Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Ba, 2024, 06:25:40 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Thời sôi động  (Đọc 33910 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #30 vào lúc: 11 Tháng Tám, 2018, 10:10:45 pm »

*
*   *

Mùa xuân năm 1951, sau cuộc đi thăm và làm việc với Đảng Cộng sản Liên Xô, Đảng Cộng sản Trung Quốc trở về, Bác bàn với Trung ương, tình hình thế giới và trong nước có nhiều thay đổi, Đã đến lúc Đảng ra hoạt động công khai, lãnh đạo toàn dân đẩy mạnh kháng chiến chống thực dân Pháp. Sau một thời gian họp trù bị, Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ II khai mạc ngày 11 (từc mùng 6 tết Tân Mão) và kết thúc vào ngày 19 tháng 2 năm 1951, tại xã Quảng Vinh, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang với sự tham gia của 158 đại biểu chính thức, 53 đại biểu dự khuyết thay mặt cho hơn 76 vạn đảng viên của Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia. Tôi được trên chỉ định là đại biểu chính thức của Đoàn đại biểu quân đội. Buổi chiều hôm trước, tôi về đến địa điểm đại hội, sáng hôm sau đang tập thể dục thì bất ngờ Bác đi tới. tôi chúc Bác sức khỏe. Bác vui vẻ nói ngay: Sáng nay sau khi ăn cơm, chú Mân cùng với một số chú khác trong đoàn đại biểu quân đội tới hội trường xin phép đại hội cho về chuẩn bị chiến đấu. Đúng như vậy, anh Bùi Quang Tạo, tôi và một vài đồng chí khác đến hội trường rồi gần nhau. Trước giờ khai mạc Bác nói: có mấy chú đại biểu quân đội xin phép đại hội về chuẩn bị chiến đấu. Cả hội trường vỗ tay, cũng là cho phép. Anh Bùi Quang Tạo cảm ơn các đồng chí đại biểu, chúc sức khỏe mọi người, chúc sức khỏe Bác Hồ, chúc đại hội thành công rực rỡ. Chúng tôi ra khỏi cổng trường với cả lòng tin và phấn khởi.

 Sau đại hội, tôi được các đồng chí cơ quan Trung ương phổ biến và tôi còn nhớ, tham dự Đại hội còn có đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Trung Quốc và đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Thái Lan. Sau lời khai mạc của Bác Tôn Đức Thắng, Bác Hồ đọc báo cáo chính trị. Người điểm lại quá trình hoạt động của đảng ta từ khi thành lập và khẳng định đường lối của Đảng là đúng, cán bộ đảng viên ta tận tụy, hy sinh đi sát lãnh đạo quần chúng, đồng thời nhấn mạnh nhiệm vụ chính, nhiệm vụ cấp bách của Đảng trong thời kỳ mới là: tập trung sức đẩy mạnh kháng chiến đánh bại thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ, giành độc lập và thống nhất Tổ quốc, góp phần bảo vệ hòa bình thế giới. Để hoàn thành nhiệm vụ đó, Đảng phải đề ra và thực hiện những chính sách và biện pháp nhằm hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo sự nghiệp cách mạng nước ta, Đảng Cộng sản Đông Dương phải ra hoạt động công khai và tổ chức ở mỗi nước Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia, một đảng cách mạng để lãnh đạo cuộc kháng chiến từng nước đến thắng lợi hoàn toàn. Ở Việt Nam Bác đề nghị lấy tên Đảng Lao động Việt Nam - Đảng Lao động Việt Nam phải là một đảng to lớn, mạnh mẽ, chắc chắn, trong sạch, cách mạng triệt để. Tiếp đó, đồng chí Trường Chinh đọc báo cáo “Bàn về cách mạng Việt Nam”, trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm của hơn 20 năm lãnh đạo cách mạng nước ta, đồng thời tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của phong trào cách mạng thế giới. đồng chí đã trình bày trước đại hội toàn bộ đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám, phân tích đúng đắn tính chất xã hội, đối tượng cách mạng, động lực cách mạng, vai trò lãnh đạo cách mạng… Báo cáo cũng nêu rõ kẻ thù cụ thể trước mắt của cách mạng Việt Nam là thực dân Pháp và can thiệp Mỹ cùng bọn bù nhìn tay sai của chúng. Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam là tiêu diệt bọn đế quốc xâm lược, đánh đổ các thế lực phong kiến tay sai của đế quốc, giành độc lập dân tộc, thực hiện dân chủ nhân dân, làm cho người cày có ruộng, rồi tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa...

Trong báo cáo về cách mạng Việt Nam đồng chí Trường Chinh đã trình bày 12 chính sách của Đảng trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là: Đẩy mạnh kháng chiến đến toàn thắng; Tiêu diệt đế quốc xâm lược và bè lũ tay sai; Thi hành từng bước chính sách ruộng đất; tiến tới thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng, xóa bỏ các hình thức bóc lột phong kiến và nửa phong kiến; Xây dựng củng cố và phát triển chế độ dân chủ nhân dân về chính trị, kinh tế và văn hóa chuẩn bị tiến lên giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa; Củng cố mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc xâm lược; Xây dựng và phát triển quân đội nhân dân; Chính sách dân tộc, Chính sách tôn giáo; Chính sách đối với vùng bị địch chiếm; Chính sách đối với ngoại kiều; Chính sách đối ngoại: Ra sức ủng hộ cách mạng Lào và Cam-pu-chia; Góp phần vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, dân chủ và độc lập dân tộc của nhân dân thế giới.

Đồng chí Võ Nguyên Giáp đọc báo cáo quân sự, phân tích sâu sắc tình hình quân sự và âm mưu chiến lược cụ thể của địch quy mô phát triển chiến tranh xâm lược thực dân. Đồng thời nêu rõ tình hình của ta, sự trưởng thành vượt bậc của các lực lượng vũ trang nhân dân, phương châm chỉ đạo chiến lược, phương châm chỉ đạo tác chiến cùng chủ trương xây dựng quân đội…

Chúng tôi tâm đắc với bản báo cáo quân sự do đồng chí Võ Nguyên Giáp trình bày đã đúc kết những bài học kinh nghiệm bằng xương máu của quân đội ta trong 5 năm chiến đấu vừa qua, nhất là những kinh nghiệm của 2 chiến dịch lớn Biên Giới và Trung Du.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #31 vào lúc: 11 Tháng Tám, 2018, 10:12:35 pm »

Đại hội đã thảo luận sôi nổi, hào hứng trong 9 ngày và khẳng định: Cuộc kháng chiến của ta là cuộc chiến tranh nhân dân. Đặc điểm của nó là toàn dân, toàn diện và trường kỳ gian khổ nhưng cuối cùng nhất định thắng lợi. Cách mạng Việt Nam có nhiệm vụ phối hợp với cách mạng Lào và Miên nên phải tích cực giúp đỡ Miên - Lào phát triển du kích chiến tranh, xây dựng lực lượng, xây dựng căn cứ địa. để đưa kháng chiến đến thắng lợi phải nắm vững phương châm chiến lược của chiến tranh nhân dân là: Các mặt công tác chính trị, kinh tế, văn hóa đều nhằm mục đích làm cho quân sự thắng lợi. đồng thời đấu tranh quân sự phải phối hợp với đấu tranh chính trị, kinh tế… Phối hợp đánh trước mặt địch với đánh du kích và đánh sau lưng. Về phương châm tác chiến: lấy du kích chiến làm chính, vận động chiến làm phụ; nhưng phải đẩy mạnh hoạt động chiến tiến lên để vận động chiến trở thành chủ yếu. Mặt khác phải nắm vững nguyên tắc tiêu diệt chiến để bồi dưỡng lực lượng ta.

Bác Hồ phát biểu trước đại hội, Người nói:

- Lúc đầu kháng chiến, quân đội ta là quân đội thơ ấu. tinh thần dũng cảm có thừa, nhưng thiếu vũ khí, thiếu kinh nghiệm, thiếu cán bộ, thiếu mọi mặt... Quân đội địch là một đội quân nổi tiếng trong thế giới. Chúng có hải quân, lục quân, không quân. Chúng lại có đế quốc Anh - Mỹ giúp, nhất là Mỹ... lực lượng của ta và địch so le nhiều như thế, cho nên lúc đó, có người cho rằng cuộc kháng chiến của ta là “châu chấu đá voi”. Nhưng Đảng ta theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, chúng ta không chỉ nhìn vào hiện tại, mà nhìn vào tương lai, chúng ta tin chắc vào tinh thần và lực lượng của quần chúng, của dân tộc. Cho nên chúng ta quả quyết trả lời những người lưng chừng và bi quan kia rằng:

Nay tuy châu chấu đá voi
Nhưng mai voi sẽ bị lòi ruột ra

Sau Đại hội lần thứ II của Đảng, để đáp ứng đòi hỏi nhiệm vụ giai đoạn mới cần phải có một khối chủ lực mạnh trên chiến trường Bắc Bộ. Một trong những đại đoàn chủ lực đó là Đại đoàn 316, được thành lập ngày 1 tháng 5 năm 1951, tại làng Cốc Lùng, xã Bình Trung, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, với nòng cốt là Trung đoàn 174 trực thuộc Bộ, cùng Trung đoàn 98 của mặt trận Đông Bắc. Ít lâu sau, Trung đoàn 176 và một số đơn vị trực thuộc đưa quân số đại đoàn lên hơn 9.000 người hầu hết là con em của đồng bào Cao, Bắc, Lạng đã từng chiến đấu lập công cũng về đội hình đại đoàn. Lễ thành lập tổ chức gọn nhẹ, khẩn trương. Anh Lê Quảng Ba - Đại đoàn trưởng, tôi (Chu Huy Mân) - Phó chính ủy kiêm Bí thư Đảng ủy đại đoàn. cơ quan đại đoàn khi mới thành lập chỉ có một số ban và tổ. Ít lâu sau, Bộ điều động cán bộ của các quân khu Việt Bắc, Tây Bắc về kiện toàn cơ quan đại đoàn. Anh Nguyễn Kiệm làm Chủ nhiệm chính trị, anh Phạm Đức Hòa làm Tham mưu trưởng, anh Đan Thành làm Chủ nhiệm cung cấp.

Đến lúc này, Quân đội ta đã có những đại đoàn: 308, 304, 312, 320, 325, 351. Cùng với các đại đoàn khác, sự ra đời của Đại đoàn 316 đánh dấu một bước trưởng thành, lớn mạnh, vững chắc của quân đội ta, đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển của cuộc kháng chiến.

Đảng ủy đại đoàn khi mới thành lập cũng có: tôi (Chu Huy Mân) - Bí thư Đảng ủy, anh Lê Quảng Ba, anh Trần Huy, anh Lê Quang Ấn(1), anh Hà Nhân Nghĩa(2). Cuối tháng 5 năm 1951, Đảng ủy đại đoàn 316 họp phiên đầu tiên, quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II, đồng thời đánh giá một cách toàn diện tình hình của đại đoàn, qua đó ra nghị quyết xây dựng đại đoàn đáp ứng nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Chúng tôi xác định Trung đoàn 174 là đơn vị chủ công của đại đoàn. Trung đoàn này phải đánh được những vị trí kiên cố cỡ đại đội của địch, Đồng thời tiêu diệt từng tiểu đoàn địch khi đánh vận động ở địa hình rừng núi và đồng bằng. Trung đoàn 98, đánh tốt quân địch trong công sự vững chắc cỡ đại đội, đánh vận động diệt từng đại đội đến tiểu đoàn địch ở địa hình rừng núi và đồng bằng. Đại đoàn tập trung xây dựng Trung đoàn 176 có thể đảm nhiệm được các nhiệm vụ chiến đấu độc lập với quy mô từng đại đội, tiểu đoàn tiến lên đánh tập trung lớn. Đối với các đơn vị binh chủng kỹ thuật, chúng tôi đặt ra chỉ tiêu yêu cầu huấn luyện là có thể đánh hiệp đồng với bộ binh trong đội hình đại đoàn và trung đoàn. Các cơ quan tham mưu, chính trị, cung cấp đại đoàn và trung đoàn tổ chức kiện toàn nhanh chóng, xây dựng chức trách, chế độ, nền nếp công tác, trình độ nghiệp vụ, chuyên môn đáp ứng yêu cầu tác chiến đánh tập trung. Để đại đoàn vươn tới một sự biến đổi về chất như vậy, lãnh đạo chỉ huy phải giải quyết nhiều vấn đề cả về tổ chức và tư tưởng, cả về chiến hoặc và kỹ thuật cũng như công tác cung cấp.

Tôi và anh Lê Quảng Ba phân công nhau cùng cơ quan lần lượt xuống từng trung đoàn, tiểu đoàn trực thuộc để kiểm tra xem xét tình hình cụ thể. Thực tiễn đã cho chúng tôi một cái nhìn mới. Ví như có những vấn đề mới xem tưởng như đơn giản, nhưng nghiên cứu kỹ nó lại bao hàm những nội dung rất cơ bản. Ngược lại, có những việc khó khăn phức tạp, nhưng bình tĩnh khôn khéo vận động quần chúng, phát huy trí tuệ tập thể tìm cách giải quyết thì mọi việc xem ra lại đơn giản, nhẹ nhàng. Hàng loạt công việc dồn dập, đòi hỏi những người lãnh đạo, chỉ huy chúng tôi phải xác định được những vấn đề then chốt, có ý nghĩa quyết định cho việc xây dựng đơn vị.


(1) Anh Lê Quang Ấn – Chính ủy Trung đoàn 98 hy sinh tháng 4-1952 trong cuộc chống càn ở Bắc Ninh.
(2) Anh Hà Nhân Nghĩa – Chính ủy Trung đoàn 176 hy sinh tháng 12 năm 1952 trong chiến dịch Tây Bắc.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #32 vào lúc: 11 Tháng Tám, 2018, 10:13:33 pm »

Trước hết chúng tôi tập trung củng cố hệ thống tổ chức đảng trong đại đoàn, đầu tiên là chi bộ và giải quyết vấn đề sắp xếp cán bộ, đồng thời gấp rút tổ chức việc huấn luyện quân sự, chính trị cho bộ đội theo phương hướng đánh tập trung có hiệp đồng binh chủng. qua huấn luyện mà rèn luyện kỹ thuật và tác phong chiến đấu cho bộ đội.

Sau thất bại nặng nề tại biên giới, thực dân Pháp thấy rõ không thể của mình theo đuổi cuộc chiến tranh ở Đông Dương. Mặc dù giữa Pháp và Mỹ có mâu thuẫn nhưng Pháp vẫn buộc phải câu kết với Mỹ để tiếp tục cuộc chiến tranh. về phía Mỹ, cũng muốn chiếm Đông Dương làm thuộc địa kiểu mới và phòng tuyến chống cộng, ngăn chặn phong trào giải phóng dân tộc ở Đông Nam Á. vì thế, một mặt Mỹ giúp Pháp, mặt khác tìm cách hất cẳng Pháp, độc chiếm Đông Dương. Được Mỹ giúp sức, Pháp chủ trương thực hiện chính sách “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”. Chúng tập trung lực lượng phòng ngự và bình định đồng bằng Bắc Bộ, hòng đầy lực lượng cách mạng ra khỏi khu vực đông người nhiều của nhất Đông Dương này, đồng thời tạo điều kiện phản công giành lại quyền chủ động đã mất trên chiến trường.

Trung tuần tháng 12 năm 1950, chính phủ Pa-ri cử viên tướng già năm sao Đờ Lát đờ Tát-xi-nhi sang Việt Nam làm tổng chỉ huy kiêm cao ủy Pháp ở Đông Dương để điều hành chiến tranh với hy vọng làm thay đổi cục diện chiến trường.

Việc làm đầu tiên của Đờ Lát là tập trung quân tinh nhuệ thành lập các binh đoàn cơ động mạnh và một số tiểu đoàn dù để đối phó với chủ lực ta, đồng thời ông ta cho xây dựng phòng tuyến boong-ke, thiết lập “vành đai trắng” bao quanh trung du và đồng bằng Bắc Bộ để ngăn chặn nhân lực và vật lực tiếp tế của ta, không cho ta có khả năng tổ chức đánh lớn. Đờ Lát còn tiến hành “chiến tranh tổng lực”, bình định vùng đã chiếm và đánh phá vùng du kích, huy động sức người, sức của; lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, chuẩn bị phản công kết hợp đánh phá hậu phương của ta bằng biệt kích, gián điệp, không quân, chiến tranh tâm lý, bao vây và phá hoại kinh tế. Đặc biệt Đờ Lát rất chú trọng xây dựng các binh đoàn cơ động, gọi tắt là GM. Chỉ trong vòng tháng 12 năm 1950, Đờ Lát đã xây dựng năm binh đoàn, kể cả hai binh đoàn trước đó, ông ta đã có trong tay 7 tỉnh đoàn cơ động.

Tại các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, địch ra sức củng cố hành lang phòng thủ chạy dài từ Lục Nam theo đường số 13 qua thị xã Bắc Giang nối liền với dòng sông Cầu sang Tiên Du, Phù Lỗ. Địch còn cho quân triệt phá các làng mạc, lập thành “vành đai trắng” với chiều rộng từ 5 đến 10km, buộc nhân dân phải vào sống trong vùng kiểm soát của chúng. Mặt khác địch còn ra sức bắt lính để bổ sung quân số, chấn chỉnh các tổ chức quân để đàn áp nhân dân.

Đứng trước những hoạt động ráo riết của địch, cuối tháng 8 năm 1951, Bộ Tổng tư lệnh điều Đại đoàn 316 từ Thoát Lãng, Văn Uyên, Lộc Bình (Lạng Sơn) về đứng chân ở Hữu Lũng, Phồng, Kép (Bắc Giang). Đây là cuộc chuyển quân lớn đầu tiên của đại đoàn về hướng đồng bằng. Chúng tôi chỉ đạo cho các trung đoàn làm tốt công tác tư tưởng, nhất là đối với anh em người dân tộc lần đầu xa quê hương.

Đến thăm và kiểm tra Trung đoàn 98, với tấm bản đồ Việt Nam còn dày đặc ký hiệu đồn bốt giặc, tôi giới thiệu tình hình nhiệm vụ của đại đoàn, qua đó giáo dục nâng cao trách nhiệm của cán bộ chiến sĩ với Tổ quốc, với nhân dân, gắn tình yêu quê hương với tình yêu đất nước.

Ngày 10 tháng 9 năm 1951, chúng tôi sử dụng Trung đoàn 98 được tăng cường Tiểu đoàn 251 (Trung đoàn 174) có nhiệm vụ đi trước phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương đánh địch, phá kế hoạch củng cố vành đai trắng của địch ở Thái Đào, Thạch Rã, cầu Lồ, Dĩnh Kế.

Ngày 8 tháng 10 năm 1951, tôi và anh Lê Quảng Ba thống nhất lệnh cho Trung đoàn 98 dùng 2 đại đội của Tiểu đoàn 251 đánh 2 tháp canh Quất Lâm và Đại Giáp do lực lượng Âu - Phi chiếm giữ. Hai tháp canh này tuy là mục tiêu nhỏ, nhưng địch xây bằng xi măng cốt thép vững chắc, nằm ngay trên mặt đường quốc lộ, giữa đồng chiêm ngập nước, lại được bảo vệ bằng nhiều lớp rào kẽm gai và mìn. Nếu đánh thắng hai tháp canh này tức là ta đánh vào chỗ dựa chính của lực lượng địch chiếm đóng trên tuyến đường 13, mở một cửa ngõ vào vùng sau lưng địch.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #33 vào lúc: 11 Tháng Tám, 2018, 10:14:03 pm »

Ý nghĩa trận đánh quan trọng là vậy, nhưng khi thực hành bộ đội ta không nắm hết những đặc điểm trên, lại không được huấn luyện cách đánh tháp canh địch, nên trận đánh không thành, một số cán bộ, chiến sĩ thương vong.

Ngay sau trận đánh, chúng tôi chỉ thị cho Trung đoàn 98 đưa Tiểu đoàn 215 về phía sau tổ chức rút kinh nghiệm, nghiên cứu học tập lại cách đánh. Tiểu đoàn đã xây dựng một tháp canh bằng gỗ đất trên địa hình gần giống như tháp canh của địch. Bộ đội khẩn trương luyện tập ngày đêm. Sau mỗi buổi tập anh em lại liên hệ rút kinh nghiệm bổ sung cho lần tập sau.

Sau khi nghe chỉ huy Trung đoàn 98 báo cáo tiểu đoàn 215 đã hoàn thành phương án tác chiến, bộ đội luyện tập thành thục, tôi bàn với anh Lê Quảng Ba cho tiểu đoàn 215 đánh lại vị trí Quất Lâm. Trận đánh diễn ra chưa đầy 20 phút, toàn bộ lực lượng Âu - Phi bị tiêu diệt. Tiểu đoàn 215 còn phá sập cầu sắt Quất Lâm cắt đứt đường số 13. Sau đó anh em rút về căn cứ an toàn, không một ai bị thương vong.

Trận Quất Lâm diễn ra trong thời gian ngắn, lực lượng địch bị tiêu diệt không nhiều, nhưng đã làm rung chuyển quân địch trên toàn tuyến phòng thủ được cho là bất khả xâm phạm. Lãnh đạo chỉ huy đại đoàn chúng tôi có thêm kinh nghiệm trong công tác tổ chức chỉ huy đánh địch có công sự vững chắc.

Những ngày tiếp sau, Trung đoàn 98 và Tiểu đoàn 215 đã phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang đánh tan nhiều cuộc càn quét của địch; đồng thời giúp địa phương khôi phục lại phong trào kháng chiến, bộ quân địch phải co lại cho các vị trí phòng thủ của chúng.

Sau gần một năm ra sức củng cố thế phòng ngự, tiến hành bình định và tăng cường lực lượng, cuối năm 1951, Tát-xi-nhi đã có trong tay gần 130 nghìn lính Âu - Phi tổ chức thành 88 tiểu đoàn, 210 nghìn lính bản xứ tổ chức thành 72 tiểu đoàn, trong đó có 27 tiểu đoàn nằm trong biên chế quân viễn chinh Pháp và 45 tiểu đoàn trong quân đội chính quyền tay sai. Đờ Lát tổ chức 7 binh đoàn cơ động và 9 tiểu đoàn dù, tăng quân số cơ động từ 6% lên 18% so với toàn bộ binh lực của Pháp ở Đông Dương. Hỏa lực và phương tiện cơ động của quân đội Pháp cũng được tăng đáng kể, gồm 18 tiểu đoàn pháo binh 105 ly và 155 ly, 7 chi đoàn thiết giáp, 7 tiểu đoàn công binh, 5 tiểu đoàn xe vận tải. Với viện trợ được Mỹ tăng cường và lực lượng được xây dựng mạnh hơn trước, đặc biệt là quân cơ động, những người chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương cho rằng đã đến lúc họ phải giành lại quyền chủ động chiến lược. Mục tiêu tiến công của quân Pháp trước hết là Chợ Bến, tiếp sau là Hòa Bình. Việc quân Pháp mở cuộc tiến công Hòa Bình không nằm ngoài dự kiến của Bác Hồ và Trung ương Đảng ta. Đây là cơ hội rất tốt để ta có điều kiện tiêu diệt nhiều sinh lực địch, Vì địch đánh vào Hòa Bình là tiến sâu vào vùng tự do của ta đến 60-70km.

Ngày 9 tháng 11 năm 1951, quân Pháp đánh chiếm Chợ Bến. Năm ngày sau (14-11-1951), chúng mở tiếp cuộc hành quân đánh chiếm thị xã Hòa Bình. Mở đầu, chúng cho 3 tiểu đoàn dù nhảy xuống thị xã Hòa Bình. Lực lượng quân địch huy động cho hai cuộc hành quân này là 5 binh đoàn cơ động chiến lược và một số tiểu đoàn độc lập gồm 20 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn dù, nhiều đơn vị pháo binh, xe tăng, thiết giáp, tàu chiến.

Ngày 24 tháng 11 năm 1951, Trung ương Đảng ra chỉ thị về nhiệm vụ phá tan cuộc tiến công Hòa Bình của địch. Trung ương đã phân tích những đặc điểm của thời cơ mới và nhấn mạnh: Địch phải phân tán các đội ứng chiến của chúng trên một mặt trận rộng lớn, rừng núi hiểm trở, công sự chưa kịp xây dựng, chưa kịp củng cố. Đó là cơ hội tốt để ta đánh địch. Địch dùng phần lớn lực lượng Âu – Phi tinh nhuệ của chúng đánh ra Hòa Bình, một địa bàn rừng núi rộng lớn, hiểm trở khiến cho binh lực của chúng ở đồng bằng Bắc Bộ bị dàn mỏng, thế của chúng càng sơ hở. Đây là cơ hội hiếm có để ta tiêu diệt sinh lực địch cả trên chiến trường, phía trước và vùng địch hậu. Mọi nỗ lực của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta lúc này tập trung vào nhiệm vụ đánh bại cuộc hành binh của địch chiếm đóng Hòa Bình. Trong thư Bác Hồ gửi cho các lực lượng vũ trang. Người chỉ rõ:

“Trước khi ta phải lừa địch ra mà đánh. Ngay địch tự ra cho ta đánh, đó là một cơ hội rất tốt cho ta.

Muốn thắng, thì ta phải tích cực, tự động bí mật, mau chóng kiên quyết, dẻo dai. Chắc thắng mới đánh.

Nhưng tuyệt đối chớ chủ quan, khinh địch.

Bộ đội chủ lực đánh, bộ đội địa phương, dân quân du kích cũng đánh, các lực lượng phải phối hợp với nhau chặt chẽ. Để tiêu diệt sinh lực địch, để đánh tan kế hoạch Thu Đông của chúng”.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #34 vào lúc: 11 Tháng Tám, 2018, 10:14:59 pm »

Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và Bác Hồ, Tổng Quân ủy quyết đồng thời đánh địch trên cả hai mặt trận. Sử dụng các đại đoàn 308, 304 vây hãm tiêu diệt quân địch trên mặt trận đường số 6 – Hòa Bình. Các đại đoàn 316, 320 mở mặt trận ở vùng sau lưng địch nhằm mở rộng vùng du kích và căn cứ du kích phối hợp với chiến trường Hoà Bình. Ở phía bắc gồm các tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang và Vĩnh Phúc là Đại đoàn 316. Ở phía nam gồm các tỉnh Hà Nam, Ninh Bình, Thái Bình là Đại đoàn 320.

Đầu tháng 12 năm 1951, Bộ tổng tư lệnh giao nhiệm vụ cho Đại đoàn 316 được tăng cường Trung đoàn 246, tiến về Bắc Ninh, Bắc Giang và Vĩnh Phúc. Chúng tôi sử dụng Trung đoàn 98 tiến vào Bắc Ninh đứng chân ở khu du kích của ba huyện Tiên Du, Quế Dương và Võ Giàng. Trung đoàn 174 tăng cường 1 tiểu đoàn phòng không và 1 tiểu đoàn sơn pháo tiến sang Vĩnh Phúc. Trung đoàn 176 hoạt động ở huyện Lạng Giang và Lục Ngạn làm nhiệm vụ bảo vệ đường liên lạc giữa vùng tự do và vùng tạm chiếm qua tuyến đường 13.

Sở chỉ huy cơ bản của đại đoàn đặt tại Bắc Giang do anh Lê Quảng Ba chỉ huy. Tôi được phân công đi cùng 2 trung đoàn 174 và 98 vào vùng sau lưng địch thuộc hai tỉnh Bắc Ninh và Vĩnh Phúc. Hai tỉnh này có nguồn nhân lực, vật lực dồi dào. Vì vậy, từ lâu ở đây đã diễn ra những cuộc chiến đấu hết sức quyết liệt giữa ta và địch. Nhiều khu du kích nổi tiếng, nhiều làng chiến đấu vẫn hiên ngang trước mũi súng quân thù đã xuất hiện.

Đây là lần đầu tiên đại đoàn ra quân với một lực lượng lớn, từ rừng núi xuống trung du, đồng bằng, vừa đánh địch vừa làm công tác tuyên truyền vận động nhân dân mở rộng vùng du kích, căn cứ du kích, phát triển thực lực kháng chiến.

Đêm 5 rạng 6 tháng 12 năm 1951, Tiểu đoàn 249 Trung đoàn 174 do anh Nguyễn Hữu An làm tiểu đoàn trưởng nổ súng tiêu diệt đồn La-ri-vê trên phòng tuyến boong-ke thuộc huyện Đa Phúc, mở đầu cho đợt hoạt động của đại đoàn. Trận đánh bắt đầu từ 23 giờ 45 phút, đến 3 giờ 50 phút, quân ta hoàn toàn làm chủ trận địa.

Chiến thắng La-ri-vê có ý nghĩa hết sức quan trọng, chặt đứt một mắt xích quan trọng trong hệ thống boong-ke phòng thủ của địch, cổ vũ tinh thần chiến đấu cho cán bộ chiến sĩ trong đại đoàn.

Trên hướng Bắc Ninh, Trung đoàn 98 vượt sông Cầu, sông Đuống vào đứng chân ở Chi Lăng, Hưng Đạo (Bắc Ninh), sau đó tiến về thôn Tưởng Xá làm công tác chuẩn bị tiêu diệt đồn Thứa. Đồn Thứa được địch xây dựng và củng cố nhiều lần nên khá vững chắc, lực lượng ở đây có 1 đại đội quân ngụy và 1 trung đội bảo an do một viên quan ba người Pháp chỉ huy. Đêm 10 tháng 12 năm 1951, Tiểu đoàn 215 do anh Nguyễn Đức Y là tiểu đoàn trưởng chỉ huy được lệnh nổ súng tiến công. Trận đánh diễn ra trong một thời gian ngắn, quân địch bị tiêu diệt và bị bắt làm tù binh, trong số tù binh có một quan ba người Pháp, ta thu được nhiều chiến lợi phẩm.

Chiến thắng đồn Thứa càng tăng thêm niềm tin cho cán bộ chiến sĩ đại đoàn và làm nức lòng nhân dân quanh vùng.

Đồn Thứa, một vị trí gần Hà Nội bị mất đã tác động mạnh đến tinh thần những người chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương, buộc địch phải đưa một bộ phận lực lượng ở phân khu Sông Đà về đối phó với ta ở mặt trận Bắc Ninh. Như vậy, ta đã đạt được mục đích của chiến dịch, căng địch ra mà đánh.

Theo kế hoạch đã định, Trung đoàn 98 sau khi tiêu diệt đồn Thứa triển khai lực lượng chặn đánh quân địch càn quét.

Có lực lượng tăng cường, ngày 13 tháng 12 năm 1951, địch mở cuộc càn quy mô lớn có máy bay, xe tăng và pháo binh chi viện từ Cẩm Giàng theo đường 20 đánh vào Cỗ Lãm, Lĩnh Mai thuộc huyện Gia Lương với ý đồ chiếm lại Thứa.

Trung đoàn 98 phối hợp với dân quân, du kích địa phương chiến đấu quyết liệt, diệt nhiều tên, bắn cháy 1 xe tăng địch. Trong những ngày tiếp theo, Trung đoàn 98 tiếp tục chặn đánh các cánh quân địch càn vào vùng Đoàn, Ngụ Triệu, Lĩnh Mai diệt trên 300 tên. Tiểu đoàn 938 phục kích trên đường 18 diệt 1 trung đội Âu – Phi. Đêm 19 tháng 12 năm 1951, Tiểu đoàn 439 được lệnh tiến sang Thuận Thành tiêu diệt bốt Dâu, uy hiếp địch ở cầu Đuống và Gia Lâm.

Trận đánh bốt Dâu, Tiểu đoàn 439 thắng lớn, diệt và bắt 59 tên, thu hơn 100 súng (có 2 cối 81 ly, 2 cối 60 ly), nhiều máy thông tin.

Bốt Dâu bị diệt, thấy cuộc càn quét không đạt kết quả như mong muốn lại bị uy hiếp ở tuyến sau, địch phải kết thúc cuộc hành quân.

Sau một tháng chiến đấu, Trung đoàn 98 đã cùng lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương giải phóng 3 huyện Gia Bình, Lương Tài, Thuận Thành tạo thành thế liên hoàn vững chắc. Phong trào chiến tranh du kích của địa phương phát triển mạnh, cơ sở kháng chiến được củng cố tạo điều kiện để Đại đoàn 316 bước vào đợt 2 của chiến dịch.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #35 vào lúc: 11 Tháng Tám, 2018, 10:15:50 pm »

Cũng trên chiến trường sau lưng địch, phối hợp với Đại đoàn 316, ở vùng đồng bằng Liên khu 3, Đại đoàn 320 mở hướng tiến công chủ yếu vào vùng tạm bị chiếm có đông đồng bào theo đạo Thiên chúa thuộc các tỉnh Ninh Bình, Nam Định. Đêm 9 tháng 12, các đơn vị của Đại đoàn 320 tập kích thị trấn Phát Diệm, diệt và bắt nhiều lính Âu – Phi và lính ngụy. Đại đoàn còn tiêu diệt nhiều vị trí địch ở Nam Định, Phủ Lý. Tiếp đó, một số đơn vị của đại đoàn vượt sông Hồng chiến đấu ở Thái Bình. Chỉ trong một thời gian ngắn, Đại đoàn 320 đã tiêu diệt hơn chục vị trí lớn, giải phóng hoàn toàn các huyện Tiền Hải, Thái Ninh và hầu hết huyện Kiến Xương. Đặc biệt, đại đoàn diệt vị trí Đào Thành, mở cống thoát nước vào hơn 3 vạn mẫu ruộng khô nẻ vùng căn cứ du kích Tiên – Duyên – Hưng. Cuộc tiến công của Đại đoàn 320 vào sâu trong vùng địch tạm bị chiếm, tiêu diệt hàng loạt vị trí then chốt của địch, làm rung chuyển hệ thống chiếm đóng của chúng, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động của lực lượng vũ trang địa phương và cuộc đấu tranh của nhân dân vùng sau lưng địch phát triển.

Thắng lợi to lớn của ta ở mặt trận vùng sau lưng địch đã làm thay đổi thế trận chiến tranh nhân dân ở đồng bằng Bắc Bộ, có ý nghĩa quan trọng với thắng lợi của toàn bộ chiến dịch Hòa Bình.

Ngày 23 tháng 2 năm 1952, quân địch rút chạy khỏi Hòa Bình. Chiến dịch Hòa Bình kết thúc, ta đã tiêu diệt 22 nghìn tên địch. Đây là số địch bị tiêu diệt cao nhất từ trước đến thời điểm đó trong một chiến dịch. Riêng ở mặt trận sau lưng địch ta đã diệt 15 nghìn tên, tiêu diệt, bức hàng, bức rút hơn 1.000 đồn bốt, tháp canh, chiếm hai phần ba tổng số đồn bốt của địch. Các căn cứ du kích của ta được mở rộng và nối liền nhau thành thế liên hoàn từ Bắc Giang xuống Bắc Ninh, tới sát đường số 5 qua Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Hà Nam, Hà Đông với 2 triệu dân được giải phóng.

Ngày 15 tháng 12 năm 1951, Trung đoàn 174 được tăng cường 1 đại đội sơn pháo 75 ly nhận lệnh hành quân gấp về Bắc Ninh. Như vậy ở Bắc Ninh có 2 trung đoàn của Đại đoàn 316 cùng hoạt động. Sở chỉ huy tiền phương của đại đoàn do tôi trực tiếp chỉ huy. Sở chỉ huy cơ bản do anh Lê Quảng Ba chỉ huy, ở tuyến ngoài vùng tự do Bắc Giang, lực lượng còn lại có Trung đoàn 176 và các đơn vị còn lại đề phòng địch đánh lên Lạng Sơn và giải quyết những công việc phía sau của đại đoàn.

Vào đến địa bàn tỉnh Bắc Ninh, chỉ huy đại đoàn chỉ thị cho Trung đoàn 174 tổ chức đánh 2 vị trí Cầu Ngà và Phố Mới. Ngày 22 tháng 12, đúng thành ngày lập Quân đội nhân dân Việt Nam, trung đoàn 174 sử dụng Đại đội 671 của Tiểu đoàn 215 tiến công Cầu Ngà. Trận đánh diễn ra thuận lợi, bộ đội ta nhanh chóng làm chủ trận địa. Ở Phố Mới, Tiểu đoàn 255 gặp khó khăn do địch chống trả quyết liệt. Nhiều lần đơn vị tổ chức tiến công đều không lên được. Ngày 30 tháng 12, Trung đoàn 174 tăng cường lực lượng tổ chức đánh lần hai vẫn không thành công. Trung đoàn 174 cho bộ đội lui quân tổ chức rút kinh nghiệm. Đảng ủy và cán bộ chỉ huy Trung đoàn 174 đã nghiêm khắc tự phê bình, nêu rõ nguyên nhân không hoàn thành nhiệm vụ trong trận đánh Phố Mới lần thứ nhất là do tư tưởng chủ quan, tự mãn sau trận La-ri-vê thắng lớn, đánh giá địch thấp, không dự kiến những tình huống khó khăn, phức tạp, sử dụng lực lượng phân tán, nên có bộ phận vào được đồn đã không còn đủ sức phát triển chiến đấu. Trận đánh Phố Mới lần thứ hai, đơn vị lại quá nôn nóng, không nắm chắc tình hình địch khi chúng đã thay đổi. Tổ chức chiến đấu không chặt chẽ, bộ đội bị lạc trong khi hành quân chiến đấu, không có kế hoạch kìm chế hỏa lực địch ở các đồn xung quanh nên bộ đội bị pháo địch bắn chặn không triển khai được đội hình. Thông tin liên lạc bị đứt, không hiệp đồng giữa hỏa lực và xung lực. Trận đánh Phố Mới không thành là bài học xương máu không chỉ của Trung đoàn 174 mà còn là bài học chung cho cả đại đoàn sau này.

Đầu năm 1952, chúng tôi đưa các trung đoàn 174 và 98 xuống hoạt động ở nam Bắc Ninh. Lần này chúng tôi chỉ đạo hai trung đoàn tổ chức những trận đánh phục kích trên đường 20 ở Vân Trai, diệt gọn 1 trung đội địch; bao vây bức hàng đồn bảo an Đạm Trai; giải tán tổ chức tề ở Cường Tráng. Đặc biệt trong đêm 15 tháng 1, Tiểu đoàn 439 (Trung đoàn 98) tiêu diệt đồn Kênh Vàng, diệt 25 tên, bắt 45 tên, thu toàn bộ vũ khí. Sáng ngày 16 tháng 1, các đồn bảo an ở khu vực Đan Tràng bỏ chạy. Chỉ trong một đêm ta đã nhổ 5 vị trí địch, mở rộng vùng giải phóng Gia Lương đến bờ sông Thái Bình.

Đêm 23 tháng 1 năm 1952, chúng tôi chỉ thị cho Trung đoàn 174 đưa 2 tiểu đoàn vượt sông Thái Bình phối hợp với bộ đội địa phương chiến đấu tiêu diệt 2 vị trí địch ở An Dật và Vạn Tải, bắt sống toàn bộ bọn ngụy quyền đang họp trong bốt. Bộ đội địa phương ao vây bức hàng các tháp canh, giải phóng các xã xung quanh An Dật. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, bộ đội ta vượt sông trở lại Bắc Ninh ngay trong đêm.

Thực hiện chỉ thị của Bộ, tiếp tục đẩy mạnh hoạt động trong vùng sau lưng địch, ngày 2 Tết Nhâm Thìn, chúng tôi ra lệnh cho Trung đoàn 98 và Trung đoàn 174 cùng đánh địch ở khu vực Thiên Thai. Trung đoàn 98 vây địch ở ven sông Đuống. Trung đoàn 174 triển khai ở phía đông đường 38. Địch ở Thiên Thai bị vây hãm và uy hiếp mạnh, sau một tuần chúng phải xin quân cứu viện. Ngày 7 tháng 2 năm 1952, địch dùng 100 xe cơ giới chở 3 tiểu đoàn từ cầu Đuống theo đường 38 đánh vào Nghi An, Cửu Cáp nhưng bị quân ta chặn đánh, chúng buộc phải co cụm về Trạm Trai, Lạc Thổ.

Sáng sớm hôm sau, địch tiếp tục mở cuộc tấn công mới. Các chiến sĩ Trung đoàn 98 và Trung đoàn 174 chiến đấu kiên cường bẻ gãy các đợt tiến công giải vây cho đồng bọn ở khu vực Thiên Thai của địch.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #36 vào lúc: 11 Tháng Tám, 2018, 10:16:37 pm »

Đầu tháng 2 năm 1952, Bộ Tổng tư lệnh chỉ thị cho Đại đoàn 316 đẩy mạnh đánh địch, mở rộng địa bàn hoạt động để phối hợp với mặt trận Hòa Bình. Chúng tôi tiếp tục động viên cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 174 và Trung đoàn 98 đánh địch ở Bắc Ninh; đồng thời mở hướng tiến công mới sang các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương. Trung đoàn 176 được lệnh bàn giao địa bàn huyện Yên Dũng tỉnh Bắc Giang cho lực lượng địa phương để tiến vào tỉnh tỉnh Vĩnh Phúc.

Trung tuần tháng 2 năm 1952, chúng tôi sử dụng Trung đoàn 98 đánh địch ở Tiên Du, Đồng Kỵ (Từ Sơn, Bắc Ninh), diệt và làm bị thương nhiều tên, giữ vững địa bàn quân ta đã chiếm được.

Tôi trực tiếp đi với Trung đoàn 174 vượt đường số 5 sang hoạt động ở Bình Giang. Mục tiêu đầu tiên chúng tôi chọn đánh là đồn Vân Độ. khu vực này địch chà đi xát lại nhiều lần, cơ sở cách mạng nhiều nơi bị phá vỡ, cán bộ bị sát hại, nhân dân hoang mang. Khi bộ đội ta về nhiều người chưa tin. Cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 174 đã kiên trì làm công tác tuyên truyền, vận động nhân dân. Đồng bào dần gần gũi, tin cậy và sẵn sàng giúp đỡ bộ đội chiến đấu.

Đêm 26 tháng 2 năm 1952, Trung đoàn 174 sử dụng Tiểu đoàn 249 tiến công đồn Văn Độ. Do chuẩn bị chu đáo, tổ chức chặt chẽ, chỉ sau 40 phút trên đấu ta đã làm chủ trận địa, diệt gọn 1 đại đội địch, thu toàn bộ vũ khí. Phát huy thắng lợi, bộ đội được nhân dân giúp đỡ đã tỏa đi bao vây, gọi hàng làm tan rã hàng loạt đồn bốt, tháp canh, giải phóng một vùng rộng lớn của huyện Bình Giang, Thanh Miện, trực tiếp uy hiếp địch ở Hải Dương, đường số 5. Hàng trăm thanh niên Bình Giang, Thanh Miện đã tình nguyện tòng quân, đứng trong đội ngũ đại đoàn.

Cũng vào thời điểm này (ngày 23 tháng 2 năm 1952), địch rút khỏi Hòa Bình.

Theo lệnh của Bộ, Đại đoàn 316 để lại Trung đoàn 98 tiếp tục chiến đấu ở Bắc Ninh, Trung đoàn 174 hành quân về Thuận Thành sau đó ra vùng tự do.

Trước khi sở chỉ huy tiền phương đại đoàn ra vung tự do, tôi cùng một số cán bộ cơ quan Đại đoàn xuống Trung đoàn 98 bàn việc tổ chức lực lượng chống càn. Tỉnh Bắc Ninh thành lập Ban chỉ đạo chống càn do đồng chí Bí thư tỉnh ủy làm Trưởng ban. Trung đoàn 98 cử anh Lê Quang Ấn - chính ủy tham gia ban chỉ đạo. Sau khi làm việc với ban chỉ đạo chống càn Bắc Ninh, thống nhất phương châm không đánh lớn, không đánh chính diện với địch, chủ yếu dùng lực lượng vừa phải tập kích bên sườn và phía sau đội hình quân địch, tiêu diệt các trận địa pháo, cơ quan chỉ huy, các bộ phận đi lẻ quân địch. Điều quan trọng là phải xây dựng hệ thống hầm hào, làng chiến đấu vững chắc, trong lúc địch chưa đánh cần tổ chức cho bộ đội cùng dân quân du kích tăng cường luyện tập nâng cao khả năng và sức chiến đấu dẻo dai để phối hợp với chủ lực khi ta đánh mạnh.

Cuối tháng 3 năm 1952, định mở cuộc càn lớn ở ba huyện Kiến Xương, Thái Ninh, Tiền Hải tỉnh Thái Bình. Để phối hợp chiến đấu với đơn vị bạn, đêm 2 tháng 4, Trung đoàn 98 tiến công đồn Lạc Thổ ở bờ nam sông Đuống. Đồn Lạc Thổ được xây dựng khá kiên cố, có thể khống chế một vùng rộng lớn từ núi Thiên Thai tới cánh đồng dọc theo đường 38, lực lượng địch có 2 đại đội. Trận đánh diễn ra thuận lợi, sau gần 1 giờ chiến đấu, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 215 (Trung đoàn 98) đã tiêu diệt và bắt toàn bộ quân địch, thu nhiều vũ khí trang bị và quân trang quân dụng. Trung đoàn 98 được Bác Hồ tặng lá cờ thêu bốn chữ vàng “Thành tích đáng khen”.

Lạc Thổ bị mất, thị trấn Gia Lâm và Hà Nội bị uy hiếp, Xa-lăng vội điều một binh đoàn cơ động từ Ninh Bình về Bắc Ninh để đối phó với ta. Lực lượng của địch ở khu vực Bắc Ninh lên tới 4 binh đoàn cơ động. Binh đoàn số 3 bố trí dọc đường 18 từ Phố Mới đến thị xã Bắc Ninh. Binh đoàn số 2 án ngữ đường 18 từ Vĩnh Kiều đến Lạc Thổ. Binh đoàn số 7 rải dọc theo đê phía nam sông Đuống. Binh Đoàn số 1 bố trí xung quanh khu vực Phả Lại. Từ ngày 13 đến ngày 22 tháng 4 năm 1952 địch mở trận càn Pô-lô, Poóc-tô, Tuyếc-cô vào nam và bắc phần Bắc Ninh.

Sau khi bố trí lại lực lượng, sáng ngày 18 tháng 4 địch cho hai tiểu đoàn đánh vào làng Thịnh Liên. Tiểu đoàn 938 Trung đoàn 98 cùng dân quân du kích đã chặn đánh quyết liệt quân địch. Ở Đại Vi, Tiểu đoàn 215 chiến đấu hết sức quả cảm diệt hàng chục tên địch, bắt 10 tù binh. Đến 17 giờ 30 phút, chỉ huy Trung đoàn 98 ra lệnh phản công trên toàn tuyến. Cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 98 chiến đấu dũng cảm đánh bật chúng ra khỏi làng Đại Vi, diệt hàng trăm tên định rồi bí mật trở về Quế Dương. Đêm 19 tháng 4, Trung đoàn 98 tiếp tục rút quân ra vùng Yên Dũng, bắc đường 18, nhưng do bị lộ, địch tập trung ngăn chặn. Trung đoàn phải quay lại địa bàn cũ tiếp tục chiến đấu đến ngày 23 tháng 4 năm 1952.

Cuộc chiến đấu của trung đoàn 98 cùng quân và dân Thuận Thành, Bắc Ninh chống lại lực lượng tập trung lớn của quân địch kéo dài gần 10 ngày. Quân và dân ta đã tiêu diệt trên 2.000 tên thuộc lực lượng tinh nhuệ của địch, có nhiều sĩ quan chỉ huy. Tuy vậy, do lực lượng ta có hạn, lực lượng quân địch lớn lại có máy bay, pháo binh, xe tăng yểm trợ nên đã gây cho Trung đoàn 98 rất nhiều khó khăn tổn thất, hơn 600 cán bộ, chiến sĩ đã anh dũng hy sinh, bị thương và mất tích, trong đó có anh Lê Quang Ấn - Chính ủy và anh Nguyễn Minh Đại - Tham mưu trưởng Trung đoàn đã chỉ huy bộ đội chiến đấu đến hơi thở cuối cùng.

Kinh nghiệm lớn nhất rút ra từ trận này là vào thời điểm lực lượng ta không ưu thế hơn địch, thì phương châm chống càn phân tán đến từ đại đội, kết hợp với lực lượng vũ trang địa phương và nhân dân làm chủ là chiến đấu, tiêu hao sinh lực địch và vận động nhỏ, tập kích từng trận rồi di chuyển đi nơi khác là đúng. Nhưng rất tiếc Trung đoàn 98 đã không thực hiện ý định, quyết tâm và kế hoạch tác chiến đã thống nhất trước mà lại tập trung lực lượng lên bắc phần Bắc Ninh nên tổn thất nặng do bị hỏa lực phi pháo của địch.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #37 vào lúc: 11 Tháng Tám, 2018, 10:17:47 pm »

*
*   *

Tháng 5 năm 1952, các đơn vị của Đại đoàn 316 về đứng chân tại địa bàn giữa hai tỉnh Bắc Giang và Thái Nguyên, để thực hiện chủ trương của Tổng Quân ủy, tất cả các đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, cơ quan, nhà nước từ Liên khu 5 trở ra bước vào chính huấn chính trị. Đây là cuộc vận động học tập chính trị tập trung lớn nhất của quân đội ta kể từ ngày thành lập. Tôi còn nhớ, cán bộ từ cấp đại đội trở lên học tài liệu: “Mấy vấn đề cách mạng Việt Nam”; cán bộ trung đội, tiểu đội và chiến sĩ học tập tài liệu: “Quân đội nhân dân Việt Nam” và “Kháng chiến trường kỳ gian khổ nhất định thắng lợi”. Phương châm và phương pháp chỉnh huấn là phát huy tự do tư tưởng, liên hệ lý luận với thực tế, liên hệ nhận thức mới với nhận thức cũ, thảo luận phân rõ đúng sai, thực hành phê bình và tự phê bình để phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm. những vấn đề ai là bạn? Ai là thù? Kháng chiến để làm gì? Vì sao kháng chiến phải lâu dài gian khổ nhưng nhất định thắng lợi? Trách nhiệm và đạo đức cán bộ, chiến sĩ quân đội nhân dân như thế nào?... là những vấn đề bộ đội tranh luận sôi nổi nhất.

Đối với những đơn vị thuộc đại đoàn tham gia chiến đấu ở vùng sau lưng địch, tư tưởng cán bộ, chiến sĩ có nhiều diễn biến, chủ yếu theo hai chiều hướng: Đối với những đơn vị chiến đấu thuận lợi, giành thắng lợi trong các trận đánh ở giai đoạn cuối chiến dịch thì tin tưởng phấn khởi, song còn đơn giản chưa có cơ sở vững chắc. Đối với đơn vị gặp khó khăn, tổn thất này sinh hiện tượng tiêu cực, cầu an, sợ địch, phê phán một chiều về chỉ đạo cách đánh, về tổ chức bảo đảm. Trước tình hình trên Đảng ủy Đại đoàn đã họp quán triệt nhiệm vụ xây dựng các đơn vị một cách cơ bản và toàn diện, nhất là đối với các đơn vị chủ lực cơ động là yêu cầu bức thiết trước mắt cũng như về lâu dài đối với đại đoàn. Vì vậy, việc lãnh đạo tư tưởng phải đặt thành một nhiệm vụ hết sức quan trọng nhằm rèn luyện cán bộ, chiến sĩ có một số tư tưởng chính trị vững chắc, nhận rõ bạn thù, nâng cao giác ngộ giai cấp, giác ngộ dân tộc, xây dựng lòng tin kháng chiến lâu dài gian khổ nhưng nhất định thắng lợi.

Đảng ủy Đại đoàn chủ trương tập trung lãnh đạo làm chuyển biến tình hình của đội công tác vững chắc, trước hết giải quyết bốn vấn đề cơ bản là: tăng cường sự lãnh đạo của Đảng tất cả các cấp, coi trọng công tác bồi dưỡng đội ngũ cán bộ; tổ chức huấn luyện quân sự, nâng cao trình độ chiến thuật, kỹ thuật, trình độ tổ chức chỉ huy chiến đấu hiệp đồng; chấn chỉnh tổ chức, biên chế, tăng cường trang bị vũ khí theo quy định của Bộ; chú trọng cải tiến công tác cung cấp, thực hiện các chế độ, tiêu chuẩn của bộ đội, cải thiện đời sống, nâng cao sức khỏe của bộ đội đáp ứng các yêu cầu tác chiến ngày càng cao của đại đoàn. Đảng ủy đặc biệt nhấn mạnh vấn đề củng cố Trung đoàn 98 để đơn vị sau một thời gian ngắn khôi phục sức mạnh chiến đấu với chất lượng cao, đủ sức mạnh hoàn thành tốt nhiệm vụ chiến đấu trong những chiến dịch mới

Cũng thời gian này, Bộ Tổng tư lệnh bổ nhiệm anh Vũ Lập làm Tham mưu trưởng Đại đoàn, anh Vũ Lăng được điều về làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 98. Biên chế tổ chức của đại đoàn ngoài 3 trung đoàn bộ binh, 1 tiểu đoàn phòng không, còn có thêm một số các tiểu đoàn và đại đội trực thuộc: pháo binh, công binh, thông tin, vận tải, trinh sát, vệ binh, bảo đảm hậu phương... Các trung đoàn, tiểu đoàn cũng được tổ chức thêm các đại đội, trung đội, tiểu đội trực thuộc với các thành phần như trên. Đặc biệt mỗi tiểu đoàn bộ binh còn tổ chức 1 đại đội mạnh gồm 4 trung đội được trang bị nhiều hỏa khí trợ chiến và bộc phá. Đại đội hỏa lực của tiểu đoàn được trang bị cối 81 ly, 82 ly, ĐKZ và đại liên. Các đại đội bộ binh có cối 60 ly. Các cơ quan đại đoàn, trung đoàn và tiểu đoàn cũng được tổ chức gọn, nhẹ, có chất lượng, tăng quân số cho đơn vị chiến đấu.

Công tác tổ chức biên chế được làm hết sức tích cực và khẩn trương. Trung tuần tháng 7 năm 1952, đại đoàn hoàn chỉnh về tổ chức và bước vào đợt huấn luyện quân sự theo chương trình và nội dung thống nhất. Chúng tôi đặc biệt chú trọng quá trình huấn luyện bộ đội phải kết hợp tốt những kinh nghiệm chiến đấu của đại đoàn và các đơn vị bạn được đúc kết biên soạn bổ sung vào giáo trình. Sau huấn luyện cơ bản các trung đoàn đều tổ chức diễn tập thực binh cấp tiểu đoàn, có sự tham gia hợp luyện của các đơn vị binh chủng và hỏa lực.

Bước sang năm 1952, Trung ương Đảng và Chính phủ đã cho thi hành chế độ cung cấp, chế độ quân trang, chế độ thuốc men cho bộ đội. Nhờ có điều lệ tạm thời về dân công được ban hành, sức người sức của hậu phương được huy động có tổ chức tránh lãng phí. Năm 1952 là năm đánh dấu bước ngoặt đối với việc xây dựng lực lượng vũ trang.

Qua 4 tháng củng cố, xây dựng và huấn luyện, các đơn vị thuộc đại đoàn đều trưởng thành, lớn mạnh, cùng các đơn vị bạn sẵn sàng lên đường tham gia chiến đấu.

Đầu tháng 9 năm 1952, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Tây Bắc, với mục đích tiêu diệt sinh lực địch, tranh thủ nhân dân, giải phóng một bộ phận đất đai vùng Tây Bắc. Tây Bắc được giải phóng, chúng ta sẽ mở rộng và củng cố được căn cứ địa Việt Bắc và tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng Lào. Lực lượng tham gia chiến dịch của các đại đoàn 316, 308, 312, 351 và Trung đoàn 148. Các đại đoàn 320 và 304 có nhiệm vụ đánh vùng sau lưng địch để phối hợp với chiến trường Tây Bắc.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #38 vào lúc: 11 Tháng Tám, 2018, 10:18:40 pm »

Từ ngày 6 đến ngày 9 tháng 9 năm 1952, Bộ Tổng tư lệnh tổ chức hội nghị giao nhiệm vụ cho các đơn vị. Chỉ huy từ trung đoàn trở lên, từ Liên khu 4 trở ra đều có mặt. Thời gian này trời mưa tầm tã. Vào ngày họp cuối cùng, Bác hai ống quần xắn cao, tay cầm gậy nhanh nhẹn bước vào. Chúng tôi được báo trước Bác sẽ tới, nhưng không ai nghĩ Người lại đến giữa lúc trời mưa to. Cả hội trường vỗ tay vang dội. Bác ra hiệu cho chúng tôi yên lặng. Bác nói:

- Hôm nay trời mưa to, suối nước lũ, khi đến một cái suối nước chảy mạnh, thấy bên kia có một số đồng bào đang ngồi đợi nước xuống để sang, Bác nghĩ: nếu không đi ngay, e các chú phải đợi mất thì giờ. Nên Bác cùng mấy chú nữa quyết tâm cởi quần áo, tay sào tay gậy lần sang được. Thấy Bác sang được, nhóm đồng bào kia cũng quyết tâm sang. Đó là kinh nghiệm cho các chú. Bất kỳ việc gì, to hay nhỏ, mình có quyết tâm thì làm được, mà còn lôi cuốn người khác cũng quyết tâm như mình.

Bác nói tiếp:

- Trung ương và Tổng Quân ủy đã cân nhắc kỹ chỗ dễ và chỗ khó của chiến trường trong thời gian tới và quyết tâm là chiến dịch này phải đánh cho thắng lợi. Quyết tâm đó từ Trung ương qua các chú đến từng chiến sĩ. Quyết tâm đó phải thành một khối thống nhất từ trên xuống và từ dưới lên trên. Quyết tâm phải thấm nhuần sâu sắc đến mọi người. Gặp thuận lợi thì phải quyết tâm phát triển, gặp khó khăn thì phải quyết tâm khắc phục. Gặp cái dễ mà không quyết tâm phát triển thì nó có thể biến thành cái khó, gặp cái khó mà quyết tâm khắc phục thì cũng thành dễ.

Bác bắt tay, thân mật hỏi chuyện từng đoàn. Khi đến Đại đoàn 316, Bác hỏi:

- Chú Mân, chiến dịch này quyết tâm của 316 là thế nào?

Tôi đứng nghiêm thưa với Bác:

- Thưa Bác, thay mặt cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn 316, cháu xin hứa trong chiến dịch này gặp thuận lợi quyết tâm phát triển, gặp khó khăn quyết tâm khắc phục.

Chúng tôi khẩn trương trở về đại đoàn, mang theo ý chí và quyết tâm của Bác qua câu chuyện vượt suối lũ của Người truyền cho tất cả cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn 316.

Theo kế hoạch của Bộ tư lệnh, từ đầu tháng 10 năm 1952, các đại đoàn 320 và 304 mở đợt tiến công mới vào vùng sau lưng địch tại Ninh Bình, Nam Định, nhằm tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, thu hút lực lượng cơ động đánh lạc hướng địch.

Ngày 12 tháng 9 năm 1952, Đại đoàn 316 hành quân về Tây Bắc.

Từ Na Lương, Bố Hạ, đại đoàn hành quân theo thứ tự: Trung đoàn 174, một bộ phận hỏa lực của Đại đoàn do anh Lê Quảng Ba chỉ huy hành quân qua đèo Khế, vượt sông Lô bằng đò sang Yên Bái, sau đó vượt tiếp sông Hồng tại Âu Lâu (Yên Bái) nhằm mục tiêu là Ba Khe. Trung đoàn 98 (thiếu Tiểu đoàn 938) do anh Vũ Lăng chỉ huy. Trung đoàn 176 (thiếu Tiểu đoàn 888) do anh Bắc Quân chỉ huy hành quân theo hướng Trung đoàn 174. Nhưng đến Phú Thọ thì Trung đoàn 98 hành quân theo hướng Yên Lập, vượt sông Thao tiến vào khu vực bản Mo. Trung đoàn 176 ở lại Phú Thọ sẵn sàng đánh địch bảo vệ hậu phương chiến dịch khi địch từ Trung Hà, Việt Trì đánh vào sau lưng quân ta. Sau khi vượt sông Lô đến Phú Thọ, anh Lê Quảng Ba bị sốt nặng, phải vào viện điều trị cho đến hết chiến dịch.

Cuộc hành quân của đại đoàn càng tiến sâu vào Tây Bắc, địa hình càng hiểm trở, nhiều vực sâu, dốc đá tai mèo, rừng rậm chằng chịt dây rừng. Bộ đội mang nặng vũ khí, đạn dược, lương thực. Vất vả hơn là anh em các đơn vị sơn pháo và súng cối phải tháo rời từng khẩu pháo, rồi thay nhau khiêng vác, nhích từng bước tiến vào khu vực tập kết. Ngày 12 tháng 12 năm 1952, các đơn vị của đại đoàn đã ở trong tư thế sẵn sàng nổ súng đánh địch.

Ngày 14 tháng 12, phối hợp với Trung đoàn 141 (Đại đoàn 312) tiên công địch ở Sài Lương, chúng tôi lệnh cho Trung đoàn 98 đánh vào Bản Trại (Phù Yên, Sơn La), Tiểu đoàn 255 (Trung đoàn 174) đánh địch ở Ca Vịnh, Tiểu đoàn 249 (Trung đoàn 174) bao vây Ba Khe. Ca Vịnh và Ba Khe là hai vị trí thuộc phân khu Nghĩa Lộ, án ngữ khu vực ngã ba đường từ Yên Bái đi Sơn La và Yên Bái vào Nghĩa Lộ. Lực lượng địch ở mỗi vị trí có khoảng 100 tên, có từ 3 đến 5 hàng rào dây kẽm gai xen kẽ là chông, mìn. 17 giờ 45 phút, Trung đoàn 174 mở màn chiến dịch bằng hai trận đánh tiêu diệt cứ điểm Ca Vịnh và Ba Khe. Trước sức tiến công của quân ta, quân địch ở Ca Vịnh và Ba Khe bỏ chạy. Trung đoàn 174 truy quét diệt 28 tên (có 3 sĩ quan Pháp), bắt 95 tên.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #39 vào lúc: 11 Tháng Tám, 2018, 10:19:14 pm »

Trên hướng Trung đoàn 98 ở Phù Yên, do Trung đoàn vừa trải qua tổn thất lớn ở Thuận Thành, Quế Võ vừa được củng cố nên trận đầu ra quân có ý nghĩa lớn đến tinh thần bộ đội. Nhưng vấn đề đặt ra là đánh Bản Trại – một đồn ngoại vi tiểu khu Phù Yên hay đánh Bản Mo – một căn cứ được xây dựng khá kiên cố trên một khu đất cao bằng phẳng, có tầm quan sát rộng, lực lượng có trên 200 lính chính quy, do một tên quan ba Pháp chỉ huy. Sau khi cân nhắc tình hình, chúng tôi quyết định đánh Bản Trại trước.

Ngày 14 tháng 10, Trung đoàn 98 sử dụng Tiểu đoàn 439 tiến công Bản Trại, diệt bắt gọn 1 trung đội địch, thu toàn bộ vũ khí. Trận đầu thắng lợi làm cho cán bộ chiến sĩ trung đoàn phấn khởi tự tin.

Sau khi Bản Trại bị diệt, tôi trao đổi với anh Vũ Lăng, phải đánh ngay Bản Mo với toàn bộ lực lượng của trung đoàn và tăng cường thêm 1 đại đội sơn pháo 75 ly của Bộ. Tôi và anh Vũ Lăng thống nhất sử dụng sơn pháo 75 ly, đưa vào gần khoảng 400 đến 500m ngắm bắn và trực tiếp chỉ huy Tiểu đoàn 215 trên hướng chủ yếu. Một giờ sáng ngày 18 tháng 10 năm 1952, Vũ Lăng ra lệnh cho pháo binh nổ súng. Lợi dụng pháo bắn trên các hướng, các đội bộc phá lần lượt phá những lớp rào kẽm gai và bãi mìn mở thông cửa cho bộ binh xung phong.

Tiểu đoàn 215 hiệp đồng chiến đấu tốt, yểm trợ nhau nhanh chóng chiếm lô cốt đầu cầu rồi thọc sâu, đập tan nhiều ổ đề kháng của đích, đánh chiếm sở chỉ huy.

Trận đánh kéo dài 55 phút. Trung đoàn 98 hoàn toàn làm chủ trận địa. Toàn bộ quân địch trong cứ điểm Bản Mo bị diệt và bị bắt làm tù binh, trong đó có tên quan bay chỉ huy tiểu khu và tên tri châu Phù Yên. Ta thu toàn bộ vũ khí, lương thực trong căn cứ. Số chiến lợi phẩm này có ý nghĩa trong lúc ta đang gặp khó khăn do công tác vận chuyển, tiếp tế.

Trận tiêu diệt cứ điểm Bản Mo đem lại niềm phấn khởi lớn trong đại đoàn.

Cùng thời gian này, trên các hướng của chiến dịch, các đại đoàn bạn cũng lập công lớn. Đại đoàn 308 tiêu diệt 1 đại đội địch ở Bản Tú (Nghĩa Lộ) và các vị trí địch ở Nghĩa Lộ Đồi, Nghĩa Lộ Phố, Cửa Nhì, bắt sống toàn bộ chỉ huy phân khu Nghĩa Lộ. Đại đoàn 312 tiêu diệt đồn Sài Lương, phục kích diệt quân tăng viện ở Nậm Mười, diệt địch ở Gia Hội, Tú Lệ, Cao Phạ, Ít Ong, Nậm Sơn và giải phóng Quỳnh Nhai (Lai Châu).

Chỉ sau 10 ngày chiến đấu, các đơn vị bộ đội chủ lực đã phối hợp cùng lực lượng vũ trang địa phương giải phóng một khu vực rộng lớn giữa sông Thao và sông Đà, từ Vạn Yên đến Quỳnh Nhai làm chủ đường 13 nối liền Yên Bái với Nghĩa Lộ. Quân ta diệt trên 500 tên, bắt sống hơn 1.000 tên, trong đó có 300 lính Âu – Phi, thu hàng nghìn súng các loại và nhiều quân trang quân dụng. Ta chủ động kết thúc đợt một chiến dịch.

Chiến dịch phát triển thuận lợi, khu giải phóng mở rộng nên việc tiếp tế không theo kịp đà phát triển của chiến dịch. Tuyến tiếp tế giữa rừng núi hiểm trở dài thêm hàng trăm ki-lô-mét. Bộ đội phải ăn cháo đánh giặc. Tôi và anh Vũ Lăng nhiều ngày cũng phải ăn cháo với hoa chuối rừng cùng bộ đội đuổi giặc. Chúng tôi phải sử dụng một lực lượng chiến đấu ra làm nhiệm vụ sửa đường, vận chuyển gạo, đạn để phục vụ cho đơn vị phía trước.

Cơ quan tham mưu đề nghị ngừng hoạt động quân sự, tập rung bộ đội đi vận chuyển gạo. Đường 13 được công binh tập trung sửa chữa để xe ô tô chở gạo từ Phú Thọ lên. Ta cũng sửa đường 14 từ Hồi Xuân lên Xồm Lồm để vận chuyển gạo từ Thanh Hóa ra và sửa đoạn đường số 6 từ suối Rút lên Mộc Hạ. Vì xe ô tô có hạn, dân công Thanh Hóa có sáng kiến dùng xe đạp thồ thay quang gánh đưa mức vận chuyển tăng gấp năm, gấp mười lần.

Trước thất bại nặng nề của tuyến tả ngạn sông Đà, địch rất hoang mang. Chúng vội vã tăng cường cho Tây Bắc 9 tiểu đoàn cùng với 7 tiểu đoàn còn lại, đưa tổng số quân ở Tây Bắc lên 16 tiểu đoàn và 12 đại đội, tập trung ở hai khu vực là Nà Sản và Lai Châu. Địch tập trung xây dựng Nà Sản thành một tập đoàn cứ điểm, lực lượng gồm 5 tiểu đoàn, được bố trí thành ba khu vực Hát Tiếu – Mường Lụm, Tạ Khoa, Bản Hoa. Khu vực thứ hai là Lai Châu, lực lượng gồm 4 tiểu đoàn, chiếm giữ thị xã Lai Châu, Phong Thổ, Pác Má và Điện Biên Phủ. Ngoài ra, địch còn bố trí ở Tuần Giáo, Mộc Châu, Thuận Châu, Quỳnh Nhai mỗi nơi 1 tiểu đoàn.

Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định đợt 2 sẽ mở hướng chính đánh vào khu vực Tạ Khoa, Ba Lay, Mộc Châu, phá vỡ khu vực phòng thủ chủ yếu của địch.

Giữa lúc ta chuẩn bị bước vào đợt hai chiến dịch thì ngày 5 tháng 11 năm 152, chúng tôi được tin địch sử dụng một lực lượng lớn đánh lên Phú Thọ, đe dọa hậu phương chiến dịch của ta. Ta đã dự kiến tình huống này nên bố trí tại đây Trung đoàn 176, một tiểu đoàn của Trung đoàn 246 cùng với bộ đội địa phương có nhiệm vụ chặn địch, bảo vệ hậu phương chiến dịch. Bộ tư lệnh chiến dịch cho rằng hành động thu hút lực lượng của ta về giảm nhẹ áp lực ở Tây Bắc của địch là sự đối phó bị động. Ta chỉ sử dụng Trung đoàn 36 (Đại đoàn 308) về tăng cường cho mặt trận Phú Thọ.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM