốc.

        Một tháng sau, ở Madagascar cũng vậy. Thực ra, từ ngày viên toàn quyền Annet đầu hàng người Anh, vận mệnh của hòn đảo lớn này đã được định đoạt trên lý thuyết. Nhưng ngoài thực tế, mọi việc còn bỏ lửng. Đành rằng ngày 11 tháng một, theo lời đề nghị khẩu khoản của Ô. Eden, tôi đã đồng ý công bố một bản thông cáo chung loan báo « Ủy Hội Toàn Quốc Pháp và chính phủ Anh đang thảo luận về vấn đề Madagascar» và «Ủy Hội Toàn Quốc Pháp đã chỉ định tướng Legentilhomme làm Cao ủy». Nhưng tôi không chịu thâu hồi hòn đảo này nếu không được tự do hành động. Như vậy, người Anh phải ưng thuận rút lui trong lãnh vực chánh trị và hành chánh.

        Nhưng cuộc điều đình kéo dài, không đem lại kết quả vì có sự cản trở của thực dân Anh. Trước đây họ đã muốn lôi kéo nhà cai trị của Vichy về làm việc dưới quyên chỉ đạo của họ, qua tay cấp chỉ huy quân sự ở đây, đến sau họ thử cầm quyền trực tiếp và ủy nhiệm cho Lord Rennel đôn đốc công việc với sự phụ giúp của các công chức Pháp thiện chí. Bây giờ Lord Rennel thoái bộ và chấp nhận rằng cần phải nhượng quyền cho Pháp Chiến Đấu. Nhưng ít ra họ cũng muốn giữ lại quyền kiểm soát. Chủng tôi không thể chấp nhận điều kiện ấy. Sau cùng, một bản thỏa hiệp cứu vãn tình thế một cách hợp lý được ký kết ngày 14 tháng chạp giữa ông Eden và tôi. Đến tối, tôi nói trên đài phát thanh loan báo tin mừng này ; tôi tuyên bố rằng nhờ sự thỏa hiệp ấy « thuộc địa lớn và đẹp nhất của chúng ta sẽ có thể thực hiện nỗ lực quân sự và kinh tế quan trọng trong cuộc chiến tranh này », tôi nhấn mạnh đến lòng trung thực hoàn toàn của đồng minh Anh cố cựu và tốt bụng. »

        Thỏa hiệp nói rõ rằng những điều khoản ký kết « nhằm mục đích tái lập chủ quyền Pháp ở Madagascar và các đảo phụ thuộc « Comores, Crozet, Kerguelen, Saint-Paul, Amsterdam)... viên cao ủy đảm nhiệm mọi quyền hành trước đây vẫn trao cho vị toàn quyền, theo pháp luật Pháp, ông giữ cả quyền chỉ huy lực lượng quân sự Pháp... Việc phòng thủ Madagascar, các đảo phụ thuộc, và đảo Reunion, sẽ thực hiện chung. » Vị Cao ủy sẽ tổ chức lại lực lượng Pháp, càng sởm càng hay. Trong khi chờ đợi có đủ phương tiện cần thiết, một quân nhân Anh cấp tướng sẽ đảm nhiệm việc phòng thủ. Quyền chỉ huy ở DiegơSuarez sẽ trao cho một sĩ quan hải quân Anh.

        Ký xong bản quy ước, tướng Legentilhomme đi Tananarive, Phi Châu Pháp tự do sẽ gửi theo ông một chi đội võ trang đầy đủ. Legentilbomme có hai người phụ tá là vị toàn quyền ở Saint-Mart và đại tá Bureau chỉ huy quân đội ; ông sẽ tổ chức  hành chánh, kinh tế và giao thương với nước ngoài, tải lập lực lượng quân sự. Đồng thời, ông gây lại ý thức về trật tự xã hội cho mọi người. Nhờ thế mà vài tuần sau, phân nửa sĩ quan, hai phần ba hạ sĩ quan, toàn thể binh lính các đơn vị vừa đánh lại đồng minh theo lệnh của Vichy, đều trở lại quân ngũ dưới quyền chỉ đạo của nhóm Pháp Chiến Đấu. Phần còn lại đã chuyển sang Anh, họ sẽ trở lại Bắc Phi khi nào thực hiện được sự thống nhất.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM