Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Ba, 2024, 06:19:12 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Thời sôi động  (Đọc 33908 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #160 vào lúc: 20 Tháng Mười, 2018, 09:29:40 am »

Ở Tây Nguyên, Sư đoàn 320 sau khi đánh bại cuộc phản kích của 27 tiểu đoàn bộ binh, pháo binh và thiết giáp của quân đoàn 2 địch liền chuyển sang tiến công. Ngày 8 tháng 3, Sư đoàn 320 tiêu diệt cứ điểm Lệ Ngọc – một điểm chốt quan trọng của tuyến bảo vệ vòng ngoài thị xã Plây Cu của địch. Tiếp theo, sư đoàn lại tiêu diệt các cứ điểm 711 và 631, tiêu diệt gọn tiểu đoàn quân biệt động 82 và một chi đoàn xe tăng, xe bọc thép, thu 2 pháo 155 ly và 1 súng cối 106,7 ly.

Ngày 30 tháng 5, Trung đoàn 25 tiêu diệt cụm cứ điểm Ia Súp ở Đắc Lắc, diệt gọn tiểu đoàn bảo an số 211. Vùng giải phóng tây nam Gia Lai và tây tây bắc Đắc Lắc được nối liền nhau. Đường hành lang chiến lược mở thông từ tây nam Gia Lai vào đến Quảng Đức.

Khi phát hiện con đường vu hồi chiến dịch của ta đang vươn dài và chọc thẳng xuống phía tây đèo Măng Giang, quân đoàn 2 ngụy liền cho tiểu đoàn 95 và 2 đại đội của tiểu đoàn quân biệt động biên phòng 62 nống ra cắm chốt ở Kon Rẫy. Để giữ tiến độ thi công và bảo vệ vững chắc con đường cơ động quan trọng này, ngày 16 tháng 3, Sư đoàn 10 (thiếu) nổ súng đánh vào cụm quân của 2 tiểu đoàn địch ở phía đông Kon Rốc. Ta vây đánh diệt một số lớn, bắt 250 tù binh.

Ngày 24 tháng 4, ta lại tiêu diệt tiểu đoàn bảo an số 270 ở trong căn cứ Kon rốc. Quân địch ở khu vực Kon Rẫy bị quét sạch. Con đường cơ động của ta tiếp tục vươn dài về hướng bắc đèo Măng Giang.

Tiếp tục phát triển tiến công quét sạch quân địch ở các cứ điểm trong khu vực căn cứ của ta, ngày 15 tháng 5, Trung đoàn 66 Sư đoàn 10 tiến công cụm cứ điểm Đắc Pét – cứ điểm cuối cùng của địch còn chốt lại trên đường 14 ở bắc Kon Tum. Tháng 9 năm 1974, Trung đoàn 28 tiến công tiêu diệt chi khu quân sự, quận lỵ Măng Đen và quận lỵ Măng Bút. Ở Kon Tum, địch còn chỉ giữ được vùng ven và thị xã Kon Tum.

Cùng thời gian này, Tổng tham mưu trưởng cử anh Lê Trọng Tấn – Phó tổng tham mưu và một số cán bộ vào Quân khu 5 kiểm tra tình hình, sau đó anh Tấn ở lại thay tôi làm tư lệnh Quân khu 5.

Bộ tư lệnh Quân khu và các cơ quan báo cáo với anh Tấn và các đồng chí trong đoàn: Hai năm nay, sau biện pháp chiến lược “tràn ngập lãnh thổ”, địch tung hầu hết lực lượng ra lấn chiếm vùng giải phóng của ta, chúng đã bị tiêu hao mệt mỏi, thế chiến trường đã có lợi cho ta. Từ đường vận chuyển chiến lược Bắc - Nam, các đường ngang xuống địa bàn quân khu hướng vào trọng điểm khu liên hiệp quân sự Đà Nẵng, vào tây Bình Định đã thông xe. Quân số chiến đấu mỗi đại đội của chủ lực từ 15, 20 tay súng lên trên dưới 50 tay súng, mỗi đại đội chiến đấu của bộ đội địa phương khoảng 30, 40 tay súng, sức khỏe của bộ đội tốt, được huấn luyện chiến thuật, kỹ thuật hơn 2 tháng. Cán bộ được bồi dưỡng qua tổng kết kinh nghiệm. Quyết tâm và kế hoạch của quân khu là mở đợt tiến công Hè – Thu trên toàn bộ chiến trường nhằm tiêu diệt địch giành dân mở mảng tạo thế chiến trường nông thôn chuẩn bị cho Đông – Xuân tới. Qua đợt chiến đấu rèn luyện trong thực tế để nâng cao sức chiến đấu của các thứ quân, nhất là bộ đội chủ lực quân khu. Trên hướng Quảng Nam, Quảng Đà sẽ tiêu diệt và làm chủ cụm cứ điểm Đức Phú, Nông Sơn, Trung Phước và Thượng Đức, Khó khăn lớn nhất của quân khu là quân số bổ sung trong và sau đợt hoạt động để phát triển thắng lợi.

Sau khi nghe quân khu báo cáo anh Tấn phát biểu: Tình hình vừa rồi rất phức tạp, quân khu đã giữ được lực lượng, nâng được quân số chiến đấu, quyết tâm và kế hoạch tới là đúng, cần kiểm tra để đảm bảo chắc thắng.

Quân khu triệu tập một số cán bộ để nghe Phó tổng tham mưu trưởng nói chuyện, đại ý: Tình hình và công tác chuẩn bị của quân khu như thế là tốt; quyết tâm và phương hướng đúng. Tôi giao cho Chính ủy và Tư lệnh phải hoàn thành nhiệm vụ, yêu cầu gì Bộ sẽ đáp ứng.

Buổi chiều hôm đó trong bữa cơm thân mật, anh Tấn nói riêng với tôi: Công việc như thế không có vấn đề gì lớn, ngày mai tôi sẽ ra Hà Nội. Anh Mân cứ ở lại làm việc, chúc anh khỏe và thắng lợi, chúng ta còn nhiều dịp gặp nhau.

Anh Tấn và đoàn cán bộ đi được một ngày thì Bộ Tổng tham mưu thúc giục anh Tấn quay lại thực hiện ý định trước, nhưng anh Tấn và đoàn vẫn ra Hà Nội.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #161 vào lúc: 20 Tháng Mười, 2018, 09:30:15 am »

Khi anh Tấn vào tôi đã biết ý định của cấp trên. Tôi có điện đề nghị với Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương: Sau khi anh Tấn thay, cho tôi xuống một đơn vị nào đó chiến đấu cho đến khi miền Nam hoàn toàn giải phóng...

Ở đồng bằng ven biển, trong những năm gần đây, kẻ địch đã quen thấy ta thường mở đầu các đợt hoạt động vũ trang bằng một cuộc tiến công đồng loạt vào hàng trăm mục tiêu ở khắp các đô thị và nông thôn. Sau đó, cường độ tiến công yếu dần đi. Lần này Bộ tư lệnh Quân khu chủ trương sẽ tổ chức một đợt hoạt động mạnh trên toàn chiến trường. Các khu chiến của chủ lực sẽ đánh địch theo một lược đồ nối tiếp nhau trên những khu vực cách xa nhau nhưng lại liên quan chặt chẽ với nhau, nhằm tạo một cường độ tăng dần từ thấp đến cao và mở rộng không gian tiến công từ một khu vực rộng dần ra khắp các địa phương khiến cho quân địch bất ngờ và bị động đối phó.

Cuối tháng 6 năm 1974, theo quyết tâm và kế hoạch, quân khu dùng hầu hết các đơn vị chủ lực, không dùng pháo 130 ly và xe tăng tiêu diệt địch và giải phóng các quận lỵ chi khu mở rộng địa bàn làm chủ từng mảng. Đợt 1, tiêu diệt địch giải phóng khu Đức Phú, một chi khu được giải phóng trên 3 vạn dân, ta thương vong ít. Riêng quận lỵ, chi khu Minh Long do anh Vương Tuấn Kiệt – Phó tư lệnh chỉ huy. Anh Kiệt biết ý tôi không cho dùng pháo 130 ly và xe tăng để giữ bí mật bất ngờ; đồng thời không cho bộ đội ỷ lại vào hỏa lực nên nhân lúc tôi đi chỉ huy phía bắc, anh Kiệt điện về xin anh Võ Chí Công cho sử dụng pháo 130 ly bắn mấy chục viên mơi giải phóng được chi khu Minh Long.

Đợt 2, tiêu diệt căn cứ Nông Sơn và Thượng Đức. Tham mưu quân khu đắp sa bàn hai vị trí nói trên và mời cán bộ sư đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn của Sư đoàn 304 và Sư đoàn 2 thông qua quyết tâm và kế hoạch tác chiến (Sư đoàn 304 đánh Thượng Đức do Bộ tư lệnh Quân khu chỉ huy).

Trong cuộc họp, Sư đoàn trưởng 304 báo cáo quyết tâm, kế hoạch tác chiến và khẳng định: Chúng tôi sẽ dùng hỏa lực mạnh đợt đầu mấy chục tấn đạn lớn, nếu địch không hàng chúng tôi sẽ cho chúng mấy chục tấn nữa và cứ thế trút lên đầu chúng, nhất định nó phải hàng.

Trong giờ nghỉ, anh Võ Chí Công hỏi nhỏ: Anh ấy rất hăng hái nhưng hình như chủ quan, anh thấy có thể thắng không? Tôi trả lời: Sẽ thắng nhưng trả giá đắt.

Nông Sôn – Trung Phước là cụm cứ điểm với trên 10 vị trí lớn nhỏ. Toàn bộ cứ điểm rải ra trên một khu vực dài hơn 4km và rộng gần 3km. Nông Sơn là căn cứ then chốt của cụm cứ điểm được xây dựng kiên cố trên một mỏm núi đứng, có ba tầng hỏa lực và chỉ có một đường độc đạo có thể lên đến cứ điểm. Lực lượng địch khoảng 2.000 tên, trong đó có tiểu đoàn biệt động biên phòng 78. Điều bất ngờ đối với địch là chúng cho rằng ta chưa đủ sức tiến công tiêu diệt một cụm cứ điểm mạnh lại bố trí trên một chính diện rộng như vậy.

Sư đoàn 2 được lệnh tiến công cụm cứ điểm Nông Sơn – Trung Phước. Bộ đội pháo binh khiêng 2 khẩu sơn pháo 75 ly bí mật đặt cách Nông Sơn khoảng 800m. Dự kiến thời gian tiến công là 17 giờ, nhưng 11 giờ cùng ngày quân địch cho lên Nông Sơn tiểu đoàn 11 trung đoàn 56 sư đoàn 3 để thay phiên tiểu đoàn 78. Như vậy, trong căn cứ lúc này có 2 tiểu đoàn địch. Anh Nguyễn Chơn đề nghị với chỉ huy sở tiền phương quân khu, nếu buổi chiều địch không rút 1 tiểu đoàn thì đến giờ ta vẫn cứ nổ súng. Tôi nói lại với anh Nguyễn Chơn phạm vi căn cứ Nông Sơn không rộng lắm, chúng ở đó 2 tiểu đoàn khá dày đặc, ta nổ súng tiến công 2 tiểu đoàn trong một căn cứ có thể thời gian ngắn hơn dự kiến khỏi phải đi tìm tiểu đoàn thứ hai. Quả đúng như vậy, khi ta nổ súng tiến công, pháo bắn thẳng đã bắn tan 38 trong số 41 lô cốt và hỏa điểm của địch. Pháo binh ta bắn tập trung chính xác, tạo ra uy lực mạnh phá tan hệ thống công sự và hỏa lực của cụm cứ điểm. Bộ đội mở đột phá khẩu rất nhanh, địch trong căn cứ nhốn nháo, không đủ công sự ẩn nấp, bị thương vong lớn. Sau 4 giờ chiến đấu, ta đã tiêu diệt và bắt sống toàn bộ 2 tiểu đoàn địch. Ta thương vong trên 40 người.

Trong khi đó ở Thượng Đức, Sư đoàn 304 sau hai ngày đêm tiến công, bộ đội không mở được cửa, thương vong trên 300 người. Đêm thứ ba, anh Nguyễn Chánh – Phó tư lệnh Quân khu ra Thượng Đức giúp anh em chấn chỉnh lại đội ngũ và đưa pháo vào ngắn bắn trực tiếp. Đêm thứ tư, pháo bắn mấy chục quả phá hủy lô cốt, lỗ châu mai của địch, bộ đội Sư đoàn 304 mở cửa thuận lợi, tiêu diệt và bắt sống toàn bộ tiểu đoàn quân biệt động biên phòng số 79 và 10 trung đội bảo an, dân vệ, giải phóng chi khu quân sự và quận lỵ Thượng Đức. Ngày 14 tháng 8, Sư đoàn 304 lại phát triển tiến công đánh chiếm tuyến Ba Khe, Bàn Tân, Lâm Phụng, đẩy lui quân địch về sát ven quận lỵ Ái Nghĩa.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #162 vào lúc: 20 Tháng Mười, 2018, 09:30:49 am »

Phối hợp với Nông Sơn – Trung Phước, Thượng Đức, đêm 17 tháng 7, lực lượng địa phương Quảng Nam tiêu diệt các chốt điểm Đá Bàn, Đá Đen tập kích quân địch ở đồn Kỳ Bích, đánh sập cầu Bà Bàu, đánh thiệt hại đồn Dương An. Trong các đêm 18 và 20 tháng 7 ta liên tiếp pháo kích vào tiểu khu Quảng Tín và sở chỉ huy sư đoàn 2 ngụy ở Chu Lai.

Lực lượng địa phương và nhân dân Quảng Ngãi tập kích địch trong thị xã Quảng Ngãi, quận lỵ Bình Sơn, quận lỵ Tư Nghĩa, tiến công, nổi dậy tiêu diệt và bức rút trên 40 cứ điểm, giải phóng một mảng 8 xã ở các huyện Bình Sơn và Sơn Tịnh. Vùng giải phóng phía bắc của tỉnh nối liền từ vùng rừng núi Trà Bồng xuống đến sát biển.

Ở Bình Định, ngày 26 tháng 7, Sư đoàn 3 (thiếu) tiến công vào tuyến phòng thủ của địch trên đường số 1 ở phía bắc quận lỵ Phù Mỹ. Chỉ sau một giờ chiến đấu quân ta đã tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm Trực Đạo và các cứ điểm ở núi Nùng

Ở Phú Yên, lực lượng vũ trang tỉnh tiêu diệt các vị trí địch ở hai xã Xuân Quàng và Xuân Phước, đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn bảo an. Ta tiếp tục tiến công, nổi dậy giải phóng và giành quyền làm chủ phần lớn các xã ở ba huyện Tuy An, Sông Cầu, Đồng Xuân.

Ở Khánh Hòa, đêm 21 tháng 7, Tiểu đoàn đặc công 407 tiến công khu căn cứ hải quân ngụy ở Nha Trang và tập kích vào quân cảng Cam Ranh làm nổ 3 vạn tấn bom đạn, đốt cháy 1 triệu tấn xăng dầu.

Bị tổn thất nặng, lại phải phân tán đối phó trên các khu chiến của chủ lực ta nên lực lượng cơ động của quân đoàn 1 ngụy đã mỏng nay càng trở nên suy yếu. Chúng buộc phải đưa sư đoàn dù từ Trị - Thiên về tái chiếm Thượng Đức.

Cuộc chiến đấu giữa bộ đội chủ lực cơ động của ta và quân dù – lực lượng dự bị chiến lược của địch diễn ra liên tục hơn 100 ngày đêm, cuối cùng ta đã thắng. Chiến thắng Thượng Đức chứng tỏ khả năng chiến đấu của chủ lực cơ động ta đã hơn hẳn quân chủ lực cơ động của địch.

Quân địch đã bị bất ngờ trước đòn tiến công phối hợp dài ngày trên một diện rộng, có hiệu suất chiến đấu cao của ta. Kế hoạch lấn chiếm để thực hiện âm mưu phân tuyến ở vùng đồng bằng ven biển của địch đã bị đánh bại. Hệ thống phòng ngự cơ bản của địch ở vùng đồng bằng ven biển cũng bị đánh vỡ từng khu vực. Thượng Đức – điểm then chốt của tuyến phòng ngự vòng ngoài, chỉ cách căn cứ liên hiệp quân sự Đà Nẵng 40km đã bị ta đánh chiếm. Tuy nhiên, lúc này đang là mùa mưa, lực lượng ta ở các chiến trường miền Nam chỉ hoạt động nhỏ. Địch có thể cơ động lực lượng từ nơi khác đến để phản kích. Ta đã giành thắng lợi lớn, đang có điều kiện phát triển thắng lợi. Bộ tư lệnh Quân khu cho rằng nếu kéo dài hoạt động sẽ ảnh hưởng đến việc chuẩn bị cho nhiệm vụ năm 1975. Vì vậy, chỉ sử dụng một bộ phận bộ đội chủ lực phối hợp với lực lượng địa phương tiếp tục đánh địch. Đại bộ phận chủ lực lui về củng cố.

Điểm nổi bật trong thời gian này là ta đã nhận thức đúng xu thế phát triển của tình hình nên đã khẩn trương xây dựng lực lượng, xây dựng thế trận, chuẩn bị chiến trường. Khi kẻ địch không thực hiện Hiệp định Pa-ri, đưa hầu hết lực lượng cơ động vào kế hoạch “lấn chiếm”, “tràn ngập lãnh thổ”, ta đã kiên quyết giữ vững chủ trương: Chỉ sử dụng lực lượng địa phương và một phần chủ lực chống lấn chiếm. Đai bộ phận lực lượng chỉ lực tiếp tục tập trung xây dựng (tuy nhiên, chủ trương này trong lãnh đạo Khu ủy cũng có ý kiến chưa thống nhất). Gần một năm trời chiến đấu giằng co giữa ta va địch, tuy địch có lấn chiếm một số dân, một số vùng ta mới mở ra và một số vùng giải phóng cũ, gây cho ta một số khó khăn, nhưng lực lượng địch bị tiêu hao mệt mỏi. Chủ trương đúng đắn này là nguyên nhân dẫn đến thắng lợi của đợt hoạt động trong Hè – Thu năm 1974.

Với một thế trận đã được xây dựng, với một sức mạnh đã được tăng cường, quân và dân ta đã tạo ra thế mới, lực mới, khả năng mới. So sánh lực lượng ta và địch trong phạm vi chiến trường đã thay đổi. Ta mạnh lên, địch yếu đi. Thế chủ động của ta ngày một phát triển, thế bị động của địch ngày một lộ rõ. Đây là những điều kiện hết sức thuận lợi của ta giành thắng lợi lớn hơn, thực hiện ý định chiến lược của lãnh đạo.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #163 vào lúc: 20 Tháng Mười, 2018, 09:31:27 am »

Cuối mùa Thu năm 1974, anh Võ Chí Công và tôi ra Hà Nội tham dự cuộc họp Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, thời gian từ ngày 30 tháng 9 đến 8 tháng 10. Tham gia hội nghị có các đồng chí ở chiến trường như anh Phạm Hùng, anh Trần Văn Trà (Nam Bộ), anh Võ Chí Công và tôi (Khu 5). Đánh giá tình hình, Bộ Chính trị thấy rằng, từ đầu năm 1974, bằng những cố gắng nhiều mặt, ta đã thu được những kết quả to lớn trong công tác chuẩn bị chiến lược. Ta đã giữ vững và phát triển mạnh mẽ thế chủ động tiến công, đẩy địch vào thế bị động trên toàn chiến trường. Ta đã tăng thêm sức mạnh của lực lượng vũ trang, đặc biệt là khối chủ lực, làm căng mỏng và suy yếu một bước quan trọng quân ngụy, nhất là đội quân chủ lực cơ động của địch.

Mỹ ngày càng gặp khó khăn trong chính nước Mỹ và trên thế giới. Do đó, Mỹ chẳng những phải giảm bớt chi viện cho quân ngụy mà còn khó có khả năng nhảy vào lại miền Nam và dù chúng có can thiệp thế nào đi nữa cũng không cứu vãn được ngụy quyền Sài Gòn khỏi sụp đổ.

Chúng ta đã thúc đẩy thời cơ chiến lược chín muồi, đã tạo nên những yếu tố chiến lược quan trọng để tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Bộ Chính trị đã nhất trí thông qua phương án thực hiện giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976 và đã chọn chiến trường Tây Nguyên là hướng tiến công chủ yếu trong cuộc tiến công và nổi dậy rộng khắp trong năm 1975. Ở Tây Nguyên, địch tương đối yếu và ta có nhiều thế lợi để có thể phát triển lực lượng về phía nam, chia cắt miền Trung; ở đây ta lại tiện cho ta phát huy hết sức mạnh của các binh chủng kỹ thuật. Như vậy, Tây Nguyên là một địa bàn chiến lược hết sức quan trọng.

Kết luận hội nghị, đồng chí Lê Duẩn – Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương đã phân tích ý nghĩa của quyết tâm chiến lược lịch sử này, đại ý: Bây giờ đã đến lúc chúng ta hạ quyết tâm hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Đây là một điều hết sức trọng đại, hết sức quan trọng. Trọng đại, quan trọng là vì 30 năm nay, từ khi giành được chính quyền, chúng ta làm cách mạng liên miên, chiến tranh liên miên. Qua mây thời kỳ chống đế quốc, cuộc chiến tranh cách mạng của chúng ta đã có ý nghĩa lịch sử và ý nghĩa thời đại sâu sắc, nó tập hợp cả một lực lượng to lớn, ở trên một vị trí chiến lược, đương đầu với tên đế quốc mạnh nhất, hung ác nhất. Bây giờ chúng ta hoàn thành cuộc cách mạng, thực hiện nhiệm vụ của thời đại trong cả nước. Nó ảnh hưởng không phải chỉ ở trong nước mà cả toàn Đông Nam Á và toàn thế giới.

Đồng chí nói tiếp: Nói như vậy để thấy hết tầm quan trọng của nó; đồng thời cũng thấy hết những khó khăn phức tạp của nó. Nhưng chúng ta đã thấy hết khả năng, thấy rõ so sánh lực lượng, thấy tất cả mọi cái để hạ quyết tâm này, với trí thức, sự hiểu biết, kinh nghiệm của 30 năm nay cộng lại, không phải của từng người mà của tất cả chúng ta.

Khi thảo luận, câu hỏi đầu tiên đặt ra là nếu ta tiến công mạnh, ngụy quân, ngụy quyền có nguy cơ sụp đổ, Mỹ có dám nhảy vào tham chiến không? Đây là vấn đề học búa, rất nhiều ý kiên thảo luận sôi nổi, gay gắt. Tuyệt đại đa số ý kiến khi phân tích khả năng can thiệp của Mỹ, cho rằng Mỹ không còn khả năng đưa quân vào trên bộ, hơn nữa hành động đó cũng không cứu vãn được nguy cơ sụp đổ của ngụy.

Anh Phạm Văn Đồng có nói một câu rất hay: Cứ đàng hoàng mà tiến, quân Mỹ đã vui mừng được rút ra khỏi chiến trường thì rồi đây cho ăn kẹo cũng không dám trở lại can thiệp vào miền Nam Việt Nam.

Bộ Chính trị quan tâm rất nhiều đến vấn đề thời cơ chiến lược. Cả năm 1975 là thời cơ, đòn tiến công quân sự mạnh tạo nên thời cơ, phong trào chính trị thúc đẩy thời cơ, tình hình thế giới và nội tại nước Mỹ là thời cơ từ bình thường đến vừa, đến cao, đến đột biến với tốc độ “1 ngày bằng 20 năm”, do đó cần phải khẩn trương, phải đánh nhanh hơn, nếu đã có thời cơ mà không kịp thời phát hiện, bỏ lỡ thì có tội lớn với dân tộc.

Do đó, ngoài kế hoạch chiến lược cơ bản hai năm 1975-1976, cần phải có kế hoạch lợi dụng thời cơ đến vào đầu hoặc giữa năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975. Muốn lợi dụng thời cơ, phát triển thuận lợi, cần luôn luôn có lực lượng, có kế hoạch dự bị, sẵn sàng ở những địa bàn cơ động, vì thực lực của ta là nhân tố quyết định.

Sau cuộc họp, anh Phạm Văn Đồng mời tôi sang nhà riêng cùng ăn bữa cơm thân mật, anh nói:

- Thời gian qua Khu 5 làm như thế là khôn khéo, nhờ kiên trì chỉ đạo thực hiện nên hiện nay có cả lực mới và thế trận mới. Làm như Khu 5 là một kinh nghiệm rất tốt, tiêu diệt địch giải phóng từng quận lỵ, chi khu, mở từng mảng, giành từng khối dân, lại hiểu dược sức địch, sức ta, làm như rồi là đúng bài toán.

Bữa cơm đạm bạc, có mấy củ khoai lang tráng miệng. Tôi thật sự vui và tự suy diễn, có lẽ anh Đồng thấy được trách nhiệm thay Bác về tình cảm cách mạng để giữ vững lòng tin và sự thoải mái của lớp học trò kế cận của Bác. Củ khoai lang nếu có thêm bát nước chè xanh thì Nghệ An và Quảng Ngãi đậm đà giống nhau.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #164 vào lúc: 21 Tháng Mười, 2018, 09:06:14 am »

*
*   *

Sau hai năm chiến đấu, quân và dân miền Nam đã giáng cho địch những đòn thất bại nặng ở Trị - Thiên, Tây Nguyên, đồng bằng miền Trung, Đông Nam Bộ. Đến cuối năm 1974, tuy địch vẫn còn trên 1 triệu quân trong đó có 13 sư đoàn quân cộng hòa và 18 liên đoàn quân biệt động, hơn 2.000 xe tăng, xe bọc thép, 1.500 khẩu pháo lớn, 6 sư đoàn không quân nhưng chúng vẫn buộc phải lui về phòng ngự để giữ những phần dất do chúng kiểm soát, nhất là các đô thị và các vùng đông dân nhiều của. Quốc hội Mỹ cắt bỏ viện trợ bổ sung tháng 6 năm 1974, Nguyễn Văn Thiệu phải đề ra chủ trương “đánh giặc theo kiểu con nhà nghèo”, điều không thể nào làm được với một đội quân tay sai.

Giữa tháng 12 năm 1974, ta mở chiến dịch Phước Long. Trong hơn 20 ngày (12-12-1974 đến 6-1-1975) ta đã diệt và bắt trên 3.000 tên địch, thu trên 3.000 súng các loại, giải phóng đường 14, thị xã và toàn tỉnh Phước Long – tỉnh đầu tiên ở miền Nam được hoàn toàn giải phóng. Rõ ràng so sánh lực lượng giữa ta và địch đã chuyển sang một thời kỳ mới – thời kỳ ta tiến công áp đảo quân địch để giành thắng lợi hoàn toàn.

Chiến trường Khu 5, thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa ba vùng chiến lược và có mối liên quan chặt chẽ với nhau trong từng khu vực.

Ở phía bắc, sau thắng lợi Hè – Thu 1974, ba tỉnh miền Trung: Quảng Đà, Quảng Nam, Quảng Ngãi đã nối liền với bắc Kon tum, tạo thành một khu căn cứ rộng lớn kéo dài từ rừng núi đến đồng bằng. từ vùng giáp ranh xuống đồng bằng ven biển, thế trận của ta vững chắc và uy hiếp thế trận của địch.

Do nhận định sai lầm về chiến lược và lệ thuộc vào thế bố trí “nhẹ ở giữa nặng hai đầu”, lực lượng địch ở Khu 5 cũng bố trí theo thế “nặng ở phía bắc nhẹ ở phía nam”.

Cuối năm 1974, căn cứ vào mệnh lệnh sơ bộ của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, Tổng tư lệnh, Thường vụ Khu ủy, Đảng ủy – Bộ tư lệnh Quân khu 5 và Đảng ủy – Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên sơ bộ hình thành kế hoạch chiến dịch.

Ở Tây Nguyên, tiến công và nổi dậy tiêu diệt từ 3 đến 4 trung đoàn bộ binh, thiết giáp, đánh thiệt hại nặng từ 1 đến 2 sư đoàn chủ lực ngụy, diệt nhiều đơn vị bảo an, dân vệ, làm tụt nhanh quân số của địch; mở rộng đường hành lang chiến lược từ đường 14 qua Gia Nghĩa xuống đường 20 nối ba tỉnh đồng bằng phía nam Khu 5; diệt từ 3 đến 4 chi khu, từ 1 đến 2 tỉnh lỵ (Gia Nghĩa, Cheo Reo).

Giải phóng phần lớn vùng đất bằng phía nam Plây Cu và Cheo Reo, xung quanh Buôn Ma Thuột, đánh bại kế hoạch “bình định” lấn chiếm của địch, giữ vững và phát huy quyền làm chủ chiến trường, thực hiện chia cắt chiến lược, tích cực phối hợp với mặt trận đánh phá “bình định” của địch ở đồng bằng.

Đánh phá giao thông và hậu cứ, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, làm cho tiềm lực kinh tế của địch giảm sút nghiêm trọng. Khi có thời cơ, thực hiện chia cắt hẳn các đường 14, 19, 21, trọng điểm là đường 21.

Phát triển đấu tranh chính trị trong các thị xã, ra sức xây dựng cơ sở tự vệ mật, các tổ chức biệt động, diệt ác ôn đầu sỏ, tạo thế làm chủ ở cơ sở.

Xây dựng ba thứ quân, xây dựng vùng giải phóng, xây dựng đường chiến dịch, chiến lược, hoàn thành mọi công tác chuẩn bị cho nhiệm vụ tiếp theo.

Trên chiến trường đồng bằng ven biển: Đẩy mạnh tiến công quân sự, chính trị kết hợp ba mũi giáp công, ba quả đấm trên ba vùng chiến lược, tiêu diệt, bắt sống một bộ phận lực lượng quân sự của địch (sinh lực và phương tiện chiến tranh), phá vỡ bộ phận quan trọng hệ thống kìm kẹp, phá vỡ từng khu vực, từng đoạn hệ thống phòng ngự cơ bản của địch, đẩy mạnh du kích chiến tranh nhất là ở vùng sâu, đánh bại về cơ bản kế hoạch “bình định” của địch, giành đại bộ phận nông thôn, tạo nên một chuyển biến cơ bản trong so sánh lực lượng có lợi cho ta là điều kiện cơ bản nhất để tiến lên tổng tiến công và nổi dậy mạnh hơn giành thắng lợi hoàn toàn. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, phải theo dõi chặt chẽ mọi diễn biến cụ thể của thế trận chung toàn miền Nam, kịp thời tận dụng thời cơ khách quan đẩy mạnh tốc độ tiến công để giành thắng lợi cao hơn.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #165 vào lúc: 21 Tháng Mười, 2018, 09:06:57 am »

Trung tuần tháng 12 năm 1974, anh Võ Chí Công và tôi ra Hà Nội dự họp Bộ Chính trị Trung ương Đảng mở rộng. Cuộc họp bắt đầu từ ngày 18 tháng 12 năm 1974 đến ngày 8 tháng 1 năm 1975. Chủ trì cuộc họp là Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lê Duẩn. Bộ Chính trị gồm các đồng chí: Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Võ Nguyên Giáp, Phạm Hùng, Lê Thanh Nghị, Văn Tiến Dũng, Nguyễn Duy Trinh, Trần Quốc Hoàn. Thành phần mở rộng gồm: Trần Văn Trà (chiến trường Nam Bộ); Võ Chí Công, Chu Huy Mân (Khu 5). Cơ quan Bộ gồm: anh Song Hào – Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Đinh Đức Thiện – Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần và mấy đồng chí thư ký. Trong 20 ngày hội nghị đi sâu vào mấy vấn đề lớn: đánh giá tình hình địch, ta trên chiến trường miền Nam từ sau ngày Hiệp định Pa-ri có hiệu lực, nhất là hai năm 1973-1974; quyết tâm mở cuộc tổng tiến công chiến lược và nổi dậy đều khắp, giải phóng miền Nam trong Xuân Hè 1975, tốt nhất là hoàn thành trước mùa mưa. Sở dĩ thời gian hội nghị kéo dài 20 ngày vì anh Ba muốn để tập thể cân nhắc chín chắn, dự kiến các tình huống, chiến lược thật kín, đảm bảo thắng nhanh, gọn tạo thời cơ phát triển nhanh và nhanh chóng làm chủ sào huyệt cuối cùng của Mỹ - ngụy. Đột phá, mở màn vào đâu. Hội nghị cân nhắc mấy phương án, cuối cùng chọn Buôn Ma Thuột, giải phóng cao nguyên trung phần trước. Từ nóc nhà Đông Dương này tạo thời cơ lớn tỏa đi các hướng chủ yếu, cuối cùng là tiêu diệt và làm tan rã quân địch; dứt điểm giải phóng Sài Gòn. Buôn Ma Thuột, Huế, Đà Nẵng phải giải phóng nhanh mở đường vận chuyển chiến lược (đường 1A). Mọi vấn đề lớn nêu ra được hội nghị thảo luận, hoàn toàn nhất trí.

Trên đường trở lại chiến trường, ngồi trên chiếc xe com-măng-ca đường rừng lắc lư để thực hiện quyết tâm lịch sử, tôi xúc động nhớ công ơn trời biển của Bác Hồ. Gần một nửa thế kỷ bôn ba quên mọi gian khổ, dám nhận hy sinh, Bác đã làm rạng rỡ non sông đất nước. Bác ra đi đã để lại một tập thể kế cận trung kiên tuyệt đối, có tầm nhìn xa, sáng tạo, đảm đương sức mạng lịch sử của Tổ quốc và nhân dân, thực hiện lời căn dặn của Bác: Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào, giành lại trọn vẹn cả non sông gấm vóc. Qua cuộc họp lịch sử, tôi thấy những bộ não lớn, những tinh hoa sáng ngời tiêu biểu của dân tộc Việt Nam quy tụ lại trở thành sức mạnh to lớn. Tôi nghĩ chiến trường Tây Nguyên sẽ trở thành chiến trường lịch sử. trên 10 năm, quân và dân Tây Nguyên đã bất chấp hy sinh gian khổ, bám trụ đánh địch, giành dân, sáng tạo chiến trường để có ngày hôm nay và sắp tới. Từ cao nguyên này, nóc nhà Trung Đông Dương, đột phá mở màn, cuộc tiến công chiến lược: giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Về đến Khu 5, chúng tôi khẩn trương triệu tập hội nghị Thường vụ Khu ủy và Quân khu ủy để quán triệt quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị; thông qua phương án của quân, dân Khu 5 đã được chuẩn bị. Cuộc họp này cũng bàn thảo, lựa chọn một trong hai phương án để đi vào tổ chức thực hiện nắm quyền chủ động.

Phương án 1, mở đầu tiến công tiêu diệt quận lỵ chi khu Tiên Phước và căn cứ Phước Lâm. Làm công sự chốt chặt các điểm cao phía đông, kéo mấy trung đoàn cơ động ngụy vào ứng cứu, tiêu diệt chúng ở vùng giáp ranh. Khi quân địch không còn sức chiến đấu phải rút lui thì ta cho lực lượng dự bị có xe tăng phối hợp bất ngờ tiến công vào thị xã Tam Kỳ. Sau khi giải phóng Tam Kỳ, Sư đoàn bộ binh 2 của ta theo đường 1 tiến thẳng vào Đà Nẵng. Theo phương án này, căn cứ Chu Lai, thị xã Quảng Ngãi bị chia cắt. Ta chỉ dùng 1 trung đoàn bộ binh, 1 đại đội pháo và 1 đại đội xe tăng cùng lực lượng vũ trang địa phương và quần chúng nổi dậy để giải phóng.

Phương án 2, Sư đoàn bộ binh 2 của ta, mở đầu tiên diệt địch giải phóng quân lỵ chi khu Sơn Hà, sau đó nhanh chóng tiến công giải phóng thị xã Quảng Ngãi rồi chuyển vào phía nam giải phóng nam Quảng Ngãi, nối liền với bắc Bình Định. Ý định then chốt trong phương án này là trong mùa Xuân năm 1975, đồng bằng Khu 5 ăn chắc từ thị xã Quảng Ngãi đến trung Bình Định. Một vài anh em thường nói: Giải phóng vùng này là “bỏ túi trước”, Quảng Ngãi, Bình Định, sang hè sẽ chuyển ra bắc giải phóng Đà Nẵng.

Hai phương án nói tên đều có lý lẽ và đã tranh luận mấy tháng. Vì vậy, trước Tết Nguyên đán tôi xin phép Thường vụ Khu ủy và Thường vụ Quân ủy được kết luận: Theo phương án 1, để tập trung mọi lực lượng, tinh thần, vật chất chuẩn bị có chất lượng đảm bào chắc chắn. Theo phương án này thì lực lượng ta quá thấp phải cố gắng nhiều. Nhưng phương án 1, đứng về chiến lược cao hơn, chủ động hơn. Có thể nói, thực hiện phương án 1 tự mình nỗ lực chủ quan, tạo thời cơ trực tiếp, lợi dụng thời cơ chung, kín đáo và sắc bén hơn về tư tưởng chiến lược và tâm lý.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #166 vào lúc: 21 Tháng Mười, 2018, 09:07:27 am »

Sư đoàn 3 trước có ý định điều ra Quảng Nam, Đà Nẵng, để thực hiện phương án này, song nửa chừng, Bộ giao nhiệm vụ cho Sư đoàn đánh địch cắt đường 19. Phương án 1 thiếu Sư đoàn 3, nhưng quyết tâm của quân khu thì nhiệm vụ, mục tiêu không giảm.

Trong lúc các đơn vị đang khẩn trương chuẩn bị thì ngày 21 tháng 1 năm 1975, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên nhận được chỉ thị bổ sung của Thường vụ Quân ủy Trung ương. Theo chỉ thị bổ sung, nhiệm vụ của hướng tiến công chiến lược ở Tây Nguyên phải tiêu diệt từ 4 đến 5 trung đoàn bộ binh, 1 đến 2 trung đoàn thiết giáp, cố gắng tiêu diệt hoặc đánh quỵ 1 sư đoàn, đánh thiệt hại nặng quân đoàn 2 ngụy, giải phóng phần lớn hoặc hoàn toàn ba tỉnh Đắc Lắc, Quảng Đức, Phú Bồn bao gồm các thị xã Cheo Reo, Gia Nghĩa, Buôn Ma Thuột. Trọng điểm là tỉnh Đắc Lắc, mục tiêu quyết định là thị xã Buôn Ma Thuột, hướng phát triển là Cheo Reo và Gia Nghĩa. Cheo Reo là hướng phát triển chủ yếu.

Nhằm phối hợp với Tây Nguyên đánh thiệt hại nặng quân đoàn 2 ngụy, Tổng tư lệnh giao nhiệm vụ cho Khu 5 sử dụng Sư đoàn 3 (thiếu) và Tiểu đoàn công binh 19 mở chiến dịch tiến công địch trên đường 19 trong phạm vi hai huyện Bình Khê và An Khê, tiêu diệt từ 1 đến 2 chiến đoàn bộ binh và 1 đến 2 chi đoàn cơ giới, cắt đứt đường 19, thực hiện chia cắt chiến lược quân địch giữa đồng bằng và Tây Nguyên.

Để tăng cường lực lượng cho hướng tiến công chiến lược chủ yếu, Bộ lần lượt đưa vào Tây Nguyên Sư đoàn 968, Sư đoàn 316, Trung đoàn 95b của Sư đoàn 325, Trung đoàn cao xạ 232, Trung đoàn công binh 575, một tiểu đoàn đặc công, 1 tiểu đoàn cầu phà, 1 tiểu đoàn thông tin, 1 tiểu đoàn vận tải, 1 đại đội trinh sát, 1 trung đội khí tượng, 3 trạm sửa chữa xe pháo, 1 đội điều trị và 8 nghìn quân bổ sung.

Ở các tỉnh đồng bằng Quảng Đà, Quảng Ngãi, Bình Định lần lượt thành lập các trung đoàn địa phương 96, 94, 93. Các tỉnh Quảng Nam, Phú Yên, Khánh Hòa chưa tổ chức trung đoàn những cũng hình thành khối chủ lực tập trung mấy tiểu đoàn.

Do ý nghĩa quan trọng của chiến dịch Tây Nguyên, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương cử anh Văn Tiến Dũng - Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, Tổng tham mưu trưởng làm đại diện Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh và tổ chức sở chỉ huy tiền phương của Bộ để trực tiếp chỉ đạo chiến dịch.

Bộ tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên hình thành trên cơ sở lấy Bộ tư lệnh và cơ quan Mặt trận Tây Nguyên làm nòng cốt do anh Hoàng Minh Thảo làm tư lệnh, anh Đặng Vũ Hiệp làm chính ủy. Ngoài ra còn có các đồng chí cán bộ cao cấp và trung cấp do Bộ phái đến tăng cường để tăng sức mạnh và khả năng giải quyết tốt các vấn đề tác chiến cũng như các vấn đề hậu cần, vận tải.

Bên cạnh Bộ tư lệnh chiến dịch, Thường vụ Khu ủy Khu 5 cử anh Bùi San - Ủy viên Thường vụ Khu ủy cùng một bộ phận cơ quan giúp việc. Đi sát với các hướng chiến dịch có các đại diện của các tỉnh ủy Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum.

Đêm 3 rạng ngày 4 tháng 3, Trung đoàn 95a được lệnh cắt đứt đường 19, nhanh chóng tiêu diệt một số chốt giao thông và làm chủ hoàn toàn đoạn đường dài 20km từ ngã ba Plây Pôn đến ấp Phù Yên. Cùng đêm, một bộ phận của Sư đoàn 320 cắt đường 14 ở đoạn bắc Cẩm Ga. Ngày 4 tháng 3, Sư đoàn 3 Quân khu 5 tuy gặp nhiều khó khăn về quân số và hậu cần cũng đã tích cực phối hợp đánh cắt đường 19 từ đèo Thượng An đến cầu số 13 chiếm 9 chốt giao thông, tiêu diệt 2 đại đội và tiểu đoàn bộ tiểu đoàn 1 trung đoàn 47, làm chủ hoàn toàn đoạn đường trên. Tiếp đó, đêm 4 rạng ngày 5 tháng 3, Trung đoàn 25 hoạt động trên đườn 21 đoạn Chư Cúc đã đánh chiếm một đoạn đường về phía đông Chư Cúc.

Thế là quân ta cơ bản đã cài xong thế trận chia cắt chiến dịch. Quân địch ở thị xã Buôn Ma Thuột về đường bộ đã bị hoàn toàn cô lập với Quy Nhơn, Plây Cu, Nha Trang; đồng thời thế chia cắt đó cũng đã cô lập Tây Nguyên với các tỉnh đồng bằng ven biển miền Trung.

6 giờ ngày 8 tháng 3, Trung đoàn 48 Sư đoàn 320 và một bộ phận pháo cơ giới đã nổ súng tiến công Cẩm Ga (quận lỵ Thuần Mẫn) về phía thị xã Buôn Ma Thuột. Đến 78 giờ 20 phút ta làm chủ trận địa, tiêu diệt toàn bộ quân địch. Ngày 9 tháng 3, Trung đoàn 64 Sư đoàn 320 đã tiêu diệt hoàn toàn quân địch trong quận lỵ Buôn Hồ.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #167 vào lúc: 21 Tháng Mười, 2018, 09:08:16 am »

Trận Cẩm Ga và trận Buôn Hồ đã làm cho đường 14 hoàn toàn bị cắt đứt, thị xã Buôn Ma Thuột càng cô lâp và bị uy hiếp dữ dội. Để cứu vãn tình hình, ngày 8 tháng 3, địch vội vã điều liên đoàn biệt động quân số 21 (thiếu) xuống sân bay Hòa Bình và đưa lên Buôn Hồ, hòng phản kích chiếm lại đường 14.

Trên hướng Đức Lập, căn cứ này nằm về phía tây nam thị xã Buôn Ma Thuột khoảng 60km trên đường 14 đi Gia Nghĩa. Trận đánh do Sư đoàn 10 (thiếu) và một bộ phận pháo cơ giới của Trung đoàn 40 và tiểu đoàn đặc công thực hiện. 5 giờ 35 phút ngày 9 tháng 3, pháo binh bắt đầu bắn vào Đức Lập. 8 giờ 20 phút, Trung đoàn 66 Sư đoàn 10 đánh chiếm căn cứ 23, Trung đoàn 28 đánh chiếm căn cứ Núi Lửa, hình thành hai mũi phát triển tiến công vào thị trấn. Riêng quận lỵ Đức Lập vì ta nắm tình hình không chặt và tổ chức tiến công không tốt nên đánh đợt 1 không thành. Sáng ngày 10 tháng 3, ta tổ chức tiến công đợt 2 mơi giải quyết xong. Chiều ngày 10 tháng 3 ta diệt luôn vị trí Đắc Xắc, Đức Minh và giải phóng hoàn toàn Đức Lập.

Tại Buôn Ma Thuột, quân địch lúc này ở trong thị xã có sở chỉ huy tiền phương Sư đoàn 23, trung đoàn 53 (thiếu), 1 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn xe tăng, 2 tiểu đoàn bảo an. Quân số khoảng 8.000 tên.

2 giờ sáng ngày 10 tháng 3 năm 1975, Trung đoàn đặc công 198 tiến công 3 vị trí: sân bay Hòa Bình, sân bay thị xã, cụm kho Mai Hắc Đế.

Cùng giờ, hỏa tiễn H12 và ĐKB của ta đánh vao sư đoàn bộ sư đoàn 23, chỉ huy sở tiểu khu và khu pháo binh, thiết giáp. Địch vẫn đinh ninh rằng cũng như năm 1968, ta chỉ dùng đặc công và pháo binh đánh rồi sáng sẽ rút.

Cùng lúc, khi pháo bắt đầu bắn, lợi dụng tiếng nổ các mũi tiến công của ta tập kết cách thị xã 10-15km, xe tăng 10-25km, có bộ phận 40km, bắt đầu vượt sông Sê Rê Pốc tiến vào tuyến xuất phát tiến công. Một cuộc tiến công gồm 12 trung đoàn bộ binh của Sư đoàn 316, các trung đoàn 24, 95b và các trung đoàn binh chủng trên 5 mũi khác nhau đã được điều khiển nhịp nhàng, chặt chẽ. Một cuộc tiến công quân binh chủng hợp thành tuyệt đẹp. 5 giờ ngày 10 tháng 3 năm 1975, toàn bộ đội hình đã chiếm lĩnh vị trí xuất phát tiến công, hình thành thế bao vây sát thị xã.

5 giờ 30 phút pháo binh bắn thử, 7 giờ 15 phút pháo binh bắt đầu trút bão lửa xuống các mục tiêu quy định. Pháo cao xạ đã tiến sát đội hình bộ binh. 9 giờ ngày 10 tháng 3 các mũi bộ binh và cơ giới bắt đầu tiến công.

Trải qua một ngày chiến đấu quyết liệt, đến chiều ngày 10 tháng 3, quân ta đã đánh chiếm sở chỉ huy tiểu khu, khu liên hợp pháo binh – thiết giáp, một phần khu sư đoàn bộ sư đoàn 23. Trên tất cả các hướng quân địch đều chống trả quyết liệt.

Đêm 10 tháng 3, liên đoàn biệt động quân 21 được lệnh từ Buôn Hồ tiến về thị xã để cứu nguy cho sở chỉ huy sư đoàn 23, nhưng đến khu vực suối Ia Tam vấp phải quân ta. Bọn này đã chuồn ra phía đông thị xã ẩn nấp. Trong đêm 10 tháng 3 ta nắm lại tình hình, tổ chức hiệp đồng lại với các mũi, hội quân ở sư đoàn bộ sư đoàn 23. 6 giờ sáng ngày 11 tháng 3, quân ta lại mở đợt tiến công mới. Với sức mạnh áp đảo, các loại hỏa lực và xe tăng của ta đã nhanh chóng đè bẹp địch, chi viện cho bộ binh xung phong. 9 giờ sáng ngày 11 tháng 3 quân ta đánh chiếm sở chỉ huy sư đoàn 23. Mục tiêu chủ yếu của trận đánh đã hoàn thành, cơ quan đầu não của địch ở Buôn Ma Thuột đã bị đập tan.

Đến 11 giờ trưa ngày 11 tháng 3 năm 1975, ngọn cờ chiến thắng của bộ đội Tây Nguyên đã phất cao trên nóc hầm chỉ huy sư đoàn 23 ngụy. Sau đó, quân ta đã nhanh chóng phát triển thắng lợi tiêu diệt địch ở các vùng phụ cận như hậu cứ 45, trường huấn luyện, căn cứ 53, ấp Châu Sơn.

Trận đánh thị xã Buôn Ma Thuột là trận tiến công xuất sắc. Chỉ trong vòng 23 giờ, bằng nghệ thuật chiến đấu tài giỏi, bằng sức mạnh hiệp đồng binh chủng quy mô lớn và bằng tinh thần chiến đấu của cán bộ, bộ đội ta đã lập nên chiến công Tây Nguyên đại thắng vang dội, làm đòn mở đầu cho cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975.

Theo kế hoạch, sau khi tiêu diệt xong Đức Lập, Sư đoàn 10 sang đứng chân ở đông bắc Buôn Ma Thuột sẵn sàng đánh quân phản kích.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #168 vào lúc: 21 Tháng Mười, 2018, 09:08:55 am »

7 giờ ngày 14 tháng 3, Trung đoàn 24 được pháo binh và xe tăng chi viện đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn thuộc trung đoàn 45 sư đoàn 23 quân ngụy, diệt 210 tên, bắt 180 tên, thu 4 pháo 105 ly, số địch còn lại chạy về Nông Trại – Phước An. Ngày 15 và 16 tháng 3, địch đổ tiếp trung đoàn 44 và sư đoàn bộ 23 nhẹ xuống Phước An, cộng với số bảo an ở đây, quân địch ở khu vực này lên đến 5.600 tên.

7 giờ 15 phút ngày 16 tháng 3, Sư đoàn 10 dùng pháo bắn vào Nông Trại, sau đó xe tăng chở bộ đội ta đột kích vào trận địa địch. 8 giờ 15 phút, ta làm chủ Nông Trại, tiêu diệt hoàn toàn các lực lượng còn lại của trung đoàn 45. Trung đoàn 24 tiếp tục tiến công địch chiếm ngã ba Phước An. Trung đoàn 28 và xe tăng, xe bọc thép phát triển theo đường 21 xuống Chư Cúc diệt các lực lượng của trung đoàn 44. Trong hai ngày 17 và 18 tháng 3 ở khu vực Phước An, ta đã diệt gần 500 tên, bắt 1.600 tên, thu hơn 1.800 súng có 6 pháo 105 ly.

Ngày 18 tháng 3, Trung đoàn 28 và Trung đoàn 25 đã chặn đánh lực lượng còn lại của trung đoàn 44 diệt 500 tên, giải phóng Chư Cúc. Sư đoàn 23 quân ngụy hoàn toàn bị xóa sổ.

Ngày 15 tháng 3 năm 1975, Bộ Tổng tư lệnh nhận định: Sau khi mất Buôn Ma Tuột có khả năng sẽ diễn ra hai tình huống: thứ nhất, địch sẽ bỏ Kon Tum lui về giữ Plây Cu; thứ hai, bỏ Tây Nguyên, rút về đồng bằng.

Ngày 14 tháng 3, Nguyễn Văn Thiệu đến Nha Trang. Sau khi xem xét tình hình, Thiệu quyết định rút bỏ Tây Nguyên co về giữ đồng bằng, củng cố một thời gian chờ đợi thời cơ phản kích chiếm lại Buôn Ma Thuột và Tây Nguyên. Lần đầu tiên trong lịch sử 30 năm chiến tranh của nhân dân ta, một quân đoàn địch đã rút chạy, một cuộc rút chạy có ý nghĩa chiến lược.

Đến ngày 15 tháng 3, ta đã phát hiện được ý định rút chạy của địch. Cũng ngày đó, Phạm Văn Phú – tư lệnh quân đoàn 2, tư lệnh quân khu 2 và sở chỉ huy ở Plây Cu chuồn trước bằng máy bay về Nha Trang. Tiếp đó là cuộc tháo chạy lớn bằng đường bộ. Vì đường 19, đường 21 và đường 14 đã bị cắt đứt, nên địch phải liều mạng rút theo đường số 7, từ Plây Cu qua Cheo Reo về Củng Sơn – Tuy Hòa.

Để đảm bảo an toàn cho cuộc rút chạy, quân khu 2 ngụy không báo cho các lực lượng địa phương biết “cứ để cho chúng cố thủ, khi chủ lực rút xong ai biết thì biết”.

16 giờ ngày 17 tháng, Tiểu đoàn 9 Trung đoàn 64 Sư đoàn 320 ra cắt đường 7 ở đông nam Cheo Reo 4km. Ngày 18 tháng 3, Trung đoàn 64 (thiếu) ra cắt đường 7 đông Cheo Reo 10km. Cùng ngày, Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 48 cắt đường 7 giữa Cheo Reo và Phú Thiện, làm cho chúng bị nghẽn lại tại thị xã Cheo Reo gần 10 nghìn tên. Tuy nhiên, một số ít quân địch cũng đã vượt qua trước ngày Trung đoàn 64 ra cắt đường ra đã chạy về Phú Túc, Củng Sơn.

Ngày 18 tháng 3, Trung đoàn 48 (thiếu) được pháo binh chi viện tiến công đánh chiếm thị xã Cheo Reo gồm khu hành chính, tiểu khu tiêu diệt một số lớn quân địch rút chạy của quân đoàn 2 ngụy ùn về đây. Từ ngày 17 tháng 3 đến ngày 19 tháng 3, Trung đoàn 9 Sư đoàn 320 tiến công tiêu diệt địch ở quận lỵ Phú Nhơn, Mỹ Trạch, Mỹ Thiện.

Ngày 21 tháng 3, quân ta diệt địch dồn về ở Phú Túc và ngày 23 tháng 3 bộ đội ta tiến sát đến Củng Sơn. Ở Củng Sơn địch tụ lại khoảng 6.000 tên, 40 xe tăng, xe thiết giáp và hàng trăm xe vận tải. Đoạn đường Củng Sơn về Tuy Hòa bị hư hỏng nặng, nên quân địch đã ùn lại đây để chờ sửa đường.

Tại Củng Sơn, lực lượng của ta chỉ có Trung đoàn 64 (thiếu) với 2 tiểu đoàn địa phương tỉnh Phú Yên nhưng vẫn kiên quyết tiến công. Ngày 24 tháng 3, quân ta mở đợt tiến công dồn dập vào Củng Sơn, tụ điểm cuối cùng của địch, tiêu diệt và bắt sông gần hết quân địch. Chúng chỉ chạy thoát được 11 xe M113 và một bộ phận của liên đoàn biệt động quân 6.

Ngày 18 tháng 3, Trung đoàn 29 và tỉnh đội Kon Tum giải phóng thị xã Kon Tum, Trung đoàn 95a giải phóng thị xã Plây Cu, Trung đoàn 19 giải phóng Thanh Bình. Ngày 22 tháng 3 Sư đoàn 3 (thiếu) giải phóng An Khê. Cùng ngày, Sư đoàn 10 và Trung đoàn 25 chiếm Khánh Dương. Ngày 20 tháng 3, Trung đoàn 271 (thiếu) chiếm Kiến Đức, địch ở Gia Nghĩa rút chạy, quân ta vào tiếp quản thị xã này.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #169 vào lúc: 21 Tháng Mười, 2018, 09:09:29 am »

Tây Nguyên hoàn toàn giải phóng. Từ trên cao nguyên quân ta đã tỏa ra thành ba mũi tiến công xuống các tình đồng bằng nam Khu 5. Mũi thứ nhất, gồm có Sư đoàn 968 và Trung đoàn 95A từ Plây Cu theo đường 19 tiến xuống Bình Định, phối hợp cùng với Sư đoàn 3 và các lực lượng vũ trang tỉnh Bình Định đánh một trận lớn từ Phú Thông đến sân bay Gò Quánh, tiêu diệt sư đoàn 22, góp phân giải phóng tỉnh Bình Định.

Mũi thứ hai, do Sư đoàn 320 và các lực lượng tăng cường theo đường số 7 tiến xuống phía đông, phối hợp với lực lượng vũ trang tỉnh Phú Yên giải phóng thị xã Tuy Hòa.

Mũi thứ ba, do Sư đoàn 10 và các lực lượng tăng cường đã tiêu diệt lữ dù 3, trung đoàn 40 sư đoàn 22 quân ngụy và tiến xuống giải phóng thành phố Nha Trang (2-4), quân cảng Cam Ranh (3-4).

Sau 1 tháng liên tục tiến công, chiến dịch Tây Nguyên kết thúc vào ngày 4 tháng 4 năm 1975.

Chiến thắng Tây Nguyên, chiến thắng mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đã tạo ra một bước ngoặt chiến lược.

Thắng lợi của chiến dịch mở đầu cuộc Tổng tiến công diễn ra ở Tây Nguyên, một địa bàn chiến lược vô cùng quan trọng của Tổ quốc, từ địa bàn đó ta đã phát triển tiến công xuống đồng bằng, cắt đôi hệ thống bố phòng của địch, đẩy quân địch đến khởi điểm bắt đầu của quá trình tan rã và sụp đổ về chiến lược. Chiến thắng Tây Nguyên đã tạo cho ta thế và lực mới, mạnh toàn diện, có điều kiện tiếp tục đẩy mạnh cuộc tiến công tiến lên giành thắng lợi to lớn hơn. Chiến thắng Tây Nguyên đã tạo ra bước nhảy vọt trong chiến tranh, làm cho so sánh lực lượng giữa ta và địch thay đổi có lợi cho ta. Địch mất 1 quân đoàn, mất 7 tỉnh, bị chia cắt về chiến lược khiến chúng phải rút bỏ và chịu thua nhiều nơi khác. Chiến thắng Tây Nguyên đã cổ vũ, động viên khí thế cả nước ta quyết tâm đẩy mạnh cuộc tiến công tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.

Hướng Quảng Nam – Đà Năng, nổ súng cùng lúc với Buôn Ma Thuột, đúng như quyết tâm và kế hoạch đã định. Sư đoàn 2 của ta tiến công tiêu diệt địch trong quận lỵ chi khu Tiên Phước – Phước Lâm là hai huyện vùng giáp ranh tỉnh Quảng Nam, cách Tam Kỳ về hướng tây nam chừng 10km. Đây là thung lũng rộng khoảng 200km2, làng mạc xen kẽ với đồi núi, sông suối, bao quanh là những dãy núi cao. Tiên Phước - Phước Lâm bị mất, Tam Kỳ và tuyến phòng thủ dọc đường số 1 sẽ bị ta uy hiếp. Quân địch phòng giữ cụm then chốt này có trên 3.000 quân, gồm 6 tiểu đoàn bảo an, 2 đại đội biệt lập, 41 trung đội dân vệ, 2 pháo đội tổ chức thành 3 cụm phòng ngự: chi khu quân sự - quận lỵ Tiên Phước, chi khu quân sự - quận lỵ Phước Lâm và dãy điểm cao Suối Đá. Tiên Phước là cụm then chốt. Cụm Suối Đá có những dãy điểm cao giữ mối liên hệ giữa Tam Kỳ va Tiên Phước. Sư đoàn 2 Lữ đoàn 52 của ta dùng sức mạnh tiến công tiêu diệt đồng loạt các cứ điểm then chốt của cụm phòng ngự Tiên Phước, kết hợp với bao vây bức hàng, bức rút các cứ điểm lẻ.

4 giờ 30 phút ngày 10 tháng 3, cùng lúc với trận Buôn Ma Tuột, ta nổ súng đánh chiếm Suối Đá. Trận đánh diễn ra quyết liệt giữa Lữ đoàn 52 với quân địch ở đây. Đến 16 giờ ta làm chủ trận địa. Cùng lúc, Trung đoàn 31 đánh vào hệ thống phòng thủ của địch ở quận lỵ Tiên Phước, quét sạch quân địch ở Dương Con, Hố Bạch, núi Vú Chị, núi Vú Em. Chớp thời cơ, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 2 cho đơn vị đánh ngay vào điểm cao 211. Từ điểm cao 211 ba mũi quân ta tiến về quận lỵ Tiên Phước. Quân ta đi đến đâu quân địch tan rã đến đó. 16 giờ cùng ngày, ta hoàn toàn làm chủ quận lỵ Tiên Phước.

Ở Phước Lâm, ngay từ sáng sớm, ta đã đánh cứ điểm Hàn Thôn. Hốt hoảng trước sức tiến công của ta, quân địch ở đây chưa bị đánh đã tan. 16 giờ, ta đã kiểm soát toàn bộ quận lỵ Phước Lâm.

Ở Quảng Ngãi, Trung đoàn địa phương 94 và lực lượng địa phương huyện Bình Sơn tiêu diệt cụm chốt bảo an ở tây bắc quận lỵ Bình Sơn, cắt đường số 1 ở bắc Châu Ổ. Nhân dân nổi dậy giải phóng một mảng lớn các xã dọc theo hai bên quốc lộ 1.

Lực lượng địch giảm sút, nhưng chủ yếu là bị động bối rối về chiến lược, hoang mang dao động về tư tưởng, từ ý định giải tỏa đánh lui ta, đã buộc phải chuyển sang phòng ngự. ngày 20 tháng 3, toàn bộ lực lượng phản kích của địch lui về chiếm giữ tuyến điểm cao Dương Huê, Dãy Thám, đông Suối Đá, đông Dương Con… Ở Quảng Ngãi, địch rút bỏ hai quận lỵ Trà Bồng, Sơn Hà đưa quân về tăng cường phòng ngự tuyến đường số 1.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM