ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN KỶ NIỆM 590 NĂM CHIẾN THẮNG CHI LĂNG, HUYỆN CHI LĂNG (10/10/1427 - 10/10/2017)
I- BỐI CẢNH LỊCH SỬ Sau khi giải phóng được một vùng đất rộng lớn và liên hoàn từ Thanh Hóa trở vào Nam, nghĩa quân Lam Sơn bước sang một giai đoạn chiến đấu hoàn toàn mới, với tư thế hiên ngang của đạo quân quyết chí thay đổi cục diện chiến trường: Chủ động tấn công và tiêu diệt quân xâm lăng bằng những trận quyết chiến chiến lược có quy mô lớn để rồi đè bẹp và quét sạch quân Minh ra khỏi bờ cõi. Lê Lợi cùng các tướng lĩnh, và quân sư: Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hán, Nguyễn Chích, Nguyễn Xí, Lê Lai, Cầm Quý, Xa Khả Tham... giành nhiều thắng lợi.
Sau gần 10 năm dựng cờ khởi nghĩa kháng chiến chống quân Minh xâm lược, đến giữa năm 1427, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nghĩa quân Lam Sơn đã kiên trì, anh dũng chiến đấu giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn, nhưng vẫn chưa hoàn toàn quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi.
Do vậy, nghĩa quân quyết định vây các thành và diệt viện binh địch. Trước tình thế quân đồn trú trong các thành có thể bị tiêu diệt hoàn toàn, Nhà Minh vội điều quân tăng viện, ứng cứu do Mộc Thạnh và Liễu Thăng chỉ huy tiến vào nước ta theo hai đường Vân Nam và Quảng Tây. Qua phân tích, đánh giá kỹ tình hình, Bộ Thống sóa quyết định chọn đạo quân Quảng Tây do Liễu Thăng chỉ huy làm đối tượng tác chiến chủ yếu. Bởi lẽ, đạo quân này tuy có nhiều ưu thế, mạnh hơn, nhưng nếu bị tiêu diệt thì đạo quân Vân Nam dù không bị đánh cũng tự phải rút chạy. Nhiệm vụ đặt ra cho Nghĩa quân lúc này là phải tiếp tục vây hãm các thành, không cho địch hợp quân với viện binh; đồng thời, nhanh chóng chuẩn bị mọi mặt (dựng rào, đắp lũy); chọn những địa bàn hiểm yếu, "thuận" đối với ta, nhưng lại "nghịch" đối với địch để bố trí lực lượng mai phục; thực hiện nhiều mưu, kế, lừa, dụ địch vào thế trận đã bày sẵn để tiêu diệt.
Theo sử cũ nước ta, đạo quân của Liễu Thăng gồm 10 vạn quân và 2 vạn ngựa, đạo quân của Mộc Thạnh gồm 5 vạn quân và 1 vạn ngựa. Tổng số hai đạo quân lên đến 15 vạn. Liễu Thăng là viên tướng đã tham gia nhiều cuộc chiến tranh thời Minh Thành Tổ (1403 - 1425), đã từng lập nhiều chiến công nên được thăng quan rất nhanh. Sau ba lần tham gia bắc chinh đánh Mông Cổ, Liễu Thăng được tăng lên tước An Viễn hầu, làm thái tử thái bảo, trở thành một trụ cột quân sự của nhà Minh. Chức cao, tước lớn, lại cầm đầu 10 vạn quân và nhiều quan võ, quan văn cao cấp, y kiêu căng, coi thường quân ta. Nắm được đặc điểm của viên tướng này, Lê Lợi đã có kế hoạch tác chiến phù hợp nhằm tạo nhân tố bất ngờ rồi tiêu diệt từng bước đạo quân của viên tướng này từ địa đầu biên giới đến phía nam Lạng Sơn.
Nghe tin nhà Minh chuẩn bị điều 15 vạn quân sang tiếp viện cho Đông Quan, không ít tưỡng lĩnh Lam Sơn nôn nóng đề nghị phải nhanh chóng tấn công, lấy lại thành Đông Quan từ Vương Thông vì lo sợ quân viện binh nhà Minh sang tới nơi thì sẽ mất thời cơ lấy thành. Tuy vậy, Nguyễn Trãi lại tham mưu cho Bình Định Vương Lê Lợi rằng, tuyệt nhiên không nên đánh thành. Với lực lượng của Vương Thông đang có trong thành và sự kiên cố của thành Đông Quan, nếu lấy được thành, quân đội Lam Sơn cũng phải chịu tổn thất rất lớn. Khi ấy, mặc dù đã lấy được thành, nhưng với sự tổn hao binh lực như thế cũng khó giữ được thành trước lực lượng viện binh lớn đang ào ạt tiến quân sang Đại Việt. Kế hay nhất là vẫn vây hãm thành Đông Quan, đồng thời tiêu diệt viện binh ở những điểm xung yếu. Lê Lợi thuận theo kế của Nguyễn Trãi, phân công các tướng Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Văn Linh và Đinh Liệt mang quân đi mai phục ở Chi Lăng (Lạng Sơn) để đón đánh đạo quân chủ lực do Liễu Thăng cầm đầu; các tướng Lê Văn An, Nguyễn Lý mang theo quân sẵn sàng tiếp ứng khi tiền quân gặp nguy cấp. Mặt khác, Lê Lợi phân công Phạm Văn Xảo và Trịnh Khả ém quân, sẵn sàng đối phó với cánh quân của Mộc Thạnh.
II- DIỄN BIẾN CHIẾN THẮNG CHI LĂNG Ải Chi Lăng là cửa ải xung yếu nhất trên con đường từ Phia Lũy đến Đông Quan, cách Phia Lũy khoảng 60 km.
Toàn bộ ải Chi Lăng như một thung lũng nhỏ, hình bầu dục, dài khoảng 4km theo hướng Bắc - Nam, chỗ rộng nhất ở giữa khoảng hơn 1km theo hướng Đông - Tây. Phía Tây, vách núi đá vôi dựng đứng bên dòng sông Thương. Phía Đông là dãy núi Thái Hòa và Bảo Đài trùng trùng điệp điệp. Lòng ải đã hẹp, lại có 5 ngọn núi đá nhỏ: Hàm Quỹ, Nà Nông, Nà Sản, Kỳ Lân, Mã Yên. Hai phía Bắc và Nam, mạch núi khép lại, tạo thành hai cửa ải hiểm trở. Ải Chi Lăng, với vị trí và địa thế của nó, đã bao lần là mồ chôn quân cướp nước từ phương Bắc xuống.
Chi Lăng với vị trí quân sự quan trọng như vậy, sách
Việt kiệu thư (Trung Quốc) đã từng chép "là cổ họng của Giao Chỉ", "là nơi hiểm yếu đại quân ra vào. Bộ chỉ huy nghĩa quân Lam Sơn đã chọn ải Chi Lăng làm trận địa đánh đòn phủ đầu hết sức bất ngờ vào đạo viện binh Liễu Thăng. Một vạn quân tinh nhuệ trong đó có 5 voi chiến, 100 ngựa, đã chiếm giữ các vị trí lợi hại. mai phục sẵn sàng đợi địch. Đó là thế trận "phục binh giữ hiểm, đập gãy tiền phong" (
Bình Ngô đại cáo).
Tại Ải Lưu (nằm ở khoảng giữa hai xã Nhân Lý và Mai Sao, huyện Chi Lăng ngày nay), Liễu Thăng "thừa thắng" đuổi theo quân ta chiếm luôn ải Chi Lăng. Trong hàng ngũ tướng giặc có lang trung bộ lại Sử An và chủ sự Trần An và nhiều người lo ngại sợ trúng kế quân ta, hết lời khuyên Liễu Thăng nên thận trọng. Tham tán quân vụ Lý Khánh đang ốm, cũng gượng dậy can gián Liễu Thăng không nên khinh quân ta. Nhưng với tính chủ quan, kiêu ngạo đã bị kích động cao độ, Liễu Thăng gạt bỏ mọi lời khuyên can, hạ lệnh tiếp tục tiến quân.
Ngày 10 tháng 10 năm 1427 (ngày 20 tháng 9 năm Đinh Mùi), Liễu Thăng đích thân dẫn hơn 100 quân kỵ mã xông lên trước đội quân tiên phong hung hăng mở đường tiến vào Chi Lăng. Tướng Trần Lựu đã rút về Chi Lăng, lại đem quân ra đón đánh rồi "giả cách thua chạy". Trên đoạn đường dài từ Phia Lũy đến Chi Lăng, Liễu Thăng chỉ thấy đội quân Trần Lựu vừa đánh vừa chạy. Hắn càng tức tối, thúc quân đuổi sát theo Trần Lựu, lao thẳng vào trận địa mai phục của ta.
Phía bắc ải Chi Lăng có Quỷ Môn quan hiểm dữ với câu 'Thập nhân khứ, nhất nhân hoàn". Phía nam ải Chi Lăng có ngọn núi Mã Yên. Dưới chân núi là một cánh đồng lầy lội, tiếng địa phương gọi là Nà Pùng - Nà Lúm, có cầu bắc qua. Liễu Thăng và hơn 100 kỵ binh vừa qua cầu thì cầu bị sập. Đội quân tiền phong theo chủ tướng, chưa kịp qua cầu. Đội hình của địch bị chia cắt.
Đúng lúc đó phục binh của ta bốn bề nổi dậy, bất ngờ xông lên diệt địch. Hơn 100 kỵ binh của địch bị diệt gọn. Liễu Thăng bị chém đầu tại núi Mã Yên (Đại Việt Sử ký toàn thư - Bản Kỷ - Quyển X).
Cái chết của Liễu Thăng, tên chủ tướng cầm đầu 10 vạn quân là đòn phủ đầu choáng váng đánh mạnh vào tinh thần quân địch. Bị đánh bất ngờ, địch vô cùng hoang mang, lại mất chủ tướng, quân lính càng rối loạn. Thừa thắng quân ta chia cắt đội hình của địch. Quân chủ lực và dân binh địa phương từ khắp ngả lao ra hiệp đồng tác chiến. Diễn biến chiến trận không chỉ bó hẹp trong lòng ải Chi Lăng mà còn diễn ra từ Chi Lăng đến làng Đăng, làng Cóc. Bấy giờ ở xóm Lựu làng Đồng Mỏ có Đại Huề (có người gọi là Lý Huề) một người yêu nước địa phương đã tập hợp nhân dân trong thôn xóm lập ra đội "Tuần đinh tuần tráng" phối hợp cùng nghĩa quân diệt địch. Quân Đại Huề không lớn nhưng là người địa phương thông thuộc từng hẻm núi, dòng khe, nắm rất vững địa hình. Các tướng Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Đinh Liệt, Lê Động, Trần Lựu xông pha giữa trận tiền tận lực chiến đấu.
Trận chiến diễn ra trong một thung lũng hẹp kéo dài đến 8 km, rộng hơn 1 km. Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì địch bị tiêu diệt đến hàng vạn tên.
Chiến thắng Chi Lăng giết chết chủ tướng, tiêu diệt một phần sinh lực địch, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần chiến đấu của quân và dân ta. Đúng như Lý Tử Tấn (1378 - 1457), nhà thơ đương thời, bạn chiến đấu của Nguyễn Trãi, có tham gia khởi nghĩa Lam Sơn đã viết:
"Tiếng trống nổi vang, ba quân thực hùng cường bội sức,
Ngọn cờ thẳng tiến, các tướng đều hăng hái liều thân,
Phia Lũy, Chi Lăng oai hùng vang dội" (Phú Lương Giang)
Liễu Thăng bị giết chết là sự thất bại nặng nề của quân địch, là thắng lợi giòn giã đầy ý nghĩa lịch sử. Phan Huy Chú trong
Lịch triều hiến chương loại chí còn chép cả sự tích "Liễu Thăng thạch", với chứng tích hòn đá cụt đầu. Và nhân chứng lịch sử, anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi ghi rõ:
"Ngày mười tám, Liễu Thăng bị quân ta đánh thất thế ở đồng Chi Lăng. Ngày hai mươi, Liễu Thăng bị quân ta đánh bại, bị giết chết ở núi Mã Yên"