Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 23 Tháng Tư, 2024, 01:38:23 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Bí mật về Adolf Hitler và các chiến hữu  (Đọc 19678 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« vào lúc: 26 Tháng Hai, 2018, 07:59:37 am »


        - Tên sách : Bí mật về Adolf Hitler và các chiến hữu

        - Tác giả : Leonid Mlechin
                        Người dịch : Đỗ Hương Lan, Đặng Quốc

        - Nhà xuất bản công an nhân dân

        - Số hóa : Giangtvx
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #1 vào lúc: 27 Tháng Hai, 2018, 01:57:29 am »


LỜI TÁC GIÀ

        Lý thuvết về chủng tộc đã đưa Adolf Hitler đến quyền lực cao nhất. Ông ta đã nuôi dưỡng và trình bày rõ ràng các ý tưởng chiếm được cảm tình của nhiều người Ở mức độ cao nhất mà trước tiên đó là sự tự tin rằng về bản chất thiên phú, họ -  dân tộc Đức là chủng tộc tốt nhất.

        Dòng máu và môi trường sẽ xác định cuộc sống của con người - Hitler từng tuyên bố như vậy. Theo luận thuyết về chủng tộc thì chỉ có một số người có định mệnh được điều khiển thế giới, còn số khác sẽ phải biến khỏi mặt đất Hitler hoàn toàn mơ mộng trong thực tại. Những ước mơ về một đế chế Đức vĩ đại trải rộng từ La-Mance đến Ural đối với ông ta cũng hiện thực như việc tạo ra một siêu nhân và tiêu diệt toàn bộ các dân tộc khác.

        Hitler đã trả lại cho người Đức - những người đã từng xót xa mạnh mẽ về sự tan rã của đế chế, một cảm xúc gắn kết vào một cường quốc vĩ đại nhưng quan trọng hơn là cảm nhận được ràng đất nước đã có chủ. Ông ta muốn tự giải quyết mọi vấn đề và tự mình thiết lập một trật tự bằng cách tiêu diệt những ai chống đối...

        Hitler không đơn thương độc mã trong việc vạch mặt chỉ tên những kẻ thù toàn diện. Chủ nghĩa xã hội dân tộc là gì nếu không phải là một tập hợp các ý niệm khác nhau về kẻ thù? Đúng, đó chính là sự say sưa thù ghét, là liều thuốc độc mà

        Hitler đã trộn vào món ăn chính trị và tinh thần của các dân tộc và đã tìm thấy cho mình vô số người cùng chí hướng cũng như những kẻ trợ giúp tình nguyện. Trong số đó có cả những người mà ông ta dùng làm vật thí mạng.

        Cuốn sách viết khá nhiều về những người Nga - những người do nhiều nguyên nhân khác nhau đã đứng về phía Hitler và chiến đấu chống lại nước Nga. Điều này có vẻ như khó hiểu. Nhưng tiếc rằng sự thực lại như thế đó. Một số đã mặc quân phục phát xít và bắn vào những người Nga, số khác thì đứng trong hàng ngũ phát xít với hy vọng sẽ nhận được từ Hitler quyền điều khiển Tổ quốc mình và số còn lại góp phần hình thành nên thế giới quan của Adolf Hitler.

        Tất cả những điều đó là những trang sử ít được biết đến và ít được nghiên cứu ở nước Nga. Nhưng kỳ lạ thay, quá khứ không hề chết.

        Phải đến tận sáng ngày 9 tháng 5 năm 1945, người ta mới cảm nhận được rằng chủ nghĩa Quốc xã đã biến đi như ảo ảnh, như sương mù ban đêm dưới những tia nắng đầu tiên của mặt trời.

        Aldolf Hitler - Quốc trưởng của đế chế Đức vĩ đại, người mà hàng triệu dân Đức đã trung thành phục vụ đến phút cuối cùng, trong khoảnh khắc đã biến thành kẻ bình dân thiếu học, kẻ điên cuồng, một phần tử bỉ ổi vừa nhai nhồm nhoàm vừa nuốt chửng súp chay và bánh ngọt.

        Chỉ mình Quốc trưởng là có lỗi về mọi mặt - những người Đức đã tự an ủi mình như vậy. Chính hắn là người châm ngòi cho cuộc chiến, cũng chính hắn đã thành lập đội quân ss, trại tập trung và đã giết người. Lỗi lầm được đổ cho chín tầng mây Tây Tạng, Ở đó Hitler và Himler như người ta nói, đã nhận được từ các thầy tu nhiệm vụ tiêu diệt người Do Thái. Người Đức ngạc nhiên về sự ngây thơ của mình: làm sao họ lại có thể bị quyến rũ bởi bùa mê của con quỷ cám dỗ đó và khi đứng trước các sĩ quan của quán đội chiếm đóng, họ làm dấu thánh và cầu xin tha tội vì họ bị con quỷ làm lung lạc.

        Trên thực tế Hitler đã thuyết phục được không ít thành phần trong xã hội. Nhiều người Đức trong những năm đó đã hoàn toàn tin rằng họ đã quá mệt mỏi bởi nền dân chủ do phương Tây áp đặt, bởi luận thuyết dân tộc chủ nghĩa tự do và chính quyền của bọn dầu xỏ (bọn tài phiệt - như cách gọi hiện nay). Do không có thói quen tự định đoạt trong hành động và ý nghĩ, họ thấy hoang mang khi không có các chỉ thị từ trên, háo hức chờ đợi một chính quyền mạnh và an toàn có thể giải phóng họ khỏi sự thiếu tự tin, khỏi sự cần thiết phải tự quyết định cuộc sống của mình.

        Nước Đức đã cự tuyệt chủ nghĩa tư bản và nền dân chủ nghị viện mà di theo con đường đặc biệt riêng và chọn cho mình một lãnh tụ - Adolf Hitler. Con đường đặc biệt của Đức đã dẫn đến Đế chế thứ Ba, tới chiến tranh thế giới và thảm hoạ.

        Nhìn vào số phận của nước Đức người ta thấy có nhiều điểm giống với số phận của nước Nga. Những phán xét đánh giá hiện nay ở nước Nga cũng giống như những tư tưởng đã huỷ hoại nước Đức. Với sự lo lắng người ta đang nói và viết về một“Nước Nga kiểu Đức thời trước Hitler".

        Nhưng lịch sử đâu phải là một cuốn sách dạy nấu ăn chứa đựng các công thức đã được kiểm chứng. Tất nhiên cuốn sách đó giúp làm sáng tỏ diễn biến các sự kiện trong những hoàn cảnh có thể đối chiếu, so sánh, nhưng mỗi thế hệ phải tự quyết định những hoàn cảnh nào có thể đem ra đối chiếu và so sánh.


L. MLECHIN       
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #2 vào lúc: 28 Tháng Hai, 2018, 01:14:17 am »

PHẨN MỘT

CHỦNG TỘC VÀ DÒNG MÁU


        ỐNG NGHIỆM CHO MỘT CON NGƯỜI MỚI

        Lãnh tụ của nhân dân Đức Adolf Hitler yêu cầu mỗi người dân Đức phải có giấy tờ chứng thực về sự tinh khiết trong nguồn gốc của họ. Nhưng bản thân ông ta trên thực tế không tiết lộ điều gì về tổ tiên của mình. Nói chung ông ta né tránh mọi câu chuyện về gia đình mình.

        “Những người đó không có quyền được biết tôi là ai, không được biết tôi từ đâu tới và xuất thân từ gia đình nào. Thậm chí trong sách của mình tôi cũng không cho phép mình được nói một lời nào về điều đó.” - Hitler thường nói.

        Sự bưng bít tạo ra tiếng xì xào. Đầu tiên người ta quan tâm đến sự xuất thân của bố ông ta - ông Aloiz, người đã ra đời ngoài giá thú và chỉ được mang cái họ Hitler vào lúc ba mươi chín tuổi. Vậy trên thực tế ai là ông nội của Adolf? Các giả thuyết khác nhau được đưa ra, nhiều tên tuổi được nhắc tới - từ Nam tước Rotchsilda đến Bá tước người Áo Otteinschtain.

        Nhiều người có thù hằn cá nhân với Hitler cũng tranh thủ cơ hội này loan tin rằng cha của kẻ bài Do Thái chuyên nghiệp trên thực tế lại là một người Do Thái. Điều này được khẳng đinh bởi Gans Frank - một cựu tướng - tỉnh trưởng các vùng Ba Lan bị chiếm đóng, người đã bị treo cổ sau chiến tranh theo phán quyết của toà án Nurrenberg. Khi ở trong tù ông ta đã làm một bản ghi chép tỉ mỉ, trong đó có viết:

        “Bố của Hitler là con trai ngoài giá thú của một bà nấu bếp có họ là Schichigruber. Theo luật pháp thì đứa con ngoài giá thú phải mang họ mẹ. Khi mẹ ông ta, tức là bà nội của Adolf Hitler kết hôn với một người đàn ông có họ là Hitler thì đứa trẻ sinh ra ngoài giá thú đó, nghĩa là bố của Adolf Hitler, đã được chồng bà nhận làm con. Nhưng điều ngạc nhiên nhất trong câu chuyện này là: khi bà nấu bếp Schichigruber - bà của Adolf Hitler - sinh con, thì bà đang làm việc trong một gia đình Do Thái Frankenberger ở thành phố Gratse. Và chính ông Frankenberger đã chu cấp cho bà tiền để nuôi đứa con trai mình. Do đó có thể nói rằng chính bố của Hitler một nửa là Do Thái, còn bản thân Quốc trưởng mang trong mình một phần tư dòng máu Do Thái.”

        Bản ghi chép của Frank đã buộc các nhà sử học phải nghiên cứu lại gia hệ đồ của Adolf Hitler. Nhưng trong thành phố Gratse không thể tìm được một ai là Frankenberger - người có thể là ông của Hitler. Vào thời điểm đó ở Gratse nói chung không có một người Do Thái nào. Và cả bà nội của ông ta -  Marià Anna Schichigruber cũng chưa từng sống ở Gratse.

        Tiếng đồn đại thì quá nhiều. Người ta viết rằng Hitler cấm nhắc đến tên người bà của mình. Nhưng không phải như vậy. Sau khi nước Áo sáp nhập vào nước Đức năm 1938 người ta đã cho dựng tượng Maria Schichigruber và đây là nơi các học sinh thường được đưa đến để tham quan.

        Một sự việc hoàn toàn khác là Hitler chỉ duy trì quan hệ với một số ít họ hàng, còn lại thì lảng tránh để khỏi phải nghe những lời thỉnh cầu và than phiền của họ. Ông ta đặt tên cho cô em gái Paula - cô em cùng cha khác mẹ của mình là Angela và các con của bà ta là Leo và Heli Raubal.

        Riêng đối với cô cháu gái Heli thì Hitler đã có một thiên tình sử thực thụ và kết quả là Heli đã tự sát. Người cháu trai Leo Raubal phục vụ trong lực lượng Đức Quốc xã. Năm 1943 trung uý Raubal bị bắt làm tù binh ở Stalingrad. Hitler sẵn sàng đánh đổi anh ta lấy thượng uý Hồng quân Iakov Dzugaschvili - con trai của Stalin, người đã bị Đức bắt làm tù binh từ tháng bảy năm 1941.

        Người ta kể lại rằng Hitler muốn cứu thống chế Paulius nhưng Stalin đã từ chối. Trên thực tế chính Quốc hưởng đã đưa ra yêu sách đánh đổi ngang nhau: trung uý - con trai ông ta đổi lấy trung uý - con trai lãnh tụ Nga. Như vậy, câu nói bấy lâu nay vẫn được gắn cho Stalin “Tôi không đổi một nguyên soái lấy một binh sĩ bình thường” - chỉ là chuyện bịa đặt.

        Vậy thì Hitler muốn che giấu điều gì đằng sau những giấu giếm về thân nhân Do Thái ảo và thực tế câu chuyện kỳ quặc về việc Hitler muộn mằn mới được mang họ cha là thế nào?

        Aloiz Schiconguiber được thừa nhận là con hai của chồng mẹ mình - người xay bột thuê - Johann George Hitler chỉ sau khi ông ấy qua đời. Tại sao khi còn sống ông ta không muốn làm việc này?

        Các nhà sử học chỉ tìm thấy một nguyên nhân. Cha của Aloiz trên thực tế là một người khác. Đó chính là anh hai của ông nông dân làm nghề xay bột thuê mang tên Johann Nepomuk Huittler (Hidler, Huittler, Hitler - chỉ là các cách viết khác nhau của cùng một họ). Người này đã có vợ. Điều đó đã khiến ông ta không thể lấy người tình đã sinh con cho mình. Để được gần đứa hẻ, ông ta đã thuyết phục người anh chưa vợ của mình kết hôn với Maria Schicongruber. Mãi tới khi ông ta chết, đứa con hai mới được gột bỏ khỏi vết nhơ là con ngoài giá thú mà nó mang suốt 40 năm trời.
« Sửa lần cuối: 06 Tháng Ba, 2018, 07:15:15 am gửi bởi Giangtvx » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #3 vào lúc: 01 Tháng Ba, 2018, 03:08:36 am »


        Nêu điều đó là sự thật thì câu hỏi thực ra Adolf Hitler muốn che giấu điều gì đã trở nên rõ ràng. Bố của ông ta đã cưới chính đứa cháu gái của mình làm vợ. Thế nên đến cuối đời bà mẹ của Adolf Hitler gọi chồng mình một cách kính cẩn là “Bác”. Nói cách khác, Quốc trưởng sinh ra là do kết quả của cuộc hôn nhân giữa những người cùng huyết thống. Có lẽ vì thế mà bản thân ông ta rất sợ làm cha, sợ rằng con mình sinh ra có thể sẽ không bình thường. Rất có thể, những vết nhơ trong lịch sử gia đình đã mài sắc sự quan tâm bệnh hoạn của Adolf Hitler về tính trong sạch của dòng máu. Ông ta đòi hỏi những người khác những điều mà bản thân không có. Ông ta từng mơ ước gom lại và bảo vệ được dòng máu đại Đức.

        Adolf Hitler thường nói: “Người nào coi chủ nghĩa xã hội dân tộc chỉ là phong trào chính trị chứng tỏ người đó chẳng hiểu gì cả. Chủ nghĩa xã hội dân tộc - điều đó còn hơn cả tín ngưỡng. Đó là sự vươn tới việc hình thành con người mới.”

        Ngày 28 tháng 6 năm 1933, Bộ trường nội vụ của đế chế Vilhem Frik trong bài phát biểu trước hội đồng chuyên viên về các vấn đề chính sách chủng tộc đã nói về hiểm hoạ của mức sinh đẻ thấp. Các phụ nữ Đức sinh đẻ ít hơn mức cần thiết cho sự hưng thịnh và phát triển của quốc gia. Sự suy thoái gia đình là hậu quả của những chính sách bất hợp lý do những người dân chủ và tự do đưa ra. Điều này càng nguy hiểm hơn khi các dân tộc láng giềng có tỷ lệ sinh đẻ quá cao. Nhà nước cần phải khuyến khích vật chất cho các gia đình đông con.

        Tư lệnh lực lượng ss Hemic Himmler và lãnh đạo vàn phòng Đảng Quốc xã Martin Borman đã soạn thảo một luật mới về hôn nhân và gia đình. Họ xuất phát từ tình huống rằng sau chiến tranh sẽ có ba - bốn triệu phụ nữ Đức không còn chồng, nhưng vì quyền lợi quốc gia họ vẫn sẽ phải sinh dẻ.

        Martin Bozman cho rằng cần cho phép những người đàn ông “nghiêm chỉnh, đầy ý chí, mạnh mẽ về thể lực và tinh thần” được kết hôn không chỉ với một mà có thể với hai phụ nữ.

        Heitric Himmler kiến nghị trước tiên cần trao quyền đó cho những binh sĩ được các giải thưởng cao nhất trong chiến đấu - những người được thưởng huân chương thập tự nước Đức và huân chương thập tự Hiệp sĩ, sau đó phát triển rộng quyền có hai vợ đến những người được thưởng huân chương thập tự sắt hạng một và những người được thưởng huy hiệu vàng và bạc do đã tham gia vào các trận giáp lá cà. Y tưởng đó ngay lập tức được Hitler tán thánh.

        -Người chiến binh tốt nhất - Quốc trưởng nói - có quyền chiếm được người phụ nữ đẹp nhất. Nếu một người đàn ông Đức là một chiến binh sẵn sàng chết vô điều kiện thì người đó phải được tự do yêu đương hoàn toàn. Còn kẻ hẹp hòi thì hãy hài lòng với những gì còn sót lại.

        Tư lệnh lực lượng SS Himmler kiến nghị đối với các cuộc hôn nhân mà năm năm không sinh con sẽ bị bắt buộc hủy bỏ.

        -Tất cả các phụ nữ đã có chồng hoặc không chồng -  Himmler nói - nếu họ không có bốn đứa con thì bắt buộc đến lứa tuổi ba nhăm họ phải sinh những đứa trẻ đó với những người đàn ông Đức thuộc chủng tộc tốt nhất. Còn người đàn ông có vợ hay không, điều đó không quan trọng. Và mỗi phụ nữ đã có bốn con, phải để chồng mình đi thực hiện công việc này.

        Nhưng không phải bất cứ đứa trẻ Đức nào cũng được xã hội chào đón. Những đứa ốm yếu bị coi như là gánh nặng của xã hội. Khi trở thành Bộ trưởng nội vụ Vilhem Frik thông báo rằng hai mươi phần trăm dân số đất nước đang bị suy thoái về mặt sinh học. Sự suy thoái đang đe doạ đất nước, cần phải cắt giảm các chi phí cho các thành phần là gánh nặng của xã hội và ốm yếu về tinh thần. Các khoản tiền đó phải để chu cấp cho những công dân khoẻ mạnh.

        Giá mà nước Đức - Hitler nói thẳng - môi ngày sinh ra một triệu trẻ con và bảy trăm hay tám trăm ngàn đứa yếu nhất lập tức bị tiêu diệt thì chúng ta sẽ là một dân tộc hùng mạnh.

        Sức mạnh của Hitler là ở chỗ ông ta có khả năng biến những ước muốn điên rồ thành một thực tế đáng sợ.

        Ngày 8 tháng 11 năm 1942, nhân dịp kỷ niệm “cuộc phiến loạn quán bia” hàng năm khi mà những kẻ theo chủ nghĩa dân tộc lần đầu tiên thất bại trong mưu đồ cướp chính quyền, Hitler đã phát biểu tại Munic như sau: “Người ta thường cười tôi là một nhà tiên tri. Trong số những người cười tôi hồi đó, tuyệt đại đa số hôm nay không còn cười nữa. Còn những người hiện nay vẫn đang cười, rồi chăng bao lâu nữa sẽ hết cười...”
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #4 vào lúc: 02 Tháng Ba, 2018, 02:06:35 am »


        Thế kỷ XX đã đi vào lịch sử như một thời đại khi mà ở nơi này, nơi nọ người ta đã thử tạo dựng một chủng tộc đặc biệt, một giống người mới. Một số đặt hy vọng vào một hệ tư tưởng có khả năng biến đổi cá nhân con người. Một số khác trang bị một phương pháp an toàn hơn. Đó là dùng phương pháp sinh học. Cần gì phải sinh ra những con người từ một chủng tộc thoái hoá, khi mà có thể gây giống một con người mới từ ống nghiệm?

        Luận thuyết nhân chủng học chia loài người thành các nhân chủng hoàn chỉnh và không hoàn chỉnh. Những người theo trường phái khoa học này đi đến kết luận rằng số phận con người hoàn toàn được xác định bởi yếu tố sinh học của người đó. Họ nói một cách bực tức: xung quanh có biết bao nhiêu người tàn tật, những người đau khổ vì các bệnh tật di truyền với những lệch lạc rõ ràng về thần kinh. Những người đó và hậu thế của họ sẽ sản sinh ra những sản phẩm tương tự. Như vậy, sau vài thế hệ cả xã hội sẽ toàn những người ốm yếu và bất bình thường.

        Các nhà sinh vật học đó dựa trên tư tưởng của Charlz Dawin - một nhà bác học nổi tiếng. Lý thuyết của ông về chọn lọc tự nhiên đã gây nên một ấn tượng lớn đối với các nhà sinh vật học thế kỷ XX.

        Nếu trong thiên nhiên chỉ những kẻ mạnh nhất, những kẻ có khả năng thích nghi với điều kiện sống cao hơn kẻ khác mới có  khả năng sống sót thì tại sao loài người lại vi phạm cái quy luật sắt đó? Tại sao xã hội lại quan tâm như vậy đối với những kẻ ốm yếu mà đã biết chắc là chăng có lợi cho xã hội, sao không thay việc đó bằng việc tạo điều kiện cải thiện dòng giống con người?

        Quyền duy trì nòi giống, như một số nhà sinh vật học khăng đinh, chỉ nên trao cho những ai hoàn toàn khoẻ mạnh, như vậy loài người sẽ trở nên hoàn hảo hơn từ thế hệ này sang thế hệ khác.

        Người tuyên truyền các tư tưởng đó chính là anh em con chú con bác của Darwin - nhà nhân chủng học người Anh Fransis Halton. Theo ông, loài người cần phải loại bỏ các gen xấu và phát triển quỹ gen hoàn chỉnh.

        Các tư tưởng đó dựa trên cơ sở môn khoa học về gen di huyền, một môn khoa học đã trở nên phổ biến ở Anh sau cuộc chiến tranh Anh - Boer vào đầu thê kỷ XX. Nước Anh vĩ đại không thể thắng nổi những người Boer Nam Phi. Sự yếu kém quân sự của Anh bị đổ lỗi cho sự suy thoái của chủng tộc Anh.

        Hinston Stewart Schemberlen - người ngưỡng mộ nước Đức vĩ đại, con rể nhà soạn nhạc Richard Vagner Eve đã chuyển về Đức sống với bố vợ và tỏ ý khinh bỉ “cái gọi là” văn hoá tiêu dùng của Anh, đồng thời đánh giá cao các thành tựu văn hoá của Đức (tháng 8 năm 1916 ông đã nhận được quốc tịch Đức). Các tư tưởng đó được tuyên truyền rộng rãi khiến người Đức tin vào tính ưu việt trong tâm hồn mình so với văn hoá “chợ búa” thiếu những giá trị tinh thần ở Anh và Mỹ. Trên thực tế, sự phát triển quá chênh giữa Đức với Anh và Mỹ (Đức quá chậm so với Anh và Mỹ trong công cuộc công nghiệp hoá) khiến người ta lầm tưởng đó là sự chênh lệch về giá trị văn hoá, tinh thần.

        Tuy nhiên những điều này về sau mới bộc lộ ra. Còn vào thời ấy nhằm cải thiện nhân chủng Anh người ta bắt đầu tìm cách thoát khỏi những tố chất con người xấu. Những đứa trẻ mồ côi bị đưa sang Ausstralia - nơi được coi là đất nước của những kẻ tù khổ sai.

        Trong Thế chiến II, Thủ tướng Winston Chirchill ném quân đội Australia vào “cối xay thịt” Singapore để thế chỗ cho những đơn vị quân đội Anh mà ông ta muốn cứu. Trong giới thân cận của mình Chirchill thường nói rằng có thể dùng người Australia làm vật hy sinh vì họ có dòng máu xấu. Các chương trình cải thiện nòi giống tỏ ra nhiều triển vọng đến mức đã lan rộng ở nhiều nước khác nhau.

        Trường đại học đầu tiên về nhân chủng học xuất hiện ở Thụy Sĩ năm 1922. Tư tưởng chính là tước quyền sinh con của những người ốm yếu. Người Thuỵ Sĩ đã thông qua luật triệt sản những ngưòi mắc các chứng bệnh thần kinh và thiểu năng trí tuệ. Ngoài ra luật này cũng cho phép triệt sản những phần tử có lối sống phản xã hội. Một trong những văn bản pháp lý thời đó có quy định “tội chứng để triệt sản là các dòng máu Zigan và xu hướng sống lang thang”. Các nhà chính trị cho rằng một chương trình như vậy còn có lợi về mặt tài chính. Việc gì phải sinh ra những đứa trẻ để rồi sau này lại phải lấy ngân khố quốc gia nuôi chúng?

        Kịch bản tương tự cũng diễn ra ở các nước khác thuộc vùng Skadinavi như Đan Mạch và Na Uy. Ở Thuỵ Sĩ, Bỉ, Áo, Nhật, Hoa Kỳ, người ta đã tiến hành triệt sản đối với phụ nữ bị thiểu năng trí tuệ và những đứa trẻ không bình thường. Nhưng tại các nước đó các chương trình triệt sản dù sao cũng vẫn bị hạn chế đặc biệt. Chỉ có ở Đức mới có đông đảo những người ái mộ thực thụ tư tưởng này. Phụ tá của Hitler, Rudolf Hess đã nói rằng, chủ nghĩa dân tộc - đó “không phải là cái gì khác ngoài sinh học ứng dụng”.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #5 vào lúc: 03 Tháng Ba, 2018, 01:21:39 am »


        Kể cả những đảng viên đảng xã hội - những người không phải là đảng viên Quốc xã, cũng đồng ý với ông ta. Một người trước đó không lâu là cán bộ công đoàn, sau này trở thành giáo sư y học Karl Valentin Miuler đã viết một bài báo năm 1927 với tựa đề “Phong trào công nhân và vấn đề nhân khẩu học” như sau: “Sự thuần khiết về nhân chủng hay sự cố gắng nâng cao chất lượng của quỹ gen - chính là một phương tiện đấu tranh giành chính quyền mang tính xã hội chủ nghĩa, cần phải kiên quyết và trong trường hợp cần thiết được phép dùng các biện pháp cưỡng chế nhằm ngăn chặn sự xuất hiện hậu thế với cả một gánh nặng.

        Nhà nước Quốc xã đã trao cho giáo sư Karl Valentin Muiler phần thưởng quý giá. Đó là cả một bộ môn xã hội nhân chủng học trong trường đại học Tổng hợp của Đức ở vùng tạm chiếm trên đất Praha.

        Sự quan tâm đặc biệt của chính phủ Đức Quốc xã đối với các vấn đề chuyên ngành hẹp Y-Sinh học có vẻ như kỳ quặc nếu vấn đề không liên quan đến việc thực hiện các nhiệm vụ trong chương trình cải thiện dòng giống con người của Đảng chủ nghĩa xã hội dân tộc.

        Các nhà khoa học Đức đã cho ra đời một luận điểm mà sau đó trở thành phương hướng chỉ đạo hành động đối với các đảng viên Quốc xã: “Chúng ta đang nắm trong tay khả năng gây ảnh hưởng đối với số phận sinh học của các thế hệ trẻ em tương lai. Nếu chúng ta muốn có những đứa trẻ khoẻ mạnh thì phải tăng cường sức khoẻ cho nhân dân”.

        Cái ranh giới giữa “những người có giá trị” và “những người không có giá trị đối với nhân dân” đã được vạch ra như vậy. Trạm cuối cùng của cuộc hành trình này là Osventsim và các trại tập trung khác.

        Nhà tư tưởng của những người xã hội dân tộc Alfred Rosenberg rất sẵn sàng chớp lấy các nghiên cứu lý thuyết của các nhà khoa học đồng hương với mình và tuyên bố về “cuộc cách mạng thế giới sàng lọc sinh học”. Những người xã hội dân tộc mơ mộng về việc tạo ra con người mới.

        Ngay từ năm 1924 Hitler đã viết trong “Main campf: “Không có chỗ cho những người nghèo và yếu. Quyền điều khiển thuộc về kẻ mạnh và chỉ có những kẻ yếu đuối bẩm sinh mới coi đó là tàn bạo. Trong cuộc đấu tranh sinh tồn, những kẻ ốm yếu và lừng khừng sẽ là những kẻ bại. Cuộc đấu tranh giành con cái để duy trì nòi giống thuộc về những con đực khoẻ nhất. Người nào không khoẻ mạnh cả về thể chất và tinh thần thì không được phép truyền bệnh cho đời con cháu mình.”

        Các tư tưởng này ăn sâu trong đầu ông ta cho đến tận lúc chết. Tháng 3 năm 1945, khi quân đội Liên Xô đã tiến sát Berlin, ông ta bỗng dưng quyết định sau thắng lợi cuối cùng của Đức sẽ tiến hành khám X-quang toàn bộ nhân dân Đức. Tất cả những người mắc bệnh phổi và tim sẽ bị loại ra và bị triệt sản. Còn gia đình họ sẽ bị cách ly với xã hội...

        Tờ báo của tổ chức chiến đấu ss “Quân đoàn đen” viết: “Một đứa trẻ bẩm sinh là một thằng ngốc không có giá trị như một con người. Nhận thức về sự tồn tại của nó còn ít hơn của một con vật. Và cơ hội tồn tại trong chế độ chủ nghĩa xã hội dân tộc cũng ít hơn”.

        Các nhà sinh, học và y học nghiên cứu về di truyền đã cảm nhận được sự gần gũi trong tư tưởng của lãnh đạo đảng Quốc xã bèn tự tuyên bố rằng mình là các “chiến sĩ sinh học” chiến đấu vì sức khoẻ dân tộc. Họ doạ những người Đức: “Một người mắc bệnh di truyền sẽ sinh sản nhanh gấp hai lần và sau một trăm năm sẽ chỉ còn mười một phần trăm số người Đức là những người khoẻ mạnh bẩm sinh mà thôi.” Họ khẳng định rằng những người thiểu năng trí tuệ và tư chất kém nếu được sinh ra sẽ chèn ép những người khoẻ mạnh. Thế giới tội phạm phần lớn được tạo ra từ những kẻ ngu đần. Vì vậy xã hội phải có biện pháp ngăn chặn không để cho sự ngu đần di truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.

        Những kết luận đó chẳng hề có căn cứ khoa học nào vậy mà cũng gây nên ấn tượng đáng kể. Nhờ đó “các chiến sĩ sinh học” đã tự tin tiến hành cuộc “thanh lọc chủng tộc”.

        Luật “Ngăn chặn hậu thế bệnh hoạn” đã được soạn thảo ngay sau khi những đảng viên Quốc xã lên nắm chính quyền. Trong luật quy định: “Người mang bệnh di truyền có thể bị triệt sản nếu thí nghiệm y học với mức độ xác suất cao cho thấy các hậu thế của người đó sẽ mắc phải các bệnh nặng cả về thể chất hoặc tinh thần. Người mang bệnh di truyền là người ngu đần bẩm sinh, loạn thần kinh,... mù bẩm sinh, điếc bẩm sinh, què quặt dị hình nặng. Việc triệt sản cũng có thể áp dụng đối với người nghiện đồ uống có cồn ở mức độ nặng.”

        Luật trên đã được thảo luận tại cuộc họp Hội đồng bộ trưởng Đức khi hiệp ước về quan hệ đối với Vatican, với nhà thờ Thiên chúa giáo được thông qua. Điều này khiến việc công bố luật phải tạm hoãn một thời gian do vi phạm thông cáo của Giáo hoàng La Mã “Casti Connubii” ngày 31 tháng 12 năm 1931. Theo thông cáo, Giáo hoàng nghiêm cấm sử dụng việc triệt sản như một phương tiện cải thiện dòng giống loài người vì nhà nước không được quyền thực hiện các chức năng của Chúa.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #6 vào lúc: 04 Tháng Ba, 2018, 02:51:01 am »


        “Các nhà đại diện của trường phái ưu sinh học - thông cáo của Giáo hoàng Pie XI nhận định - đã đi xa đến mức cho phép mình triệt sản con người ngoài ý muốn của họ “không phải vì mục đích trừng phạt những tội ác trong quá khứ hay ngăn chặn các lầm lỗi trong tương lai mà bất chấp luật pháp và chính nghĩa mong dành được một sức mạnh mà chính quyền thượng lưu chưa bao giờ có và không được quyền có”.

        Ba chục triệu tín đồ Thiên chúa giáo Đức cần phải lựa chọn giữa nghĩa vụ trước quốc gia và chính kiến tôn giáo. Hoạ hoằn sự lựa chọn mới là nhà nước Quốc xã.

        Tại sao lại như vậy? Lẽ nào sự việc chỉ là bản chất trung thành với chính quyền của người Đức?

        Dĩ nhiên, lòng tin vào thượng đế cũng không xua đuổi được sự sợ hãi. Vatican thì xa, còn đồn Gestapo khu vực thì ở ngay bên cạnh. Lòng sùng đạo không tương đồng với lương tâm.

        Nhưng nguyên nhân chính là ở chỗ tư tưởng gột sạch dân tộc Đức hoàn toàn không bị bác bỏ bởi các tín đồ Thiên chúa giáo Đức và các tín đồ Cơ đốc tân giáo Đức. Họ hân hoan trước những nỗ lực chăm lo đến tương lai dân tộc của các nhà khoa học và các chính trị gia kèm theo hi vọng sẽ có những con người mới - những công dân hoàn hảo của nhà nước Quốc xã.

        Sự giác ngộ về tự do, nỗi đau khổ, sự thông cảm, tình người - những danh từ đó đã trở thành sự nguyền rủa. Tình yêu đối với người thân bị coi là “tự sát”.

        Ngày 14 tháng 6 năm 1933, những người chủ nghĩa xã hội dân tộc đã thông qua luật “Ngăn chặn hậu thế bệnh hoạn”.

        Tháng 9 năm 1937, tại cuộc nói chuyện với các đại biểu đại hội đảng lần thứ IX, Hitler đã nói: “Nước Đức đã hoàn thành một cuộc cách mạng vĩ đại nhất, lần đầu tiên đã tiến hành kế hoạch thanh lọc nhân dân và chủng tộc. Các kết quả của đường lối chính trị chủng tộc Đức đối với tương lai của dân tộc ta sẽ quan trọng hơn bất cứ tác động nào của tất cả các luật khác, bởi vì chúng ta tạo ra con người mới.”

        Điều cốt yếu đáng nói là trong luật, ý kiến của bệnh nhân hoặc của những người đại diện cho họ không có một giá trị gì. Quyết định về triệt sản theo đề nghị của các nhà y học được toà án về các vấn đề sức khoẻ di truyền đưa ra. Sau khi chính phủ của những người chủ nghĩa xã hội dân tộc thông qua luật về triệt sản cưỡng bức thì ở Đức bắt đầu cuộc săn lùng ráo riết đuổi bắt những kẻ bất hạnh.

        Các bác sĩ viết “những kẻ mắc bệnh tâm thần và những kẻ khuyết tật không có bất kỳ quyền sinh con đẻ cái vì chúng ta không cho phép những kẻ tội phạm đốt nhà mà không bị trừng trị”.

        Đã có những nhà bác học và y học háo danh náo nức tham gia vào các dự án lớn do bộ máy của đảng soạn thào. Họ coi đây là cơ hội để tiến thân, là niềm vinh dự được giao. Họ nói rằng đã đến lúc “phải thoát khỏi hàng triệu tiêu bản rác rưởi đang làm chật ních các thảnh phố lớn”.

        Vào thời gian đó các tư tưởng Quốc xã cũng tỏ ra hấp dẫn ở cả ngoài phạm vi nước Đức.

        Ngày 5 tháng 1 năm 1937, nhà văn Mikhail Alexandrovic Scholokhov đã từ làng Veschenskaya gửi một bức thư cho một người quen cũ, nhà báo đồng hương Georgia Borisov. Ông này bị bệnh lao. Scholokhov trách người đồng hương: “Tất cả những gì anh viết là tốt, chỉ ngoại trừ việc anh đã giúp đỡ một đứa trẻ ra đời. Đó là một điều đê tiện trước đứa trẻ và trước cộng đồng. Tiếc rằng anh đã không nghĩ đến điều này một cách nghiêm túc. Cứ phải để Hitler đối với anh như đối với con quỷ, còn luật của chúng ta về vấn đề này hơi mềm.”

        Các bác sĩ Quốc xã phấn khởi bắt tay thực hiện luật về ngăn chặn hậu thế có sự di truyền không lành mạnh. Họ lập danh sách các triệu chứng thiểu năng bẩm sinh: “không tự chủ trong phán xét và trong hành động” “không có khả năng đánh giá một cách phê phán, dễ chịu ảnh hưởng của người khác”... Nói chung, nếu theo sự mô tả đó thì chính các đảng viên Quốc xã, những người lĩnh hội mỗi lời nói của lãnh tụ như luật lệ có triệu chứng đó hơn những người khác...

        Sự hăng say săn lùng bao trùm cả những người thi hành luật. Những tình nguyện viên của đảng đã bắt giữ và giao cho chính quyền những người ăn xin và say rượu để triệt sản. Còn giáo viên cùa các trường học dành cho trẻ thiểu năng trí tuệ đã vội vàng nộp cho các “toà án về vấn đề di truyền lành mạnh” tài liệu về các học sinh của mình. Các bệnh viện thi nhau giành quyền trở thành cơ quan đầu đàn về triệt sản. Ngay cả các bác sĩ nha khoa, xoa bóp, hộ lý và thậm chí cả những thày lang vườn cũng bị bắt buộc phải thông báo cho các cơ quan chính quyền về những người mắc các chứng bệnh di truyền. Các bác sĩ rà soát một cách quá đáng các bệnh án và tủ phiếu của các trạm y tế trường học vì sợ rằng có thể bỏ sót ai đó.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #7 vào lúc: 05 Tháng Ba, 2018, 06:28:21 am »


        Việc triệt sản được tiến hành bởi những người mà về mặt nghĩa vụ công tác phải chăm sóc đến những người tàn tật thơ ấu, trẻ mồ côi và những trẻ bất hạnh khác. Một trong số những giám hộ đó chứng minh: “Hiện nay một điều đã trở nên hoàn toàn rõ ràng là những người Do Thái, da đen, Zigan và những người Slaven không có họ hàng với người Đức về mặt sinh học. Máu của họ không tương hợp với máu của chúng ta. Nhà nước phải nhận trách nhiệm của một người làm vườn. Nhiệm vụ loại trừ những quỹ hạt giống không phù hợp theo quan điểm của đảng và những mầm, chồi lạc loài. Công việc thanh lọc là không tránh khỏi.”

        Hãy giữ cho dòng máu mình trong sạch - nhà thơ Quốc xã Villi Vesper, người luôn ca ngợi Quốc trưởng, đã dạy đứa con trai phóng đãng của mình-dòng máu đó không chỉ là của riêng mình con! Những đề nghị triệt sản được gửi đến các toà án về vấn đề di truyền lành mạnh. Các toà án này ngang hàng với các toà án cấp một, tại mỗi cuộc họp có sự tham gia của hai nhà y học. “Trong việc lựa chọn bác sĩ - như đã nêu trong các chú giải của luật, điểm chú ý đặc biệt cần lưu ý để sao cho họ đứng về phía quan điểm chủ nghĩa xã hội dân tộc.”

        Toà án không bị cấm nghe trình bày của bệnh nhân hoặc của đại diện hợp pháp của họ, nhưng những người này không thể đòi được quyền tham gia hỏi cung các nhân chứng và chuyên gia. Các luật sư bào chữa bị coi như vật chướng ngại. Trong các toà án này định thức “sự hoài nghi được giải thích có lợi cho bị cáo” đã được thay thế bằng “sự hoài nghi được giải thích có lợi cho tổ quốc”. Một giáo sư Đức khi giảng bài về thanh lọc nhân chủng học đã gọi phòng xử án về vấn đề di truyền lành mạnh là bãi chiến trường.

        Tháng 12 năm 1934, tại các “khoá học nâng cao trình độ về sự trong sạch chủng tộc”, giáo sư Zigfrid Kollen - một trong những người sáng lập cộng đồng nhân khẩu học Đức, đã kêu gọi tăng cường sự hà khắc của luật: “Cần phải triệt sản thêm cả những bệnh nhân mang các bệnh di truyền bằng các biện pháp chống những kẻ mang bệnh ngầm ẩn. Những người khoẻ mạnh mang các bệnh di truyền có thể bị phát hiện khi những người họ hàng của họ mắc bệnh”.

        Đó là lời kêu gọi làm tàn phế những người hoàn toàn khoẻ mạnh.

        Cùng với đồng nghiệp của mình - Henrich Vilhelm Kpants với giáo sư Koller năm 1941 đã công bố báo cáo dưới đầu đề “những người không có khả năng đối với cuộc sống xã hội”.

        Hai tác giả đã hoàn thành một phát kiến. Họ phát hiện ra rằng sự không muốn tham gia tích cực vào cuộc sống xã hội của đất nước chủ nghĩa xã hội dân tộc, không có khả năng trở thành một bộ phận của tập thể - đó cũng là một bệnh di truyền, cần phải tước bỏ khỏi họ các quyền mà nhà nước Quốc xã dành cho những người Đức chính gốc.

        Một trong những quyền đó là quyền được sống. Đó là bản án tử hình đối với hơn triệu rưởi người Đức, vì Koller và Krants đã tính rằng số người không có khả năng đối với cuộc sống xã hội là hai phần trăm dân số đất nước.

        Cái nhóm này, theo Kollèr và Krants, “chiếm vị trí đặc biệt về sinh học, trong khuôn khổ các biện pháp nhằm bảo vệ sự thuần khiết của chúng tộc thì cần có sự đối xử đặc biệt và đúng luật đối với họ”. “Sự đối xử đặc biệt” vào năm 1941 có nghĩa là hành hình.

        Các tín đồ Thiên chúa giáo Đức đã phải lựa chọn giữa thông điệp của Giáo hoàng Pie XI nghiên cứu việc triệt sản cưỡng bức như sự can thiệp vào công việc của Chúa, và luật mới: Những bệnh nhân mắc các căn bệnh nan y và những người tàn tật không có quyền có con cái.

        Các linh mục coi trọng lời nói của Quốc trưởng hơn lời nói của Giáo hoàng La Mã. Thậm chí một số còn làm việc đó công khai.

        Một trong những nhà thần học đó đã viết: “Tình yêu đời với thân nhân đòi hỏi phải tiến hành thanh lọc chủng tộc bởi chỉ sau khi cải thiện nòi giống mới có thể tạo ra cơ sở để mở rộng sự trị vì của thượng đế trên trái đất.”
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #8 vào lúc: 06 Tháng Ba, 2018, 07:13:40 am »


        SĂN LÙNG “TẠP CHỦNG ’

        Vật thí mạng tiếp theo dưới danh nghĩa làm trong sạch chủng tộc là những người mang dòng máu lai tạp như những đứa trẻ Đức sinh ra ở vùng Reinsk bởi những người lính da màu của quân đội Pháp chiếm đóng sau năm 1918. Chỉ có điều một số binh lính da đen Pháp được các cô gái Đức thích đã gây cho những người theo chủ nghĩa dân tộc cơn thịnh nộ lớn không kém cơn thịnh nộ của họ khi bị bại trận trong chiến tranh. Làn sóng chủ nghĩa dân tộc súc sinh đã bao trùm các đại biểu nghị viện của tất cả các đảng (Trừ những người dân chủ xã hội tự do).

        Đảng viên Đảng dân chủ xã hội, Bộ trưởng quân sự Đức Gustar phát khùng: “Thanh niên chúng ta đã bị làm nhục, phẩm chất của người Đức và của người da trắng đã bị chà đạp”. Còn Frideric Elbert - Tổng thống Đức thời đó đã bày tỏ sự hối tiếc về việc “sử dụng những người lính da đen có văn hoá thấp trong các đơn vị chiếm đóng để thực hiện việc giám sát nhân dân vùng Rein có tiềm năng cao về kinh tế và tinh thần”.

        Adolf Hitler biết được “nỗi nhục” này khi còn đang bị giam sau cuộc bạo động không thành năm 1924. Ông ta nói: “Bọn Do Thái đã gửi người da đen đến Rein với mục đích tiêu diệt chủng tộc da trắng bằng cách lai tạo...”

        Trước năm 1933, những người chiến sĩ Đức đấu tranh cho sự tinh khiết của chùng tộc không thể làm gì đối với “giống tạp chủng”. Sau khi các đảng viên đảng Quốc xã lên nắm chính quyền thì việc này được giao cho Gestapo.

        Cảnh sát mật quốc gia đi tìm các đứa trẻ đó trên khắp bờ trái của sông Rein. “Giống tạp chủng” được chở đến cuộc họp của uỷ ban gồm các nòng cốt của thế giới khoa học Đức - các nhà chuyên môn lớn nhất trong lĩnh vực di truyền. Họ đã phát hiện “tạp chất chủng tộc da đen” có trong ba trăm tám mươi nhăm đứa trẻ. Người ta đã triệt sản các đứa trẻ đó trong các bệnh viện thuộc nhà thờ Tin lành. Báo cáo về từng ca phẫu thuật được gửi đến Prince-Albrechstrasse - bộ máy trung tâm của cảnh sát mật quốc gia Gestapo.

        Chăng bao lâu sự triệt sản đã không còn làm hài lòng những người theo chủ nghĩa xã hội dân tộc. Bản thân việc giải phẫu cũng không dám đảm bảo trăm phần trăm. Các bác sĩ đã thông báo về một số hường hợp có thai của những phụ nữ đã bị triệt sản. Ngay lập tức những người này đã bị buộc phải phá thai và triệt sản lại. Thế nhưng, chiến tranh đã bắt đầu. Các bác sĩ bị gọi vào quân ngũ và họ không còn thời giờ để bận rộn với việc triệt sản. Lại một lần nữa các nhà khoa học - những người phục vụ chế độ, “các chiến sĩ sinh học của đảng đã đề xuất lối thoát: sát hại vì lý do nhân đạo. vẫn những người mà trước đây thuộc loại bị triệt sản thì nay họ phải bị sát hại...

        Tháng 10 năm 1939, Hitler ra lệnh “tăng quyền cho các bác sĩ và như vậy để có thể làm nhẹ cái chết đối với các bệnh nhân không thể chữa trị mà có lẽ tình trạng cùa họ bị đánh giá là tiêu cực”.

        Có nhiều không số lượng các bác sĩ đã bôi nhọ mình bằng sư nhúng tay vào tội ác đó? Tìm ra người đứng ngoài cuộc có lẽ đơn giản hơn đi tìm câu trả lời.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #9 vào lúc: 07 Tháng Ba, 2018, 05:03:21 pm »


        ĐỪNG GIẾT HẠI? CÂU BỊA ĐẶT CỦA NGƯỜI DO THÁI!

        Những nơi trú ẩn Thiên chúa giáo cầm cự được lâu hơn so với các cơ sở của nhà nước khi mà người ta bắt đi những đứa trẻ đem đi giết hại. Một số ni cô cho đến cuối đời cũng không thể quên được tiếng kêu khóc cùa những đứa trẻ mà họ chăm sóc nhiều năm.

        Một số linh mục Thiên chúa giáo đã thử cứu những người do mình bảo trợ. Một trong số họ đã đến cầu cứu linh mục - Bá tước Phon Halen - người đã có lần đọc bài thuyết giáo nảy lửa chống lại sự giết hại. Nhưng rất tiếc là vị linh mục nhiệt thành này lại không bao giờ đả động đến đề tài này nữa.

        Sự thật là ngày 26 tháng 9, trong tất cả các thánh đường Thiên chúa giáo người ta đã đọc thông điệp của Magi, trong đó lên án sự giết hại những bệnh nhân thần kinh và mãn tính vô tội, những con tin và tù binh, những người thuộc chủng tộc khác.

        Nhưng đã là quá muộn. Bọn Quốc xã biết rằng chúng có thể không cần để ý đến sự phản kháng được ngụy trang rất cẩn thận đó. Năm 1940 khi cố vấn về các vấn đề nhà thờ trong Bộ Nội vụ vùng Baden-Wirtemberg phát biểu phản đối sự giết hại thì người ta trả lời ông: “Đừng giết hại” - đó không phải là lời khuyên cửa Chúa mà là câu bịa đặt của người Do Thái. Ở những nơi có ý nguyện của Chúa ở đó không có sự thương hại đối với những kẻ ốm yếu...

        Vào cuối tháng 3 năm 1941, những chiếc xe buýt màu xám với các cửa sô che kín rèm đã xuất hiện trước nơi cư trú. Đó là xe của một tổ chức được thành lập đặc biệt để chuyên chở những người phải chết - “Công ty trách nhiệm hữu hạn chuyên vận chuyển công cộng bệnh nhân”.

        Những người phải chết với những tay nải, va li nhỏ của mình đã chờ sẵn ở lối vào. Họ còn chưa biết điều gì đang chờ họ ở phía trước. Cha Henric không sợ bọn Quốc xã. Ông đã sẵn sàng trước trại tập trung và sẵn sàng chờ đón cái chết. Nhưng ông không tìm được cho mình sức mạnh để vượt qua quan điểm của các chức sắc nhà thờ, lấy lương tâm làm thước đo duy nhất các hành động của mình. Cho đến cuối đời ông vẫn coi mình có lỗi trong cái chết của những người do ông bảo trợ.

        Theo chỉ thị của Quốc trưởng, ở vùng đất Ba Lan bị chiếm đóng đã có hai trăm năm mươi ngàn người ốm và tàn tật bị thủ tiêu. Thi thể của người Ba Lan được trao cho các nhà khoa học Đức để phục vụ cho việc nghiên cứu mà kết quả là sau chiến tranh cuốn sách giải phẫu của Đức đã được xuất bàn mà tài liệu nghiên cứu chính là những người Ba Lan xấu số.

        Không một ai có thể làm được gì.

        Nhưng vào những năm đầu tiên nắm chính quyền bọn Quốc xã còn chưa cảm thấy tự tin và rất coi trọng các quan hệ tốt với Vatican. Việc triệt sản những đứa trẻ mà cha của chúng là những người lính Pháp da đen được giao cho Gestapo chính là để tránh sự đồn đại.

        Bọn Quốc xã không phải ngay lặp tức đi đến quyết định lập các trại giết người. Chúng bắt đầu từ triệt sản và tiếp sau triệt sản là thảm sát - “Sát hại con người vì mục đích nhân đạo”. Việc sát hại được thay bằng các nhà máy giết người.

        Sau chiến tranh, các nhà thờ Cơ đốc giáo công khai xin lỗi về sự im lặng của mình, về việc họ không dám đối đầu với nền chuyên chính của Hitler.

        Các nhà thờ Thiên chúa giáo ở Roma cần nhiều thập kỷ để chuẩn bị tài liệu về thái độ đối với sự tiêu diệt người Do Thái - “Chúng tôi hồi tưởng - suy ngẫm về sự thiêu huỷ hàng loạt”. trong thư của Vatican gửi “những tín đồ Thiên chúa giáo và tất cả những người có ý nguyện tốt lành” có nói:

        “Trong suốt nhiều thế kỷ đã tích tụ thành kiến đối với người Do Thái và do đó đã gieo rắc lòng khoan dung đối với sự rượt đuổi và bất công chống lại họ. Lập trường này của các tín đồ Cơ đốc giáo không phải là nguyên nhân trực tiếp của sự thiêu huỷ hàng loạt, nhưng nó tạo điều kiện cho tội ác đó...

        Nhà thờ La Mã rất lấy làm tiếc về những tội lỗi và sai lầm của nhiều tín đồ Cơ đốc giáo trong thời gian xảy ra thảm kịch... Khách quan mà nói, sự bài đạo Do Thái ở Châu Âu Cơ đốc giáo đã dung túng cho các tội ác của Hitler.”

        Những tội ác y học không chỉ được thực hiện bởi những tên đao phủ Quốc xã. Khi xuất hiện một khả năng tiến hành các thí nghiệm trên những người sống thì tiếc thay, rất nhiều nhà khoa học, trong đó có cả những người rất sùng đạo làm công việc này. Đối với họ tính háo danh và đường danh vọng là quan trọng hơn. Họ muốn thử nghiệm với “những sinh mạng không có khả năng được sống” và đã có được quyền đó.

        Nhưng sự tỉnh ngộ đã đến quá muộn.

        Năm 1920 bác sĩ tâm thần Alfred Hohe đã cho xuất bản cuốn sách nhỏ với tiêu đề “Cho phép tiêu diệt những cuộc sống ít giá trị”. Đúng hai mươi năm sau ông đã nhận được qua đường bưu điện lọ tro hài cốt của một người họ hàng của mình đã bị giết hại - một cuộc sống cũng bị coi là “ít giá trị”.

        Giáo sư, bác sĩ Frist Kyunke người đã thực hiện việc tiêu diệt những đứa trẻ bị bệnh Down ở Visloh cũng phải đối mặt với một tình huống khi năm 1942 đứa con của ông với những khuyết tật bẩm sinh đã ra đời. Ồng có nhiệm vụ phải giết chết đứa bé, nhưng làm sao ông có thể đang tay giết chết đứa con đẻ của chính mình.
Logged

Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM