Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Ba, 2024, 09:13:23 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Thời sôi động  (Đọc 33879 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« vào lúc: 09 Tháng Tám, 2018, 10:19:26 pm »

Thời sôi động
Nhà xuất bản: Quân đội nhân dân
Năm xuất bản: 2004
Người số hóa: macbupda


LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Là một thanh niên sớm giác ngộ trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1930, trực tiếp tham gia cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, kinh qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, có thể nói cuộc đời của đồng chí Đại tướng Chu Huy Mân đã tham gia vào hầu hết những sự kiện quan trọng của lịch sử Việt Nam thế kỷ XX.

Từ những ngày đầu hoạt động cách mạng, bị bắt, sống cuộc sống cam go, khổ cực trong nhà tù thực dân, rồi vượt nhà lao, tham gia Tỉnh ủy Quảng Nam, vào quân đội, giữ chức Chính trị viên tỉnh đội, Trung đoàn trưởng, Chính ủy đại đoàn, Trưởng đoàn cố vấn quân sự Việt Nam tại Lào, tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu Tây Bắc, Quân khu 4, Mặt trận Tây Nguyên, Quân khu 5, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, cho tới khi giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, là cả một chặng dài vừa chiến đấu, vừa công tác, vừa tự học tự rèn, dâng hiến không mệt mỏi cho dân cho nước của đồng chí Chu Huy Mân. Dù ở bất cứ vị trí công tác nào đồng chí cũng sáng suốt, dũng cảm, quyết đoán hoàn thành tốt nhiệm vụ và trọng trách mà Đảng, Quân đội và nhân dân tin cậy giao phó.

Cuốn “Thời sôi động” của Đại tướng Chu Huy Mân do Đại tá Lê Hải Triêu thể hiện sẽ cho người đọc thấy được một phần cuộc đời cách mạng với những sự kiện sôi động, oanh liệt của đồng chí Chu Huy Mân, vị Đại tướng của quân đội, với cái tên Hai Mạnh (Mạnh về quân sự, mạnh về chính trị). Cuốn sách chia làm sáu giai đoạn (từ năm 1929 đến năm 1975) và tuân theo trình tự thời gian các sự kiện đã xảy ra với phương pháp thể hiện là hồi ức xen lẫn với những tổng kết đánh giá của chính người trong cuộc.

Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.


NHÀ XUẤT BẢN
                                                                                                                                                                               
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN
« Sửa lần cuối: 09 Tháng Hai, 2021, 12:05:55 pm gửi bởi ptlinh » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #1 vào lúc: 09 Tháng Tám, 2018, 10:22:53 pm »

Chương 1
TỪ YÊN LƯU ĐẾN ĐẮC TÔ

Ngày sinh của tôi là 17 tháng 3 năm 1913 (Quý Sửu). Tôi là con trai út trong một gia đình có tám chị em. Nơi tôi sinh là xã Yên Lưu, bên bờ sông Lam thuộc tổng Yên Trường, phủ Hưng Nguyên (nay là xã Hưng Hóa thành phố Vinh tỉnh Nghệ An). Tôi ra đời được 14 tháng thì bố tôi mất. Với chín miệng ăn, khó quá, mẹ tôi phải bán bớt hai chị cho nhà giàu, số còn lại đi làm thuê hoặc làm đứa ở. Là con út, nên tôi được mẹ, các chị, các anh rất thương. Lên tám tuổi, tôi được đi học chữ Hán, bốn năm đầu học liên tục, bốn năm sau phải vừa học vừa làm thuê để phụ giúp gia đình.

Yên Lưu đồng chua nước mặn. Năm này qua năm khác, bà con nơi đây phải chống chọi với bao thử thách để có bát cơm manh áo. Cuộc sống cơ cực đã gắn bó mọi người với nhau, gian truân nhưng khẳng khái.

Khoảng năm 1923, từ Vinh, Bến Thủy những câu chuyện mới lạ truyền miệng lan về Yên Lưu. Ở nước Nga xa xôi có ông Lý Ninh (Lê-nin) lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân làm cách mạng thành công, xây dựng chủ nghĩa cộng sản... được người dân quê tôi đón nhận với một tâm trạng náo nức, vui mừng, nhưng bâng khuâng, suy nghĩ.

Rồi những từ “cách tân”, “tiến bộ cách mạng”, “đấu tranh” cũng xuất hiện đâu đó. Mặc dù chưa hiểu nhiều về nghĩa của các từ mới này nhưng dần dần những từ đó đã trở nên quen thuộc với lớp học sinh chúng tôi. Tôi còn được nghe từ khi đế quốc Pháp xâm lược Việt Nam, khắp ba kỳ Bắc – Trung – Nam đâu cũng có những văn nhân, chí sĩ yêu nước tập hợp lực lượng, chiêu mộ nhân tài, kêu gọi đồng bào kết đoàn đấu tranh chống thực dân phong kiến. Vua Duy Tân bỏ ngai vàng đi chống Pháp; cụ Phan Đình Phùng lập chiến khu chiêu mộ hiền sĩ, tập hợp lực lượng mưu việc lớn; cụ Đề Thám lập căn cứ chống thực dân Pháp ở Bắc Giang... Từ Bắc chí Nam nhiều người du học tìm đường cứu nước mà số đông là người Nghệ An, Hà Tĩnh; trong đó có ông Nguyễn Ái Quốc, người ở huyện Nam Đàn đang sống và hoạt động ở nước Nga Xô-viết, nay mai về nước chỉ lối đấu tranh giải phóng đồng bào. Tin này gắn liền với câu chuyện núi Đụn xẻ đôi, khe Bò Đái nước vẫn chảy nhưng không rì rào như trước. Những tin ấy được nhân dân, nhất là lớp trẻ chúng tôi đón nhận một cách thích thú.

Cũng vào thời gian này nhiều thơ ca kêu gọi tinh thần yêu nước thương nòi của cụ Phan Bội Châu, người làng Đan Nhiệm huyện Nam Đàn ra đời (sau này tôi được biết cụ là một chí sĩ yêu nước vĩ địa của lịch sử dân tộc đầu thế kỷ XX). Cụ là lãnh tụ của các phong trào Duy Tân, Đông Du, Việt Nam quang phục hội. Tuy sự nghiệp cứu nước của cụ không thành, nhưng lòng yêu nước và chí căm thù quân xâm lược của cụ thì mãi mãi không thể phai mòn trong tâm trí người Việt Nam. Nhiều câu thơ của cụ Phan Bội Châu thức tỉnh lòng người, tôi còn nhớ đến bây giờ, như:

            Ba tấc lưỡi mà gườm mà súng...
            Một ngôi đình vừa trống vừa chiêng.


Hay:            Sinh vi nam tử yếu hy kỳ
            Khẳng hứa càn khôn tự chuyên di
            Ư bách niên trung tu hữu ngã
            Khởi thiên tải hậu cánh cô thùy
            Giang sơ tử hy sinh đồ nhuế,
            Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si.
            Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,
            Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.


Dịch là:         Làm trai phải lạ ở trên đời
            Há để càn khôn tự chuyển dời
            Trong khoảng trăm năm cần có tớ
            Sau này muôn thuở, há không ai?
            Non sông đã chết sống thêm nhục,
            Hiền thánh còn đâu học cũng hoài
            Muốn vượt biển Đông theo cánh gió,
            Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.


Đây là bài thơ chúng tôi thích nhất lúc bấy giờ, bởi vì nó đã thể hiện rõ tư thế, quyết tâm của tuổi trẻ, quan niệm chết vinh còn hơn sống nhục đã thức tỉnh tinh thần yêu nước thương nòi của đồng bào thật sôi động nung nấu tâm can. Trong lúc ấy, người dân Yên Lưu quê tôi vẫn phải chứng kiến cảnh Tây đoan sục sạo bắt bớ đánh đập người dân vô tội, rượu ta nấu chúng cho là rượu lậu, muối ta làm nó bảo muối gian. Ngày ngày nhìn sông Lam mùa trong mùa đục, núi Hồng cao vút, sáng chiều, nghe tiếng còi của nhà máy xe lửa Trường Thi và Bến Thủy mà lòng khao khát có sự đổi đời.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #2 vào lúc: 09 Tháng Tám, 2018, 10:24:50 pm »

Vào những ngày này tôi còn nghe thấy người ta thì thầm với nhau: “Nghệ An quê mình đã có cộng sản” với thái độ trân trọng tự hào, mừng, lo suy nghĩ.

Yên Lưu nhiều trường học chữ Hán, thầy giáo và học sinh trường Quốc học Vinh thường về quê giao lưu giúp cho học sinh nông thôn tiếp thu được cái mới.

Mở đầu phong trào cách mạng của nhân dân Yên Lưu là cuộc mít tinh tuần hành vào cuối tháng 10 (âm lịch) năm 1929 tổ chức ở bãi tha ma Chùa Phủ. Hàng năm cứ đến ngày 15, 16, 29 và 30 tháng 10 (âm lịch) nước thủy triều tràn ngập cánh đồng lúa, đồng lác. Về đêm, rươi dưới bùn đất liên tiếp chui lên nổi thành đám, nhân dân đi vớt về làm mắm ăn hoặc đưa ra chợ bán. Anh Chu Văn Chín rủ tôi đi vận động một số thanh niên dự mít tinh. Năm ấy tôi mười sáu tuổi, lần đầu tiên tham gia cuộc mít tinh lớn ở xã. Để giữ bí mật, chúng tôi đều mang theo vợt, thúng và gậy như những người đi vớt rươi. Khoảng 11 giờ đêm, có khoảng 300 quần chúng tới dự. Diễn thuyết là Trần Huy Trí, người làng Yên Ấp. Anh mặc áo dài đen, đội mũ trắng, nói tiếng Bắc lơ lớ nhưng thuyết phục. Anh nói về các vấn đề: Đánh đổ đế quốc Pháp, Nam triều phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc, người cày có ruộng, nhà máy cho thợ thuyền, chính quyền công nông, chủ nghĩa cộng sản (lúc này chưa có cụm từ chủ nghĩa xã hội)... Những khẩu hiệu mới lạ, thật ra có những người dự mít tinh chưa ai hiểu được bao nhiêu, nhưng ai nấy đều sung sườn đến trào nước mắt vì biết được nước mình đã có cách mạng và có nhiều người tài giỏi, nhất định những cuộc đời nô lệ sẽ được đổi thay.

Sau khi nghe diễn thuyết, mọi người hô vang khẩu hiệu: “Đánh đổ đế quốc Pháp”, “Thực hiện độc lập dân tộc, người cày có ruộng, nhà máy cho thợ thuyền”, “Giành chính quyền về tay công nông”, v.v...

Ra khỏi bãi tha ma Chùa Phủ, đoàn biểu tình chia làm hai đoàn. Đoàn một đi về Yên Ấp rồi giải tán, đoàn thứ hai đi vào Yên Lạc, qua Long Mã, Đông Thịnh, Hậu Tư, Gia Phúc đến bãi tha ma Nhã Nam thì giải tán. Đoàn người vừa đi vừa hô khẩu hiệu làm cho nhân dân các làng mà đoàn đi qua im phắc, hình như nín thở.

Sáng 30 tháng 10 là phiên chợ Trụ, người đi chợ không đông như những phiên trước, thái độ mọi người có vẻ trầm lặng, hình như muốn thăm dò tối qua làng mình có ai đi biểu tình? Bọn cường hào và tay sai, tên nào cũng có vẻ lấm lét. Có tên uống rượu mượn chén nói những lời không ra nịnh bợ, không ra hăm dọa. Nhân dân Yên Lưu không ít người qua một đêm thức trắng vui mừng, kín đáo cảm thấy có gì đó quan hệ đến cuộc đời của mình. Cũng trong phiên chợ này, qua những người ở các xã lân cận Nghị Xuân (Hà Tĩnh), Nam Đàn, Hưng Nguyên tôi được biết ở mọi noi phong trào cách mạng đã bắt đầu trở nên rầm rộ.

Sau cuộc mít tinh này, tôi bắt đầu học chữ quốc ngữ, có ít vốn chữ Hán nôm nên học chữ quốc ngữ cũng thuận lợi. Một năm sau thì biết đọc, biết viết, biết đọc những tài liệu in trên thạch và đá. Chuyển từ thơ phú sang dân tộc giai cấp quốc tế.

Từ sau cuộc mít tinh đầu tiên đánh dấu phong trào cách mạng ở Yên Lưu ấy, các thôn xóm đều có những cuộc họp bí mật của quần chúng để nghe cốt cán giải thích những vấn đề nói trên một cách cặn kẽ, cụ thể hơn. Tết Nguyên đán năm ấy một số người từ Yên Dũng, Vinh, Bến thủy, Nghi Lộc về Yên Lưu dưới danh nghĩa du xuân để nói chuyện với phong trào cách mạng ở các địa phương trong cả nước. Do được học hành chút ít, lại sớm tiếp thu không khí cách mạng nên tôi thấy ham thích đi làm cách mạng. Dù là chuyện bí mật, tôi mạnh dạn thưa với mẹ:

- Mẹ ơi, con đã lớn rồi, mẹ cho con thoát ly hoạt động cách mạng, góp phần đánh đổ bọn đế quốc và Nam triều phong kiến để dân mình thoát khỏi ách nô lệ lầm than, mẹ nhé!

Vì tôi là con trai út lại hiền lành, nết na, là niềm an ủi lớn của tuổi già, mẹ tôi trăn trở suy nghĩ mấy ngày đêm, tôi cảm thấy bà không ngủ, ít ăn. Một đêm đông trời khuya gió lạnh, quanh nhà phẳng lặng không nghe tiếng động của bọn mật thám rình mò, mẹ tôi nén xúc động nói từng lời:

- Mẹ đã nghĩ kỹ rồi, con đã quyết, mẹ không ngăn, nhưng đi hoạt động cách mạng thì dễ bị bắt bỏ giam cầm, không biết rồi con có chịu nổi không?

Tôi nhìn thẳng vào mẹ, chớp chớp mắt và nói:

- Dù gian khổ đến thế nào đi nữa (tôi suýt buột miệng nói dù có phải chết) con cũng chịu đựng được, mẹ hãy tin con! Cách mạng thế nào cũng thắng.

- Mẹ tin. Nhưng đã đi thì phải cố cho bằng anh bằng em, con nhé!

Từ đó mẹ luôn quan tâm đến tôi, nhất là mỗi khi đi đêm về, hôm nào mẹ cũng lấy khăn nóng lau chân và đắp chăn cho tôi khỏi lạnh, đề phòng bọn mật thám bất ngờ xông vào kiểm tra, thấy chân lạnh, chúng nghi và cho rằng mới đi hoạt động về.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #3 vào lúc: 09 Tháng Tám, 2018, 10:25:42 pm »

Mùa Xuân năm 1930, không còn là những tin đồn mà cờ đỏ búa liềm đã xuất hiện ở Yên Lưu. Mỗi người dân đều biết quê mình đã có cộng sản. Sau đó ít lâu tôi đã biết chi bộ Đảng đầu tiên ở Yên Lưu có ba người: “Dương Cu (bí danh Hủ), Đinh Văn Ái (bí danh Be), Trần Huy Trí (bí danh Bắc). Bí thư chi bộ không ai khắc chính là Trần Huy Trí – người diễn thuyết trong cuộc mít tinh tuần hành, thị uy đầu tiên – nhà anh khá giả, học chữ Hán nhiều năm, làm nghề bốc thuốc bắc chữa bệnh. Dương Cu nhà nghèo, bố mẹ mất sớm, ở với người cô ruột, được học ít chữ Hán. Đinh Văn Ái nhà nghèo, bố mất sớm, sống với mẹ cũng được học chút ít chữ Hán. Ái khá điển trai, thường theo đoàn hát chèo và hãy đóng vai Thúy Kiều hoặc Thúy Vân.

Ngày 8 tháng 3, Yên Lưu tổ chức mít tinh lớn với khẩu hiệu: “Nam nữ bình quyền”, “Việc làm ngang nhau, tiền lương ngang nhau”, “Phụ nữ cũng được đi học”. Lần đầu tiên được nghe đến quyền lợi của mình, một số chị em bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng.

Ngày 1 tháng 5 năm 1930, Đảng Cộng sản Đông dương chủ trương phát động lễ kỷ niệm ngày Quốc tế lao động đầu tiên ở Việt Nam. Để phối hợp với các cuộc đấu tranh ở nhiều nơi trong cả nước, tại Nghệ An đã có cuộc biểu tình lớn của nông dân Yên Dũng, Yên Lưu, Lộc Đa, Đức Thịnh (Hưng Nguyên), An Hậu, Đức Hậu (Nghi Lộc) phối hợp với công nhân nhà máy ở Vinh – Bến Thủy đấu tranh đòi chính quyền thực dân phong kiến thực hiện các yêu sách: giảm thuế ruộng đất, bỏ thuế thân, thuế thổ trạch, thuế chợ, thuế đò; bỏ lệ bắt phu tạp dịch, ngày làm 8 giờ... Đoàn biểu tình không mang gậy gộc, chỉ kéo cờ búa liềm và biểu ngữ, hàng ngũ chỉnh tề vừa đi vừa hát vang bài Quốc tế ca. Công sứ Pháp ở Vinh huy động lính đến canh gác bảo vệ các nhà máy và sai tri phủ Hưng Nguyên đưa lính đến ngăn cản, nhưng binh lính không ai bắn vào những người biểu tình. Đoàn người vẫn tiến về phía nhà máy xe lửa Trường Thi. Công nhân trong nhà máy nhập vào đoàn người biểu tình kéo về Bến Thủy. Tại đây, hai bên đã xảy ra đụng độ. Quân Pháp nổ súng giết hại 6 người, làm bị thương 18 người. Tuy bị tổn thất, nhưng đây là lần đầu tiên công nhân và nông dân cùng sát cánh bên nhau để đấu tranh chống lại bọn thực dân Pháp và tay sai.

Ngày 1 tháng 9 năm 1930, cuộc biểu tình lớn nhất ở Nghệ An với gần 2 vạn người tham gia đã diễn ra tại huyện Thanh Chương. Cuộc biểu tình này được coi là mốc mở đầu đánh dấu sự ra đời của cao trào Xô-viết – Nghệ Tĩnh.

Từ sau cuộc biểu tình có ý nghĩa lịch sử ở Thanh Chương, không ai đóng thuế chợ và cũng không ai dám thu, mọi người tự do lập hội, tự do biểu tình. Như vậy, phong trào cách mạng đã phát triển đột biến, vượt ra ngoài dự đoán ban đầu. Áp lực đấu tranh mạnh mẽ của nông dân đã làm cho bộ máy chính quyền thực dân phong kiến từ huyện đến các làng xã đều bị tê liệt.

Một tuần sau, ngày 8 tháng 9 năm 1930, khoảng 7.000 nông dân Anh Sơn biểu tình kéo vào phủ đương đưa yêu sách. Thực dân Pháp cho máy bay đến ném bom hai lần vào đám đông, làm chết 9 người và làm bị thương nhiều người khác.

Tại Hưng Nguyên, ngày 12 tháng 9 năm 1930, cuộc biểu tình với quy mô lớn nhất với khoảng 8.000 nông dân hàng ngũ chỉnh tề, mang theo gậy gộc, giáo mác, dây thừng, giương cờ đỏ búa liềm kéo về ga Yên Xuân bắt trói tên sếp ga, cắt đường dây điện tín, đồng thời ra lệnh cho đoàn tàu từ Bắc vào phải dừng lại. Khách trên tàu cũng nhập vào đoàn biểu tình biến thành cuộc mít tinh lớn. Chị Nguyễn Thị Quỳnh Nga đứng lên diễn thuyết tố cáo tội ác của thực dân Pháp và Nam triều phong kiến, kêu gọi quần chúng đi theo Đảng Cộng sản. Tiếng hô khẩu hiệu vang dậy cả một khu vực lớn.

Thực dân Pháp cho một toán lính bắn dọa. Trời lại đổ mưa nhưng đoàn biểu tình vẫn giữ vững đội ngũ, tiến về hướng phủ huyện. Khi đoàn biểu tình đến Thái Lão, thực dân Pháp cho hai máy bay thay nhau ném bom và bắn trọng liên vào giữa đoàn biểu tình làm nhiều người chết và bị thương. Cuộc biểu tình phải giải tán. Khi bà con ta khâm liệm và mai táng những người bị quân Pháp giết hại, máy bay của chúng lại đến ném bom, bắn phá một lần nữa. Tổng số người thiết mạng lên tới 217 người và bị thương 1254 người. Vụ tàn sát cực kỳ dã man này đã làm chấn động dư luận trong nước và thế giới.

Thực dân Pháp tưởng rằng với bom đạn, chúng có thể dập tắt ngọn lửa Xô-viết Nghệ Tĩnh như chúng đã làm với các cuộc biểu tình trước đó. Nhưng chúng càng tàn bạo thì lòng căm thù của người dân Nghệ An, Hà Tĩnh càng dâng cao. Ngay trong đêm 12 tháng 9 năm 1940, gần 5.000 quần chúng Nam Đàn đã nổi trống, mõ biểu tình kéo lên huyện đường phản đối hành động giết người của chính quyền thực dân phong kiến. Ở Thanh Chương cũng vào đêm ấy có khoảng 4.000 nông dân biểu tình phản đối hành động vô nhân đạo của thực dân Pháp và làm lễ truy điệu những người hy sinh. Công nhân các nhà máy ở Vinh – Bến Thủy liên tiếp bãi công; học sinh ở Anh Sơn, Đô Lương, Nghi Lộc bãi khóa... Xứ ủy Trung Kỳ, các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh đã phát truyền đơn, đăng báo ca ngợi tinh thần đấu tranh của quần cúng và lên án tội ác của thực dân Pháp và tay sai.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #4 vào lúc: 09 Tháng Tám, 2018, 10:26:52 pm »

Ngày 12 tháng 9 năm 1930, tuy không thực hiện được ý định giành chính quyền toàn tỉnh Nghệ An nhưng đây là cuộc tập dượt có ý nghĩa lớn. Ngày này về sau đã trở thành ngày Xô-viết Nghệ Tĩnh.

Đến lúc này vai trò lãnh đạo của chi bộ Đảng đối với quần chúng ở Yên Lưu chỉ có anh Dương Cu cùng đội tự vệ đỏ. Độ Tự vệ đỏ lúc đó còn gọi là Thanh niên xích vệ, đội được thành lập trước ngày 12 tháng 9 năm 1930 do anh Trần Vượng làm đội trưởng, tôi làm đội phó.

Sau sự kiện ngày 12 tháng 9 năm 1930, phong trào quần chúng Yên Lưu được giữ vững và bước đầu có kinh nghiệm. Trong dịp Tết Nguyên đán năm ấy, một cuộc biểu tình lớn đã nổ ra ở Yên Lưu. Quần chúng mang theo gậy gộc, giáo mác với ý định đập tan bọn cường hào, thành lập chính quyền Xô-viết ở xã. Nhân dân tuần hành hô vang những khẩu hiệu cách mạng, rồi kéo đến nhà bọn hào lý và tên địa chủ Võ Quý Sơ đập phá thị uy, bắt bọn hào lý đem theo sổ sách và triện đồng ra đình trung nộp cho cách mạng. Đội Tự vệ đỏ chúng tôi tiếp nhận những thứ ấy, nhưng chưa biết xử lý thế nào. Chúng tôi giải thích, răn đe bọn hào lý rồi thả cho chúng về nhà. Nhiều tên sau đó không dám hung hăng như trước.

Tháng 11 năm 1930, chị bộ Đảng ở Yên Lưu ngoài ba người đã có có thêm Trần Ngũ, sau đó thêm Trần Tư (Tư Dài), Đinh Tư (Tư Tròn) và tôi.

Tôi được kết nạp Đảng vào một đêm mùa đông, trong gian nhà bếp của anh Chu Văn Chín. Dưới ngọn đèn dầu lạc chỉ có mấy người, sau khi giới thiệu người cán bộ thượng cấp đến chứng kiến, người thượng cấp rút trong túi áo ra một lá cờ đỏ búa liềm nhỏ xíu rồi nói:

- Hôm nay chi bộ Yên Lưu tổ chức kết nạp đồng chí Chu Văn Điều vào Đảng. Đồng chí đã tự nguyện vào Đảng, phải suốt đời đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa công sản, nếu bị kẻ thù bắt bớ, đánh đập phải quyết không cung khai, tù đày không nản chí, vào sống ra chết không sờn lòng.

Sau đó tôi đứng ra trước lá cờ Đảng tuyên thệ:

- Tôi, Chu Văn Điều xin thề trước cờ Đảng nguyện chiến đấu trọn đời cho Đảng, cho cách mạng, nếu bị bắt bớ, cực hình tra tấn quyết không cung khai, dù phải chịu tù đày quyết không nản chí, vào sống ra chết quyết không sờn lòng.

Tuy chỉ có mấy lời ngắn gọn trước cờ Đảng như vậy nhưng tôi thấy sao mà thiêng liêng đến thế. Tôi cảm thấy rất vinh dự và tự nhủ mình từ đây trách nhiệm sẽ nặng hơn vì Đảng chỉ thu nạp những ai tự nguyện hy sinh phấn đấu vì Tổ quốc, vì nhân dân, để dân đỡ nghèo khổ hơn.

Cũng như nhiều đồng chí khác, lời hứa đơn giản và thiêng liêng ấy cứ sống mãi với thời gian, sống mãi trong tâm trí, trở thành động cơ chiến đấu và chính động cơ đó được chứng minh trong những tình huống thử thách gian nguy, sống chết vẫn giữ vững khí tiết của tôi sau này, của một đảng viên cộng sản.

Sau khi được kết nạp vào Đảng, có một sự việc nhỏ nhưng tâm trí tôi không bao giờ quên được. trong xóm có gia đình anh chị Thẹo Ngơi quá nghèo khổ. Chị vợ sinh cháu đầu lòng, chồng đi lên Bến Thủy kiếm việc làm đã năm ngày, không được một đồng xu. Chị vợ đói, không có sữa cho con bú. Tôi nghĩ cách đi xin gạo ở các gia đình về nấu cháo cho chị ăn để có sữa cho cháu.

Khoảng tháng 3 năm 1931, chính quyền thực dân phong kiến bắt đầu thi hành chính sách khủng bố trắng. Chúng đề ra chính sách “Quy thuận”, bắt mỗi tráng đinh, nhất là đầu đinh phải ký vào sổ cam đoan “từ nay không theo cộng sản nữa”. Mỗi người còn phải nhận một thẻ, nội dung trong thẻ ghi: “Xin nguyện một lòng quy thuận, theo lệnh triều đình bảo vệ an toàn, nếu theo Đảng Cộng sản chống đối chính quyền, cam chịu tội chết”, và bắt mọi người phải “vái cờ vàng”. Chính sách này làm cho bọn tổng lý và bọn tay sai càng lên mặt hà hiếp, dọa nạt dân.

Chi bộ phân công nhan vận động giải thích âm mưu thủ đoạn của địch để nhân dân không chấp nhận ký vào sổ và đeo thẻ “Quy thuận”. trong thời gian này một vài đổng chí đảng viên bị lộ, bị địch bắt giam ở nhà lao Vinh, sau đó bị phát vãng đi các nhà ngục khác. Ở Yên Lưu có hai người là Trần Huy Trí (bí thư chi bộ) và Dương Cu bị địch bắt giam ở nhà lao Vinh, sau đó bị đày vào Buôn Ma Thuột. Một người khác chạy theo bọn mật thám. Mấy tháng sau Trần Tình (là quần chúng) cũng bị bắt và phải đi đày ở Buôn Ma Thuột. Chính quyền thực dân còn thành lập hệ thống bang tá từ xã đến tỉnh. Bang tá có quyền bắt những ai chúng nghi ngờ là cộng sản, tập trung lại để tra tấn đánh đập tàn nhẫn và bắt họ ký vào sổ đầu hàng.

Bang tá Yên Lưu là cửu phẩm, bá hộ Võ Quý Công cầm đầu bọn tay chân độc ác, lập danh sách những người chúng nghi vận và lùng sục bắt để tra tấn. đầu tháng 6 năm 1931, Võ Quý Công cho bọn tay chân lập “trường” tra tấn ở nhà cựu phó lý Cửu Cự (Cự Hương). Chúng ngâm roi mây vào thùng nước mắm phơi nắng nhiều ngày, để khi đánh dễ bị tróc da, tứa máu.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #5 vào lúc: 09 Tháng Tám, 2018, 10:27:58 pm »

Trận đầu tiên chúng bắt tôi và khoảng 50 người khác (hầu hết là Tự vệ đỏ, anh Trần Tư và Đinh Tư chưa bị bắt lần này). Chúng dồn chúng tôi vào sân nhà Cửu Cự, thay nhau dùng roi mây quất túi bụi vào mặt, vào đầu, vào người suốt mấy tiếng đồng hồ. Tất cả đều cắn răng chịu đựng. Trước sự gan góc của mọi người chúng càng hung hăng, đánh đập dã man hơn. Đến gà gáy, nhiều người chịu không nổi đành phải “quy thuận”, cam đoan không theo cộng sản, được chúng tha về. Số còn lại chỉ có tôi, Trần Thực, Nguyễn Giác và mấy người nữa vẫn kiên quyết không chịu khuất phục. Suốt ngày hôm đó, Võ Quý Công trói chúng tôi vào gốc cây và cho mỗi người lưng bát cháo loãng.

Đêm thứ hai, chúng lại thay nhau tra tấn đánh đập dữ dội hơn. Nửa đêm thêm hai người nữa không chịu nổi trận đòn hiểm độc đành phải ký vào bản “quy thuận” và được thả về. Khi còn lại mình tôi, chúng tưởng dễ khuất phục nên vừa dụ dỗ vừa hăm dọa nhưng không được, bọn chúng xông vào đánh tới tấp. Bang tá vừa đánh vừa uống rượu đến lúc say khướt. Tỉnh dậy chúng hất hàm hỏi:

- Có chịu quy thuận không?

Tôi im lặng không trả lời. Những lúc như vậy tôi nhớ lời thề của mình trước Đảng và cảm thấy như mình có sức mạnh để vượt qua đau đớn về mặt thể xác.

Tức giận trước tinh thần đó, mấy tên tay chân bang tá lực lưỡng lại xông vào đánh dồn dập đến khi tôi ngất xỉu chúng mới chịu tha.

Những ngày tôi đau đớn do bị đánh đập, mẹ tôi vất vả bội phần. Bà chạy chữa vết thương, kiếm lá chuối non trải cho tôi nằm đến khi hồi phục.

Sau đó tôi mới biết, trong hai đêm bang tá và tay sai tra tấn những người bị bắt ở nhà Cửu Cự, thì một số cốt cán thay nhau bí mật đứng sau lũy tre theo dõi và thông báo cho nhau về tinh thần bất khuất trước quân thù của anh em. Nhiều người bí mật gửi quà bánh, gạo, thực ăn đến, nhờ vậy nên tôi chóng lành vết thương. Tôi càng thấm thía một điều: Nhân dân không bao giờ xa Đảng, bà con luôn luôn ở bên cạnh Đảng, sẵn sàng bảo vệ và giúp đỡ Đảng. Đảng càng kiên định vững vàng thì lòng dân càng rộng mở. Đó là bài học đầu tiên và cũng theo tôi suốt cuộc đời, đúng là: “Đồ trường tri mã lực, Xử cửu thức nhân tâm”. Tạm dịch: “Đường dài hay sức ngựa, ở lâu biết lòng người”.

Thời gian này các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ trung ương đến xứ ủy, tỉnh ủy đều bị địch đánh phá gây tổn thất nghiêm trọng. Nhiều đồng chí lãnh đạo các cấp của Đảng như Trần Phú, Nguyễn Đức Cảnh lần lượt hy sinh. Ở Nghệ An từ tháng 6 năm 1951 đến tháng 5 năm 1932, tòa án Nam triều tỉnh Nghệ An đã kết án 1.356 người, trong đó có 16 án tử hình, 89 án tù chung thân, 219 người bị tù khổ sai từ 7 đến 13 năm, 663 người bị từ từ 1 đến 5 năm, 373 người bị án treo quản thúc ở xã. Riêng ở nhà tù Buôn Ma Thuột, số tù nhân quê ở Nghệ An chiếm gần một nửa.

Trước những âm mưu, thù đoạn thâm độc của địch, nhân dân có một bộ phận hoang mang và do dự. Để duy trì tổ chức sự lãnh đạo và uy tín của Đảng, các cấp ủy Đảng đã không ngừng bí mật hoạt động, nhất là công tác tư tưởng thông qua những lớp huấn luyện chính trị ngắn ngày, tuyên truyền cổ động nâng cao giác ngộ cách mạng của quần chúng. Đi đôi với công tác tư tưởng, công tác tổ chức cũng được các cấp bộ Đảng đề cao. Ở một số huyện đã lập ra các phân bộ Đảng để chỉ đạo từng vùng cho sát. Các cơ quan làm việc của Đảng, nơi tiếp đón cán bộ và hệ thống liên lạc giữa các cấp ủy Đảng được chấn chỉnh lại cho thuận tiện và bí mật hơn.

Cũng vào thời gian này Xứ ủy Trung Kỳ đã ra chi thị “Thanh Đảng” phổ biến xuống tận cơ sở. Nội dung chính của chỉ thị là đưa ra khỏi Đảng các tầng lớp xuất thân là trí thức, giàu có hoặc con em các quan lại lớn nhỏ. Tôi còn nhớ những câu gay gắt quá tả: “Trí phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”.

Tham gia phong trào, là người trong cuộc, tôi thấy sức mạnh quần chúng như vũ bão. Trong lúc bà con xông tới, nếu ai đó lạ mắt đứng ra can ngăn có thể bị thiệt mạng.

Do chỉ thị thanh Đảng đưa ra không có sự chuẩn bị về tư tưởng trước, lại quá tả nên các cấp bộ Đảng có sự phản ứng ngầm bằng cách chần chừ trong thực hiện, không khai trừ đảng viên. Tuy vậy, nhiều nơi đã thực hiện việc chuyển vị trí và hạ tầng công tác hầu hết đảng viên thuộc đối tượng thanh Đảng ra khỏi các cương vị chủ chốt trong cấp ủy và thay thế bằng những đảng viên thành phần xuất thân công – nông, trình độ thấp. Trong tình hình địch đang khủng bố trắng, chủ trương này đã gây tổn thất không nhỏ cho phong trào.

Khi nhận được thông tin về việc thanh Đảng của Xứ ủy Trung Kỳ, ngày 20 tháng 5 năm 1931, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã kịp thời phê phán chủ trương sai lầm về thanh Đảng và chỉ ra phương hướng đúng đắn về công tác xây dựng Đảng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #6 vào lúc: 09 Tháng Tám, 2018, 10:28:45 pm »

Mùa Hè năm 1931, một bộ phận cơ quan Xứ ủy Trung Kỳ về xã Yên Lưu đóng ở nhà cựu lý trưởng Đình Hồ. Trong bộ phận này đồng chí Chu Văn Biên phụ trách văn phòng. Sau mấy tuần về xã, bộ phận này bị lộ, mật thám về vây ráp truy bắt. Chính quyền thực dân tay sai cho một trung đội lính lê-dương về Yên Lưu đóng ở nhà cựu lý trưởng Trần Thao. Ngày đêm chúng đi tuần tra, thỉnh thoảng lại bắn vài phát súng chỉ thiên để hăm dọa.

Dựa bóng lính lê-dương, bọn cường hào, tay sai càng hống hách gây không khí căng thẳng và uất ức trong quần chúng. Chính sách khủng bố trắng qua mây tháng là bước đầu đào luyện phong trào, bước đầu giúp cho lực lượng tích cực trong nhân dân tin tưởng vào sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Đảng.

Bước sang năm 1932, phong trào cách mạng ở Yên Lưu cơ bản được giữ vững. Các cụ phụ lão dùng đạo lý nói rõ phải trái, cảm hỏa bọn cường hào bang tá. Những đảng viên cốt cán còn lại bí mật giải thích tình hình cho quần chúng, đồng thời tích cực tìm cách liên lạc với cấp trên. Mùa Đông năm 1932, chi bộ Đảng Yên Lưu bắt liên lạc được với cấp trên qua Châu Hoán (Hoán là người Yên Dũng, làm nghề cắt tóc, lấy vợ người Yên Lưu). Chi bộ nhóm họp ở nhà Trần Tư gồm có: Trần Tư, Đinh Văn Tư, Trần Ngũ, Nguyễn Giác, Trần Thực và tôi. Sau khi bàn công việc nắm lực lượng quần chúng và chủ trương khôi phục phong trào của cấp trên, chúng tôi đã dùng dây thừng treo mấy người để thử sức chịu đựng đề phòng khi sa vào tay địch và bị tra tấn. Những người bị treo tuy có đau nhưng đều chịu được. Tuy thế, đó chưa phải là sự thực. Cuối cuộc họp là việc cử bí thư. Hầu hết đảng viên nhất trí bầu Trần Ngũ, nhưng anh nhất định từ chối. Chi bộ chuyển sang bầu Trần Tư (Tư Dài) làm bí thư.

Gần Tết Nguyên đán, chúng tôi được tin Trần Tình được trả tự do. Tuy anh chưa phải là đảng viên nhưng chúng tôi và số đông nhân dân vui mừng vì quê mình có một cựu chính trị phạm được thả về, rất có lợi cho phong trào. Chi bộ bí mật vận động quần chúng góp tiền và cử người đi đón Trần Tình. Sau mấy tuần sức khỏe ổn định, Tình sửa nhà và lấy vợ. Lấy vợ xong, Tình xin thôi hoạt động. Sau này chúng tôi được tin, khi vào ngục Buôn Ma Thuột, Tình tỏ ra yếu đuối nên sớm được trả tự do. Mấy tháng sau, Huy Trí cũng từ Buôn Ma Thuột trở về. Chi bộ bí mật cử người đem quà đến thăm. Gặp anh em trong chi bộ, Trí nói:

- Tôi không hoạt động cách mạng nữa. Các anh cũng không đủ sức làm được việc gì đâu!

Anh ta còn gọi những đảng viên trong xã là những con “nhái sọc”... Anh ta tìm cách bí mật cho bọn cường hào biết mình thôi hoạt động cách mạng.

Sau Tết Nguyên đán (đầu năm 1933) Châu Hoán phản bội, Trần Tư bí thư chi bộ bị bắt đưa lên giam ở nhà lao Vinh. Tư bị giam mấy tháng rồi được thả về. Anh ta lầm lỳ, suốt ngày đóng cửa không tiếp xúc với ai, cả đảng viên và quần chúng. Trong lúc Tư bị bắt, số đảng viên còn lại, chúng tôi thông báo tạm ngừng sinh hoạt và phải cảnh giác đề phòng địch bắt, đồng thời động viên nhau giữ vững quyết tâm, bám sát quần chúng, chuẩn bị khôi phục chi bộ vào những tháng tới.

Mùa Đông năm 1933, chúng tôi lại liên lạc được với cấp trên qua ngả Nghi Lộc. Chi bộ đảng Yên Lưu lần thứ hai được khôi phục. Số đảng viên lần này gồm có: Trần Ngũ, Nguyễn Giác, Trần Thực, Trần Lữ và tôi. Chúng tôi lấy gia đình Trần Lữ làm nơi sinh hoạt. Theo sự chỉ đạo của cấp trên, chi bộ Yên Lưu thực hiện một số nhiệm vụ trước mắt là: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục quần chúng, mở rộng đội ngũ cốt cán, chuẩn bị tổ chức đoàn thể nông dân, phụ nữ, thanh niên, chuẩn bị chuyển hướng đấu tranh nửa công khai hợp pháp, nửa bí mật bất hợp pháp. Cuối cuộc họp chi bộ bầu bí thư, toàn thể đảng viên trong chi bộ nhất trí bầu Trần Ngũ làm bí thư vì anh hiểu biết rộng, nói năng lưu loát, lanh lợi, nhưng không hiểu vì sao Trần Ngũ kiên quyết từ chối, nhiều ý kiến của chi bộ thuyết phục vẫn không làm cho anh thay đổi ý kiến; do vậy chi bộ đã bầu tôi làm bí thư. So với Ngũ nhiều mặt tôi không bằng, nhưng có lẽ qua cuộc tra tấn của bọn bang tá, các đảng viên trong chi bộ và quần chúng trong xã có cảm tình và lòng tin nhất định đối với tôi.

Năm 1935 chi bộ đảng Yên Lưu hoạt động mạnh hơn, bàn nhiều biện pháp nhằm chuyển hướng đấu tranh đòi quyền lợi thiết thực cho quần chúng, cụ thể là:

- Cấp lại ruộng đát công, theo đúng hương ước, ba năm một lần. Vì lẽ, gần mười năm trước đó bọn chường hào nhờ dụng tình hình khó khăn của nhân dân, khả năng đấu tranh của gia đình những người đã chết, bọn chúng chia nhau sử dụng.

- Giảm và bỏ thuế thân: Qua mấy năm khủng bố trắng, chính quyền thực dân phong kiến tăng thuế thân rất tàn nhẫn. Những ai muốn mang thẻ đỏ (được đi làm ăn xa) phải nộp ba đồng bạc giấy Đông Dương. Còn bần đinh mang thẻ mun (chỉ được đi làm ăn trong phạm vi hẹp) phải nộp 2 đồng bạc giấy Đông Dương.

- Bỏ thuế đò: Yên Lưu còn mấy bến đò qua lại sông Lam. Tiền đò của người qua lại, một nửa là của người lái, số còn lại vào túi bọn cường hào.

- Bỏ thuế chợ: Yên Lưu có chợ Trụ, mỗi tháng họp sáu phiên. Nhân dân ra chợ dù bán cái gì cũng phải nộp thuế. Người thu thuế được hưởng một phần, phần lớn vào tay hào lý.

- Buộc bọn hào lý trả lại mười mẫu ruộng tu lý. Hoa lợi hàng năm của loại ruộng này là để chữa đường sá, đình chùa nhưng mấy năm vừa rồi bọn cường hào ăn chặn hết. Buộc nhà cầm quyền phải lập trường dày chữ quốc ngữ, xây dựng nhà thương chữa bệnh cho nhân dân.

Tất cả những yêu sách trên được nhân dân đồng tình ủng hộ. Nhân dân tin Đảng vẫn còn và đã nhìn nhận được những đảng viên nào là đúng tư cách.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #7 vào lúc: 09 Tháng Tám, 2018, 10:29:46 pm »

Về biện pháp đấu tranh, chúng tôi đưa đơn công khai lên chánh tổng, tri phủ và tổng đốc Nghệ An, đồng thời gửi cho triều đình và khâm sứ Huế. Trong khi phát đơn kiện công khai, chi bộ động viên quần chúng gây sức ép, đòi họp trong làng và toàn xã. Những cuộc họp như vậy quần chúng nhân dân tham gia rất đông. Chi bộ còn lập ban đấu tranh công khai, cử Trần Lữ đứng đầu đơn kiện, Trần Thích lo giấy tờ, sau đó kéo lên phủ Hưng Nguyên và tỉnh đường Nghệ An ngồi lỳ trước sân tỉnh đường đưa yêu sách buộc nhà cầm quyền phải giải quyết.

Tháng 5 là mùa thu thu thuế của chính quyền, gia đình tôi phải nộp tất cả là 4 đồng 5 hào. Nhà thiếu 5 hào phải chờ dệt chiếu bán mới có tiền nộp. Chu Văn Đạm – phó lý làng Thượng là anh họ tôi, do bị bọn phản động xui bậy, lợi dụng việc thiếu thuế đã đánh tôi một trận đòn đau. Tôi bực mình với người anh họ vì bị xúi giục mà đánh em, thế là chỉ giữ lại họ Chu, đổi Văn Điều thành Huy Mân. Lúc bấy giờ thanh niên trong thôn thích chữ huy là sáng, chữ mân là có chữ ngọc.

Cuối năm ấy, chi bộ Yên Lưu còn liên lạc với đảng bộ huyện Nghi Xuân (Hà Tĩnh) qua anh Lê Tính mới ở tù về. Thời gian này đảng viên của chi bộ đã khá đông, có cả nam và nữ. Cũng từ năm 1935 trở đi, hàng năm cứ đến ngày 8 tháng 3 (Quốc tế Phụ nữ), ngày 1 tháng 5 (Quốc tế Lao động), ngày 14 tháng 7 (Cách mạng tư sản dân quyền Pháp), ngày 12 tháng 9 (Xô-viết Nghệ Tĩnh), tôi và một số cán bộ lãnh đạo ở địa phương thường bị địch bắt giam ở nhà lao Vinh trước những ngày lễ trên từ 5 đến 10 ngày, sau những ngày đó mới được chúng ta về. Mục đích của bọn thống trị là ngăn chặn không để nổ ra những cuộc mít tinh, biểu tình lớn.

Mùa Đông năm 1935, tôi được trên chỉ định đi họp Tỉnh ủy Nghệ An mở rộng ở làng Kỳ Trân, Nghi Lộc. Cuộc họp này đánh giá phong trào, lực lượng có tổ chức, sau hai năm chuyển hướng đấu tranh vì dân chủ, dân sinh và quyền lợi thiết thực của quần chúng, đồng thời đề ra chủ trương chống chiến tranh và phát xít, bảo vệ hòa bình và Liên bang Xô-viết. Người điều khiển cuộc họp là Đinh Văn Dy (ít lâu sau tôi mới biết Dy là xứ ủy viên Xứ ủy Trung Kỳ, trực tiếp làm Bí thư tỉnh ủy Nghệ An) nói năng lưu loát, khúc chiết, những người tham dự rất khâm phục.

Cuối cuộc họp, Đinh Văn Dy và một đồng chí nữa gặp riêng tôi giao nhiệm vụ thường xuyên giữ vững liên lạc, truyền đạt chỉ thị cấp trên, trao đổi kinh nghiệm của Yên Lưu với chi bộ các xã Đức Quang, Đức Thịnh, Lộc Đa, Yên Dũng Thượng, Yên Dũng Hạ và Mỹ Dụ. Cũng từ đấy tôi thường tiếp xúc, làm việc với anh Trình, cố Hân (Yên Dũng), ông Trần Cu (Mỹ Dụ). Phong trào và lực lượng tổ chức ở những xã này vào cuối năm 1935 có bước phát triển. Các tổ chức mới lần lượt ra đời và công khai hoạt động như: hội hiếu, hội hỷ, hội ái hữu giúp nhau làm nhà và cày cấy, được quần chúng hoan nghênh.

Bước sang năm 1936, phong trào dân chủ, dân sinh bắt đầu phát triển mạnh, quần chúng phấn khởi, chi bộ có thêm kinh nghiệm trong công tác lãnh đạo. Thời gian này những thanh niên đầu năm 1931 hoang mang về nhà nằm im cũng bắt đầu trở lại hoạt động. Có người xin vào Đảng với động cơ xuất hiện nhiều trước quần chúng. Mấy chính trị phạm ở Buôn Ma Thuột về chỉ có Dương Cu là kiên trì hoạt động; Trần Huy Trí tiêu cực, anh ta tiếp tục nói giọng của quan thầy; Tôi không thể làm cách mạng nữa, những người hoạt động ở Yên Lưu hiện nay có khác gì những con “nhái sọc”; Trần Tình vẫn xa lánh đảng viên và quần chúng.

Tận dụng khả năng đòi dân chủ, dân sinh khi Mặt trận bình dân Pháp cầm quyền để đẩy mạnh phong trào dân chủ, dân sinh ở Việt Nam và Đông Dương, Đảng ta chủ trương triệu tập Đông Dương đại hội. Đông Dương đại hội ở Nghệ An họp ở Vinh, trong một hội trường khá lớn. Đại biểu xã Yên Lưu có tôi và anh Trần Ngũ. Đại biểu các tầng lớp nhân dân, các địa phương khác đến rất đông. Các diễn giả đều tập trung vào nội dung dân chủ, dân sinh, hòa bình, chống chiến tranh phát xít và đề ra yêu cầu tự do hội họp, tự do ngôn luận, báo chí, v.v... và đòi tha tù chính trị, giảm sưu cao, thuế nặng, bãi bỏ những sưu thuế bất hợp lý.

Trước phong trào đấu tranh hợp pháp của các tầng lớp nhân dân trong tỉnh, nhất là ở Vinh, công sứ kiêm đốc lý thành phố Vinh đã phải cùng các chủ nhà máy, các hiệu buôn, các nhà thầu khoán bàn bạc cách giải quyết các yêu sách của dân chúng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #8 vào lúc: 09 Tháng Tám, 2018, 10:30:56 pm »

Mùa hè năm 1936, được tin từ Pa-ri, phái bộ Gô-đa, đảng viên đảng cấp tiến, đặc phái viên của Chính phủ Pháp sang điều tra tình hình Đông Dương sẽ tới Nghệ An; Ủy ban hành động tỉnh đã vận động nhân dân các địa phương tập trung càng đông càng tốt ở một số điểm dọc tuyến đường số 1 từ cầu Gát trở vào đến Vinh để đón và trao cho ông ta bản thỉnh nguyện đòi tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, thả hết chính trị phạm.

Ngày 23 tháng 7 năm 1937, Gô-đa đến Vinh. Từ 2 giờ chiều, quần chúng các xã Yên Lưu, Yên Dũng, Lộc Đa đã kéo về ngã ba trước cửa nhà máy xe lửa Trường Thi, họ dừng lại để chờ công nhân từ trong nhà máy đi ra. Bọn chủ đóng cửa nhà máy không cho công nhân đi đón Gô-đa. Các đoàn quần chúng nông dân hô khẩu hiệu đòi mở cửa nhà máy. Cuộc đấu tranh quyết liệt của nông dân đã buộc bọn chủ phải nhượng bộ và mở cửa nhà máy; anh em công nhân ùa ra, nông dân đứng sang hai bên nhường đường cho công nhân đi trước. Đến 20 giờ Gô-đa tới Vinh. Ông ta xuống xe đi bộ trước hàng vạn người, hàng ngũ chỉnh tề kéo dài hàng cây số, hai tay giờ cao biểu ngữ, hô vang các khẩu hiệu:

- Ủng hộ Mặt rận bình dân Pháp!

- Cơm, công việc làm!

- Tự do lập nghiệp đoàn!

- Thi hành luật lao động!

- Bỏ thuế thân!

- Tổng đại xá chính trị phạm.

Cuộc đón và trao thỉnh nguyện cho Gô-đa thắng lợi, nhưng ba ngày sau đó tôi và một số đồng chí lãnh đạo Yên Lưu bị bắt lên nhà lao Vinh, trực tiếp đấu khẩu với Ưng Úy – tổng đốc Nghệ An. Vì không có chứng cứ cụ thể, mấy ngày sau chúng buộc phải trả tự do cho chúng tôi. Cuộc đấu tranh công khai hợp pháp tuy kết quả còn ít nhưng khí thế quần chúng sôi nổi, lực lượng dân chủ phát triển ở Việt Nam và Đông Dương.

Mùa Đông năm 1936, Tỉnh ủy Nghệ An họp mở rộng ở làng Kỳ Trân (Nghi Lộc), tại nhà anh Trần Thực. Là bí thư chi bộ xã Yên Lưu, tôi được tham gia. Trong cuộc họp này anh Hà Sâm - Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy giao cho chúng tôi nhiệm vụ quan trọng, đó là xây dựng cơ sở trong nhà máy xe lửa Trường Thi. Đầu năm 1937, tôi bắt tay vào công việc và đã liên lạc được với anh Đinh Lễ, vì vậy công tác có phần thuận lợi hơn. Do phong trào cách mạng ở Yên Lưu lên cao, chúng tôi chủ trương mở rộng cốt cán, tiếp tục giáo dục, thuyết phục những người nhụt chí, nằm im trước đó. Anh chị Bống, anh chị Lữ, cố Cu Trì, cố Dương Thông tuy không giàu nhưng sẵn sàng nuôi cán bộ trong những lúc khó khăn.

Trong dịp Tết Nguyên đán đầu năm 1937, yên Lưu tổ chức hội chợ xuân, Các gánh hàng từ Vinh về, từ Nghi Xuân – Hà Tĩnh sang, nhân dân tập hợp về đây đông vui, một dịp tốt để giáo dục quần chúng.

Đầu tháng 6 năm 1937, trong công nhân nhà máy Trường Thi đã hình thành nhóm hoạt động bí mật do anh Trần Doanh Tuyên phụ trách. Nhóm này liên lạc với anh Hà Huy Giáp – một cựu chính trị phạm về hoạt động trong phong trào công khai hợp pháp ở Vinh và đã có vai trò lớn trong cuộc đón tiếp Gô-đa.

Ngày 13 tháng 7 năm 1937, chúng tôi phối hợp với nhóm này bí mật vận động công nhân nhà máy xe lửa Tràng Thi tắt máy, ngừng làm việc 45 phút và cử đại biểu gặp chủ nhà máy đưa yêu sách bảy điểm:

1. Tăng lương 30 phầm trăm vì giá cả đắt đỏ.

2. Công nhân được đối đãi như nhau.

3. Không phân biệt quá đáng giữa các ngạch, bậc.

4. Làm việc ngoài giờ phải được hưởng lương gấp đôi.

5. Đến hạn phải được nâng lương, đốc công không được thiên vị.

6. Triệt để thi hành luật lệ lao động.

7. Tự do lập nghiệp đoàn.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #9 vào lúc: 09 Tháng Tám, 2018, 10:31:46 pm »

Chủ nhà máy một mặt chấp nhận yêu sách, mặt khác báo cho mật thám bắt giam những người đưa yêu sách và công nhân tắt máy điện. Lập tức toàn thể công nhân nhà máy kéo đến tòa công sứ Pháp đòi thả những người bị bắt. Bọn chúng không chịu thả, công nhân nhìn ăn ngồi trước tòa công sứ và cử người đến gặp công sứ và tổng đốc Nghệ An đưa yêu sách. Bọn chúng không những không chấp nhận yêu sách mà còn ra lệnh đóng cửa nhà máy và dán yết thị cấm công nhân tụ tập trái phép.

Chiều ngày 6 tháng 7 năm 1937, trên một nghìn công nhân nhà máy xe lửa Trường Thi tuyên bố bãi công tập thể, đồng thời kêu gọi công nhân ngành đường sắt toàn quốc phối hợp đấu tranh.

Ngày 12 tháng 7 năm 1937, công nhân xe lửa Nha Trang, Phan Rang, Đà Nẵng, Sài Gòn, Dĩ An đình công, tiếp đó là công nhân nhà máy xe lửa Gia Lâm và công nhân ngành đường sắt Hà Nội.

Cuộc bãi công của công nhân nhà máy xe lửa Trường Thi nổ ra giữa lúc Chính phủ Pháp đang ngả về phái hữu. Thủ tướng Blum từ chức, chính quyền thuộc địa ở Đông Dương nhân đó cố tình trì hoãn việc thực hiện chính sách cải cách của chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp. Chúng dùng thủ đoạn thâm độc để phá đến cùng cuộc tổng bãi công. Trong tình hình đó các anh Hà Huy Giáp và Trần Danh Tuyên – lãnh đạo phong trào bị bắt cùng với một số đại biểu công nhân. Cuộc bãi công của công nhân nhà máy xe lửa Trường Thi kéo dài hơn một tháng đã kết thúc vào ngày 12 tháng 8 năm 1937.

Mùa Thu năm 1937, tình hình có nhiều khó khăn, trên quyết định điều tôi sang làng Cẩm Mỹ, lấy danh nghĩa dạy học cho mấy người con ông Dương Thông và một số cháu khác để tổ chức đường dây bí mật chỉ đạo phong trào nhà máy xe lửa Trường Thi và các xã mà chi bộ Yên Lưu có nhiệm vụ quan hệ giúp đỡ. Sau mấy tháng, địch theo dõi và bắt tôi lên nhà lao Vinh. Lúc này phong trào cách mạng ở Yên Lưu cũng khó khăn, mọi hoạt động của chi bộ coi như bị đình trệ.

Từ tháng 7 năm 1937 ở châu Âu có nhiều biến động, phát xít Đức và Ý công khai can thiệp vào Tiệp Khắc và Tây Ban Nha. Ở châu Á, phát xít Nhật mở rộng chiến tranh xuống vùng Hoa Nam (Trung Quốc), chuẩn bị xâm lược Đông Nam Á. Nguy cơ một cuộc chiến tranh thế giới nổ ra là điều khó tránh khỏi. Tại Pháp, chính phủ ngày càng thiên hữu, phản bội cương lĩnh tiến bộ của Mặt trận bình dân. Do vậy bọn phản động thuộc địa ở Đông Dương thẳng tay đàn áp cộng sản, khống chế phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ.

Đầu năm 1938, hiểm họa phát xít bao trùm lên nhiều khu vực của thế giới, đe dọa trực tiếp đến Trung Quốc và các nước Đông Dương. Sau Hội nghị Trung ương tháng 3 nam 1938, Đảng ta đã có nghị quyết về vấn đề phòng thủ Đông Dương nhằm làm cho quần chúng đề cao cảnh giác, chống âm mưu xâm lược của phát xít Nhật, chống sự đầu hàng, thỏa hiệp của thực dân Pháp đối với phát xít Nhật. Cũng vào thời gian này, nhà văn Siêu Hải (tức Nguyễn Nhật Tân), một cán bộ của Tỉnh ủy Nghệ An đã viết cuốn “Họa chiến tranh” về vấn đề phòng thủ Đông Dương. Tác phẩm này đã góp phần làm rõ chủ trương đúng đắn của Đảng ta và hướng dẫn quần chúng hành động theo chủ trương đó. Ở Vinh – Bến Thủy, công nhân có lưu truyền bài “Họa chiến tranh”. Bài thơ có đoạn như sau:

      Khốc hại dường bao họa chiến tranh
      Công nông không lẽ chịu làm thinh
      Lợi quyền thu sạch, giàu tuy nó
      Sưu thuế tăng cao, khổ bọn mình.
      Sông máu, rừng xương, đau đớn cảnh
      Nhà tan, cửa nát, thảm thê tình!
      Bao giờ thế giới hòa bình nhỉ?
      Khốc hại dường bao họa chiến tranh.


Tháng 7 năm 1938, tôi nhận được chỉ thị bàn giao cơ sở trong nhà máy xe lửa Trường Thi cho cấp trên. Sau hơn một năm tôi hoạt động bí mật trong nhà máy xe lửa Trường Thi, đã thành lập được một chi bộ có ba đồng chí, do Nguyễn Hoàng làm bí thư, một bộ phận cốt cán và nhiều anh em cảm tình. Cách bàn giao như sau: bí thư chi bộ nhà máy xe lửa Trường Thi đến một quán nước ở cầu Nại, người thượng cấp cũng đến đó, thấy một gói thuốc lào, một bao diêm, xin cho hút một điếu, bí thư chi bộ nhà máy trả lời: “hút hai điếu cũng được”. Sau đó hai người cùng đi với nhau để trao đổi công việc. Mấy tuần sau tôi và Nguyễn Hoàng cùng bị bắt vào nhà lao Vinh.

Những ngày ở nhà lao Vinh chúng tôi có dịp đánh giá phong trào cách mạng Yên Lưu. Chúng tôi thấy rõ, trên ba năm phấn đấu, dù bọn phản động quấy phá, hàng năm đảng viên bị bắt nhiều lần lên Vinh, nhưng đảng viên cốt cán vẫn phát triển, phong trào dân chủ, dân sinh trong xã khá cao, nhân dân hiểu và tin Đảng hơn. Đi đôi với đấu tranh đòi quyền lơi thiết thực, các tổ chức yêu nước dưới hình thức hội đoàn được phát triển. Phong trào truyền bá chữ quốc ngữ được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Ở đâu nhân dân cũng đứng ra mở các lớp học chữ quốc ngữ theo từng độ tuổi. Nhiều địa phương đấu tranh đòi bọn hào lý trích quỹ công ích để dựng thêm trường tư thục cho con em được học hành. Đảng viên và đoàn viên có văn hóa tùy theo khả năng của mình mà nhận dạy các lớp phù hợp.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM