Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 08:03:47 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Khoảng trời Ban-Tích  (Đọc 25766 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Trung tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #90 vào lúc: 25 Tháng Hai, 2019, 10:48:32 pm »


        Bẻ cành và lội ngập vào tuyết, Lu-nin tìm đường đến cái hố mà anh chỉ trông thấy lờ mờ. Dưới đáy hố, có ánh đèn sáng, đèn bấm của Grô-mê-kô. Mặt Sê-rốp hiện ra trong ánh'sáng, một bộ mặt biến dạng đi một cách lạ thường có những chấm đen trên má và trên trán. Đôi mắt vẫn mở.

        Lu-nin kêu lên:

        - Kô-li-a! Kô-li-a! Không nghe thấy gì nữa rồi... Còn sống không?

        - Bây giờ thì còn, - Grô-mê-kô trả lời.

        Đồng chí nữ y tá đến vào nói:

        - Mắt còn phản ứng với ánh sáng.

        Đèn tắt. Grô-mê-kô bế Sê-rốp một cách dễ dàng và đặt lên miệng hố. Anh ra lệnh cho Lu-nin:

        - Tránh xa ra! Mọi người đều tránh xa ra!

        Ai nấy đều tuân lời. Bây giờ người thầy thuốc là chủ. Mọi người đứng quanh Sê-rốp, Grô-mê-kô và đồng chí nữ y tá thành một vòng rộng.

        Grô-mê-kô giọng như thường:

        - Cáng đâu?

        Một thuỷ thủ đem cáng đến, mở cáng trên tuyết. Grô- mê-kô đặt Sê-rốp vào. Cái đầu lắc lư một cách lạ lùng, như một cái đầu bù nhìn. Lu-nin rùng mình; Grô-mê-kô đã nói: "Bây giờ thì còn". Bây giờ thì...

        Quỳ trước cáng, Grô-mê-kô làm việc. Đồng chí nữ y tá tuần tự rút từ sà-cột ra những thứ anh cần dùng. Anh lấy dao rạch cái bốt vất đi vào đòi:

        - Đưa ga-rô.

        Anh cắt bộ quần áp bay đẫm máu, để trần cái chân ra và buộc ga-rô ngay dưới đầu gối, trên vết thương một ít. Đồng chí nữ y tá soi cho anh bằng cái đèn bấm trong khi anh coi vết thương xem xương có việc gì không? Rồi anh làm đến cánh tay phải. Nó chỉ còn là một đống lẫn lộn máu, mảnh xương gẫy vụn, vải, bông và thịt. Anh rửa chỗ bị thương, nhanh, gọn và nhẹ nhàng. Khi anh kéo vào cánh tay, thì Sê-rốp kêu rên một tiếng, nhưng vẫn không tỉnh. Grộ-mê-kô buộc một ga-rô rất chặt ở vai, băng lại và đặt một cái máng bó xương.

        Lu-nin không hiểu ý nghĩa của việc làm đó. Nhưng cái bình tĩnh và dáng điệu chắc chắn của người thầy thuốc làm anh tin tưởng. Và anh càng ngạc nhiên khi nhận ra là thường ngày ở trường bay, cái thô bạo cố tình, những câu chuyện đàn bà và chè rượu của con người ấy chỉ là do cái tâm lý tự ti mà thôi. Cúi xuống những vết thương của Sê- rốp, Grô-mê-kô như thành một con người khác. Đến tiếng nói cũng không giống nữa. Ai cũng nhận thấy thế, và Lu-nin  cũng như Éc-ma-kốp và các đồng chí thuỷ thủ đều nhìn anh một cách kính trọng.

        Grô-mê-kô bảo:

        - Cáng anh lên xe! Cốt nhất là đừng để anh bị lắc quá! Lên đường thôi!

        Người ta trùm một chiếc áo da lông cho Sê-rốp và cáng anh đi qua rừng. Đồng chí nữ y tá lên ca-mi-ông với các thuỷ thủ. Éc-ma-kốp, Grô-mê-kô và Lu-nin thì cùng đi với Sê-rốp trong chiếc M-l. Cái cáng quá lớn nên Grô-mê-kô và Lu-nin phải giữ Sê-rốp trong lòng, đầu anh dựa vào ngực Lu-nin. Lu-nin không dám thờ mạnh sợ anh đau.

        Tuy tôì trời, Lu-nin cũng nhìn thấy bộ mặt méo mó đi vì vết bỏng, sưng vù lên và đầy những chấm đen. Bây giờ thì mắt Sê-rốp nhắm. Éc-ma-kốp lái xe, nhưng thỉnh thoảng lại ngoái đầu lại xem: những chấm đen có vẻ làm anh lo ngại. Sau cùng anh bảo Grô-mê-kô:
        - Đồng chí ấy bị bỏng tợn quá!

        - Không sao cả. Chủ yếu là hai con mắt không việc gì. Vết bỏng sẽ lành. Tất nhiên nếu...

        Grô-mê-kô không nói hết câu. Nhưng Lu-nin đoán "Tất nhiên nếu anh sống được".

        Ec-ma-kôp hỏi:

        - Mất nhiều máu phải không?

        - Nhiều. Nhưng cái nguy hiểm nhất là cái lạnh. Đồng chí ấy may mà lại rơi vào trong cái hố đó: tuyết đã giữ ấm cho. Nếu không, thì đã chết cóng rồi.

        Đi được năm cây số. Éc-ma-kốp lại hỏi:

        - Cái chân có bị nặng không?

        - Không chạm vào xương, hoặc chỉ hơi chạm. Rồi có thể đi được.

        Lu-nin cảm thấy hơi yên trí. Nhưng Grô-mê-kô nói thêm:

        - Nhưng cánh tay phải, thì khi đến nơi, tôi sẽ cưa.

        Lu-nin sợ hãi hỏi:

        - Phải cưa thật?

        - Cưa.

        Lu-nin rùng mình. Bất tỉnh, Sê-rốp như bị phó thác cho mọi ý kiến, không còn làm gì được. Và Lu-nin nhớ lại cái khoái chí của Grô-mê-kô trước kia.khi anh nói chuyện "mổ, cắt". Và anh cảm thấy bất bình: "Phải rồi, cắt vốn vẫn là dễ hơn chữa".

        Grô-mê-kô như đoán được tư tưởng Lu-nin. Sau cùng, khi người ta mang Sê-rốp vào đến bệnh xá thì anh tỏ vẻ rất không bằng lòng khi thấy Lu-nin cũng vào. Một bức vách bằng ván chia bệnh xá ra hai phần, một căn gọi là "phòng khám bệnh”, một căn gọi là "phòng bệnh nhân". Lu-nin ở trong "phòng khám bệnh" không dám đi xa hơn. Căn buồng không có đèn, nhưng một cái đèn đầu thắp trong "buồng bệnh nhân” để lọt ánh sáng qua kẽ vách. Nghe tiếng thì thầm ra lệnh trong buồng bên kia, thấy tiếng xê giường, xê bàn. Lu-nin đứng im trong bóng tối đến năm phút, không dám động, không dám ngồi sợ người ta biết. Nhưng không được, Grô-mê-kô rửa tay hồi lâu rồi ra cửa, không mặc áo bay như thường lệ, mà mặc áo blu nhà thương, tay cầm khăn mặt, ông tay áo vén lên đên khuỷu. Anh bảo Lu-nin:

        -  Đồng chí phi đội trưởng, đồng chí nên về đi. Khi nào đưa anh ấy đi, tôi sẽ cho người lại tìm đồng chí.

        Cái giọng nói rõ cương quyết, dứt khoát, khiến Lu-nin không cưỡng lại được. Nhưng anh càng bực, nhất là muốn điên lên vì câu "Đồng chí nên về đi". Anh nghĩ bụng "Cảm ơn cái lòng tốt. Bây giờ mà đi ngủ thì phải quá rồi!”. Anh vừa đi được mấy bước thì nghe thấy tiếng chân nặng. Anh quay lại thấy Prốt-cua-ri-a-kôp đang lên bậc thềm. Anh muốn gọi. nhưng đồng chí trung đoàn trưởng đã đóng cửa lại. Lu-nin quyết định đứng đợi.
Logged

Giangtvx
Trung tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #91 vào lúc: 25 Tháng Hai, 2019, 10:49:13 pm »


        Anh đứng một lúc lâu trong con đường lớn tối om. Chỉ còn ánh sáng ở mấy cái cửa sổ nhỏ của bệnh xá mà ở đó lờ mờ có những bóng người lăng xăng đi lại. Và Lu-nin trông thấy cái bóng chập chờn nhảy múa mới thê lương làm sao! Sau cùng, cửa mở mạnh, và cái vóc người to lớn của Prôt- cua-ri-a-kôp làm gỗ trên sàn thềm kêu kẽo kẹt.

        Lu-nin gọi:

        - Đồng chí thiếu tá.

        - Đồng chí đấy à? - Prốt-cua-ri-a-kốp không một chút ngạc nhiên, hình như anh cho là việc Lu-nin đứng canh đêm trước bệnh xá là rất thường. Lu-nin hỏi:

        - - Đồng chí có trông thấy Sê-rốp không?

        Prốt-cua-ri-a-kốp gật và nói:

        - Đồng chí ấy sẽ khỏi.

        - Tôi cũng biết vậy. Nhưng người ta sắp cưa cánh tay phải của đồng chí ấy.

        - Thật là khổ tâm! Một phi công có tài như vậy...

        - Liệu có thể tránh không cưa được không?

        - Đồng chí bác sỹ nói là đồng chí không tin đồng chí ấy.

        - Đồng chí ấy nói thế à?

        -  Không. - Éc-ma-kôp bảo tôi. - Tôi đến để xem có tránh không cưa được không. Nhưng có lẽ chẳng tránh được.

        Lu-nin thở dài. Prôt-cua-ri-a-kổp nói tiếp:

        - Tay gẫy bốn chỗ. Xương chỉ còn là một mớ lộn xộn. Có thể nói là không còn tay nữa. Chẳng còn gì mà chữa. Sáng mai, đem đồng chí ấy đi Von-khô-strôi. Ở đấy, sẽ chuyển lên toa Hồng thập tự đem về phía đông. Nếu không cưa tay, sẽ bị nhiễm trùng mà chết.

        Lu-nin lặng yên. Prốt-cua-ri-a-kốp buồn rầu bảo:

        - Chúng mình có hiểu gì về thuốc đâu. Tôi thà là chết tại trận còn hơn bị cắt cái nọ cái kia, và chắc đồng chí cũng thế... Tiếc thay Sê-rốp không có mặt với chúng ta hôm làm lễ nhận cờ.

        Hai người từ biệt nhau.

        Lu-nin lê bước về hầm trên sân bay.

        Trong hầm vẫn ấm như thường lệ. Cái lò sưởi gang reo vui. Thấy Lu-nin vào, Krô-míc lặng lẽ đứng dậy trong đôi ủng lớn, nhìn chằm chằm vào thủ trưởng nhưng không hỏi câu gì. Lu-nin cảm ơn thầm.

        Krô-míc đặt thức ăn lên bàn, nhưng Lu-nin không sao nuốt được. Anh cũng chẳng tìm cách ngủ nữa, tuy rất mệt, vì anh cho là có buồn ngủ cũng không sao nhắm được mắt. Anh bỏ mũ, để nguyên quần áo bay và bốt lông, ngồi trên ghế dài nghe tiếng lách tách quen thuộc của lò sưởi. Thế mà rồi kéo luôn một giấc.

        Anh giật mình tỉnh dậy và xem đồng hồ. Từ lúc cả bọn về tới trường bay, đến bây giờ đã có hơn ba giờ. Chắc là xong xuôi cả mất rồi, và Sê-rốp không còn tay nữa! Cái hơi ấm trong hầm, anh như không chịu nổi nó nữa. Anh đội mũ đến bệnh xá.

        Tối như mực. Một đám mây vô hình từ phía đông lên đang che lấp dần từng ngôi sao; và cái bóng tối to dần ấy có cái gì nó làm thắt lòng Lu-nin lại.

        Vẫn cái ánh sáng ở cửa sổ bệnh xá, Lu-nin đẩy cửa vào.

        Tiếng thì thầm giận dữ của Grô-mê-kô.

        -  Ai đây? Đừng làm có tiếng động...

        Cái đèn đầu từ "buồng bệnh nhân" đã chuyển sang "buồng khám bệnh". Đồng chí nữ y tá ngủ ngồi trên ghế dài. Grô-mê-kô tìm chai lọ trong tủ thuốc. Anh quay lại khi nghe thấy tiếng Lu-nin vào. Mặt anh tiều tuỵ mệt nhọc.

        Lu-nin hỏi khẽ:

        - Tôi muốn biết...

        - Đồng chí ấy ngủ.

        - Ngủ à?

        - Đồng chí ấy tỉnh lại, rồi lại ngủ. Yếu lắm.

        - Có đau không?

        - Có, nhất là các vết bỏng.

        - Còn cánh tay?

        - Hiện nay thì chỉ vết bỏng là đau.

        Ý Lu-nin muốn biết có cưa không, nhưng anh không có can dam hỏi. Grô-mê-kô đoán biết ý anh và chỉ nói:

        - Không... Chưa cưa.

        Đồng chí nữ y tá mớ mắt và nói, giọng nghiêm khác:

        - Chúng tôi đã truyền máu cho đồng chí ấy. Đợi sáng xem sao.

        Lu-nin hỏi:

        - Thì thế nào?

        - Còn tuỳ nhiệt dộ.

        Grô-mê-kô giải thích:

        - Nêu nhiệt độ không lên, thì tôi cứ để như thể đưa ra tầu.

        - Thế nếu nhiệt độ lên?

        - Thì chắc là quá muộn... - Grô-mê-kô đi vài bước rồi nói. giọng như lạc đi: - Tôi chịu cái trách nhiệm mạo hiểm ấy.

        Không ai nói gì nữa. Lu-nin ngồi vật xuống cái ghế dài, cạnh đồng chí nữ y tá. Grô-mô-kô bước từng bước dài trong phòng. Lu-nin nhìn cái mặt xanh tái của anh, lòng cảm kích bối rối. Không, con người ấy không phải là một tên đồ tể như thường ngày anh vẫn làm ra vẻ. Anh đã có gan gánh lấy trách nhiệm: Trách nhiệm nặng nề dầy vò anh. Và Lu-nin hiểu rằng đêm hôm nay đã làm mình gần gũi người thầy thuốc hơn trước.

        Grô-mê-kô nói:

        - Đồng chí đi ngủ đi. Dù sao, thì Sê-rốp không dậy trước sáng dâu.

        Lu-nin bất đác dĩ phải đi về, trong bụng quyết định sáng sớm lại đến.

        Lần này, anh cũng yên trí là không thể ngủ được. Nhưng rồi lại ngủ ngay lập tức, thiếp đi vì hơi ấm và cái im lặng của gian hầm. Tiếng diện thoại làm anh tỉnh giấc.

        Điện gọi của Ta-ra-rắc-xin. Các đồng chí đại diện bộ tham mưu sẽ đến ngày hòm nay để trao cờ Cận vệ cho trung đoàn. Lu-nin ra khói hầm và chạy. Có lẽ trong khi anh ngủ người ta đã đem Sê-rốp đi mất rồi!
Logged

Giangtvx
Trung tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #92 vào lúc: 26 Tháng Hai, 2019, 07:30:23 am »


        Trời đã gần sáng. Một buối sáng âm u. Những đám mây thấp chạm cái cánh màu gio bẩn xuống mỏm đồi. Tuyết sắp xuống. Một chiếc xe quân y dài đợi trước bệnh xá. Lu-nin  rảo bước. Không có cái xe nào như thế ở trung đoàn cũng như ở trường bay. Grô-mê-kô đã phải gọi từ chỗ khác đến để chở Sê-rốp. Anh đón Lu-nin trên thềm;

        - Tôi đang định cho người đi tìm đồng chí. Sê-rốp muốn gặp đồng chi.

        - Nhiệt độ có lên không?

        - Hiện nay thi không...

        Thế là không cưa tay! Hơi thở muốn dứt vì cảm xúc, Lu-nin vào "buồng khám bệnh" gặp một người đàn bà bé nhỏ quàng khàn và mặc áo da lông. Thì ra Hin-da. Cô như khóc, gật đầu chào và đi ra.

        Grô-mê-kô dặn:

        - Đừng có bắt Sê-rốp phải trả lời. Mở miệng là đau lắm. Các vết bỏng...

        Lu-nin rón rén đi vào "buồng bệnh nhân".

        Mặt Sê-rốp bị băng kín. Chỉ trông thây đôi mắt như cười thân mật và buồn rầu. Lu-nin cảm thấy môi mình mấp máy run run như hồi còn trẻ thơ. Nhưng anh gượng mỉm cười.

        Grô-mê-kô đi ra để cho họ được tự do.

        Chưa hề nói chuyện với nhau lâu, và cũng chỉ nói những câu chuyện thông thường, nhưng họ đã thành đôi bạn không lời, và họ không còn cần lời để hiểu nhau. Trông mắt Sê-rốp là Lu-nin đã hiểu ngay, cũng như Sê- rốp đã hiểu ngay khi thấy cái môi run run của Lu-nin.

        Họ sắp xa nhau... Để phá sự im lặng, Lu-nin dặn Sê- rốp đến đâu thì gửi tin và địa chỉ về. Hễ biết Sê-rốp ở nhà thương nào thì anh sẽ gửi thư ngay cho Sê-rốp báo tin tức của trung đoàn. Sê-rốp chớp mắt ra hiệu là đồng ý.

        Lu-nin nói:

         -  Tôi sẽ giữ cái va-li của đồng chí. Có dịp nào là tôi gửi ngay - Một thoáng buồn trên mắt Sê-rốp. Lu-nin cải chính luôn:

        - Nhưng mà làm gì mà phải gửi... Tôi giữ cho đến khi đồng chí trở về.

        Rồi anh lặng yên. Từ ngoài đường thấy tiếng đồng chí bác sỹ đang ra lệnh sửa soạn chỗ đặt người bị thương. Đồng chí lái xe đổ nước vào đầu máy. Lu-nin nhìn Sê-rốp với cảm giác là nhìn nhau lần cuối cùng. Có bước chân nặng làm ván sàn rằng rắc. Prốt-cua-ri-a-kốp và Éc-ma- kốp... Cuộc gặp mặt tay đôi thế là hết.

        Thì lúc đó, cái băng động đậy. Lu-nin cúi xuống. Sê-rốp cố nói rõ từng tiếng:

        - Có bức thư nào gửi cho tôi...

        Lu-nin hiểu, và nói:

        - Được rồi, tất nhiên tôi sẽ chuyển ngay, và tôi sẽ báo tin cho chị ấy.

        Prôt-cua-ri-a-kôp và Éc-ma-kốp vào trong buồng. Lu-nin  lặng lẽ đi ra thềm. Một đám đông xúm quanh xe để tiễn biệt Sê-rốp. Mọi con mắt đều quay về Lu-nin, nhưng không ai hỏi gì.

        Trong cửa vào, Lu-nin nghe thấy Grô-mê-kô cắt nghĩa cho Prốt-cua-rí-a-kốp:

        - Tôi không cưa, nhưng thế không có nghĩa là thôi. Có thể đến nhà thương người ta sẽ cưa.

        Họ đi qua Lu-nin. Grô-mê-kô mở cửa xe, nhìn một lượt vào bên trong và mời Prốt-cua-ri-a-kốp cùng nhìn vào. Các đồng chí cáng khiêng Sê-rốp ra. Người anh trùm kín, không nhúc nhích và ngay đơ như một tấm ván. Lu-nin muốn nhìn đôi mắt. Nhưng đôi mắt đã nhắm lại. Cáng đưa vào trong xe. Grô-mê-kô ngồi cạnh Sê-rốp. Cửa xe đóng lại. Xe mở máy.
Logged

Giangtvx
Trung tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #93 vào lúc: 27 Tháng Hai, 2019, 10:24:33 pm »


V

        Buổi sáng xám xịt tuồng như mặt trời không muốn lên.

        Người ta đợi từ sớm cho đến bữa cơm trưa. Buổi chiều còn ảm đạm hơn nữa.

        Khô-vơ-rin đang viết thì có xe đỗ trước cây phong chẽ hai. Có tiếng chân trên thềm, và U-va-rốp bước vào nhà. Khô-vơ-rin hiểu, và đứng dậy:

        - Đến rồi sao?

        U-va-rốp có vẻ xanh và ít nói hợn mọi khi.

        Anh bảo:

        - Mặc ca-pốt vào và đi. Phải tới dự.

        Hai người ra xe. U-va-rốp hỏi:

        - Có biết ai đến trao cờ không?

        - Đồng chí tư lệnh Hải không quân.

        - Không phải.

        - Vậy là ai?

        - Đồng chí Đa-nốp!

        Một chiếc ôtô lớn mầu đen vượt qua.

        Trong buổi hoàng hôn, sân bay ngập tuyết, giống như bãi sa mạc bao la. Bên bờ cái bãi trắng xóa ấy, một dúm người làm thành một dây nhỏ đen. Trung đoàn tập hợp.

        Khô-vơ-rin náo nức nhìn, cả trung đoàn ở đó. Hai cái kẽ trống kia ngăn ra phi đội. Các phi đội đứng thành hai hàng, thợ máy đằng sau, phi công đằng trước - tất cả các phi công còn lại. Đứng trước các đồng chí thợ máy phi đội 2, Lu-nin chỉ có một mình.

        Prốt-cua-ri-a-kôp, Éc-ma-kốp và Sác-ba-di-ăng thành một nhóm đứng riêng. Prôt-cua-ri-a-kôp với cái thân hình khổng lồ cao trội hẳn lên.

        Hai ôtô đỗ lại.

        Đa-nốp xuống trước tiên. Trung đoàn nhận ra đồng chí. Không ai ngờ một trong các lảnh tụ của Đảng lại có mặt trong buổi lễ này.

        Đến lượt đồng chí tư lệnh Hải không quân từ chiếc xe đen bước ra - một người tầm thước, khá vạm vỡ - Rồi đến một thuỷ sư Đô đốc người dong dỏng, mặc áo ca-pổt thêu vàng, tay cầm cờ.

        Đồng chí đưa cờ cho Đa-nốp. Gió thổi, cờ bay phần phật.

        Prốt-cua-ri-a-kốp tiến lại giới thiệu đơn vị.

        Bụi tuyết lóng lánh trên bộ ria, trên lông mày đồng chí Đa-nôp. Đồng chí nhìn chăm chăm những người đứng dưới cờ, và trông đôi môi mím chặt của đồng chí, người ta đoán biết được cảm xúc khi nhìn thấy trung đoàn bị thương vong nặng. Khi đồng chí nói, giọng không to lắm, nhưng rõ từng tiếng. Giọng nói ấm áp lạ thường:

        - Đảng và chính phủ, ủy nhiệm chúng tôi trao cờ cho các đồng chí, và biết rằng các đồng chí xứng đáng với lá cờ này.

        Đồng chí đưa cờ cho Prốt-cua-ri-a-kốp. Đồng chí Prốt- cua-ri-a-kổp nhận cờ, gối quỳ xuống đất. Cả trưng đoàn quỳ xuống. Prốt-cua-ri-a-kốp dằn từng tiếng:

        - Tổ quốc xin lắng nghe chúng tôi.

        Và cả trung đoàn, gốì quỳ xuống đất, nhắc lại:

        - Tô quốc xin lắng nghe chúng tôi.

        Prốt-cua-ri-a-kốp lại tiếp tục:

        - Chúng tôi xin thề! Xin thề giáng cho kẻ thù những đòn khốc liệt hơn nữa để tỏ ra xứng đáng với vinh quang quân đội Xô Viết.

        Khô-vơ-rin không nhận ra được những chữ mà chính anh đã cùng viết với Lu-nin. Trong lời tuyên bố của Prôt- cua-ri-a-kốp mà toàn trung đoàn nhắc lại, gối quỳ xuống đất, có cái gì thiêng liêng và cao cả.

        - Tổ quốc! Khi mà bàn tay chúng tôi còn lái nổi chiếc máy bay, khi mà con mắt chúng tôi còn trông thấy đất nước bị chà đạp dưới gót giầy bọn phát xít, khi mà tim chúng tôi còn đập trong lồng ngực; và máu còn chảy trong người, chúng tôi sẽ chiến đấu đến thắng lợi cuối cùng, không sợ hãi, không thương hại, và coi thường cái chết.

        Nhìn thẳng vào lá cờ do thành tích người sống lẫn người chết đã đoạt được, toàn trung đoàn nhắc lại lời thề.

        - Đoàn cận vệ không biết chiến bại...

        Khô-vơ-rin nghĩ thầm "Đúng quá, họ còn sót lại ít người, nhưng có ai đánh bại được họ đâu".

        - Đoàn cận vệ có thể chết, nhưng phải chiến thắng.

        Khô-vơ-rin tán thành "Rất đúng". Hình như anh mới nghe thấy câu này là lần đầu! Và mắt anh đầy nước, có lẽ vì gió bấc thổi vào mặt.

        Sác-ba-di-ăng ra lệnh:

        - Chào cờ!

        Toàn trung đoàn đứng dậy. Hai tay cầm cán cờ, Prốt- cua-ri-a-kốp đi trước hàng quân - cờ phất phới trên đầu mọi người - giao cờ cho đồng chí giữ cờ, và toàn trung đoàn, cờ đi đầu, diễu binh trước đồng chí Đa-nốp.

        Tối dần.

        Khô-vơ-rin thầm nhắc lại, cái mặt vàng nhăn nheo trước gió "Đoàn cận vệ có thể chết, nhưng phải chiến thắng. Đúng quá".
Logged

Giangtvx
Trung tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #94 vào lúc: 28 Tháng Hai, 2019, 07:52:45 am »


CHƯƠNG TÁM

BỔ SUNG

I

        Sắp nhận được máy bay mới. Tin đồn như vậy từ mùa xuân.

        Kỹ nghệ Xô Viết đã bắt đầu sản xuất ra những khu trục kiểu mới. Người ta nói là tốt hơn I-16 nhiều. Có người đã chính mắt trông thấy chúng, tất nhiên là trông thấy từ xa, chúng đang bay. Trong các đặc tính của chúng mà người ta kể lại thì vấn đề tốc độ làm cho các phi công thích nhất. Nghe nói tốc độ vượt xa Mét-séc-mít 109. Thế là sẽ có dịp thanh toán với cái lũ này.

        Nhưng ngày lại ngày, trung đoàn vẫn chẳng thấy gì. Đôi khi chỉ nhận được một hai cái I-16 cũng thương tích đầy mình như những cái mà trung đoàn đã dùng từ đầu chiến tranh. Cái đó chứng tỏ là một số đơn vị đã được trang bị máy bay kiểu mới. vì có như thế thì mới dư những cái cũ gửi cho các trung đoàn khác. Nói một cách khác thì có nơi đã được bắt đầu trang bị mới.

        Đồng chí Éc-ma-kốp phát biểu một cách đúng mực:

        - Người ta đã bắt đầu, thì rồi cũng đến lượt mình thôi. Ta cứ đợi...

        Prốt-cua-ri-a-kốp lầu nhầu:

        - Phải rồi, đợi dưới bóng cây du!1

        1Ý nói chẳng biết đến bao giờ.

        Cái lạc quan thường xuyên của đồng chí chính ủy làm anh rất bực. Có lẽ nào ở trên lại ra vẻ quên cái trung đoàn cận vệ như trung đoàn anh?

        Đồng chí Éc-ma-kốp nói:

        - Không quên đâu, rồi đồng chí xem, chúng ta sẽ được lĩnh.

        - Thế sao bây giờ thì người ta ném cho mình tất cả những cái cũ rích của không quân! Sao vậy? Người khác hơn mình hay sao?

        - Không hơn. Nhưng họ cần hơn mình.

        - Đồng chí nói thế nào? - Prôt-cua-ri-a-kốp công phẫn và mặt anh đỏ lên. - cần hơn? Có lẽ người ta cho là bọn Đức ở đây không biết đánh chắc? Từ khi băng tan đến nay, chúng không ngừng ném bom...

        Thực ra, từ khi các kiện hàng gửi đi Lê-nin-grát phải chuyên chở bằng sà-lan, thì việc bảo vệ trên không càng phải tăng cường, vì những cái sà-lan khổng lồ ấy còn dễ bị máy bay bắn phá hơn là ca-mi-ông. Nhưng trong thâm tâm Lu-nin đồng ý với Éc-ma-kốp. Vì trong mùa xuân, bọn Đức đã mở một đợt tấn công mới ở phía nam, và anh hiểu rằng những sự việc đang chuẩn bị ở đó còn quan trọng hơn tình hình Lê-nin-grát hiện nay.

        Trung đoàn nhận được vài phi công mới, cũng không "mới" hơn máy bay bao nhiêu! Vì là những phi công bị thương từ đầu chiến tranh ở bệnh viện về. Cũng thêm một người cho phi đội 2, và chưa bị thương lần nào - một phi công vào loại khá đặc biệt.

        Một hôm, U-va-rốp dẫn đến bằng U-2 một thượng sỹ cao lớn mặt gân guốc và có vẻ đăm chiêu khó gần. Anh tên là Ang-tông Kút-nét-sôp. Anh trước là nhân viên trường bay. Người ta dùng anh trong công việc quét tuyết và dọn gốc cây.

        U-va-rốp tình cờ gặp anh. Đồng chí vừa thoáng gặp đã nhận ra là ai. Đồng chí có tài nhớ mặt kỳ lạ:

        - Hình như chúng mình biết nhau thì phải.

        Đồng chí đã biết Kút-nét-sốp từ trước chiến tranh, trong một trường dạy lái máy bay. Đồng chí đà khai trừ Kút-nét-sốp ra khỏi trường bay vi tội nát rượu.

        Kút-nét-sôp cũng nhận ngay đồng chí U-va-rốp và càng ỉu xìu. Đồng chí chính ủy hỏi:

        - Làm thế nào lại đến đây?

        Kút-nét-sốp đứng nghiêm trả lời:

        - Báo cáo đồng chí chính ủy, tôi được động viên.

        U-va-rốp vờ như không nhận thấy cái xuẩn ngốc cố tình của câu trả lời.

        - Được, nhưng tại sao lại công tác trong bộ phận nhân viên trường bay?

        - Do tôi đề nghị, - Kút-nét-sốp trình bày, vẫn với cái dáng đau khổ, nhưng lần này thì tuyệt nhiên không còn chút ngang bướng nào - Người ta định cho tôi làm về xe lửa, xe hơi vì tôi biết máy, nhưng tôi đã cố nài xin công tác ở phi trường. Vì ít nhất ở đó củng được trông thấy máy bay.

        - Đồng chí thích máy bay à?

        - Vâng.

        Rồi anh lặng yên. Cáu chuyện có vẻ làm anh khổ sở.

        - Đồng chí chưa quên lái chứ?

        - Tôi không rõ nữa... Chưa thử lần nào...

        - Có muốn thử không?...

        Kút-nét-sốp nhìn trộm U-va-rốp? Đồng chí đùa chăng? Nhưng U-va-rốp không đùa:

        - Đồng chí chưa tốt nghiệp, phải rồi, nhưng tôi nhớ đồng chí lái khá và bắn bay khá... Đồng chí có thể thành một phi công khu trục tốt... Đồng chí nghĩ thế nào?

        - Báo cáo, tôi không rõ thế nào.

        Kút-nét-sốp vẫn chưa tin là đồng chí U-va-rốp nói thật.

        - Nhưng tôi thì rõ. Khi tôi nói là đồng chí có thể thành một phi công khu trục tốt, thì đồng chí cứ tin lời tôi... Tất nhiên nếu đồng chí muốn vậy.

        - Báo cáo đồng chí chính ủy, tôi rất muốn. - Kút-nét- sốp trả lời cương quyết.
Logged

Giangtvx
Trung tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #95 vào lúc: 01 Tháng Ba, 2019, 10:37:20 pm »


        Ở trường bay, người ta chào đón anh phi công mới với cái vẻ không hào hứng lắm. Các phi công không tin ở khả năng của anh. Nhất là Éc-ma-kốp thì tỏ vẻ hoài nghi. Không uống rượu, nên anh rất ghét những tay nát rượu và thi hành kỷ luật với họ nghiêm khắc. Đồng chí nhăn mặt khi thấy U-va-rốp định cho Kút-nét-sốp vào phi đội 2.

        - Vào phi đội 2 sao?

        - Thì sao, - U-va-rốp trả lời - Lu-nin đang cần có đồng đội.

        - Thế nếu hắn ta lại uống rượu?

        - Hắn không uống nữa.

        - Không uống tí nào?

        - Nhất định vậy.

        - Xin lỗi đồng chí chính ủy, tại sao dồng chí biết?

        - Hắn đã nói với tôi thế.

        Éc-ma-kốp ngạc nhiên vì cái ngây thơ của cấp trên:

        - Hắn nói với đồng chí như thế... Nhưng nếu hắn lại tái phạm?

        - Thì cho hắn vào nhà cải hối. - U-va-rốp trả lời và cười nói tiếp: - Và cho cả tôi vào theo nữa.

        Người ta giao cho Kút-nét-sốp một chiếc I-16 mới nhặn được, và anh bay thử mấy lần dưới sự chỉ dẫn của Lu-nin. Lúc đầu, anh lái còn chập choạng như một người đã mất thói quen. Nhưng Lu-nin đã huấn luyện hàng trăm phi công, và nhận thấy ngay con người lanh trí, bển bỉ và gan dạ.

        Mười ngày sau, Prôt-cua-ri-a-kốp hỏi Lu-nin:

        - Liệu có dùng hắn dược việc gì không?

        - Nhất định có chứ.

        - Coi chừng hắn lại chơi cho đồng chí một vô đấy! Vì hắn phải che đằng đuôi cho đồng chí đấy.

        - Hắn sẽ không chơi tôi vố nào đâu.

        Ngày hôm sau nữa, Lu-nin dẫn Kút-nét-sốp đi công tác.

        Ngay trong những trận đầu với Mét-séc-mít trên hồ, Kút-nét-sốp đã tỏ ra có kỷ luật, thông minh và can đảm. Thực là có thể tin cậy được. Anh ta không vượt lên trước, cũng không tụt lại sau, không bao giờ rời tiểu đội trưởng và bảo vệ tiểu đội trưởng có hiệu quả.

        Rồi người ta cũng quen anh. Nhưng vẫn còn lạnh nhạt, ở nhà ăn, Hin-đa phục vụ anh, nhưng không nhìn anh một lần nào, rõ ràng là cô chưa công nhận anh. Nhưng chính anh là người chịu trách nhiệm đầu tiên vì anh rất ít gần gũi, như có vẻ nói: "Tôi biết các người coi thường tôi, nhưng chẳng cần, tôi làm việc tôi và bất kể dư luận".

        Lu-nin là người đối xử với anh tốt nhất. Anh có cảm tình với Kút-nét-sôp và cũng biết rõ là Kút-nét-sốp thầm kính trọng và biết ơn mình. Nhưng ngay giữa hai người cũng vẫn lạnh nhạt. Lu-nin vô tình mà như không chịu là Kút-nét-sôp đã thay thế Sê-rốp. Đồng chí cho như là phụ người bạn cũ, nếu cư xử với đồng chí mới cũng như đôi với người xưa.

        Tháng sau, tháng năm, Prốt-cua-ri-a-kôp được lệnh lên bộ tham mưu Hải không quân. Ở đó về, anh rạng rỡ mà lo lắng, đem theo một lệnh làm chấn động mọi người: một phi đội phải về trường bay hậu phương để đón phi công bổ sung và lĩnh máy bay kiểu mới.

        Éc-ma-kốp nói:

        -  Thế là chúng ta sắp được xem những máy bay cừ khôi ấy như thế nào. Ít nhất cũng có một phi đội đủ quân số.

        Trung đoàn phải tự chọn lựa lấy phi đội gửi về hậu phương. Tôn trọng hương hồn Rát-sô-khin, Prôt-cua-ri-a- kốp và Éc-ma-kôp quyết định chọn phi đội 2, vì trong ba phi đội trưởng thì Lu-nin là người giàu kinh nghiệm nhất, và còn vì hai phi đội kia tuy cũng bị tổn thất nhiều, nhưng phi đội 2 vẫn là khẳng khiu nhất.

        Lu-nin chuẩn bị ra đi. Anh phải xa rời chiếc máy bay cũ của Ni-cơ-ri-tin để lại từ tháng tám năm ngoái. Anh giao lại cho phi đội 1 vì một phi công của phi đội này chưa có. Kút-nét-sốp giao máy bay của mình cho phi đội 3.

        Phải lên tầu ở ga Vôn-khô-strôi. Trước khi ra đi, nhận được điện thoại của sư đoàn báo là có tám phi công trẻ tuổi đã đợi phi đội 2. Vì Lu-nin phải đi tầu mất mấy ngày mới tới nơi, nên Éc-ma-kốp quyết định đi trước ngay bằng U-2 để lo chỗ ăn ở cho các phi công mới, không để họ chơ vơ và nhất là để xem họ ra sao? Đồng chí kỹ sư trung đoàn đi theo Éc- ma-kôp vì máy bay cũng chỉ đến sau phi công ít lâu.

        Lu-nin ra ga Vôn-khô-strôi. Cùng đi có Kút-nét-sôp, tất cả các đồng chí thợ máy, Sla-va và Hin-đa. Lần này chẳng cần phải "bắt cóc" cô nữa, vì ai nấy đều quen coi cô như của riêng phi đội 2, và chẳng ai giữ cô lại.

        Lu-nin không trông thấy Vôn-khô-strôi từ tháng tám 1941. Anh ngạc nhiên vì những sự đổi thay. Những nhà gỗ nhỏ, hàng rào, những nhà không tường, cột điện, hết thẩy đều bị bom tàn phá. Cây cối chĩa lên trời những cành cháy trụi. Xe ca-mi-ông chốc chốc lại phải tránh những hố bom khổng lồ. Hố bom cũ thì đầy nước và phân ếch nhái. Hố bom mới thì đất đỏ lòm còn khô. Ga và các nhà phụ thuộc chỉ còn là một đống gạch vữa. Bọn Lớp-táp cố tình phá bằng được cái đập, và nhất là cái cầu mà xe lửa dùng để chở lương thực dụng cụ đến Lê-nin-grát. Những cuộc oanh tạc gần như ngày nào cũng có và đã cầy xới từng thước đất. Nhưng đập và cầu vẫn nguyên vẹn một cách kỳ lạ. Hình như chúng thách thức với cái điên cuồng của quân địch.
Logged

Giangtvx
Trung tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #96 vào lúc: 02 Tháng Ba, 2019, 11:53:46 am »


        Ở đó, Lu-nin lần đầu tiên bị gioong-ke ném bom, và là lần đầu tiên anh đứng dưới đất xem một cuộc không chiến. Anh đã từng thấy hàng chục lần gioong-ke thả bom, nhưng chưa có dịp nào đứng ở chỗ bị bom. Trông những con quạ đen ấy, từ những cụm mây nhỏ nhuộm nắng trên Vôn-khô-strôi nhô ra, nghe tiếng máy nổ nhức óc khó chịu, và khi trông thấy bom rơi đều đều một cách quái ác, Lu-nin có cảm giác hoàn toàn bất lực và thấy khổ sở vì cảm giác đó. Anh đành chỉ đứng mà nhìn. Khi bom bắt đầu nổ trên bờ cỏ xanh bên sông và gần cầu, cách chỗ anh chừng hai trăm thước thì anh bổ đi tìm Sla-va - như con gà mái đi tìm con - nắm lấy nó không rời, như cho là nếu ôm chặt được nó thì che chở nó qua được tai nạn.

        Hết báo động, anh hơi ngượng mà nhớ lại cái dũng cảm của các đồng chí lái xe lửa đã không ngừng công tác trong khi bị oanh tạc. Trong tiếng bom nổ, tiếng đạn cao xạ, các đầu tầu nhỏ bé chuyên việc phân phối dẫn dắt và phân phối toa trên các đường tầu, vẫn không quên rúc còi khi qua chỗ bẻ ghi. Đồng chí chi huy vẫn phất cờ. Các đồng chí làm công tác dầu mỡ vẫn soát các trục bánh xe. Gioong-ke vừa biến khỏi trong mây thì một chiếc xe goòng tự động đã bon bon lại phía cầu để thay một khúc đường ray bị bom làm vặn lại. Các đồng chí khiêng cáng mặc áo blu trắng cũng chạy lại đó, lạch bạch tiếng giầy bốt. Ở đó có người bị thương.

        Gioong-ke nhô ra khỏi mây, dự định oanh tạc nữa. Nhưng khu trục ta lao về phía chúng - độc có hai chiếc. Trông thấy họ, bọn gioong-ke trốn vào mây và hai chiếc Mét-séc-mít chắn đường họ để che chở cho bọn oanh tạc.

        Giao chiến bắt đầu. Cứ hai, ba giây, là các máy bay đã thay đổi vị trí. Ở dưới đất mà nghe, thì tiếng nổ các băng đạn ngắn ngủi như tiếng ếch kêu. Máy bay quấn lấy nhau không thể nhìn ra cái nào được nữa. Mỗi lần lượn ngoặt, thì tiếng máy lại ro ro như hát. Lu-nin đã từng dự trăm cuộc đánh giáp lá cà như vậy mà không mảy may cảm động, động tác đánh đỡ xuất kỳ bất ý như máy; và không bao giờ để bị đánh bất ngờ. Nhưng từ dưới đất mà theo dõi cái trò biến diễn bay lắt léo ấy thì anh lại hết sức lo âu. Chỉ đứng mà chứng kiến suông không thể cứu giúp được các đồng chí mình, nên anh theo dõi cuộc không chiến một cách khủng khiếp. Khi bốn chiếc máy bay vẫn quấn lấy nhau biến sau cánh rừng thì anh kiệt sức nằm vật xuống cỏ.

        - Lâu quá! - Anh vừa nói vừa bỏ cái cát-két để lau mồ hôi trán.

        Kút-nét-sốp chỉ rõ:   

        - Chưa đầy ba phút. Tôi đã đếm trên đồng hồ.

        Chỉ còn 300 cây số thì đến trường bay hậu phương, nhưng phải đi mất ba ngày. Nóng oi ả. Các toa xe chở hàng như bốc lửa. Qua cửa toa Lu-nin ngắm cảnh rừng miền Bắc quen thuộc với đời anh từ hồi thơ ấu. Hoa dâu trắng rụng trên cỏ lấp lánh như sao. Những gò nhỏ đầy lê dại và cỏ đá nóng hừng hực dưới ánh nắng mặt tròi tưởng như không bao giờ lặn. Từng luồng hơi ẩm lạnh từ các bãi lầy bốc lên. Nước bùn tù đọng dưới bóng liễu.

        Éc-ma-kôp đã chờ họ ở ga. Có xe ca-mi-ông đợi sẵn. Các đồng chí thợ máy trèo lên khoang sau. Lu-nin và đồng chí chính ủy ngồi cạnh người lái xe. Lu-nin hỏi:

        - Thế nào?

        - Máy bay chưa tới.

        - Chưa có tin gì sao?

        - Chưa có gì hết.

        - Thế còn họ?

        Ec-ma-kôp quay đầu nhìn Lu-nin và đoán là anh hói về các tân binh:

        - Một vườn trẻ.

        Cái mà thoạt tiên đã thấy ngay, đúng là cái tuổi rất trẻ của đám bổ sung. Nhiều tuổi nhất trung đoàn và kể cả sư đoàn, Lu-nin đã quen với lứa tuổi thanh niên. Toàn không quân đều trẻ. Một phi công quá 40 thì coi như một di tích đời xưa, gần như một quái vật hồi tiền cổ. Tuy vậy mà anh cũng phải ngạc nhiên khi nom thấy bọn con nít này.

        Khi gần tới trường học của xã nơi các tân binh ở, Éc- ma-kốp, Lu-nin, và Kút-nét-sốp thoạt đầu nghe thấy tiếng ồn ào qua cửa sổ. Rồi họ trông thấy ngay những bóng người kỳ quặc: thì ra bọn tân binh đang chơi nhảy cừu.

        Khi họ lên tới thềm, thì cuộc chơi tan ngay. Trông mặt các tay chơi, có vẻ hơi ngơ ngác. Rồi có tiếng ai hô "nghiêm", tiếng hô nghẹn trong hoảng hốt. Một anh chàng phục phịch bổ về phía các vị đang tiến tới, tiếng giầy bốt lục xục. Cậu ta vấp phải ngưỡng cửa, mãi mới đứng thẳng lên được, đứng nghiêm, và lúng túng tuôn ra một tràng:

        -  Báo cáo đồng chí chính ủy trung đoàn... Tôi, thượng sĩ cận vệ O-trô-sa-blin, hạ sĩ quan trực nhật... Không có gì xảy ra.

        Mồ hôi rỏ giọt trên khuôn mặt đỏ rộng: cậu ta vừa rời khỏi cuộc chơi xong!
Logged

Giangtvx
Trung tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #97 vào lúc: 03 Tháng Ba, 2019, 01:30:09 am »


        O-trô-sa-blin... Cái giọng nói, cái dáng đi, cả đến đôi chân vòng kiểng kia đều làm cho Lu-nin nhớ đến cái gì. Anh bỗng nghĩ ra: "Một dân cô-dắc!". Anh đã ở lâu trong vùng đó. "Cô-dắc trăm phần trăm... Hắn tất là sành về cưỡi ngựa nhưng không hiểu lái máy bay thì ra sao?..."

        Mọi người đi vào. Lớp học bề bộn những giường. Éc-ma-kốp ra lệnh:

        -  Nghỉ.

        Các bộ mặt đểu còn đỏ lên vì cuộc chơi sôi nổi vừa qua, và đều hoảng hốt vì cái đến bất chợt của bao nhiêu cấp trên. Một khuôn mặt làm Lu-nin chú ý ngay - tóc quăn từng cuộn và đen nhánh, đôi lông mày cùng mầu với tóc, đôi má rám nắng, đôi môi búp bê xinh xinh, và hàm răng khoẻ trắng nõn. Thoạt đầu, Lu-nin tự nhủ: "Không có lẽ? Dân Di-gan chăng?". Đôi mắt xanh xanh rất sâu, chăm chú bình tĩnh và tươi cười lại có vẻ dân Bô-hêm. Con người thì có cái dáng rất đỗi phóng khoáng tự nhiên.

        Đứng cạnh, là một anh chàng mặt tròn đầy tàn hương màu hung hung. Anh chàng mặt tàn hương màu hung hung. Anh chàng này thì trái lại, rất dút dát. Lu-nin nghĩ: "Chắc chắn là cu cậu này chưa hề biết cạo râu lần nào".

        Éc-ma-kốp giới thiệu các phi công mới với Lu-nin. Mọi con mắt đều châu vào vị phi đội trưởng chờ đợi từ lâu ấy, mà họ đã nghe nói chuyện tới bao nhiêu lần. Họ nhìn anh một cách kính trọng. Trong vài khoé mắt, Lu-nin còn đọc thấy cả vẻ ngạc nhiên. Chắc là họ không tưởng tượng anh như vậy.

        Ec-ma-kốp đi ra để câu chuyện đầu tiên giữa Lu-nin và bọn họ được thoải mái. Lu-nin ngồi vào một chiếc ghế dựa và mời các phi công mới cùng ngồi. Họ ngồi lên giường. Dưới gầm giường, là những hòm con và va li đầy bụi. Tất cả đểu là thượng sỹ. Họ được huấn luyện có sáu tháng nên chưa được đề bạt thiếu úy như các phi công tốt nghiệp hồi trước chiến tranh.

        Lu-nin cũng lây cái ngượng nghịu của họ. Anh hỏi cu cậu mặt tròn đầy tàn hương mà có vẻ em út nhất:

        - Tên đồng chí là gì?

        Anh ta choàng đứng dậy:

        - Báo cáo, Ri-a-bu-skin.

        "Thật là một đứa trẻ"

        - Đồng chí bao nhiêu tuổi?

        Giá phỏng anh ta trả lời mới 17 tuổi thì Lu-nin cũng không lấy gì làm lạ.

        Ri-a-bu-skin ấp úng trả lời không ra tiếng:

        - Mồng bốn tháng năm này thì tôi được 21 tuổi.

        Mặt anh ta tái hẳn đi, và vì thế càng làm hiện rõ những chấm tàn hương như chấm cám. Câu hỏi làm cu cậu khổ sở, và chắc là cũng bực với mình là đã trẻ hơn tuổi.

        Nhưng lại còn có người trẻ hơn nữa. Ví dụ như I-li-a Ta-ta-ren-kô, cái anh chàng giống như những tay đàn hát giang hồ thì mới có 19 tuổi. Hắn ta chẳng phải là dân Di-gan chút nào, mà là con một người thợ mỏ vùng Đông- bát.

        Bản thân hắn cũng là thợ mỏ, nhưng lúc nào cũng mơ ước trở thành phi công: chiến tranh vừa nổ thì hắn xin vào một trường dạy lái máy bay. Ông bố và hai anh thì vẫn là thợ mỏ làm việc ở hầm sâu. Ta-ta-ren-kô nói, và tủm tỉm cười với bộ răng trắng nõn:

        - Ở chỗ chúng tôi, không ai làm việc trên mặt đất. Hoặc là ở dưới hầm, hoặc là làm ở trên không.

        Thật thì Lu-nin mến anh chàng đó. Đồng chí nghĩ thầm: "Thằng cha này có vẻ khá. Nhưng cũng rắc rối với nó đây. Có cá tính, đúng, nhưng tự tin quá".

        Một thanh niên mảnh dẻ, tóc vàng hoe, làm Lu-nin chú ý.

        Bộ ria mép uốn cong, tay đeo nhẫn cưới, hắn ta có vẻ diêm dúa và có cái nhìn phớt đời và lơ đãng thế nào ấy. Tên anh chàng là Va-đim La-da-rô-vít. Lu-nin không ưa cái kiểu người này. Nhưng đến khi Va-đim cười, cái cười ngay thẳng và hồn nhiên nó buộc người ta phải có cảm tình, thì Lu-nin không còn cảm giác khó chịu nữa. Chàng ta quê ở một thành phố nhỏ miền Nam, ở nơi đó, có bộ ria uốn cong và đôi mắt nồng cháy là rất mốt.

        Trong đám thanh niên này, chỉ mình anh ta đã có vợ. Và anh sẵn sàng khoe ảnh vợ trong cái ví rất kiểu - một chị chàng bé nhỏ mũm mĩm, nước da bánh mật, tóc quăn như lông cừu.

        La-da-rô-vít khoe là vợ làm trong một xưởng bánh kẹo. Anh ta có vẻ kiêu hãnh và cho cái công tác ấy là oai lắm.

        Lu-nin gợi cho họ nói chuyện. Ta-ta-ren-kô hỏi:

        - Báo cáo đồng chí thiếu tá cận vệ, tôi xin phép hỏi một câu: Chúng ta đã sắp nhận được máy bay chưa?

        Các bộ mặt nhộn lên, các cặp mắt nhìn chăm chăm vào Lu-nin. Họ chờ đợi đã phát ngán. Chiến tranh đã vào năm thứ hai, mà họ vẫn chưa trông thấy nó, tuy khao khát muôn chiến đấu.

        Lu-nin trả lời:

        - Cũng sắp sửa thôi.

        Trong thâm tâm, anh chưa biết là bao giờ, và cũng chẳng buồn giấu giếm ý nghĩ ấy. Mọi người tranh luận. Họ còn biết hơn anh về các khu trục kiểu mới. Vài kiểu hiện đại nhất, như kiểu I-a-kô-vơ-lép và La-vốt-skin đã xuất hiện ở trường huấn luyện của họ. Vài người như Ta-ta- ren-kô và cả Kô-stin, - một gã xương xương môi dầy - đã có dịp bay đôi ba lần trên các khu trục mới đó.

        Mắt long lanh, họ kể chuyện và ngắt lời lẫn nhau. Những máy bay mới đó rất vững vàng và dễ điều khiển. Hoả lực mạnh, và nhất là tốc độ rất nhanh. Trong câu chuyện, bọn trẻ điểm thêm những danh từ chuyên môn để tỏ ra cái vẻ thông thạo nghề bay. Và cứ nhìn mặt họ, Lunin cũng hiểu là họ vào không quân vì say mê với nghề, cũng như anh trước kia.

        Ngay hôm sau, anh lo huấn luyện họ. Không có máy bay, đành tạm giảng lý thuyết trước. Tuy không thông thái lắm, nhưng họ cũng tỏ ra hiểu biết nhiều hơn là anh tưởng.

        Kô-stin còn làm ngạc nhiên là khác. Rất giỏi toán và lý, anh chàng biết trình bày bằng giọng nói trầm trầm tại sao khi bay có những dải không khí dính vào cánh máy. Anh chàng tuôn ra một tràng công thức, mắt thì chăm chăm vào tường hay xuống sàn làm như ở đó có ghi các số liệu. Tất cả cái gì thuộc về máy bay đều làm anh ta chú ý. Người ta cảm thấy anh nghiên cứu rất sâu. Và mỗi khi anh trả lời, thì cả bọn đều lắng tai nghe, làm cho Lu-nin lại cố đặt ra những câu hỏi có tác dụng cho mọi người.

        Trong khi chờ đợi các máy bay mới, Lu-nin cố làm cho họ thật bận rộn, vì kinh nghiệm cho biết không gì tác hại bằng không có việc. Anh dạy họ các nguyên lý về khí thể động lực học. Một đồng chí thợ máy bảo họ cách tháo lắp. Một đồng chí quân khí dạy về súng máy. Éc-ma-kổp và Đê-ép chia nhau dạy chính trị. Trước giờ ăn chiều, họ ra bãi cỏ sau làng, tập bắn súng máy và ném lựu đạn.
Logged

Giangtvx
Trung tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #98 vào lúc: 04 Tháng Ba, 2019, 12:37:00 am »

     
III

        Tin tức đáng lo ngại. Ngày 3 tháng bảy, có tin quân ra rút khỏi Sê-ba-stô-pôn. Ngày 8, đến lượt Sta-ri-ô- skon, ngày 12, là Kăng-tê-mi-rô-vơ-ka và Lít-sít-săng, ngày 15, là Bô-gút-sa và Min-lê-rô-vô và ngày 19, là thành phố lớn cuối cùng của xứ U-cơ-ren: Vô-rô-si-lô-gơ- rát. Mặt trận phía bắc và mặt trận giữa không nhúc nhích. Nhưng ở phía nam, cách Vô-lô-đa hai ngàn cây số, bọn Đức vẫn tiến, và chưa biết bao giờ mới chặn chúng lại được.

        Các bạn cũ cùng chiến đấu với Lu-nin từ đầu chiến tranh như Rát-sô-khin, Sê-rốp, Ka-ban-kốp hoặc Sê-pen- kin đều là người phương bắc. Nhưng đám bổ sung này đều quê ở phương nam. Trường không quân tuyển học sinh miền nam. Các phi công mới đều quê ở Rô-stốp, Đông-bát hay Ku-băng, trừ có Ri-a-bu-skin quê ở ngoại ô Sa-ra-tốp, và các thành phố mà đài phát thanh nhắc tới hàng ngày đểu là những tên quen thuộc đối với họ.

        Họ bồn chồn lo lắng cho gia đình ở hậu phương. Hậu phương ấy bây giờ chính là mặt trận nơi kẻ thù đang tấn công. Khổ nhất là đang lúc này, đáng lẽ có thể chiến đấu thì lại phải nằm ở cái làng hẻo lánh này mà chờ đợi máy bay. Mỗi buổi sáng, thấy Lu-nin bước vào là họ lại hỏi tin. Nhưng chưa có tin gì cả.

        Trong thời kỳ lo âu đó, chỉ Sla-va là hoàn toàn sung sướng. Cảnh hè thật đẹp. Trời xanh, cỏ mơn mởn. Trước hôm ra đi, người ta đã trả nó cho phi đội trưởng phi đội 2 sử dụng. Trận oanh tạc ở Von-khô-strôi chẳng gây cảm xúc gì đối với nó. Cuộc hành trình đằng đẵng chỉ là một chuỗi trò giải trí liên tiếp. Và đến chỗ ở mới là hoàn toàn tự do, Chẳng còn dì "Di-na quả na" để mà tròn mắt lên nhận xét! Ngủ trong buồng Lu-nin, nhưng cả ngày thì nó là chủ. Nó làm thân ngay lập tức với bọn nhãi địa phương, nhưng lại ra bộ kẻ cả, ra cái đều ta đây là chiến sỹ. Hơn nữa, nó lại lợi thế ở chỗ còn có cái mũ bê-rê lính thuỷ, và quần áo quân phục bảnh choẹ. Nó được sự tôn sùng của đám nhãi, nó to mồm chỉ huy lũ này trong những cuộc dạo chơi vô tận trong rừng, trong những cuộc thám hiểm bằng bè trên dòng sông con, sâu và lặng sóng trong những cuộc tắm triền miên cho đến khi người run lên và da tái nhợt.

        Khi người ta 12 tuổi, thì một năm bằng mười năm của đời người lớn. Thời kỳ trước chiến tranh ở với cha, mẹ, ông và Sô-ni-a, nay đã thành dĩ vãng. Từ đó nó đã sống hẳn một cuộc đời: nạn đói mùa đông ở Lê-nin-grát, cánh đồng khoai bị đạn đại bác cày xới tung lên, rồi ông chết... Nhưng cả những cái đó cũng là dĩ vãng. Tuy không quên chút gì, nhưng cũng như mọi đứa trẻ khác, nó quá nặng vê hiện tại và ít đi ngược về quá khứ.

        Trung đoàn, phi đội và Lu-nin đôi với nó như quen thuộc đã lâu rồi. Nó biết hết về sinh hoạt thường ngày của trung đoàn, nếu không biết hơn Prôt-cua-ri-a-kôp, thì mặt khác lại biết vô số là chi tiết. Nó biết tính nết từng người, biết ai nhận được nhiều thơ từ, ai không nhận được và có thể ghi đủ một quyển sách về những câu nói đùa hoặc những tiếng lóng. Nó kiêu hãnh thấy mình cũng là một phần tử của trung đoàn. Không những ai cũng biết nó, mà còn biết rằng nếu nó gặp cái gì thì cả trung đoàn sẽ bênh vực nó.

        Đám tân binh chú ý đến nó ngay. Thoạt đầu, họ tưởng là con Lu-nin. Nhưng sau được biết nó là con đỡ đầu của phi đội, và là một đứa trẻ ở Lê-nin-grát được cứu ra khỏi nạn đói. Và thế là họ trìu mến nó ngay.

        Họ tò mò sốt sắng muốn biết lịch sử của trung đoàn và mỗi phi đội, vì họ đang kiêu hãnh được bổ sung vào một đơn vị cận vệ. Mùa đông trước, các tò báo lớn có thuật lại chiến công của Rát-sô-khin, Lu-nin, Ka-ban-kốp và Sê- pen-kin. Vì họ ngốn tất cả cái gì nói tới binh chủng họ, nên những tên đó đã in sâu vào trí nhớ. Được phục vụ dưới sự chỉ huy của Lu-nin - của "Lu-nin nổi tiếng" - họ lấy làm hãnh diện lắm, tuy Lu-nin chẳng giống với hình ảnh một anh hùng theo họ tưởng tượng. Và Éc-ma-kốp đã làm họ phấn khỏi đến tột bực khi đồng chí cho phép họ giở xem toàn tập "Báo bay".

        Khi Ka-ban-kôp đã bị coi là mất tích, thì đồng chí chính ủy tập trung các số báo cũ làm di tích kỷ niệm. Nhưng, dù hết sức quý báu tập báo, đồng chí vẫn không thể ngờ tập giấy minh họa bằng bút chì màu ấy lại có thể làm đám tân binh xúc cảm đến thế.

        Họ trải báo trên giường để nghiên cứu và tranh luận không dứt. Tuy không phải là họa sĩ, Ka-ban-kôp đã biết làm cho các bức vẽ thật một cách lạ lùng. Sê-rốp, Rát-sô- khin, Sê-pen-kin, Bê-sây-tốp, Ni-cơ-ri-tin, và tất cả những người đã ngã từ trước ở Ét-tô-ni, đều sống lại trong những trang giấy ngả màu vàng. Xem hình những đội gioong-ke đang đi ném bom thành phố bị vây hãm, người ta có cảm giác như chính mình đã được dự vô số những cuộc không chiến đó. Và mọi người thuộc lòng mỗi đoạn của bài thơ "Trả thù".
« Sửa lần cuối: 06 Tháng Ba, 2019, 08:39:22 pm gửi bởi Giangtvx » Logged

Giangtvx
Trung tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #99 vào lúc: 05 Tháng Ba, 2019, 12:44:07 am »

          
        Họ càng biết, thì càng thèm biết nữa. Đê-ép trước là thợ máy của Ka-ban-kốp, còn giữ trong va-li các số báo "Cánh Ban tích" trong đó có bài của Ka-ban-kốp viết hoặc các bài nói về anh. Đê-ép cho luân chuyển xem những tờ báo đó. Đám tân binh ngốn một cách say mê.

        Đê-ép còn giữ được ảnh các phi công phi đội 2 từ đầu chiến tranh. Cái mẩu người thấp bé, đầu bù, mắt xếch và luôn luôn đùa cợt. Mi-sa Ka-ri-a-kin chiếm lấy ảnh và dán vào một tờ bìa cứng lớn vẽ trên dầu một lá cờ Cận vệ cắt bằng giấy đỏ. Dưới mỗi bức ảnh, Kô-li-a Kla-mê-tôp kẻ tên, họ, bí danh, cấp bậc và số máy bay đã hạ được. Tất cả đểu trình bày lên tường, trong nhà ngủ. Và bọn trẻ bỏ hàng giờ để ngắm nghía các bậc đàn anh.

        Mỗi cậu tìm một mẫu. Ví dụ Mi-sa Ka-ri-a-kin thì tự cho là có điểm giống với Ka-ban-kốp. Thực ra, chỉ giống vể vóc người, vi Ka-ri-a-kin thấp nhất trong bọn. Không biết vẽ, không biết làm thơ, không biết cả chơi đàn ắc-coóc-đê-ông như Ka-ban-kôp. Nhưng thích đùa cợt, và thật là một cây cù - chắc Ka-ban-kôp trước cũng vậy vì đã vẽ ra những bức tranh đến buồn cười. Hơn nữa, Mi-sa Ka-ri-a-kin lại thích hát, và về mặt này thì lại hơn Ka-ban-kốp một điểm.

        Các tay khác đều tôn trọng Ka-ban-kốp, nhưng tự chọn mẫu khác. Ta-ta-ren-kô thì mải mê về Rát-sô-khin. "Thật rõ là một người chỉ huy! Thật là một phi công!"

        Kô-stin cũng mơ Rát-sô-khin. Đọc trong một số báo cũ thuật lại chuyện Rát-sô-khin đánh đuổi 80 chiếc gioong- ke khi chúng kéo đến định ném bom phi đội, anh chàng tuyên bố:

        - Chiến thuật là một khoa học. Không chiến, phải xuất phát từ nguyên tắc khoa học.

        Câu đó làm Kút-nét-sốp nhếch mép cười, Kô-stin nom thấy và quay lại nói, nhưng không tự ái:

        - Đồng chí Kút-nét-sốp, tôi biết tại sao đồng chí cười. Đồng chí cho là: thằng này chưa thử lửa mà đã dám bàn đến chiến thuật. Phải vậy không?

        Kút-nét-sốp không trả lời. Kô-stin tỏ vẻ biết điểu nói tiếp:

        - Đồng chí nghĩ phải. Tôi chưa thử lửa. Nhưng dù sao, thì ý của tôi cũng đúng. Không chiến phải xuất phát từ nguyên tắc khoa học.

        Ta-ta-ren-kô hỏi:

        - Thế theo ý cậu, thì Rát-sô-khin có xuất phát từ nguyên tắc khoa học không?

        - Tất nhiên!

        - Thế à? Không phải. Tớ nghĩ là đồng chí ấy xuất phát từ cái gì khác.

        - Từ cái gì?

        Ta-ta-ren-kô suy nghĩ một lát:

        - Tớ không biết gọi đúng là cái gì. Nhưng gần gần như linh tính... - Mặt Ta-ta-ren-kô đỏ lên. Anh chàng nhìn xem Kút-nét-sốp có coi thường câu nói không? Nhưng Kút-nét- sôp vẫn tỉnh khô. Anh vẫn sống âm thầm, đối với đám tân binh cũng ít nói như khi ở trung đoàn. Và bọn mới cho anh là con người đã thử lửa nên làm cao với bọn mới tập tọng trong nghề.

        Ở nhà ăn, họ chú ý ngay đến Hin-đa. Tất nhiên. Cô vẫn giữ cái vẻ búp bê xinh xinh với đôi má hồng sau làn khói thức ăn từ đĩa bay lên. Nhưng cái làm họ chú ý nhất, là "cô

        Hin-đa" mà Ka-ban-kốp đã vẽ trong Báo bay - trong bức hoạt họa Sê-pen-kin săn đuổi con chuột cống, là "cô Hin- đa" đã từng biết các phi công lịch sử, đã từng mỗi ngày phục vụ họ ba lần. Cô không phải chỉ là một cô gái đáng yêu mà còn gần như là một di tích.

        Họ coi Sla-va cũng như vậy, vì nó cũng là một tay kỳ cựu trong phi đội, chỉ kém kỳ cựu hơn Hin-đa một tí. Thằng bé cũng biết thế và lại càng làm bộ với bọn tân binh, lên cái mặt đỡ đầu. Nó mách nước cho họ để lĩnh được dây đeo súng kiểu sỹ quan, lĩnh được thuốc lá thơm và khấu phần bồi dưỡng. Thấy nó thân với phi đội trưởng, thân cả với chính ủy sư đoàn, thì bọn tân binh càng khâm phục khi nó kể lại những mánh lới làm thân với cấp trên. Có khi nó còn lên giọng kẻ cả với cái đám lính mới này. Tuy vậy quan hệ vẫn tốt, thân ái và giản dị.

        -  Ê, Sla-va, một chầu nhảy nào! - Ta-ta-ren-kô gọi to.

        Thằng bé chạy lại, cười như nắc nẻ. Ta-ta-ren-kô vừa nhảy, vừa túm lấy nó, thẳng tay đưa nó lên quá đầu, cho nó trèo lên vai lên cổ, cho nó quay, cho nó nhẩy, tung nó lên không rồi lại bắt lấy nó ở sát mặt đất, cho nó đu giữa đôi chân dài của mình. Ka-ri-a-kin hoặc O-strô-sa-blin tham gia cuộc chơi: họ tung Sla-va cho nhau như một quả bóng, tay nắm lấy nó mà nhẩy. Đôi khi thằng nhãi chống cự lại và tìm cách trốn. Nhưng cơn cười làm nó rúm lại. Cuộc chơi chỉ ngừng khi nào đã kiệt sức. Bọn tân binh ngồi thở cho lại người rồi lại xúm quanh Sla-va mà hỏi chuyện.

        Thằng bé không biết Ka-ban-kốp, Sê-pen-kin và Bê- sây-tốp. Vê Rát-sô-khin thì nó chỉ biết nấm mộ trên đồi. Nhưng khi nó đến trường bay, thì kỷ niệm về những người đó còn nóng hổi. Với Kô-li-a Sê-rổp thì nó trò chuyện hàng ngày. Nó còn trông thấy Sê-rốp và Lu-nin đánh nhau với tụi Mét-séc-mít khi chúng đến tấn công trường bay. Nó đã đi theo Grô-mê-kô vào rừng để tìm chiếc máy bay do Sê- rốp hạ. Mỗi chuyện nó đều thêm thắt vào, và ai nấy đều nghe không biết chán. Cái vinh quang của phi đội làm nó như cũng thơm lây. Và cu cậu lợi dụng ngay cái đó để nói với cái vẻ lập lờ:

        - Bọn tôi, người của Rát-sô-khin....

        Đám tân binh ghi nhớ ngay câu nói đó. Từ đó họ chỉ gọi phi đội 2 là "Phi đội Rát-sô-khin" và tất nhiên là chính họ cũng tự xưng danh là "người của Rát-sô-khin".

        Lu-nin hơi ngạc nhiên về cái "đơn vị tính" ấy. Trong ngạc nhiên, có lẫn kiêu hãnh và ngậm ngùi: người đã khuất đâu có biết cái vinh quang của họ. Anh còn cảm thấy hơi ghen tị: "người của Rát-sô-khin", lũ nhãi này đã làm nên cái gì để xứng đáng với danh hiệu đó?

        Vào nửa tháng bảy, một buổi chiều, Éc-ma-kốp vào nhà Lu-nin và nháy mắt nói:

        - Đồng chí thiếu tá, đồng chí có biết 1000 mét là bao nhiêu i-a1 không?

        - Chịu. Để làm gì? - Lu-nin ngạc nhiên hỏi.

        - 1000 mét là bao nhiêu "chân"2? Và một hải lý là bao nhiêu mét?

        - Chịu.

        - Phải học cái đó, và dạy cho người khác nữa. Có lệnh.

        - Lệnh gì?

        - Lệnh cho phi đội đồng chí phái bát đầu học ngay các đơn vị đo chiều dài của Anh. Đồng chí có biết tại sao không?

        Lu-nin thoạt đầu còn ngơ ngẩn, nhưng rồi linh tính cho anh hiểu:

        - Máy bay của Anh chăng?

        - Đúng. Đồng chí sắp lĩnh máy bay Anh. Lĩnh "Hơ-ri- can". Đồng chí biết chứ?

        - Không.

        - Tôi cũng không nốt. Chỉ nghe tin trong báo "Hơ-ri- can" đã hạ được ở không phận Luân Đôn hai oanh tạc Đức. Đồng chí Lu-nin, đồng chí thất vọng à? Đừng lo, người ta không gửi cho mình những đồ vất đi đâu.

        Trước khi thử tốc độ, Lu-nin muốn thử một cảm giác: anh nhận thấy Hơ-ri-can tuy tuân theo một tay lái nhưng hình như kém chính xác hơn I-16. Thật là khó mà kiểm tra cái đó vì sự kém chính xác đây chỉ là trong khoảnh khác và độ vài phán. Anh lái theo nhiều hình khó, bổ nhào, ra nhào.. Máy bay tuân theo tay lái. Nhưng kém chính xác rõ ràng, một sự kém chính xác không đáng kể, nhưng trong không chiến, sống chết lại do từng khoảnh khắc, do một vài phân quyết định.

        Rốt cuộc anh chuyển sang thử tốc độ và đi tới một nhận định không ngờ: tốc độ thường thường của Hơ-ri-can không hơn I-16, và chỉ do phương pháp "cho ăn gấp xăng" mới có thể tăng tốc độ lên được một mức không đáng kể vài chục cây số, mà như vậy chỉ được trong mấy phút. Xăng tốn rất nhiều, thì lại giảm mất thời gian bay. Thật là trả giá quá đắt hai, ba phút bay với tốc độ tối đa...

        Mọi việc thế là rõ. Lu-nin lượn một vòng trên trường bay rồi hạ cánh.

        Ở dưới đất xem anh biểu diễn thì không biết gì hết. Cái chuỗi hình khó mà Lu-nin đã vẽ ra trên không, đôi với mọi người là một cảnh tuyệt tác. Tuy không cố tình, mà Lu-nin thành ra đã trình bầy cái tài năng khác thường của anh. Và trong lúc hào hứng, mọi người không tưởng tượng được là anh đã làm những vũ thuật ly kỳ ấy trong một chiếc máy bay mà chính anh không tin tưởng. Ec-ma-kôp phấn khởi chạy lại. Nhưng cái cười của đồng chí héo đi khi trông thấy mặt Lu-nin. Đồng chí hỏi:

        - Thế nào?

        - Tồi hơn là tôi tưởng.

        Éc-ma-kôp như bàng hoàng. Tuy rất tin Lu-nin, nhưng đồng chí vẫn không thể ngờ như vậy.

        - Có chiến đấu với nó được không?

        Lu-nin suy nghĩ một lát:

        - Cũng phải chiến đấu thôi. Khi không đủ máy bay Xô Viết cho mọi người, thì đành bằng lòng với cái đã có. Chúng mình không may bị máy xấu, nhưng vẫn cứ phải chiến đấu.

        Éc-ma-kốp buồn rầu im lặng một lúc. Rồi đồng chí khuyên phi đội trưởng:

        - Đừng làm cho anh em thất vọng: phi công phải tin tưởng vào máy bay của mình.

        - Tất nhiên. Để họ buồn làm gì?

        Nhưng Lu-nin nghĩ thầm: "Làm sao giấu nổi họ? Họ sẽ là người đầu tiên nhận thấy rõ".

-------------------
        1. yard: dơn vị đo chiều dài của Anh, 1 yard = 0,914m (B.T).

        2. Pied: một đơn vị đo chiều dài của Anh, l pied = 12 pouce (pút) = 30,48cm (B.T).
« Sửa lần cuối: 07 Tháng Ba, 2019, 12:28:34 am gửi bởi Giangtvx » Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM