Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 01:35:43 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cuộc lưu lạc của tàu ngầm U-977  (Đọc 11225 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Trung tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #20 vào lúc: 11 Tháng Chín, 2018, 12:05:34 am »


        Đêm ấy thuận lợi cho chúng tôi: trời không trăng, tối đen. Chúng tôi vào giữa đoàn tàu. Máy tính hoạt động. Các ống phóng đã sẵn sàng, nhưng còn mấy tàu ngầm khác chưa có mặt. Dựa theo một số công điện, chúng tôi ước tính đến rạng đông, sẽ có sáu chiếc cùng với tàu chúng tôi. Bỏi vì đây là một đoàn tàu quan trọng: 50 chiếc chở vật liệu cho Anh Quốc.

        -  Gỏi thông điệp bằng vô tuyến, hạm trưởng ra lịnh.

        Chúng tôi nhìn nhau, sửng sốt: gan quá mức! Nằm ngay giữa đoàn tàu địch mà dám làm ồn! Nếu rủi làn sóng của chúng tôi bị khám phá, thì lâm nguy. Nhưng không thể làm khác hơn, chúng tôi cần các tàu ngầm khác nữa. Hiệu thính viên cho biết có hai tàu ngầm đã nhận được công điện. Vậy là chúng tôi có ba chiếc tất cả. Hạm trưởng quyết định tấn công, không cần gởi điện văn cho tàu ngầm khác, vì những ngọn lửa sáng chói của các vụ nổ sẽ thấy được từ xa.

        Chúng tôi có ý định đánh đắm bốn tàu một lượt, nên chọn những tàu lớn nhứt. Trước tiên chúng tôi điều chỉnh điểm nhắm tới chiếc xa nhứt, rồi tới những chiếc gần. Phải làm sao cho các tiếng nổ nối tiếp nhau, để không cho bất cứ tàu nào có thì giờ rút lui. Chiếc tàu lớn nhứt sẽ lãnh hai ngư lôi, các chiếc kia mỗi tàu một ngư lôi. Khoảng cách giữa chúng tôi với tàu ngầm gần nhứt khá ngắn: có lẽ 600 mét. Bắn! Chiếc tàu ngầm bị nhồi lên năm lần liên tiếp.

        Trong khoảng 40 giây, các ngư lôi sẽ đến mục tiêu. Chúng tôi nôn nóng chờ đợi.

        Một ngọn lửa sáng lòe, kế đó những tiếng nổ nối tiếp theo. Âm thanh truyền đi trong nước mau hơn trong không khí. Thêm một tiếng nổ nữa nơi cùng chiếc tàu ấy. Nó bị bể ra, và chìm nhanh xuống đáy. Sẽ có ít người sống sót.

        Hai tiếng nổ khác tiếp theo, hai tàu nữa bị trúng. Một ngư lôi trật mục tiêu. Các tiềm thủy đỉnh khác hình như chưa bắn.

        Trong đoàn tàu, mà chỉ trước đó ít lâu đi theo lộ trình của nó một cách bình yên, bỗng bắt đầu hoạt động rộn rịp. Những ánh đèn đỏ và xanh đột ngột lóe ra. Có lẽ đó là những tín hiệu chỉ dẫn một sự thay đổi lộ trình. Người Anh rành nghề của họ. Các việc xê dịch trong đoàn tàu và nhứt là trong đêm tối, đèn tắt hết, vô cùng phức tạp. Nhưng chẳng có sự đụng chạm nào.

        Các khu trục hạm chung quanh các tàu bị nạn. Mấy đèn pha rọi sáng. Họ bắn mìn lựu: chúng tôi chưa bị dò ra.

        Tàu của chúng tôi vẫn ở giữa đoàn tàu. Có lẽ người ta chưa nghi ngờ sự có mặt của chúng tôi nơi điểm này.

        -  Nạp vào! Chỉ huy trưởng ra lịnh.

        Thay vì chuồn đi hoặc lặn xuống, chúng tôi tiến đến gần hơn. Gần đến nỗi họ sẽ không thấy chúng tôi, theo như hạm trưởng ước tính, ông ta có lý: trên biển, người ta dễ nhận ra nhứt khi các tàu ở đằng chân trời. Nếu khoảng cách quá ngắn, khó mà thấy một tàu ngầm từ trên sàn tàu chạy bằng hơi nước. Vệt sậm của nó trên mặt nước khó phân biệt với những ngọn sóng lớn.

        Ba mươi lăm phút sau, công cuộc chuẩn bị tấn công lần tới đa xong. Sĩ quan phóng lôi báo với hạm trưởng: “Các ống 1 đến 4 sẵn sàng phóng trên mặt”.

        Mấy tiếng nổ dữ dội. Mấy chiếc tàu nổ tung. Một số khác phun ra những cuộn hơi nước và ngưng chạy. Mấy đèn rọi lùng sục các dòng nước. Những cột khói bay lên trời. Tưng chỗ, dầu cặn chảy trên nước. Tiếng kêu cứu được lặp đi lặp lại trên băng tầng 600 mét. Mấy tàu ngầm khác đã đến với chúng tôi. Vẫn những tiếng nổ mới. “Hi vọng không có ngư lôi chạy lạc nào trúng nhằm chúng ta! Viên sĩ quan phụ tá trực nói. Chỉ còn thiếu có chuyện mình bị chính bên mình cho xuống đáy biển thôi! Nguy hiểm lớn khi mình đang ở bên trong đoàn tàu”.

        Đoàn tàu phân tán. Đó là dấu hiệu xấu cho chúng tôi, bởi chỉ còn có thể nhắm bắn mỗi lần một mục tiêu. Hơn nữa, cuộc tấn công trở nên phức tạp hơn do sự kiện các tàu chưa bị hề hấn gì sẽ cảnh giác. Một số chạy theo chữ chi, một số đánh vòng tròn lớn.

        - Một chiếc 8000 tấn đang trong điểm nhắm. Hai ngư lôi. Khoảng cách 400 mét. Bắn!

        - Qua bên phải. Một chiếc nữa! Bắn!

        Cùng lúc với lịnh thứ hai vang lên, chiếc tàu đầu bị nhắm nảy tung lên không. Trúng mục tiêu. Nó chìm, đuôi xuống trước.

        Có bóng đen đằng trước: chúng tôi thử né qua, nhưng bóng đó đến nhanh hơn. Càng lúc càng lớn; một chiến hạm. Báo động!
Logged

Giangtvx
Trung tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #21 vào lúc: 11 Tháng Chín, 2018, 10:35:42 pm »


        Tàu chúng tôi bị dò ra rồi! Trong khi chúng tôi vọt vào bên trong tàu, những tiếng nổ khác vang lên.

        Bộ chỉ huy đã lưu ý chúng tôi về những tiểu tốc hạm trên đoàn tàu, mà người ta sẽ hạ thủy trong trường họp có tàu ngầm tấn công ban đêm. Lợi điểm của chúng là nhỏ cỡ, nhanh và được trang bị mạnh với vũ khí bắn nhanh. Chúng tôi chỉ trông thấy mấy chiếc tàu nhỏ nhất này khi chúng đã đến gần mình.

        “Lặn 100 mét! ”. với 40 độ nghiêng và tốc độ tối đa, chúng tôi đâm xuống vực sâu. Kỹ sư cơ khí của chúng tôi là tay cừ khôi về nghề chạy dưới mặt nước. Đúng độ sâu ấn định, anh ta dựng tàu dậy cho thăng bằng, ra lịnh đóng nắp xả và thông báo là mọi việc đều an toàn.

        Hạm trưởng bảo: ‘Tốt! Mình hên quá! Mấy con heo đó luôn luôn phát minh ra trò mới! Phải có vậy, nếu không chiến tranh trở nên lạt lẽo. Lần sau, mình sẽ biết cách xử thế. Hoan hô toán trực canh!”.

        Các thủy lựu đạn đầu tiên nổ tung. Nhưng chúng ở xa. Tuy vậy, chúng tôi vẫn còn ở quá gần đoàn tàu và các khu trục hạm.

        “Chạy vòng vèo!” hạm trưởng ra lịnh.

        Các động cơ điện kêu vù vù nhỏ đến nỗi chỉ hơi nghe tiếng. Các lịnh được bảo với giọng thì thầm. Các máy phụ ngưng chạy. Các thủy thủ mang giày nỉ. Ngay khi người nào đó không có nhiệm vụ để làm, anh ta đi nằm. Như vậy ít tiêu thụ không khí trong lành hơn - bởi khi nằm và im lặng thì người ta ít cần oxy.

        Đoàn tàu đã chạy xa. Người ta chỉ còn nhận ra một cách yếu ớt tiếng đập của các chân vịt. Ngược lại, ba khu trục hạm rượt đuổi theo dấu chúng tôi. Tiếng động do máy dò tìm của chúng tạo nên thứ tiếng như lấy móng tay kéo trên chiếc lược; một thứ tiếng khác như tiếng lắc hột đậu khô trong cái lon; một thứ tiếng nữa nghe ken két như bánh sắt nghiến đường ray. Đôi khi chúng tôi có cảm tưởng một viên đạn chì trúng nhằm vỏ bọc thép của tàu chúng tôi.

        Các khu trục hạm bao vây chúng tôi. Các tiếng nổ của thủy lựu đạn - thường thường ba tiếng cùng một lúc - mỗi lúc càng tiến đến gần. Vị trí chiến đấu của tôi ở đằng đuôi, trước mặt ống dẫn âm.

        Cứ mỗi loạt thủy lựu đạn, tôi phải báo cho biết mọi thứ CÓ còn nguyên vẹn không. Ống dẫn âm nằm giữa ống phóng thủy lôi và vỏ tàu. Tôi phải nghiêng người tới trước, một bàn tay chống lên vỏ tàu.

        Mức nguy hiểm trở nên đáng kể. Tàu ngầm của chúng tôi lặn thêm 20 mét. Đèn vụt tắt. Nhưng tự động, hệ thống điện phòng hờ bắt đầu hoạt động. Các gương mặt trở nên nghiêm trọng. Ai cũng biết rằng chẳng còn là trò đùa.

        Địch đã khám phá ra chúng tôi nhờ các máy dò tìm mà tiếng động càng lúc càng rõ. Nhóm sửa chữa điện chạy tới chạy lui trong tàu để sửa các trục trặc.

        Nhiều giờ trôi qua như vậy. Lựu đạn, đèn tắt, sửa điện. Toán vô tuyến bắt được các làn sóng của khu trục hạm và báo không ngớt về vị trí của chúng cho hạm trưởng. Khi chúng đến gần, hạm trưởng vào ngồi trong phòng vô tuyến để ra lịnh. Mỗi khi khu trục hạm nằm bên trên chúng tôi và phóng thủy lựu đạn xuống, chúng tôi chạy một vòng cung. Phải cần chút linh tính nào đó để biết nên chạy hướng nào, và cũng là vấn đề may mắn.

        Ông hạm trưởng rất rành nghề, ông thản nhiên; mọi người cố bắt chước theo nhưng dĩ nhiên chẳng ai cảm thấy yên tâm, trong đó có tôi.

        Chúng tôi đếm được 68 thủy lựu đạn. Các tiếng nổ nghe hung hãn, làm mất thăng bằng. Tàu ngầm giống như bị chiếc búa lớn đập vào: phong vũ biểu, các máy đo bị bể, mấy bóng đèn nổ tung. Các động cơ ngưng chạy. Nhưng may, không chỗ nào bị rịn nước, chỉ có bộ phận tự động đóng an toàn bị hư.

        Đã sửa xong mọi thứ. Có thêm chút ánh sáng. Chúng tôi thở bằng các ống cao su, với không khí đi qua các bộ phận lọc bồ tạt. Mỗi viên bồ tạt nặng khoảng một kí lô. Sức nặng ấy cũng đáng kể nếu mình bắt buộc phải đứng lên. Bồ tạt có khả năng hút hết oxytcarbon tích trữ trong không khí, vi nếu tỷ lệ khí ấy vượt quá 4%, con người sẽ cảm thấy mệt mỏi rồi... ngủ luôn.

        Ông dẫn bằng cao su của mặt nạ tôi đang mang tỏa ra một mùi khó chịu. Không khí nóng lên, trở nên khô rang. Viên bồ tạt cũng nóng. Mỗi người phải ở vị trí của mình, nên không thể đi lấy nước để uống. Đây là chiến tranh thật chớ không phải cảnh thấy trong mấy phim thời sự. Mồ hôi rịn ra trên các gương mặt.

        Chúng tôị. phóng ra một “bold”, hi vọng cuối của chúng tôi. Nhiều tàu ngầm nhờ nó mà sống sót. Các thành phần hóa học của nó tỏa rộng ra, làm thành một thứ màn che chở trong nước, khiến các máy dò tìm của khu trục hạm nhận được tiếng dội y như với một tàu ngầm. Vi vậy, chúng tôi cố ý đưa hông tàu ra cho địch dò theo, đoạn ngay sau đó, quẹo đưa đuôi ra, và chạy tránh xa. Tuy nhiên, cái “bold” vẫn còn nguyên chỗ cũ và thu hút các họng súng ngây ngô của đám khu trục địch.
Logged

Giangtvx
Trung tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #22 vào lúc: 11 Tháng Chín, 2018, 10:36:07 pm »


        Hình như địch rơi vào bẫy: các tiếng nổ lần hồi yếu đi. Chúng tôi thấy khỏe. Các khu trục hạm, cuối cùng chạy theo đoàn tàu để tiếp tục hộ tống.

        Chúng tôi vẫn chạy dưới mặt nước trong một tiếng đồng hồ nữa, rồi trồi lên. Tốc độ tối đa. Chúng tôi nạp lại các bình điện, đó là việc chính yếu. Nếu hết điện, chúng tôi không thể lặn và vậy là rồi đời.

        Các ống phóng được nạp lại. Chúng tôi lại sẵn sàng chiến đấu, chỉ có hơi mệt thôi. Tôi nghĩ đến những nguyên tắc mà người ta nhồi nhét vào đầu chúng tôi trong thời gian được huấn luyện ở đảo Danholm: một người lính không bao giờ được mệt. Chúng tôi nuốt những viên caféine và pervitine, tuy không lợi cho sức khỏe, nhưng giúp chúng tôi khỏi ngủ trong nhiều ngày.

        Chúng tôi không thể theo kịp đoàn tàu nữa. Chúng tôi gởi tới bộ tư lịnh một bức điện thông báo sự thành công: “Bốn tàu bị đắm, 25.000 tấn”. Trả lời của đô đốc: “không phải 25.000 tấn, mà là 35.000. Khen ngợi. Hãy tiếp tục”.

        Sở tình báo Đức “Berichtser statterdienst” làm việc hoàn hảo. Nó đã khám phá được khóa mật mã của các điện văn địch. Một trăm ngàn tấn đa bị đánh chìm. Hi vọng sẽ còn gì nữa cho tới hôm sau.

        Chúng tôi đã quên vụ bị săn đuổi bằng thủy lựu đạn. Với lại, nghĩ rằng các khu trục hạm đã cạn lựu đạn rồi.

        Nhưng chúng tôi không thể rượt theo đoàn tàu. Nhiên liệu đang cạn. Phải quay về. Sau này chúng tôi hay tín qua một bức điện là nó hầu như bị tiêu diệt hoàn toàn.

        Có một cột buồm. Lại một chiếc tàu. Dù thiếu nhiên liệu, phương hướng của nó khiến chúng tôi thử làm một cuộc tấn công.

        Đêm đến. Chúng tôi tiến về phía con mồi. Một khu trục hạm chạy thẳng tói chúng tôi; có một đèn đỏ. Chúng tôi quay ngược chiều. Khu trục hạm không thể thấy chúng tôi, nếu không, nó đã bắn. Chúng tôi trồi lên, tiến tới trước. Một lần nữa, khu trục hạm phóng thẳng tới chúng tôi. Vẫn cái đèn đỏ quỉ quái. Nó rượt theo chúng tôi. Báo động! Và cái trò này lặp lại ba lần. Chúng tôi bị đuổi dồn.

        Kế đó có báo động. Hai chiếc máy bay Sunderland, mà chúng tôi thấy trễ, đang ở một khoảng cách khá gần. Cho đến lúc ấy, chúng tôi chưa hề lâm chiến với máy bay, mặc dù một khẩu phòng không 20 ly hoàn toàn tự động được gắn nơi phần sau của đài quan sát. Một số đạn dự trữ cũng sẵn sàng.

        Hạm trưởng muốn đóng nắp sàn tàu, nhưng tấm bửng bị kẹt, do một lò xo bị gãy trong cuộc chiến đấu vừa qua. Một chiếc Sunderland bay về phía chúng tôi. Quyết định nhanh, hạm trưởng nhảy vào đài quan sát, vọt tới khẩu đại bác và bắn, khoảng cách chừng 1000 mét. Phi cơ bay vòng và đó là lỗi lầm nghiêm trọng, vì nó đưa hông ra ở cự ly khá ngắn mà chẳng thể sử dụng vũ khí. Nó bị rơi xuống nước. Chiếc máy bay kia tấn công. Hạm trưởng lại bắn; máy bay bị cháy động cơ và rớt.

        Kỹ sư cơ khí gấp rút sửa chữa tấm bửng của nắp sàn tàu. Và chúng tôi có thể lặn. Toàn thể thủy thủ đoàn khen ngợi chỉ huy trưởng. Không có sự nhanh trí và đánh trả tức thời của ông, chúng tôi đã nguy khốn. Đó là những máy bay đầu tiên bị một tàu ngầm bắn hạ. Hạm trưởng được ban huy chương cho chiến công đó.

        Lần này, chúng tôi hướng mũi tàu về Brest. Căn cứ hải quân đó quan trọng hơn Lorient.

        Chúng tôi được ở trong Trường Hải quân Pháp trước kia, sừng sững oai vệ trên một vùng đất cao. Bên dưới, trong đá, người ta đa sắp đặt các chỗ ẩn cho tàu ngầm: những bồn nước to lớn và những xưởng ngầm dưới đất, xây bê tông kiên cố. Các cuộc tấn công bằng máy bay ngày càng nhiều, và người ta không muốn làm chậm trễ việc hạ thủy tàu do kéo dài sửa chữa. Người ta làm việc hùng hục: các xe vận tải chở cát và xi măng nối dài không dứt trên đường. Thợ thuyền sống trong các khu cư xá mới tinh.

        Người ta chưa quyết định về số phận của các thiếu úy hải quân. Chúng tôi sẽ được gởi về Đức để theo các cuộc viễn phái với mục đích học nghề? Chúng tôi mong nhận lãnh một nhiệm sở có nhiều trách nhiệm. Điều chắc chắn là chúng tôi không được nghỉ phép: một số người của thủy thủ đoàn bị đối xử như vậy. Thật là buồn phiền sau một hành trình như thế!

        Ngược lại, người ta gởi chúng tôi đến một nhà an dưỡng dành cho nhân viên tàu ngầm.

        Sau mỗi lần ra trận, các chỉ huy trưởng chiến hạm phải tự mình đến thăm đô đốc trưởng của hạm đội tàu ngẩm. Nhờ đó bộ chỉ huy có những tiếp xúc trực tiếp với các tàu ngầm mặt trận.

        Mỗi chỉ huy trưởng được yêu cầu phát biển ý kiến và đề nghị các cải tiến. Chính trên biển mà người ta thu thập các kinh nghiệm quyết định chớ không phải quanh bàn trà. Phương thúc này phần nhiều tránh được chuyện gởi thư từ.

        Hạm trưởng của chúng tôi khi trở về không mấy hài lòng về cuộc thăm viếng của ông. Ông giải thích chuyện bất ngờ của ánh đèn đỏ và nghĩ rằng dường như đô đốc Donitz không mấy quan tâm đến sự kiện ấy - chắc vì chúng tôi bị đuổi theo mà không bị tấn công.
Logged

Giangtvx
Trung tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #23 vào lúc: 11 Tháng Chín, 2018, 10:37:11 pm »

         
CHƯƠNG V

THAY ĐỔI KHUNG CẢNH

        Tháng 2-1942. Thích quá! Người ta gởi các thiếu úy hải quân qua Đức để hoàn tất công việc huấn luyện. Mà lại còn cho chúng tôi tám ngày nghỉ phép nữa!

        Tôi đến Berlin. Mẹ tôi khóc vì sung sướng. Chắc chắn bà lo ngại khi biết tôi ở trên một tàu ngầm, nhưng cũng hãnh diện. Chiến trường miền Đông có những tiến bộ lớn. Trừ vài ngoại lệ, mọi người Đức đều tin chắc vào chiến thắng. Riêng về vũ khí tàu ngầm, về chiến thuật và sự phát triển của nó, nhiều ý kiến kỳ lạ được thiên hạ bàn tán. Nhưng làm sao dân chúng được thông tin khá hơn?

        Các thành công lớn nhứt của chúng tôi là nhờ các cuộc tấn công vào ban đêm trên mặt biển. Chúng tôi hầu như vô hình, thêm vào đó là nhanh hơn, uyển chuyển hơn so với khi chạy bên dưới nước. Nếu địch hoàn thành được các máy dò tìm, thì phương tiện hành động của chúng tôi sẽ bị thu hẹp đáng kể. Máy radar đánh dấu sự khỏi đầu thụt lùi tai hại trong hoạt động của chúng tôi, và với các tia hồng ngoại, làm thấy rõ mọi đồ vật, kể cả trong đêm tối, đã tăng lên rất nhiều mức tổn thất của chúng tôi so với năm trước.

        Một lần nữa, chúng tôi lại gặp nhau trên ghế nhà trường. Khóa học kéo dài 6 tháng. Nhiều bạn của chúng tôi vắng mặt - vì họ đã tử trận. Chúng tôi học hỏi về các loại thủy lôi mới và chiến thuật liên quan đến chúng. Các bài tập thực hành về phóng ngư lôi giúp chúng tôi tăng cường sự hiểu biết. Chúng tôi lấy bằng sĩ quan vô tuyến và phải thực tập các loại mật mã khác nhau, cùng các ký hiệu linh tinh. Phần cuối khóa học gồm một giai đoạn tại Trường hàng hải tiềm thủy đỉnh: một tuần lễ chạy trong biển Baltique và một tuần học lý thuyết. Thao diễn cập bến, chạy dưới nước, tấn công và thám thính. Mỗi học viên, để tập sự, làm một vòng thanh sát trong phòng trung ương và kinh hãi khi thấy vô số tay lái và đường ống. Kể cả các kỹ sư chuyên môn của mấy loại chiến hạm khác cũng thường xanh mặt trước mớ rối beng này.

        Chúng tôi kết thúc khóa học bằng một giảng khóa về pháo binh. Các “tàu trường học” nhỏ có gắn đằng mũi một đại bác 88 ly hoặc 105 ly. Đó là giảng khóa mà chúng tôi ưa thích nhất.

        Sau khi thi xong, tôi được bổ nhiệm lên một tàu ngầm loại VII C đã quen thuộc với tôi. Nó mới được đóng và bắt đầu công cuộc huấn luyện trên biển Baltique.

        Sau một tháng, hạm trưởng thông báo cho tôi với lời khen: “Anh được một bạn học của tôi chọn làm đệ nhứt phụ tá. Việc bổ nhiệm này đã được bộ tư lịnh hạm đội tiềm thủy đỉnh chấp thuận. Ngày mai, anh trở về Dantzig để nhận nhiệm sở trên tàu mới. Chúc anh may mắn!”

        Chuyện ấy có vẻ khó tin, bởi tôi có cảm tưởng rằng mình không hề chứng tỏ quá hăng say trong thòi gian học tập. Tôi là kẻ đầu tiên trong số bạn đồng học được đưa lên địa vị cao này. Nhiều sĩ quan lớn tuổi hơn tôi vẫn còn đi biển trong tư cách đệ nhị hay đệ tam sĩ quan phụ tá.

        Tàu của tôi nằm sừng sững thật cao trên mặt nước. Như vậy có nghĩa nó còn thiếu đồ trang bị trong các khoang. Thủy thủ đoàn hội tụ từ từ. Mỗi ngày, chúng tôi đi dạo bên trong tàu mới. “Chỉ có kẻ nào biết rõ tàu của mình thì mới biết điều khiển món kỹ thuật kiệt tác này”, chỉ huy trưởng tiểu hạm đội khẳng định.

        Thủy thủ đoàn tạo được một ấn tượng ưu hạng. Nó gồm phân nửa là những người từng tham gia các cuộc hành quân chớp nhoáng ngoài biển sâu.

        Nhiều bài tập, khảo sát, thực tập bắn và phóng ngư lôi, trong vô số lần ra biển ngày và đêm (nhiều khi chúng tôi phải nạp các ống phóng ngư lôi ba lần trong ngày), thực tập lặn, v.v... Trước khi được ra biển sâu, chúng tôi phải qua cuộc khảo sát về chiến thuật. Nó gồm một đoàn tàu được máy bay và khu trục hạm che chở, vượt biển Baltique.

        Đêm tối, không thấy đường chân trời. Mây và mặt biển lẫn lộn thành một màu đen xám đục. Chúng tôi tập bắn, kết quả hạng ưu.

        Đột nhiên có điện vãn khẩn: “Ngưng! Tạm hoãn tập trận. Cho máy vô tuyến hoạt động trên làn sóng ngắn. Tàu UX bị đụng và chìm. Thử tiếp xúc qua cách dò tìm bằng âm thanh. Tìm những người sống sót. Hạ thủy các xuồng cứu cấp. Bắt đầu ngay cuộc tìm kiếm. Chỉ huy trưởng tiểu hạm đội”.

        Các pháo sáng treo lơ lửng dưới các dù nhỏ chiếu sáng đêm tối. Các đèn rọi của hơn mưòi tàu lặn, khu trục hạm và tàu bảo vệ rọi các chùm ánh sáng chéo vào nhau. Mạng sống của năm mươi người đang lâm nguy.

        Người ta vớt được hạm trưởng, một sĩ quan và hai thủy thủ. Họ khai là tàu ngầm của họ đang chạy trên mặt nước thì bị một tàu chạy dưới nước chạm nhằm và tàu họ chìm ngay. Năm người sống sót lúc ấy ở trên sàn tàu đã kịp nhảy xuống nước.

        Hiệu thính viên của chúng tôi báo với hạm trưởng rằng anh ta đang liên lạc với tàu ngầm bị chìm. Người ta nhận ra các tiếng gõ liên tục vào vỏ tàu. Chúng tôi báo cho tàu của đô đốc biết việc ấy. Chiếc tàu bị chìm được dò ra và liền đó, tất cả các tàu có mặt quay thành vòng tròn bên trên nó. Tàu nằm ở độ sâu 105 mét. Các tiếng gõ cho biết toàn thể thủy thủ đoàn đã chạy kịp vào hai phòng bọc sắt đằng sau, cô lập với phần trước.

        Một trăm lẻ nằm mét! Chúng tôi biết rằng nhiều thủy thủ đoàn bị giam trong tàu của họ có thể thoát ra được, nhưng chỉ ở độ sâu kém hơn. Tôi biết có trường họp một tàu bị chìm ở đáy sâu 60 mét, mà chỉ có ba người trong toàn thể thủy thủ đoàn được sống sót. Cơ thể con người không chịu đựng nổi áp lực của nước cũng như sự giảm áp khi trồi lên. Một cần trục từ Kiel đưa đến phải mất ít nhất một ngày.

        Việc có mặt của một toán thợ lặn, cũng như việc nâng tàu từ bên dưới sẽ mất một thời gian quí báu, quá dài: không khí chứa trong hai khoang đằng sau chỉ đủ cho thủy thủ đoàn thở trong 14 tiếng đồng hồ.

        Chỉ huy trưởng quyết định di tản. Máy móc trong tàu ngầm bị chìm không còn hoạt động được. Các hệ thống tinh khiết hóa không khí bị hư hỏng. Việc gì phải để các bạn ấy chịu đựng một cách vô ích? Mỗi người dưới đó đều có bộ đồ lặn. Trên tàu của đô đốc có sẵn một phòng giảm áp giúp cho những người trở lên mặt nước quá mau có thể lấy lại thăng bằng áp suất của họ từ từ.

        Bằng siêu âm, người ta cho các người trong tàu bị đắm biết phải làm gì: “Mở nắp van - Di tản - Mặt nước được chiếu sáng bằng hỏa tiễn - Chúc may mắn - Chỉ huy trưởng tiểu hạm đội.

        “Nắp van mở- Chúng tôi ra”, người có nhiệm vụ lắng nghe các tiếng gõ dịch lại. Các phi công, khi nhảy ra khỏi máy bay, dễ hơn công việc của chúng tôi nhiều. Không may mắn, chúng tôi nghĩ. Sĩ quan đệ nhị phụ tá là một trong các bạn tốt của tôi, chỉ mới lấy vợ sáu tuần nay.

        Qua hệ thống thủy thoại (hydrophone), chúng tôi nghe rõ tiếng nước chảy vào phòng của tàu bị đắm. Mấy người bạn đó tính toán sự khác biệt của áp suất. người ta không thể mở bửng ra ngoài mà không biết đến điều ấy. Trên mỗi cm3, áp lực nước là lkg cho 10 mét sâu, do đó áp suất là 10kg trên mỗi cm3 ở độ sâu 100 mét. Nắp bửng có đường kính 70cm, nên áp lực sẽ hơn 38 tấn cho toàn tấm bửng. (Tính theo công thức R2 = 3,1416 X 35 X 10kg).

        Các pháo sáng rọi đêm tối. Hàng trăm con mắt canh chừng mặt nước bằng ống dòm. Chúng tôi đọi suốt bốn tiếng đồng hồ. Chẳng có gì cả, không bọt nước, không dấu vết nào. Không còn nghe tiếng gõ vào tàu. Có lẽ những người trong thủy thủ đoàn đã bất tỉnh trước khi mở được tấm bừng, hoặc là người đầu tiên chui ra đa bị kẹt nơi bửng với bộ đồ lặn khiến không còn lối thoát cho người sau?

        Sáu tiếng đồng hồ trôi qua. Hết rồi. Người ta tiếp tục cuộc diễn tập.
Logged

Giangtvx
Trung tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #24 vào lúc: 12 Tháng Chín, 2018, 11:36:18 pm »


CHƯƠNG VI

BÃO TỐ VÀ GIÁNG SINH

        Những trái bom đầu tiên đã rơi xuống. Máy bay bất thần vọt ra khỏi đám mây và chúng tôi phải nhọc nhằn lắm mới thoát nổi. Kể là tiếng nổ vang lên cách chúng tôi chừng 30 mét. Một lần nữa chúng tôi gặp may. Mấy người trực canh quả cừ khôi.

        Từ bốn tuần nay, gió thổi từ mọi hướng. Bão, mưa, sưong mù tiếp nối nhau. Hàn thử biểu cứ nằm ở mức vài độ trên số 0. Không có chỗ núp trên sàn tàu đầy gió, mà chỉ có những thành vách bằng thép. Không thể nào sưởi ấm bằng cách bước tói lui, bởi vì người chúng tôi bị giữ bằng một sợi dây. Sợi dây da được tăng cường bằng sợi thép, bọc lấy hông chúng tôi. Bởi lúc gió bão, sóng có thể quét qua hất văng chúng tôi.

        Sức mạnh của sóng biển đập vào quá mạnh. Con tàu giống như một cây tên và hơi ngóc cao lên khỏi mặt nước đầy sóng quét qua. Ở đằng mũi, sĩ quan trực canh và một người nữa có mặt. Họ báo cho hai người đứng đằng đuôi khi có con sóng sắp ập đến. Và chúng tôi núp xuống vừa tìm cách níu vào món gì đó. Kế là mũi, mặt, miệng đầy nước. Mắt cay xè. Nước đổ hàng tấn. Tất cả đểu có màu xanh lam. Các quần áo loại không thấm nước, quần áo ngoài bằng cao su không che chắn bao nhiêu. Nước lạnh buốt chui vào, chảy khắp người. Bàn tay chúng tôi cứng đờ, nhưng phải nắm ống dòm. Chúng tôi dành phân nửa thì giờ để dò xét trên mặt nước. Không có gì vuột khỏi cái nhìn của người trực canh. Ai cũng muốn mình là kẻ đầu tiên trông thấy một cột buồm, một máy bay.

        Những phút cuối trước khi thay phiên trực trôi qua chậm chạp nhứt. Chừng nào người ròi phiên chưa xuống tói dưới, thì người thay thế chưa được lên. Không bao giờ được phép thêm một người trên sàn tàu ngoài toán trực canh thông thường, nếu không, trong trường họp báo động, sẽ làm chậm trễ việc lặn. Ngoài ra, thay thế cùng lúc nhiều người trực cũng bị cấm vì sẽ làm xao lãng nhiệm vụ.

        Sau khi được thay, chúng tôi trở xuống lạnh cóng, bên trong tàu lạnh và ẩm. Nước chảy trên vách tàu. Mặc dù có hệ thống sưởi ấm, nhưng bị cấm vì phải tiết kiệm điện. Rượu cũng bị cấm, vì rượu làm yếu các phản xạ. Trong một giây đồng hồ, chúng tôi tiến được 9 mét dưới nước, và chỉ cần một giây là chúng tôi có thể tránh khỏi một trái thủy lựu đạn rơi ngay đuôi tàu. Nhân viên tiềm thủy đỉnh phải hành động nhanh như chóp.

        Khi xuống khoang tàu, một người bạn giúp tôi cởi quần áo dính vào người. Thay quần áo, nhưng không phải dùng thứ khô sạch trong tủ cá nhân. Lúc ấy phải chọn một trong hai giải pháp: hoặc là lau người cho khô, hoặc là mặc vào quần áo còn ấm của phiên trực canh trước. Quần áo không thể khô trong tám tiếng đồng hồ ở môi trường ẩm ướt, vả lại cũng không có nhiều chỗ để phơi. Một lớp muối bao phủ quần áo xám, giống như lớp sương giá trắng. Các đôi ủng chứa đầy nước mặn và dính vào bàn chân. Phải mặc đồ vào ngay vì nếu có điểu bất ngờ xảy đến, thì phải sẵn sàng - mà báo động thì lúc nào chúng tôi cũng chờ đợi nó.

        Nếu ăn bánh mì, chúng tôi cẩn thận cắt các phần bị mốc ra, nhưng để dành bỏ vô xúp, chớ không liệng đi, bởi một biến cố bất ngờ nào đó có thể gây chậm trễ việc trở về hải cảng. Có một tàu ngầm, máy móc bị văng ra do thủy lựu đạn, chỉ trở về tới cảng sau bốn tháng xê dịch bằng buồm. Thủy thủ đoàn đã nhai cho tới da giày. Vậy thì để lo xa, tốt hơn là ăn xúp với bánh mì mốc!

        Thêm một ít bơ đã nặng mùi lên bánh mì saucisson, một ngụm trà nóng, rồi ngã mình lên chỗ nằm, để nguyên áo, trừ áo veste và giày. Mền làm ấm một chút, mặc dù ẩm và có mùi dầu cặn.

        Chiến tranh đã bước vào một giai đoạn đáng ngại. Stalingrad, El Alamein và các cuộc đổ bộ của Mỹ lên Bắc Phi đã đưa đến một biến cố bi đát.

        Trong những ngày thời tiết quá xấu, chúng tôi chỉ có hai người trực canh, mặc đồ lặn. Chúng tôi đóng nắp sàn tàu lại, để nước khỏi chảy vào trong. Chúng tôi liên lạc với bên trong qua một ống dẫn âm. Nhưng đừng tưởng nước không chui vào được bộ đồ lặn, bởi vì chỗ cổ áo, nơi có dây kéo, nó vẫn vào. Và vì bộ đồ đó kín, nước được giữ lại, không có lối thoát, nên từ từ dâng cao theo ống chân. Chúng tôi phải xoi lỗ nơi cổ chân: dễ chịu hơn. Chúng tôi cáu kỉnh, nguyền rủa chiến tranh, nhân loại, những kẻ phát minh ra tàu ngầm, cả chúng tôi, tất cả.
Logged

Giangtvx
Trung tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #25 vào lúc: 12 Tháng Chín, 2018, 11:36:52 pm »


        Gió thổi không ngớt cùng một sức mạnh. Đêm trước lễ Giáng sinh 1942. Cũng ngày này, năm 1940, có lẽ chỉ có một tàu ngầm của chúng tôi trong Đại Tây Dưong, đến năm 1941 có hai mươi và giờ đây nhiều hơn. Ngày trước chúng tôi có những chiến thắng kỳ ảo với vài đơn vị, nhưng giờ đây lại quá ít. Tại sao?

        Câu trả lời là ra-đa. Nguyên tắc của nó là: một máy phát sóng truyền đi các làn sóng cực ngắn, khi gặp một vật cứng, chúng phản hồi lại như ánh sáng gặp tấm gương hay âm thanh gặp bức tường. Các làn sóng này được một máy thu đặc biệt, thâu lấy và người ta ấn định cự ly bằng cách đo thời gian trôi qua. Còn về hướng, thì người ta biết được nhờ độ nghiêng của ăng-ten phát sóng.

        Nguyên tắc này phía bên Đức đã biết đến và sử dụng, nhưng địch đã cải tiến và phát triển để trang bị cho các đơn vị chống tàu ngầm của họ các ra-đa hết sức tiện dụng.

        Các khu trục hạm và phi cơ khu trục từ nay có khả năng khám phá ra chúng tôi ở mọi thời tiết, mưa, sương mù, hay đêm tối, một khi chúng tôi chạy trên mặt biển. Các phương tiện tấn công của chúng tôi bị thu hẹp lại, các tổn thất tăng lên.

        May mà sau vài thất bại, người ta đã hoàn thành được một máy báo nguy có tên Fu-M-B, có khả năng báo cho biết sự hiện diện của địch đang đuổi theo chúng tôi. Đó là một thứ ăng-ten đặc biệt, đựng trong cái khung vuông, và gắn trên cây cột gỗ cao bằng đài quan sát. Máy được nối với máy thu sóng bên trong tàu qua một dây cáp bự bọc cao su. Nhờ đó, chúng tôi có thể biết địch có tìm cách khám phá chúng tôi không, bằng việc sử dụng làn sóng. Thật ra máy báo nguy đó có vẻ quá cổ lổ, cái khung ăng-ten bốn, năm tấc được chuyền tay đưa vào bên trong tàu mỗi khi có báo động để khỏi bị phá hủy - và hơn nữa, để sợi dây chuyển tín hiệu không cản trở việc đóng nắp đài quan sát.

        Tối nay là đêm Giáng sinh. Công việc vẫn tiếp tục như thường ngày. Không chừng đêm nay chúng tôi sẽ chạy bên dưới nước trong vài tiếng đồng hồ để nghe dĩa hát? Sẽ có thực đơn đặc biệt. Để tráng miệng, có món dâu tây xen kem. Mấy chàng thợ máy đã bí mật chế tạo một cây Giáng sinh. Cành cây và lá được làm bằng giấy và gỗ. Bông gòn dán lên tạo ảo tưởng có tuyết. Mấy bóng đèn pin bọc giấy trắng giống y đèn sáp. Tôi có phiên trực từ 8 đến 12 giờ, sáng cũng như tối. Buổi sáng là phiên trực ban mai, nguy hiểm nhứt. Khi ánh sáng thay đổi, người ta khó phân biệt đồ vật và không bao giờ phân biệt nổi các máy bay. Trước khi trời sáng, đôi khi có những chiếc tàu mà mình không thấy bỗng đột ngột xuất hiện sát bên. Nếu là tàu chở hàng, chúng cũng thấy chúng tôi và tìm cách vọt xa, còn nếu là tàu chiến, thì quả nguy hại.

        Trực canh đêm... Đằng kia, ở nhà, có lẽ các đèn sáp cháy trên cây Giáng sinh. Lễ trong gia đình: các món quà, ông già Nô-en... Các kỷ niệm rực rỡ của thời trẻ sống lại. Tôi cương quyết dẹp bỏ chúng; không điều gì có thể làm tôi lơ đễnh.

        Tối đen. Các đợt sóng vượt qua đầu của đài quan sát. Chúng tôi ướt sũng. Còn hai giờ nữa mới được thay thế. Chúng tôi đặt ống dòm xuống, bên trong đài quan sát. Thường xuyên bị ướt, chúng không dùng được. Nếu có gì đáng ngờ xuất hiện phía chân trời, chúng sẽ được cầm lên, lau chùi kỹ lưỡng.

        Đằng trước có thứ gì đó động đậy. Anh bạn tôi nhìn theo cùng hướng. Tôi quay lại lấy ống dòm. “Bóng đen đằng trước! Bạn tôi la lên. Nó lớn mau!” Giờ đây, người ta nhận ra đường nét của nó trong kính ống dòm: những nét đặc trưng của khu trục hạm Mỹ.

        Báo động. Chúng tôi chặt đứt dây giữ chúng tôi bằng rìu. Tôi ném vào lỗ nắp sàn tàu cái khung Fu-M- B. “Đến vị trí để lặn!” Tôi vẫn còn ở bên trên. Thông thường, người ta chỉ ra lịnh lặn khi tấm bửng đã đóng.

        Nhưng mỗi giây đồng hồ quá quí giá! Nước chui ùng ục vào các phao, tàu chúi mũi xuống. Khu trục hạm ở cách xa một dặm khi tôi dò ra nó trước khi chạy xuống. Tôi níu bên trên lỗ nắp sàn, vì tấm bửng không đậy được. Nước chảy vô ào ào. Muối làm xót mắt. Tôi tìm lý do của tai nạn. “Đóng phao. Xả. Tấm bủng bị kẹt!” Có phải đây là “giờ tàn”của chúng tôi? Sao chẳng nghe tiếng nổ nào cả? Không phải tình cờ mà khu trục hạm đâm đầu về hướng chúng tôi.

        Tôi đứng trên sàn tàu, cạnh bên hạm trưởng. Chúng tôi không trao đổi nhau lời nào. Hấp tấp, chúng tôi tìm lý do tấm bửng bị kẹt. Khu trục hạm chạy ngang qua. Kẻ nào đó hút thuốc trên sàn tàu. Khoảng cách ngắn ngủn một cách kỳ cục. Sợi dây của máy Fu-M-B cuộn tròn và còn lơ lửng nơi cây cột.
Logged

Giangtvx
Trung tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #26 vào lúc: 13 Tháng Chín, 2018, 11:29:58 pm »


        Dường như trên chiến hạm địch người ta cử hành lễ Giáng sinh. Giáng sinh! Chúng tôi quyết định không lặn xuống. Tại sao chúng tôi lại phải làm khi địch lim dim ngủ? Lẽ ra nó quyết định số phận của chúng tôi, thì chúng tôi quyết định vận mạng của nó. Chúng tôi quay ngược lại để tấn công trên mặt. “Ống 1 nạp!” “Bắn!” Chúng tôi bắn ngược gió, điều rất bất lợi, vì sóng lớn tạo nên những ngọn cao bằng cả ngôi nhà. Cú phóng có thể hụt nếu khu trục hạm nằm trên ngọn sóng, trong khi chúng tôi nằm trong lõm dưói thân nó. Mức sai biệt về chiều cao quá lớn để bộ phận mồi lửa khởi động. Hơn nữa, ngư lôi cũng có thể bị sóng hất đi.

        Chúng tôi nôn nóng chờ đọi. Thòi gian cần cho ngư lôi chạm mục tiêu trôi qua từ lâu; hụt rồi. Tấn công lại: “Ống 2 nạp!” “Bắn!” Chúng tôi chờ thêm, thần kinh căng thẳng. Khoảng cách bắn chỉ có 400 mét. Chúng tôi không thể đến gần mục tiêu hơn nữa. Giới hạn an toàn là 300 mét, nếu không, các xoáy nước do tiếng nổ tạo ra sẽ gây nguy hiểm cho chúng tôi. Nếu tàu bị tấn công chứa món dễ cháy thì chúng tôi cũng tiêu luôn.

        Các chùm tia sáng đỏ, lam, vàng, xanh... một cột nước vĩ đại vọt lên, rồi tan xuống. Bóng đen biến mất. Đó là đêm Giáng sinh 1942 của chúng tôi.

        Trong một thời gian, chúng tôi ở tại vùng biển được chỉ định, mà không có gì mới mẻ xảy ra. Nhiên liệu của chúng tôi cạn dần. Trong khi chúng tôi vui thích với ý nghĩ trở về bến và tưởng tượng tới cuộc sống sẽ được hưởng tại căn cứ, thì công vụ đổi ra chiều hướng khác. Vô tuyến điện viên thông báo là anh ta vừa nhận được điện văn đặc biệt. Anh ta trao cho sĩ quan vô tuyến - cũng vừa là đệ nhị sĩ quan canh phòng - bởi vô tuyến điện viên không biết mật khóa để giải. Do có 3 loại điện văn: thứ thông thường, thứ cho sĩ quan và thứ dành cho hạm trưởng. Nói chung, các điện văn thông thường được đưa vào máy giải mã và ghi giữ rõ ràng trong sổ vô tuyến. Cứ hai tiếng đồng hồ thì sổ được đưa cho hạm trưởng ký. Nếu có điện văn loại hai, thì sau khi giải mã, phải được giải lại lần nữa theo một cách thức chỉ có hạm trưởng và sĩ quan vô tuyến biết.

        Nếu điện văn thuộc loại ba, nó được đưa ngay đến hạm trưởng, và chỉ có ông biết cách giải.

        Công điện hôm nay cho biết vị trí của một đoàn tàu quan trọng; ngoài các lời chỉ dẫn về lộ trình, tốc độ... còn lưu ý gồm nhiều tàu chở dầu và chấm dứt với lịnh “Tấn công!”.

        Bão tố không ngớt dữ dội. Quần áo bằng cao su của chúng tôi hầu như hoàn toàn rách nát, vì chúng không chịu đựng nổi các lần báo động liên tục, những cái nhảy xuống lỗ nắp sàn tàu, v.v...

        Các sĩ quan bàn cãi tình hình với chỉ huy trưởng. Còn rất ít nhiên liệu, vừa đủ để trở về căn cứ, chúng tôi không thể đi tìm đoàn tàu được. Một công điện trên làn sóng ngắn báo cho bộ tư lịnh tối cao biết hoàn cảnh của chúng tôi. Hai mươi phút sau, chúng tôi nhận được phúc đáp: ‘Tấn công, đánh đắm, tôi không bao giờ bỏ rơi một tàu lặn. Donitz”.

        Có lẽ ông ta sê gởi đến một tàu “tiếp tế”, một trong mấy chiếc “tàu - bồn chứa” cho tiềm thủy đỉnh và chúng tôi sẽ ở thêm tám tuần nữa ngoài biển. Với thời tiết tồi tệ này!

        Tôi đang ở ca trực. Hạm trưởng leo lên sàn tàu, chỉ hướng chạy và giải thích cho tôi biết lý do.

        Để đến chỗ đoàn tàu, chúng tôi phải chạy ngược gió. Còn hơn cả khó chịu. “Chạy từ từ trên mặt, rán sử dụng tàu ngầm cách nào tốt nhứt. Anh biết rõ...”, hạm trưởng bảo tôi. Ông trở xuống để nghỉ ngoi, nhằm dự phòng những giờ chiến đấu sắp tới.

        Hai máy dầu quay với tốc độ trung bình. Nắp sàn tàu đã đóng, chiếc tàu thường bị ngập nước. Tôi yêu cầu viên kỹ sư cơ khí leo lên sàn tàu và đề nghị tăng tốc độ một nấc. Trong trường họp này, anh ta phải có mặt nơi vị trí trung ương, chỗ bánh lái lặn, để xả trong trường hợp tàu ngụp xuống, và để điều khiển bánh lái lặn. Và phải tắt máy.
Logged

Giangtvx
Trung tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #27 vào lúc: 13 Tháng Chín, 2018, 11:30:13 pm »


        Bị ngụp xuống là như sau: tàu ngầm bị sóng lớn nâng lên cao trên ngọn, rồi đột ngột trở xuống nằm dưới lõm. Khi tàu khá lớn. Nếu đợt sóng kế đó chạy qua ngay chỗ sóng cũ, thì tàu chưa thể sửa lại kịp độ nghiêng để lên dốc nước và giữ đúng hướng. Biển cả tràn lên trên chúng tôi, rồi tàu trở xuống bên dưới lõm. Hình thù thon dài của nó tiện cho việc trở xuống này; và nhờ tốc độ nhanh, các động tác ấy xảy ra mau lẹ. Tàu có thể hạ xuống 50 mét trong nhấp nháy. Nước chảy hàng tấn vào tàu, qua các ống dẫn không khí vào máy dầu và như vậy tàu trở nên quá nặng để trồi lên mặt nước. Một tàu ngầm đã bị chìm vì lý do đó. Sĩ quan trực canh không thể ra lịnh gì được, vì anh ta bị ngập trong nước. Vậy nên cần một sĩ quan trực phụ sẵn sàng bên trong tàu để can thiệp khi cần.

        “Hai máy, tốc độ trung bình, tới!” Đoàn tàu còn ở xa. Các máy bơm chạy. Tiếng hú của gió bão át tiếng ồn của chúng. Một ngọn sóng: người trực canh trên sàn tàu cong mình lại. Chiếc tàu run lên. Nước biển tràn lên đài quan sát và chạy qua bên kia. Tất cả đều xanh. Chúng tôi nín thở theo thói quen. Khi ló đầu lên, chúng tôi hít mạnh. Đằng sau chúng tôi, một người trực canh thông báo bạn anh ta bị hất vào cọc kính ngắm, trẹo xưong vai. Anh ta không được cột chắc chắn. Một người khác thay thế anh ta và... cứ tiếp tục như vậy.

        Với một tiếng gầm dữ dội, sóng đập vào chúng tôi. Màu xanh của nước biển mỗi lúc càng sậm thêm. Tôi ngộp thở... tai ù lên... Nước chui vào miệng, tôi ngậm ngay lại. Cuối cùng, người tôi ra khỏi nước. Máy ngưng chạy. Khí nén rít lên trong các phao. Bên dưới người ta làm việc giỏi.

        Tấm bửng mở ra và viên kỹ sư ló đầu, vẻ mặt mỉa mai: ‘Tôi đến xem mấy anh còn đủ đó không. Mình đã xuống tới 32 mét. Tôi sẽ làm bản báo cáo đề nghị cung cấp cho quí vị bộ đồ lặn. Sáu tấn nước đã vào trong tàu, mình sẽ xả!”. Đây là một kỷ lục, vì thường khi chỉ xuống tới 15-20 mét thôi.

        Chúng tôi nhận được tín hiệu gởi đi từ các tàu ngầm đã đến nơi trước. Giờ đây, chúng tôi thấy đoàn tàu. Cuộc tấn công quen thuộc được chuẩn bị. Tôi có trong vạch ngắm, một trong các tàu hơi nước lớn nhứt; tôi ấn xuống bộ phận khỏi động bắn. Một ngọn lửa sáng chói, tiếp theo là tiếng nổ rền tai. Chúng tôi bị hất té hỗn độn trên sàn tàu.

        Nhanh nhẹn, tôi đặt vạch ngắm ngay hai mục tiêu gần nhứt. “Bắn!”. Đó là một vấn đề tính từng giây...

        Tiếng đại bác nổ vang trên tất cả tàu địch, cái gì vậy?

        “Kỳ lạ, chỉ huy trưởng nói... Hi vọng chúng không bắn vào phe ta”.

        Và đột nhiên, là ánh sáng ban ngày. Lý do của các tiếng nổ, giờ đây đã rõ. Một số đông đúc pháo sáng có dù lơ lửng trên không, rọi sáng mặt biển. Hai tàu hơi nước đang cháy. Thêm mấy tiếng nổ lớn; các ngư lôi được các tàu ngầm vừa chạy đến bắn ra, trúng mấy tàu khác.

        Báo động, địch đã thấy chúng tôi. Chẳng có gì lạ, khi chúng tôi ở quá gần, dưới ánh sáng kỳ quái này. Một khẩu đại liên bắn vào chúng tôi. Các viên đạn bay thành tia sáng màu đỏ, lam, xanh, vàng sát đài quan sát và đâm thủng lóp bọc thép sàn tàu. Chúng tôi nằm rạp xuống và nhảy vào lỗ nắp tàu. Ơn trời, địch luôn luôn bắn quá cao. Nếu không thì tiêu đòi rồi.

        Chúng tôi lặn nhanh. Người trông như dân da đen. Một tàu chở đạn đã nổ chỉ cách chúng tôi 500 mét.

        Mấy thủy lựu đạn. Chẳng quan trọng lắm đối với chúng tôi. Lần này, chỉ lặn sáu tiếng đồng hồ. Công điện mới: “Trồi lên! Đuổi theo đoàn tàu!

        Không. với ý chí cao nhất, cũng không thể được. Chỉ còn 4 tấn nhiên liệu. Nếu tàu tiếp tế không đến sớm, chúng tôi sẽ phải chạy bằng buồm.

        “Có cột buồm đằng trước! ” Hình như là một tàu lớn. Nhưng chúng tôi đành bó tay: chỉ vài giờ chạy nữa là số nhiên liệu dự trữ của chúng tôi cạn. Địch gặp may. Tuy nhiên, chúng tôi gởi đi một điện văn, không chừng một tàu ngầm khác đến kịp.

        Chạy với tốc độ hạn chế, để tiết kiệm nhiên liệu, chúng tôi hướng mũi tàu về căn cứ...
Logged

Giangtvx
Trung tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #28 vào lúc: 13 Tháng Chín, 2018, 11:32:06 pm »


CHƯƠNG VII

TIẾP TẾ DƯỚI NƯỚC

        Ở mọi thời, việc tiếp tế các tàu lặn trong vùng chiến đấu cũng giữ một vai trò quyết định dưới mắt bộ tư lịnh tối cao Hải quân Đức. Nếu các chuyến đi và về vùng chiến đấu chậm, con số đơn vị chiến đấu sẽ giảm xuống đáng kể. Kiểu tàu ngầm thông thường của chúng tôi có tầm hoạt động khoảng 7000 dặm biển. Từ các hải cảng Đức ở biển Baltique, tới trung tâm của Bắc Đại Tây Dưong, phải tính 4000 dặm đi và về. Vậy là chỉ còn hơn 3000 dặm để xê dịch cho mục đích chiến đấu. Thêm vào đó, phải chạy lòng vòng tránh các rào mìn và phương tiện phòng thủ khác của địch.

        Ngoài ra, hình như gởi các tàu lặn đến các vùng nước quanh Anh Quốc cũng vô ích vì những nơi ấy dễ kiểm soát bằng các đoàn máy bay Stukas của chúng tôi hơn. Cuối cùng, việc gọi các đơn vị chiến đấu từ trung tâm Đại Tây Dương đến những vùng xa hơn, như biển Caribé hay Nam Đại Tây Dưong, chẳng hạn, đặng chia rẽ sự phòng thủ của địch, vẫn luôn luôn là một trong các vấn đề của bộ tư lịnh chiến tranh trên biển. Tuy vậy, việc thực hiện gặp khó khăn do khoảng cách quá xa. Chẳng hạn từ Hambourg đến New Orleans dài 5000 dặm biển, và đến Rio de Janeiro, 5500.

        Do đó, kiểu tàu ngầm chiến đấu thông thường không đáp ứng được các đòi hỏi mới của chiến tranh tàu ngầm, dù dễ đóng hàng loạt và có giá trị chiến đấu vượt bực. Kể cả các căn cứ hải quân Pháp, như Bordeaux, Saint - Nazaire, Lorient, Brest cũng không thu ngắn khoảng cách bao nhiêu, tuy giá trị của chúng vô cùng quí báu. Quí báu vì các hải cảng Đức cũng như biển Baltique dễ bị nghẽn, bằng bãi mìn hoặc lưới, hoặc các vật cản khác.

        Trong Đệ nhứt thế chiến, giữa những năm 1914 - 1918, một số đơn vị Đức tìm cách ra vùng biển Đại Tây Dưong bị tổn thất đáng kể. Cho nên có thể nói chắc chắn rằng chúng tôi không thể chiến thắng trên biển ở Âu châu nếu không có hải cảng tại Đại Tây Dương.

        Khi bị bắt buộc chiến đấu nơi những vùng xa nhứt, thì cần tiếp tế tại chỗ cho những đơn vị chiến đấu. Hồi đầu chiến tranh, chúng tôi sử dụng các tàu buôn ngụy trang vào đó. Nhưng bắt đầu năm 1940, các tổn thất về loại tàu này nặng đến nỗi người ta phải ngưng dùng chúng.

        Người ta dùng một giải pháp khác cho bài toán: tàu lặn tiếp tể. Loại tàu này có khả năng di chuyển cỡ 2000 tấn, được đóng để làm công việc tiếp tế đầy đủ về thực phẩm và nhiên liệu cho mười chiếc tàu ngầm thông thường. Chúng cũng có thể chở thủy lôi. Trong các phòng lạnh rộng, dự trữ thịt tươi, rau, trái cây, và có cả một lò nướng bánh mì. Nhìn bên ngoài, các tàu này có hình dáng giống tàu ngầm chiến đấu, trừ vài chi tiết. Không phải là người trong nghề thì hơi khó phân biệt. Có mười chiếc đang được đóng và vài chiếc đang phục vụ từ năm 1942.

        Chúng tôi gọi các tàu đó là “tàu cung cấp”. Chúng giúp tăng cường rất nhiều sức chiến đấu của các tàu ngầm, hay nói cách khác, chúng làm tăng số lượng tàu chiến đấu và giúp giữ lại kiểu tàu VII có giá trị tấn công đáng kể, đang được đóng hàng loạt. Chuyện đóng loại tàu ngầm có tầm hoạt động rộng chưa hề được quyết định, bởi lý do có những khó khăn trong việc thực hiện và đòi hỏi thời gian. Vì vậy, chưa hề có cuộc tấn công ào ạt nào bằng tàu lặn ở Nam Đại Tây Dương chẳng hạn.

        Để thấy các lọi ích của việc tiếp tế bằng tàu cung cấp, chúng ta thử tưởng tượng bộ chỉ huy tối cao phái mười tàu lặn đến bờ biển Trung Mỹ. Chúng có thể ở trên biển tối đa là ba tháng. Trừ hai tháng để đi và về, chỉ còn hơn một tháng dành cho hành quân. Nếu cần có sự hiện diện thường xuyên của mười chiếc trong ba tháng, thì phải gởi đến đó tất cả ba mươi chiếc. Ngược lại, mười tàu ngầm được tiếp tế bằng một tàu cung cấp có thể ở lại ba đến bốn tháng.
Logged

Giangtvx
Trung tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #29 vào lúc: 13 Tháng Chín, 2018, 11:32:32 pm »


        Theo “chiến thuật Rudel” thì sự hợp tác nằm trong: việc giúp đỡ lẫn nhau khi tìm kiếm các đoàn tàu. Hạm trưởng nhận lịnh thẳng từ chỉ huy trưởng hạm đội là đô đốc Donitz. Ông này chỉ cho biết các vị trí, và nhờ có cái nhìn tổng quát, phân phối các lực lượng. Ngoài phần ấy ra, các hạm trưởng luôn luôn được tự do thay đổi vị trí, bởi lý do chiến thuật hoặc phòng thủ, do thay đổi lộ trình của đoàn tàu, v.v... nếu họ thấy cần. Địa vị của chỉ huy trưởng tàu ngầm chắc chắn là một trong những địa vị lệ thuộc nhứt trong Thế chiến thứ hai, có lẽ nó còn tự do hơn một tướng tư lịnh.

        Đối với địch, sự hiện diện của tàu ngầm chúng tôi tại một khu vực xa thì có ý nghĩa gì? Gặp trường hợp đó, địch bắt buộc rút bớt khu trục hạm và mấy toán máy bay săn tàu ngầm từ miền Bắc Đại Tây Dương. Và phải thành lập các đoàn tàu có hộ tống, làm chậm trễ khá nhiều công tác vận chuyển. Trong đoàn tàu, chiếc chạy nhanh nhứt phải đợi chiếc chạy chậm nhứt. hơn nữa, đoàn tàu phải chạy theo chữ chi, kéo dài thêm lộ trình. Tất cả thứ đó, chỉ vì lý do duy nhứt là có vài tàu ngầm rình rập trong những vùng xưa kia an toàn. Chưa kể đến sự phòng thủ bị yếu đi tại Bắc Đại Tây Dương, cũng như sự thu hẹp của các vùng an toàn.

        Chúng tôi liên lạc được với chiếc tàu cung cấp. Đã đến lúc: chúng tôi chỉ còn một tấn nhiên liệu. Bão hơi yếu đi, nhưng sàn thượng vẫn bị nước quét qua. Từ nhiều ngày rồi, chúng tôi không thể canh hướng qua tinh tú, vì bầu trời không ngớt bị mây che phủ, các trận mưa gió xảy ra liên tục.

        Mỗi giờ hai lần, chúng tôi gỏi đi vài tín hiệu morse. Máy của chúng tôi đã ngưng chạy. Cuối cùng, chúng tôi nhận ra chiếc tàu cung ấp nằm ngang nơi đường chân trời. Một cảm giác khỏe khoắn. Một chút của xứ sở. Một tàu ngầm khác. M4 bạn đường cùng chia xẻ định mệnh...

        Nhưng bão khiến mọi tiếp tế không thể thực hiện được. Không thể liều lĩnh trở sàn thượng tàu vì các con sóng sẽ hất bất cứ kẻ liều mạng nào dám phiêu lưu trên đó. Hoàn cảnh chúng tôi quả thật đáng ngại. Nếu địch bất chọt thấy chúng tôi, thì nguy.

        Chúng tôi đọi cả một ngày. Phải cực nhọc lắm chúng tôi mới giữ liên lạc được với chiếc tàu tiếp tế. Đêm tối đen; các ngọn sóng cao như núi. Bóng tối lẫn lộn nhau; hơn nữa chúng tôi không thể ở quá gần nhau vì sợ đụng. Những giờ lo âu tột độ.

        Cuối cùng mặt trời xuất hiện. Gió có vẻ hạ, nhưng sóng vẫn đập vào sàn thượng tàu. Kỹ sư cơ khí và vài người trong đám nhân viên đi ra đằng trước, rồi đằng sau tàu. Họ phải mở ống nhận dầu cặn và chuẩn bị gắn ống cao su đưa dầu tới. Mặc dù trời lạnh như cắt, họ chỉ mặc quần đùi. Mấy sợi dây ôm quanh hông họ. Lắm lần, khi nhảy bên trên tàu, một người bị hụt châtí khiến anh ta bị treo lơ lửng; bạn anh ta phải khó khăn lắm mới kéo lên được.

        Chúng tôi chạy song song với tàu cung cấp, cách nhau khoảng 80 mét. Một sợi dây cột được ném qua chúng tôi bằng một súng phóng nhỏ đặc biệt. Sau đó là ống cao su, và một sợi dây để kéo. Chúng tôi như trút được gánh nặng. Nhiên liệu chỉ còn có việc chảy vào các bồn chứa của chúng tôi. Chúng tôi nhận được 20 tấn dầu cặn, cùng lúc với những bao [không thấm nước] đựng khoai tây, bánh mì, rau và thức ăn khác. Tất cả tiến hành hoàn hảo, mặc dù đây là lần dầu chúng tôi làm thử thí nghiệm này.

        Một tàu lặn khác báo sẽ tới và yêu cầu được tiếp tế. Vì lý do an ninh, và cũng để thực hành một cuộc thử thách, chúng tôi lặn. Trước tiên là tàu cung cấp, rồi đến chúng tôi. Ống dẫn dầu cặn vẫn nối hai tàu, và chúng tôi lặn xuống 50 mét. Hai tàu chạy chiếc trước chiếc sau, suốt ba tiếng đồng hồ. Tàu chúng tôi được tiếp tế ngay khi đang ở dưới sâu. Và đó là lần đầu tiên trong lịch sử.

        Máy dẫn âm dưới biển giúp liên lạc với nhau. Khi các bồn chứa đã đầy, chúng tôi trồi lên mặt nước.

        Chúng tôi kết thúc ngày đáng nhớ này bằng một bữa ăn có tôm hùm và nhiều món ngon khác.

        Giờ đây, hai máy của chúng tôi chạy với tốc độ cao. Tiến tới! Dĩ nhiên chuyện kéo dài thời gian hành quân do sự hoạt động hữu hiệu của loại tàu cung cấp không làm thủy thủ đoàn vui lên chút nào. Sau ba tháng trên biển, người ta sẵn lòng cho chúng tôi trở về cảng!
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM