Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Ba, 2024, 01:42:26 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Tây Ninh 30 năm trung dũng kiên cường  (Đọc 30995 lần)
0 Thành viên và 3 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #20 vào lúc: 15 Tháng Hai, 2018, 05:41:16 am »

Địch được tin có quân ta trên Núi Bà, chúng cho lực lượng bộ binh theo đường mòn tấn công lên núi, ta bố trí phục kích chờ giặc lên đến dốc Thượng mới nổ súng. Giặc phải tháo lui vất súng đạn, đạp lên nhau bò xuống núi. Đặc biệt trận này có các sư trẻ ở chùa Bà tham gia chiến đấu giết giặc và lo tiếp tế nuôi quân. Sau trận đánh, giặc cho máy bay bắn phá vào chùa Bà, làm hư hại cảnh chùa, sập nhà, nát tượng, gây thêm lòng phẫn uất trong đồng bào.

Giặc Pháp liên tiếp mở nhiều cuộc càn khác vào vùng sâu để chuẩn bị lấn chiếm đóng bót. Chúng đã bị lực lượng võ trang ta phục kích đánh nhiều trận, trong đó có các trận lấy được súng giặc như: trận đánh xe ở Miễu Ông Tà (Bàu Cóp) ta diệt 2 xe, thu 10 súng trường; trận Cầm Cau (Xóm Phan) diệt tiểu đội Miên gian lấy súng, trận Ngã ba Phan diệt 3 xe lấy 12 súng trường, 1 súng Carbine và 1000 đồng tiền Đông Dương.

Đến trung tuần tháng 1-1946, địch tiến hành đóng một số bót trong vùng nông thôn rừng núi phía Bắc như bót Cầu Vịnh, bót ngã Ba Vịnh, bót Khê Đon, bót Suối đá, bót Cầu Khởi và tiếp tục ruồng bố để củng cố vùng đã lấn chiếm.

Qua các cuộc ruồng bố liên miên của tỉnh, tình hình càng thêm phức tạp khó khăn. Đồng bào nông thôn lo chạy giặc, bỏ nhà cửa ruộng vườn, bỏ sản xuất. Để từng bước góp phần ổn định tình hình, các đồng chí đã bàn nhất trí mời đại biểu của hơn 20 xã nông thôn lên Núi Bà họp trao đổi cụ thể tình hình và hướng dẫn các hoạt động tránh né các mũi tấn công lấn chiếm của giặc, từng bước gây dựng cơ sở kháng chiến phía Nam tỉnh bên hữu ngạn sông Vàm Cỏ Đông còn rừng lớn và rừng lõm kéo dài lên đến biên giới phía Tây, bên trong có các xã từ Bến Cầu trở lên Ninh Điền là vùng ruộng lúa phì nhiêu có khu dân cư khá đông, địch chưa lấn chiếm được. Nơi đây, có nhiều thuận lợi cho việc xây dựng chiến khu. Các nhóm võ trang sẽ thống nhất lực lượng kéo về Tổng Giai Hóa xây dựng căn cứ. Anh Mạnh liên lạc được với anh Ba Phu (lúc này anh Ba Phu bị ép nhập vào đệ tứ sư đoàn do Lý Huê Vinh chỉ huy đóng ở Núi Cậu) và khéo léo lôi kéo được lực lượng vũ trang trở về tỉnh được trên 30 súng. Lực lượng này cùng với lực lượng anh Đẩu, anh Bằng, anh Điểm nhập lại thành lập một phân đội tương đương đại đội do anh Đẩu, anh Bằng chỉ huy. Phân đội kéo qua vùng Bến Cầu và xây dựng chiến khu ở rừng Tầm Đinh.

Đồng bào vùng Tổng Giai Hóa đang lo sợ nạn “cáp duồn” (giết người Việt) cướp bóc tài sản của lực lượng Miên gian được Pháp xúi giục gây hằn thù dân tộc. Hàng ngày bọn chúng từ bót cây Trôm kéo xuống các xã giết người, cướp của. Phân đội võ trang do anh Đẩu, anh Bằng chỉ huy kéo về đây được đồng bào hoan nghênh và ủng hộ triệt để. Phân đội đã chống trả nhiều cuộc càn quấy của giặc bảo vệ tính mạng, tài sản của đồng bào. Phân đội đã tiếp cận bót cây Trôm nghiên cứu địch tình, nắm qui luật sáng nào sáu giờ địch cũng kéo ra khỏi bót đi càn quấy kiếm ăn, chỉ để ở nhà mấy tên trên chòi canh giữ bót. Phân đội bố trí lực lượng chia ra hai cánh. Một cánh phục kích bên ngoài đó đánh bọn  đi càn về. Một cánh diệt bọn gác ở chòi canh và tiến vào đánh bót. Cánh diệt chòi canh đã nhanh chóng tiêu diệt địch và đốt bót, lửa khói ngút trời. Bọn giặc đi càn thấy bót cháy về cứu ngay, lọt vào vòng kích của ta, bị ta diệt gọn. Phân đội đã lấy lại tài sản, trâu bò đem giao trả cho đồng bào bị cướp. Trận đánh thắng có tác dụng khá mạnh. Bọn Miên gian ở biên giới chùn bước không dám đi cướp phá hàng ngày như trước. Đồng bào ở Tổng Giai Hóa rất phấn khởi, tin tưởng, triệt để ủng hộ cách mạng và tích cực tham gia kháng chiến.

Ở vùng Tổng Giai Hóa còn có bộ phận quốc gia tự vệ Cuộc do Khương Quang Cảnh phụ trách và phòng 5 của Ủy ban kháng chiến do anh Mạnh phụ trách cũng có trang bị võ khí. Các bộ phận đều cần sửa chữa súng làm bì đạn và các loại võ khí khác phục vụ cho kháng chiến. anh Mạnh tổ chức tập hợp anh em công nhân ở hãng đường Thanh Điền và các sở cao su Chúp, Mimốt của tỉnh, tập trung dụng cụ, thành lập xưởng sản xuất vũ khí tại Lò Ghè, Rừng Tầm Đinh. Xưởng đã làm rờ-sạt bì đạn, sửa súng về sau làm được lựu đạn, đạp lôi phục vụ chung cho lực lượng võ trang tỉnh.

Ban lãnh đạo tỉnh, sau khi bố trí đưa lực lượng võ trang đi lên Khu xong, các anh Tung, Tấn, Thuần trở lại tỉnh. Gặp nhau các đồng chí bàn sắp xếp tổ chức và móc nối các anh Huỳnh Thanh, Lê Đình Nhơn lúc ấy ở xã An Tịnh, anh Đông ở Sóc Lào, cùng qui tụ số cán bộ khác từng bước hình thành các tổ chức Ủy ban hành chánh tỉnh, Ban Tuyên truyền tỉnh, Mặt trận Việt Minh tỉnh và chuẩn bị tổ chức các cơ quan hành chính, mặt trận ở hai huyện Châu Thành và Trảng Bàng.
« Sửa lần cuối: 17 Tháng Hai, 2018, 11:43:06 am gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #21 vào lúc: 15 Tháng Hai, 2018, 05:41:43 am »

Ngày 5-3-1946, Khu có quyết định chính thức thành lập chi đội 11 tại xã An Điền (Bến Cát) do Trịnh Khánh Vàng làm chi đội trưởng (Trịnh Khánh Vàng là một lính tập của Pháp, là tín đồ Thiên Chúa giáo lấy tên Giăng-Pát-tít Vàng. Chi đội 11 về tỉnh trước sau đó chi đội trưởng Trịnh Khánh Vàng mới về Tây Ninh). Chi đội 11 trở về Tây Ninh kháng chiến. Chi đội 11 kéo về tới rừng Bào Gõ (Bến Cầu) tạm trú quân. Địch phát hiện và tập trung lực lượng từ 4 hướng tấn công quyết bao vây tiêu diệt chi đội 11. Lúc ấy chi đội có một đại đội với 80 súng trường, 6 tiểu liên và 1 đại liên (Maxime). Địa hình ở đây là đồng ruộng, sình lầy, muốn tấn công vào, địch phải dùng tàu đổ bộ tại Lò Than phía hữu ngạn sông Vàm Cỏ Đông và xe vận tải đổ quân trên lộ 1, cách 5km về phía sau.

Cánh quân 1 của địch từ Sóc Nóc tiến vào Bến Cầu bị quân ta phục kích ở bìa xóm nổ súng chặn đánh, địch phải tháo lui.

Cánh quân 2 từ Gò Dầu được xe chở xuống lộ 1, chúng băng ruộng tiến vào Xóm Mới gặp trung đội 3 phục kích tại đó. Hai bên đánh nhau súng nổ giòn giã. Hơn 10 phút sau trung đội 1 của ta vận động ra chi viện đánh vào sườn và bọc vòng phía sau địch. Quân Pháp thấy bất lợi lùi lại, bị tiểu đội bọc hậu bắn xối xả vào lưng, địch hốt hoảng bỏ chạy tán loạn… Nhân dân địa phương vác gậy gộc, dao rựa cùng bộ đội đuổi theo. Giặc Pháp cuống cuồng tuột áo, quăng túi đạn, tháo ra lộ 1. Thấy quân dân ta truy kích tới, bọn lái xe kinh hãi rồ máy cho xe chạy trước. Giặc Pháp không còn xe phải chạy bộ về Gò Dầu. Quân ta truy kích gần tới lộ thì nghe hướng Bàu Gõ nổ súng liền quay lại tiếp ứng.

Cánh quân 3, từ sông Vàm Cỏ tàu giặc chở quân đổ bộ vào Bàu Gõ là đụng ngay trung đội 1 của ta. Trong lúc hai bên đang nổ súng thì trung đội của quân ta đã quay trở lại tiếp ứng. Bị từ chính diện bắn ra, sau lưng bắn tới, quân Pháp phải rút tạt ngang chạy xuống tàu.

Cánh quân 4 từ Lò Than đổ bộ lên Sóc Khuất, Bến Đình chọc thẳng vào giữa xóm, rồi tỏa ra bao vây,bắt một số cán bộ và chị Trâm nữ y tá, hãm hiếp rồi giết chết. Ở đây, ta chỉ có mấy cây súng cơ quan và tiểu đội bảo vệ đánh cầm cự. Tình hình rất nguy ngập thì các trung đội của ta đã kịp thời từ Bàu Gõ vận động tới từ hai phía ép quân Pháp vào giữa. Cây đại liên của ta nổ liên hồi vào đội hình địch, diệt nhiều tên. Quân ta hai gọng kềm xung phong khép chặt, quân Pháp bỏ chạy tán loạn… Thanh niên địa phương kịp thời dẫn đường cho các tiểu đội của ta chạy tắt chặn các ngách. Địch ló đầu ra nơi nào cũng bị bắn. Cuối cùng quân và dân ta đuổi kịp giặc, dùng lưỡi lê, dao, rựa, đâm chém, xác giặc bỏ lại ở các nẻo đường, đồng ruộng. Ba đồng chí cán bộ của ta bị giặc bắt cũng được giải thoát. Nhân dân tại xóm được trực tiếp chứng kiến và tham gia chiến đấu giết giặc. Kết quả trận đánh: ta hy sinh 7, địch bị diệt trên 50 tên. Ta thu 16 súng trường, 1 trung liên, 2 tiểu liên. Trận đánh đầu tiên của chi đội 11 bằng phục kích vận động chiến và nhanh chóng hợp đồng chặt chẽ đã thu được thắng lợi to lớn.

Đánh xong, ta cho chuyển quân ngay, ngày hôm sau, giặc cho máy bay oanh tạc xuống trận địa đã bỏ không. Chi đội 11 vừa về đến tỉnh nhà, với chiến thắng đầu tiên làm cho tinh thần chiến sĩ, đồng bào phấn khởi.

Chi đội kéo về vùng Bà Lu, Chối Nước thì chi đội trưởng Trịnh Khánh Vàng mới từ Khu về Tây Ninh và mang theo lệnh của Khu trưởng Nguyễn Bình cho sáp nhập 3 đại đội và chỉ định Ban chỉ huy chi đội và các đại đội để thống nhất lực lượng võ trang tỉnh.

Ban chỉ huy chi đội và các đại đội A, B, C:

- Chi đội trưởng: Trịnh Khánh Vàng.

- Chính trị viên: Nguyễn Lê Uẩn.

- Chi đội phó: Trần Văn Đẩu.

- Đại đội trưởng, đại đội A: Aubert Mẫn.

- Đại đội trưởng, đại đội B: Cao Minh Căn.

- Đại đội trưởng, đại đội C: Nguyễn Công Bằng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #22 vào lúc: 15 Tháng Hai, 2018, 05:42:19 am »

3. Thống nhất lực lượng võ trang của tỉnh dưới sự lãnh đạo của Đảng đẩy mạnh kháng chiến:

Hiệp định sơ bộ 6-3-46 được ký kết, là điều kiện tốt vừa nâng cao tinh thần, lòng tin của toàn dân, vừa cho các tỉnh phía Nam thêm thời gian củng cố lực lượng tiến hành cuộc kháng chiến.

Chi đội 11 được thành lập, là thuận lợi lớn có ý nghĩa quyết định cho các bộ phận của chính quyền, mặt trận sắp xếp tổ chức, mở rộng hoạt động kháng chiến.

Ban lãnh đạo tỉnh được củng cố còn lại 4 đồng chí phân công nhau phụ trách các ngành.

Khoảng tháng 4-1946, các đồng chí tổ chức cuộc hội nghị cán bộ tại Bù Lu – Chuối Nước trao đổi thống nhất tình hình ở địa phương bàn phương hướng hoạt động lãnh đạo kháng chiến và phân công cán bộ trực tiếp nắm các ngành và xuống huyện, xã lo tuyên truyền vận động quần chúng tổ chức xây dựng các mặt công tác chính quyền, mặt trận và đoàn thể ở địa phương.

Đồng chí Trần Thuần cùng các đồng chí quy tụ một số cán bộ và thành viên theo yêu cầu cơ cấu, tổ chức lại Ủy ban hành chính tỉnh do đồng chí Thuần quyền chủ tịch, ông Trương Văn Xưởng đại biểu Cao Đài phó Chủ tịch, đồng chí Huỳnh Thanh tổng thư ký ủy ban. Hướng phát triển của Ủy ban tỉnh là tìm người địa phương có uy tín, có năng lực đưa vào Ủy ban tỉnh và tổ chức chính quyền ở hai huyện và các xã.

Đồng chí Tấn phụ trách xây dựng các mặt cho huyện Châu Thành lo cả tổ chức đảng, chính quyền và Mặt trận.

Đồng chí Cát quy tụ các đồng chí và một số vị nhân sĩ có uy tín trong dân ra hoạt động kháng chiến, từng bước sắp xếp lại các mặt công tác Đảng, chính quyền, mặt trận ở huyện Trảng Bàng.

Đồng chí Tung lo nắm tình hình quân sự; trực tiếp trong Ban chỉ huy chi đội có đồng chí Đẩu. Nhưng chỉ huy trưởng Trịnh Khánh Vàng lại không ưa công tác chính trị. Do đó, đồng chí Uẩn chính trị viên chi đội hầu như không hoạt động chỉ đạo gì được. Cán bộ cấp dưới, ngoài đồng chí Bằng ra, đều không nắm được đơn vị. Cho nên, chi đội 11 đã hình thành biên chế tổ chức, nhưng thực chất Đảng chưa nắm được lực lượng võ trang tỉnh. Chỉ huy trưởng Trịnh Khánh Vàng muốn gây thanh thế, tự ý lệnh cho chi đội 11 tấn công vào thị xã Tây Ninh, đốt một số nhà ở Xóm Chàm, không có mục đích gì, lại đụng đến dân làm mất ảnh hưởng. Giặc Pháp tại tỉnh được dịp báo cáo lên trên tập trung lực lượng về Tây Ninh càn quét mạnh, gây thêm tác hại cho kháng chiến.

Các đồng chí khác trong Tỉnh ủy lâm thời còn lại: đồng chí Lê Đình Nhơn phụ trách công tác tuyên truyền. Đồng chí Chấn công tác ở cơ sở xã. Đồng chí Hai Mạnh được Sở Công an mời về trên và công tác luôn trên Sở. Đồng chí Mỹ Lan ngưng công tác ở Tây Ninh, chuyển về Tân An.

Ở thời điểm đầu năm 1946 giặc Pháp vẫn dùng lực lượng quân viễn chinh tấn công càn quét mạnh, hy vọng sớm diệt được lực lượng kháng chiến, ổn định tình hình chiếm đóng và cai trị. Âm mưu nắm các lực lượng giáo phái lái họ vào cùng Pháp chống đối kháng chiến đã có, nhưng chưa thực hiện mạnh vì còn tin lực lượng quân đội nhà nghề của chúng đủ sức dẹp yên lực lượng kháng chiến.

Lực lượng giáo phái Cao Đài được hình thành chi đội 8 trực thuộc khu 7, nhưng còn lập lờ hai mặt. Một mặt, qua các chức sắc cao cấp còn lại ở Tòa Thánh, ngấm ngầm mặc cả với Pháp điều kiện đầu hàng nếu được hậu đãi. Mặc khác đưa chi đội 8 ra vùng rừng Giống Nắng và Rừng Nhum (Tổng Giai Hóa) tạm đóng vờ vĩnh liên lạc với ta để được yên và dựa vào quần chúng tín đồ Cao Đài ở vùng ta kiểm soát tiếp tế nuôi dưỡng trong lúc chờ đợi Tòa Thánh mặc cả được giá.

Ở phía hữu ngạn sông Vàm Cỏ từ phía Bắc Tây Bắc đến phái Tây và Tây Nam cũng có làng mạc dân cư, có rừng lớn và nhiều vùng đầm lầy, sông rạch, địa hình phức tạp, đường hành quân bộ không thuận tiện lại cách sông Vàm Cỏ án ngữ mặt tiền nên thời gian qua giặc Pháp chưa tiến hành lấn chiếm vùng này. Nay chúng tập trung lực lượng thủy quân lục chiến và bộ bình càn quét truy tìm tiêu diệt chi đội 11 và các tổ chức Việt Minh tập trung ở vùng Tổng Giai Hóa. Giặc Pháp cho tàu chiến chạy dọc theo sông Vàm Cỏ, dùng hỏa lực mạnh quét dọc hai bên sông và cho quân đổ bộ nhiều mũi xuống Trà Siêm, Gò Nổi, Xóm Mía càn quét, đốt phá xóm làng, bắn giết trâu bò, đồng thời tấn công lùng sục vào tận nơi đóng quân của đại đội 11.

Chi đội trưởng Trịnh Khánh Vàng không cho lệnh ngăn chống giặc. Hai đại đội A và B bị động đối phó, tránh né giặc để giữ lực lượng. Riêng Đại đội C, do anh Đẩu, anh Bằng chỉ huy đã biết lợi dụng thế rừng chống càn ở rừng Nhum, diệt địch lấy được 1 cây trung liên Nhật. Mấy ngày sau, giặc lại đổ bộ càn vào Ninh Điền, trung đoàn Lê Dương tấn công uy hiếp đại đội A và đại đội B. Các anh Hinh, Mẫn, Căn đang lúng túng thì đại đội C đã kịp thời hành quân tiếp ứng, xung phong đánh xuyên hông, diệt địch, bắt sống được tên Fancon tiểu đoàn trưởng và 3 tên Pháp khác, gỡ thế bị động cho 2 đại đội A và B, củng cố lại đội hình chiến đấu buộc địch rút lui. Nhưng sau đó, địch vẫn ỷ thế quân đông liên tiếp càn quét vào chiến khu của ta. Nếu chỉ huy trưởng Trịnh Khánh Vàng chịu đánh địch như đại đội C thì địch còn bị tổn thất nhiều hơn. Nhưng Ban chỉ huy chi đội vẫn giữ thế bị động rút lui hết khu rừng này qua khu rừng khác. Chiến sĩ bất mãn và dân thấy vậy cũng không bằng lòng.

Giặc càn quét mạnh liên tiếp vào vùng Giai Hóa, gây thêm khó khăn phức tạp. Các đồng chí trong Ban lãnh đạo tỉnh và các cán bộ ở khu mới được bổ sung về tỉnh (đồng chí Nguyễn Hữu Dụ, cán bộ Nam tiến được Khu trưởng Nguyễn Bình điều động về Tây Ninh với danh nghĩa Huấn luyện viên của chi đội 11) cấp thời trao đổi và đề ra một số việc phải làm ngay trước mắt và thực hiện các chủ trương ở hội nghị tại Bù Lu – Chuối Nước. Nhất là phải thống nhất nội bộ đảng phải tiếp tục củng cố chính quyền, mặt trận từ trên xuống dưới, phải nắm công tác chính trị trong chi đội và gấp rút mở lớp bồi dưỡng đào tạo cán bộ, chú ý cán bộ địa phương để nắm và lãnh đạo phong trào.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #23 vào lúc: 15 Tháng Hai, 2018, 05:43:38 am »

Các đồng chí chia nhau đi gặp riêng, bằng tình nghĩa, bằng lý lẽ vận động từng đồng chí hoặc gặp chung từng nhóm công tác để cởi mở các mắc mứu cá nhân, quy tụ nhau lại thống nhất nội bộ Đảng. Các đồng chí chủ chốt của mặt trận Việt Minh (Dũng, Sơn), bàn lại kế hoạch, cho số cán bộ hiện có (Oanh, Hòe, Tồng…) xuống cơ sở hoạt động, tuyên truyền giáo dục quần chúng kịp thời tổ chức các đoàn thể cứu quốc từ dưới cơ sở lên huyện, lên tỉnh để nhanh chóng thành lập mặt trận từ dưới lên. Trong kế hoạch mặt trận chung có chú ý đề ra kế hoạch tuyên truyền tổ chức đồng bào theo đạo và đồng bào vùng tạm chiếm và các tổ chức cứu quốc. Cách tiến hành tổ chức cũng thận trọng và khéo léo, các đồng chí lựa chọn nhân viên có gia đình theo đạo, giáo dục đào tạo, đưa vào gây cơ sở trong tòa thánh và chọn những anh chị em có thân nhân ở thị xã, thị trấn bắt mối đưa người có ý thức ra bồi dưỡng, đào tạo, đem về gây cơ sở bên trong rồi phát triển dần. Đồng thời tìm người biết tiếng và chữ Khơme tổ chức một bộ phận làm công tác vận động đồng bào Khơme. Đối với hai huyện Trảng Bàng và Châu Thành đã có hai đồng chí Cát và Tấn phụ trách chung, cần phải hỗ trợ các mặt cho huyện thu thêm anh chị em một lớp huấn luyện đào tạo đưa về tổ chức, mở rộng mặt trận thu hút các giới đồng bào và các tổ chức nông dân, thanh niên, phụ nữ cứu quốc. Về mặt chính quyền, các đồng chí tiến hành ngay việc lập Ủy ban hành chánh hai huyện Trảng Bàng, Châu Thành và mở rộng dần ra các xã có đủ điều kiện tổ chức.

Ở Trảng Bàng, đồng chí ba Cát quan hệ với nhóm thanh niên rừng Rong, Bùng Binh và một số nhân sĩ tổ chức Mặt trận Việt Minh huyện và mở nhiều lớp học ngắn ngày đào tạo cán bộ đưa xuống xây dựng chính quyền và đoàn thể ở các xã Lộc Hưng, Đôn Thuận, An Hòa, Gia Bình… căn cứ Rừng Rong đã có từ đầu vẫn duy trì và phát triển tốt, làm nòng cốt cho phong trào chung. Đồng chí Kiều Phan đi vào 3 xã cánh Tây Trảng Bàng, móc nối với số nông dân có nhiều tình cách mạng làm chỗ dựa phát động phong trào quần chúng. Trong số nòng cốt có ông Bảy Nam (ông già Mười Hai) rất tích cực ủng hộ cách mạng vận động quần chúng hưởng ứng theo kế hoạch hoạt động của Kiều Phan: tổ chức đánh bót Vàm Trảng lấy súng thành lập đội du kích bảo vệ xã, ổn định thình hình, mua trâu về làm ăn. Từ đó phong trào kháng chiến phát triển dần lên. Huyện tổ chức Ủy ban nhân dân huyện lâm thời, đồng chí Kiều Phan làm Chủ tịch. Năm 1946, các xã ở Trảng Bàng đã tổ chức cơ sở chính quyền và mặt trận xã. Lúc đầu đoàn cán bộ tỉnh do 2 đồng chí Ba Cát, Kiều Phan lấy Phước Chỉ làm địa bàn chính để móc qua Trảng Bàng. Lúc này Lộc Hưng còn là vùng độc lập, với một phần lớn Gia Lộc, An Tịnh với toàn bộ xã Đôn Thuận (đến 6/46). Chỉ còn 2 xã Cẩm Giang và Thạnh Đức chưa có cơ sở. Tháng 6/46 tổ chức đại hội nhân dân ở vùng Lộc Hưng bầu ra Ủy ban huyện chính thức. Vấn đề cán bộ người địa phương được quan tâm đào tạo, về sau bổ sung đồng chí Lời vào Ủy ban huyện và một số nhân sĩ trí thức được bố trí vào các ngành và đoàn thể địa phương.

Ở Châu Thành, đồng chí Tấn về phụ trách phải lo ngay việc tiếp tế cho chi đội 11 đóng tại huyện. Đồng chí gặp các sở cây, sở củi ở Châu Thành đặt vấn đề ủng hộ tiền gạo tiếp tế nuôi quân. Đồng chí cùng với các đồng chí Hai Mạnh, Hai An bàn tìm cách lôi kéo cá giáo chức ở Thị xã ra tham gia kháng chiến, như ông Chín Truyện, ông Giáo Việt. Khoảng tháng 5, 6/46, thành lập Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành (tại nhà Cao Cảng ở Suối Muồng, Gò Nổi), đồng chí Tấn bí thư huyện ủy kiêm chủ tịch uyện (sau đó ông chín Truyện chủ tịch) ông Giáo Việt tổng thư ký. Các xã Thanh Điền, Ninh Điền, Phước Hội, Lộc Ninh, Hảo Đức, Long Giang, Long Chữ, Long Thành, Trường Hòa… lần lượt hình thành tổ chức Ủy ban và mặt trận Việt Minh xã. Các cán bộ địa phương lần lượt được đào tạo và bổ sung cho các ngành ở huyện và xã (các đồng chí Xuân, Quyên Tư Sử, Sáu Tây, Bảy Thinh…).

Trong bộ máy hành chánh cấp tỉnh còn thiếu cán bộ chủ chốt người địa phương. Các đồng chí nhất trí tìm kiếm vận động trong các giới đồng bào. Các đồng chí đón anh Dương Minh Châu(1) từ Hố Bò (Gia Định) về công tác ở bộ phận tuyên truyền tỉnh. Tháng 5/46 anh Châu làm chủ tịch Ủy ban hành chánh tỉnh. Với các Ty cũng theo cách đó, tìm dẫn người địa phương để củng cố. Đối với chi đội 11 còn Trịnh Khánh Vàng chỉ huy, việc tiến hành công tác chính trị gặp nhiều khó khăn. Các đồng chí phải đi từng bước lúc đầu gặp gợi ý hỏi chuyện công tác chính trị giúp cho anh em tổ chức đọc thông tin, báo chí, học văn hóa, tạo phấn khởi trong anh em chiến sĩ. Mặc khác các đồng chí đến gặp chi đội trưởng Trịnh Khánh Vàng qua trò chuyện đề cập việc chủ động tác chiến, triển khai du kích chiến để tránh bị động khi giặc tấn công và từ đó nâng cao cho bộ đội về tinh thần, tổ chức và chiến đấu. Chi đội trưởng tỏ ý tán thành nhưng rồi không thực hiện.

Một vấn đề cần thiết cấp bách nữa là đào tạo cán bộ địa phương. Các đồng chí tổ chức ngay lớp quân chính tại Bù Lu – Chuối Nước đào tạo cán bộ cho chi đội 11 và các huyện. Lớp quân chính do anh Dự, anh Quân phụ trách huấn luyện, là lớp quân chính có lồng vào giảng dạy thêm chương trình Việt Minh nên cán bộ ra lớp có thể công tác trong quân đội và phong trào ở địa phương. Song khóa 1, các đồng chí rút kinh nghiệp, dựa hẳn vào cán bộ có uy tín tại địa phương vận động bà con tại chỗ giúp đỡ mọi mặt sinh hoạt để mở tiếp 2 lớp đào tạo cán bộ Việt Minh ở Xóm Vinh và Chà Là. Lớp Việt Minh do anh Dụ giảng dạy, ông Bảy Tàu, chị Ba Lành lo tiếp tế và phục vụ. Sau đó, mở tại Bàu Chanh lớp quân chính khóa 2 đặc biệt về công tác tổ chức chính trị trong quân đội.

Ở huyện Trảng Bàng, các đồng chí cũng tổ chức đưa một số cán bộ đi học lớp chính trị ở khu 8 và tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ Việt Minh, cán bộ dân quân và cán bộ các đoàn thể ngắn ngày ở Giòng Điều và Thổ Địa (lớp cán bộ Việt Minh ở Giòng Điều do anh Cát, anh Kiều Phan, anh Dũng phụ trách). Qua việc mở lớp đào tạo cán bộ mà bộ đội, cơ quan tỉnh, huyện có thêm cán bộ hoạt động và có số cán bộ Việt Minh về công tác ở các thôn xã trong tỉnh.

Cũng khoảng thời gian tháng 4, 5/1946, đồng chí Dương Bạch Bằng cán bộ Tổng công đoàn Nam Bộ lên Tây Ninh gặp các đồng chí Ban lãnh đạo tỉnh đề xuất vấn đề tổ chức nghiệp đoàn Cao su ở Tây Ninh. Được tỉnh đồng ý, đồng chí Dương Bạch Bằng tổ chức 2 công đoàn cơ sở cau su Cầu Khởi, Bình Linh và Công đoàn cơ sở Bến Củi. Sau đó hình thành Liên đoàn cao su Tây Ninh do đồng chí Lâm làm thư ký. Từ đó tại các sở cao su có phong trào đấu tranh dưới sự lãnh đạo của công đoàn ngành, các hình thức đấu tranh rất phong phú: lãng công, đổ mủ, vẽ sơ đồ đồn địch, nội ứng cho bộ đội đánh đồn, đưa lực lượng khỏe ra tiền tuyến… Ngày 1-5-1946, Liên đoàn cao su đã vận động công nhân viên chức biểu tình đấu tranh đòi nghỉ ngày quốc tế lao động, cuộc đấu tranh giành được thắng lợi. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử đấu tranh của mình, người công nhân cao su được nghỉ ngày 1/5. Anh chị em công nhân rất phấn khởi tin tưởng tổ chức cách mạng đã đem lại quyền lợi cho họ. Từ đó, tình hình chung trong toàn tỉnh có chiều hướng nhích dần lên chứ không bị tan rã như ý đồ mong muốn của giặc Pháp dùng thế mạnh quân đông đè bẹp phong trào kháng chiến ở Tây Ninh.

Tháng 6-1946, Hoàng Thọ dẫn một trung đội võ trang với danh nghĩa bảo vệ tổ tác chiến của Khu từ chiến đấu ở khu Lạc An về Tây Ninh. Bộ đội Hoàng Thọ hoạt động độc lập, không quan hệ với địa phương, đến đâu đóng quân thì bắt dân ở đó phục vụ nhiều mặt, phô trương lực lượng, chuẩn bị mặt trận… nhưng khi nghe Tây tấn công thì rút quân đi chỗ khác. Thời gian bộ đội Hoàng Thọ về Tây Ninh không lâu nhưng gây nhiều ảnh hưởng xấu trong nhân dân địa phương. Đến năm 1947, Khu rút bộ đội Hoàng Thọ đi nơi khác.


(1) Anh Dương Minh Châu có hoạt động trong phong trào sinh viên ở Hà Nội, rồi phong trào quần chúng yêu nước ở Campuchia, sau đó cách mạng tháng 8 anh trở về Nam bộ và được Xứ giới thiệu về Tây Ninh.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #24 vào lúc: 15 Tháng Hai, 2018, 05:44:11 am »

*
*   *

Giặc Pháp sau mấy tháng tập trung càn quét tìm diệt lực lượng kháng chiến, thấy không thể bình định ngay được Tây Ninh bằng biện pháp quân sự đơn thuần, phải giở ngón đòn thâm độc có âm mưu từ trước: dùng Cao Đài đánh Việt Minh. Từ tháng 4 đến tháng 8/1946 giặc Pháp tiến hành cuộc vận động đưa Phạm Công tắc từ Ma-đa-gát-ca về Tòa Thánh. Chúng nắm Trần Quang Vinh và mua chuộc Phạm Công Tắc, đưa Tắc, Vinh về kêu hàng bộ đội Cao Đài do các tên Nguyễn Thành Phương, Trịnh Minh Thế… chỉ huy và dùng uy tín Phạm Công Tắc cùng một số chức sắc trong hội thành lôi kéo tín đồ Cao Đài công khai theo Pháp chống Việt Minh.

Để thực hiện mưu đồ trên, ngày 20-5-1946, giặc Pháp nắm được Trần Quang Vinh qua Vinh nắm bọn chỉ huy lực lượng võ trang (Phương, Thế…) Vinh tổ chức cuộc tiếp xúc giữa bọn chỉ huy và các sĩ quan Cao Đài với tên chủ tỉnh Tây Ninh Mê-na-giơ (Ménage) và tên chánh mật thám Ba-de (Bazin) tại Tòa thánh. Hai bên thỏa thuận; “Ngày 8/6/1946 vào lúc 16 giờ sẽ trình diện 320 binh sĩ Cao Đài ở bưng biền mới trở về trước đền thánh. Ngày 9-6-1946 ký “thỏa ước Bính Tuất” gọi là “thỏa ước Ménage – Vinh”. Trong thỏa ước có điều khoản: Đại biểu Cao Đài thỏa thuận giải tán chi đội 8. Các chi đội phải nạp cho nhà cầm quyền quân sự Pháp. Bộ Tham mưu Pháp sẽ võ trang lại cho quân đội Cao Đài đủ số khí giới để bảo vệ Tòa thánh Tây Ninh. Thỏa ước không giải quyết toàn bộ vấn đề quân sự và cá điều kiện tự do tín ngưỡng. Nhưng Ménage và Bazin có cho biết rằng một bản “hòa ước” quan trọng phải do cấp trên ký kết với Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc khi ngài hồi hương.

Trần Quang Vinh tiếp tục tiếp xúc với Thống đốc Nam Kỳ là Cédille và chánh văn phòng Prémolle bàn việc hồi hương của Phạm Công Tắc. Ngày 28-8-1946, Phạm Công Tắc về đến Vũng Tàu. Tắc nói ngay với Bazin: “Kết cuộc thì cũng Pháp Việt đề huề mà nhất là thái độ của Cao Đài trong giai đoạn liên minh với Pháp”. Phạm Công Tắc về Tòa Thánh ngày 30-8-1946, tiếp xúc với Pháp và ký hiệp ước về quân sự ngày 8-1-1947.

Thực hiện “thỏa ước Ménage – Vinh (9-6-1946)” và hiếp ước quân sự 8/1/1947 của Tắc với Pháp, chi đội 8 của cao Đài lần lượt rút khỏi Rừng Nhum về Tòa Thánh, để lại một nhóm do Luyến, Thế chỉ huy ở rừng Giồng Nầng, hành động giết người cướp của…

Tên Xương phó Chủ tịch Ủy ban hành chính tỉnh lấy một số tiền quỹ của Ủy ban, trốn về thị xã.

Thế là giặc Pháp công khai thực hiện âm mưu nắm lấy bọn đầu sỏ Cao Đài để đưa lực lượng võ trang về hàng Pháp, chuẩn bị đối phó với kháng chiến.

Âm mưu của Pháp và việc công khai làm tay sai của một số chức sắc cao cấp Cao Đài, ta biết trước và đến nay đã lộ rõ trong hành động cụ thể như vậy, nhưng ta vẫn rất mực chủ trương đoàn kết, mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. Ta liên lạc với Phạm Công Tắc đề nghị đưa người của Đạo vào Ủy ban tỉnh và bàn việc thành lập Hội Liên Việt. Mãi đến lúc sắp sửa ra mặt phản bội, họ còn lập lờ cử người ra thăm dò ta. Ta vẫn đón tiếp chu đáo tại Cây Chò và Xóm Mía (xã Ninh Điền). Và khi ta thành lập Hội Liên Việt tỉnh (1947) Phạm Công Tắc đưa anh là Phạm Trung Kiên ra dự, ta đề cử Phạm Trung Kiên làm phó chủ tịch Hội Liên Việt.

Chủ trương tạo phản của giới chức sắc Cao Đài đã rõ, tuy chưa đánh ta, nhưng đã thực sự đi với Pháp. Tình hình chuyển sang dạng phức tạp hơn, ta phải đối phó với âm mưu của Pháp và mưu đồ tạo phản của họ.

Tình hình ngày càng khó khăn, tỉnh đã lên báo cáo mấy lần với Xứ ủy. Tháng 9/1946, đồng chí Nguyễn Đức Thuận đại diện Xứ ủy Nam bộ về kiểm tra tình hình ở Tây Ninh. Sau khi nghe báo cáo và nắm tình hình cụ thể, đại diện Xứ ủy nhất trí với nhận định tình hình và các chủ trương giải quyết công tác kháng chiến của tỉnh. Đồng chí bàn về sự lãnh đạo mặt trận tỉnh, góp ý kiến cho địa phương về mối quan hệ giữa các đồng chí với nhau về việc chuẩn bị củng cố xây dựng Đảng. Các việc tồn tại có liên quan đến cấp trên của các ngành, đồng chí sẽ bàn với Khu và Xứ giải quyết.

Xứ ủy nhất trí sẽ giải quyết ngay tình hình Ban chỉ huy chi đội 11 Tây Ninh để Đảng nắm, lãnh đạo chặt chẽ quân đội trước tình hình kẻ thù chính đã lôi kéo bọn phản động trong Cao Đài cấu kết nhau chuẩn bị đánh phá ta. Đại diện Xứ ủy trao đổi cụ thể với Khu trưởng Nguyễn Bình, đến giữa quí IV/1946 Khu quyết định rút chi đội trưởng và chính trị viên chi đội 11 về Khu chuyển công tác khác vì Ban chỉ huy chi đội không làm được việc củng cố và chỉ huy quân đội kháng chiến lại gây ra một số việc lủng củng nội bộ. Và sau đó Khu quyết định điều động đồng chí Nguyễn Văn Dung, chi đội trưởng chi đội 6 về giữ chức chi đội trưởng chi đội 11 và chỉ định đồng chí Nguyễn Hữu Dụ làm chính trị viên chi đội 11.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #25 vào lúc: 15 Tháng Hai, 2018, 05:44:54 am »

Đặc điểm tình hình đáng chú ý ở Tây Ninh, ngoài vấn đề Cao Đài ra còn có vấn đề biên giới Việt Nam – Campuchia. Các biến cố lúc Pháp mới tái chiếm, xúi giục đồng bào Khơme gây xô xát đổ máu ở biên giới đến nay đã tạm ổn. Nhưng cuộc kháng chiến còn lâu dài, cần phải có bộ phận công tác vận động đồng bào Khơme. Nay có bộ đội do anh Ngô Thất Sơn chỉ huy từ Hải Ngoại về đến Tây Ninh. Các đồng chí vận động, anh Sơn đồng ý và báo cáo lên trên chính thức đề nghị xin anh ở lại địa phương lo công tác Khơme vận vì anh biết tiếng Khơme và am hiểu phong tục tập quán người Khơme. Được trên chấp thuận, bộ đội anh Ngô Thất Sơn ở lại tỉnh Tây Ninh. Địa phương hết sức giúp đỡ về mặt kinh tế, tài chánh, liên lạc, địa điểm v.v… tạo mọi điều kiện thuận lợi cho đơn vị hoạt động. Nhiệm vụ của đơn vị không những hoạt động ở 4 tổng có đồng bào Khơme ở Tây Ninh là Khăng-Xiêng, Chơn Bà Đen, Ta-pen-duyn, Băng-Chơ-Rum mà còn dần dần mở rộng ra quan hệt chặt chẽ với Khu Đông Nam Campuchia. Nhờ có cán bộ biết tiếng Khơme và bộ đội có trang bị vũ khí tốt nên rất thuận lợi cho công tác tổ chức đồng bào Khơme vào các Hội cứu quốc kháng chiến. Đơn vị này phát triền dần lên, sau thành lập bộ đội Xi-vô-tha, có căn cứ riêng, có xưởng sản xuất vũ khí riêng. Ảnh hưởng hoạt động của đơn vị Xi-vô-tha khá tốt và rộng rãi trong đồng bào khu đông Campuchia, góp phần ổn định tình hình biên giới lúc kháng chiến. Đến cuối năm 1946, đồng chí Nguyễn Đức Thuận lên Tây Ninh với danh nghĩa Xứ triệu tập các đồng chí đảng viên đang hoạt động ở Tây Ninh họp hội nghị đảng viên. Hội nghị đã kiểm điểm đánh giá đúng tình hình vừa qua, xác định rõ âm mưu chung của giặc Pháp và âm mưu lôi kéo Cao Đài để phá vỡ mặt trận đoàn kết dân tộc của tỉnh, chống lại kháng chiến. Hội nghị cũng xác định các chủ trương đối sách vừa qua của tỉnh là đúng đắn kịp thời, đã bước đầu gỡ được một số khó khăn. Nhưng trong nội bộ còn một số việc chưa tốt, một số đồng chí chưa thật sự thể hiện vai trò đảng viên cùng nhau góp công sức khắc phục khó khăn chung. Hội nghị đã nhất trí với phương hướng nhiệm vụ phải làm sắp tới là tiếp tục củng cố và phát triển các mặt: chính quyền, mặt trận, quân đội và thành lập tỉnh ủy. Hội nghị đã bầu ra Ban Chấp hành Tỉnh ủy gồm 5 đồng chí Nguyễn Hữu Dụ, Trần Thuần, Phạm Tung, Nguyễn Trọng Cái, Trần Kim Tấn. Ban Chấp hành bầu đồng chí Nguyễn Hữu Dụ làm Bí thư Ban Chấp hành Tỉnh ủy. Cũng trong cuộc họp này, tỉnh ủy đã tổ chức kết nạp đảng viên mới để bổ sung cho các ngành tỉnh và 2 huyện. Các đồng chí: Dương Minh Châu, Trần Văn Lượng, Phạm Văn Uyển, Võ Văn Truyện, Phan Văn Hoai và Bùi Văn Lôi được kết nạp vào Đảng. Các chủ trương về các mặt công tác đảng, chính quyền, mặt trận, quân sự được hội nghị nhất trí thực hiện là:

a) – Về Đảng, tiếp tục củng cố và phát triển Đảng để vững về chất lượng và đông về số lượng, có cơ sở Đảng trong khắp các cơ quan, đơn vị, thôn xã.

b) – Về chính quyền, tiếp tục củng cố các cơ quan hành chánh đã có, tìm người tiến bộ có uy tín bổ sung, củng cố tổ chức và lề lối làm việc cho từng bộ phận, giúp đỡ điều kiện cho các Ty, các ngành hoạt động… Nhằm xây dựng củng cố tổ chức hành chánh có hệ thống hoạt động từ trên xuống giới.

c) Về quân sự, đẩy mạnh công tác chính trị trong quân đội, phát triển dân quân du kích, lấy quân cho tỉnh phát triển chiến đấu bằng võ khí thô sơ, nhằm đẩy mạnh chiến tranh du kích trong tỉnh.

d) – Về kinh tế, chủ yếu là lương thực, cố gắng tiến hành sản xuất tự túc để giải quyết vấn đề lương thực một cách cơ bản. trước mắt bằng mọi cách tổ chức rút gạo từ vùng tạm chiếm về các tỉnh Miền Trung Nam bộ cho nhu cầu của quân đội, cơ quan và nhân dân.

e) Với Cao Đài, tích cực chuẩn bị đối phó với tình hình lực lượng võ trang Cao Đài đi với Pháp đánh lại ta, bám sát, nắm vững, nâng cao tinh thần yêu nước với quảng đại tín đồ Cao Đài. Cố gắng vận động số chức sắc cao cấp Cao Đài vào khối đoàn kết dân tộc, hạn chế sự cấu kết của họ với Pháp. Sẵn sàng vận động binh sĩ Cao Đài khi bọn phản động bắt buộc họ đánh lại ta. Đồng thời ta chuẩn bị và cất giấu lương thực, tài liệu, vật dụng đề phòng biến, chuẩn bị lực lượng đề kháng cho quân đội. Chú ý tổ chức dân quân du kích, chuẩn bị thêm đường giao thông liên lạc từ trên xuống dưới, sẵn sàng phân tán và tuyệt đối bí mật hoạt động của các cơ quan và cán bộ.



Đồng chí NGUYỄN HỮU DỤ
Bí thư Tỉnh ủy (12-1946 đến năm 1949)
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #26 vào lúc: 15 Tháng Hai, 2018, 05:45:27 am »

Hội nghị đảng viên cuối năm 1946 có ý nghĩa như một đại hội tỉnh đảng bộ, kết thúc một giai đoạn đảng rút vào bí mật hoạt động (dưới hình thức tự giải thể từ cuối năm 1946), mở ra một thời kỳ phát triển mới của Đảng bộ Tây Ninh. Hội nghị đã xác lập những yếu tố căn bản về tổ chức và chủ trương để tiếp tục đưa cuộc kháng chiến đi lên.

Các chủ trương của tỉnh Đảng bộ được toàn thể trên dưới nhất trí quyết tâm thực hiện. Các mặt hoạt động kháng chiến được tiến triển nhanh mạnh hơn trước. Nhất là công tác xây dựng Đảng được tiến hành mạnh mẽ, ý thức Đảng, ý thức đoàn kết, quan điểm giai cấp, ý thức tổ chức, tinh thần phục vụ cách mạng được củng cố và nâng cao từ trên xuống dưới và có tác dụng ra cả cán bộ ngoài Đảng. Số cơ sở có đảng viên được tổ chức chi bộ hoạt động chính thức lần lượt hình thành (cuối quí IV/1946) hai chi bộ đầu tiên được chính thức thành lập là chi bộ Ủy ban hành chánh tỉnh, chi bộ Ban tuyên truyền tỉnh. Các đồng chí đảng viên trong chi bộ Ủy ban hành chánh: Thuần, Châu, Lượng, Uyển (do đồng chí Thuần Bí thư); chi bộ Ban tuyên truyền có các đồng chí: Nhơn, Oanh, Liên (do đồng chí Nhơn Bí thư).

Việc kết nạp đảng viên, xây dựng cơ sở đảng, được tiến hành nghiêm túc theo trọng điểm. Trong các cơ quan và thôn, xã lần lượt đều có cơ sở đảng (hai chi bộ xã đầu tiên được hình thành là chi bộ xã An Tịnh (Trảng Bàng) lúc đầu có đảng viên ở Lộc Hưng sinh hoạt ghép, và chi bộ xã Thanh Điền (Châu Thành) lúc đầu có một số đảng viên ở xã Thái Bình và Long Thành sinh hoạt ghép. Đến cuối năm 1947, các xã có đủ đảng viên tách ra chi bộ cơ sở từng xã. Hai chi bộ đầu tiên trong lực lượng võ trang tỉnh là chi bộ văn phòng chi đội 11 và chi bộ ban tình báo liên lạc của chi đội (cũng hình thành đầu năm 1947).

Vào khoảng tháng 10/1947 các huyện ủy Châu Thành, Trảng Bàng bước đầu được chỉ định. Uy tín của Đảng, của cách mạng được ủng cố trong nhân dân. Phong trào kháng chiến trong tỉnh bắt đầu phát triển tốt.

Qua bước củng cố tình hình các mặt công tác ở Tây Ninh, Xứ ủy đánh giá phong trào kháng chiến ở Tây Ninh đang lên nhưng khó khăn còn nhiều; nhất là đối phó với âm mưu của địch. Vấn đề cán bộ phản được quan tâm tăng cường. Theo ý kiến đề nghị của Tây Ninh từ trước, Xứ cho thêm 3 cán bộ chính trị. Có thêm cán bộ, tỉnh ủy chỉ đạo củng cố ủy ban hành chính tỉnh, ngành quốc gia tự vệ cuộc tỉnh. Tỉnh tổ chức uộc hội nghị có đủ đại diện của quân, dân, chính bầu Ủy ban hành chánh tỉnh. Đồng chí Dương Minh Châu được chính thức bầu làm chủ tịch ủy ban, đồng chí Trần Thuần làm phó chủ tịch, đồng chí Phạm Văn Uyển, Tổng thư ký, đồng chí Nguyễn Văn Dung ủy viên quân sự, đồng chí Trần Thuần kiêm ủy viên xã hội, ông Hồ ủy viên kinh tế. 3 cán bộ Xứ mới bổ sung: hai đồng chí Lê Lai và Nguyễn Văn Nữ được bố trí phụ trách Quốc gia tự vệ cuộc và nữ đồng chí Nguyễn Thị Phụng sau bố trí phụ trách Tỉnh hội phụ nữ cứu quốc (19450). Thế là cán bộ chính trị, quân sự cấp tỉnh đều được bổ sung nhưng đa số là cán bộ các nơi khác đến, từ Côn Đảo về… Cán bộ là người địa phương rất ít. Cán bộ các nơi đều có năng lực, có kinh nghiệm, có tầm nhìn rộng nhưng chưa am hiểu tình hình địa phương, chưa thông cảm hết tâm lý nguyện vọng các tầng lớp nhân dân địa phương. Cho nên khó khăn còn nhiều. Nhưng bước đầu đã làm chuyển biến các mặt công tác kháng chiến ở Tây Ninh, nhất là Đảng đã nắm chặt quân đội và đảng bộ thực sự là trung tâm chỉ đạo kháng chiến. Nhưng các mặt hạn chế cũng không tránh khỏi, do đó các đồng chí đều nhất trí, quyết tâm đào tạo cho đủ cán bộ địa phương cho phong trào cách mạng trong những năm sau.

Đã 15 tháng trôi qua (tháng 4-1945 – 1-1947) từ đội quân viễn chính Pháp đặt chân lên mảnh đất Tây Ninh hòng thống trị nước ta một lần nữa. Đó là khoảng thời gian đầy rẫy những khó khăn thử thách. Ta mới xây dựng chính quyền, lực lượng võ trang tự phát tản mạn do cán nhân nắm giữ, phải rút ra nông thôn vừa bảo tồn lực lượng, vừa chống giặc trở lại. Hiệp ước sơ bộ 6/3 và thỏa hiệp án 14/9 là hai điểm mốc thời gian, ta lợi dụng lúc địch mới chiếm, chưa ổn định, phát động quần chúng trước kỳ kháng chiến, đào tạo cán bộ, rút người vùng địch chiếm, tiến hành vừa củng cố tỉnh, vừa tập trung xây dựng huyện xã, vừa bước đầu đối phó tình hình Cao Đài. Địch mới chiếm bằng lực lượng Lê Dương, tay sai còn ít, tiến hành cán quét ven thị trấn, chiếm giữ trạm giao thông quan trọng, đang loay hoay xây dựng bộ máy cai trị ở thị xã, thị trấn. Sau 15 tháng, ta từ bị động lúng túng bước đầu đã chuyển tình thế mọi mặt phát triển mạnh, nhanh, tranh thủ thời gian lúc địch còn mới chiếm để xây dựng lực lượng chính trị, xây dựng ý chí và lực lương quần chúng có tổ chức, có cán bộ, có lực lượng võ trang phát triển, đặc biệt nổi lên phong trào nhân dân kháng chiến đánh giặc giữ làng, thanh niên vào võ trang, quần chúng chống càn, tiếp tế nuôi quân, thông báo tin tức, tham gia phá hoại giao thông. Một vấn đề khác đặc biệt được rút ra nữa là lực lượng võ trang cách mạng nhỏ được phát triển lên, còn lực lượng võ trang không cách mạng lớn thì tàn lụi tan rã. Sự kiện Đảng bộ được thành lập đảm trách lãnh đạo chặng đường kháng chiến kế tiếp của quân dân Tây Ninh vững bước tiến lên.
« Sửa lần cuối: 10 Tháng Ba, 2018, 07:18:48 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #27 vào lúc: 17 Tháng Hai, 2018, 04:19:34 am »

CHƯƠNG HAI

XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG,
ĐẨY MẠNH KHÁNG CHIẾN TOÀN DIỆN
LÀM THẤT BẠI ÂM MƯU DÙNG CAO ĐÀI PHẢN ĐỘNG ĐÁNH VIỆT MINH
VÀ CHÍNH SÁCH BÌNH ĐỊNH CỦA GIẶC PHÁP (1-1947 – 5-1951).

1/ - Củng cố lực lượng, đấu tranh chống thực dân Pháp và bọn Cao Đài phản động:

Ngày 19-12-1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Quân và dân Tây Ninh từ đây bước vào thời kỳ cùng cả nước kháng chiến, toàn dân, toàn diện và lâu dài.

Từ đầu năm 1947, thực dân Pháp dốc sức bình định Nam bộ, coi đây là khâu then chốt trong chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của chúng. Để bình định có hiệu quả, chúng thực hiện âm mưu lôi kéo các phe nhóm tôn giáo phản động, lập các đảng phái và mặt trận quốc gia giả hiệu nhằm chia rẽ hàng ngũ kháng chiến và tạo thêm lực lượng chính trị, quân sự cho chúng, với quốc sách “dùng người Việt đánh người Việt”.

Đi đôi với việc xây dựng lực lượng quốc gia phản động (Partisan) mà nòng cốt là công giáo, tại Tây Ninh, việc lôi kéo giới chức sắc, quân đội và đồng bào tín đồ Cao Đài về phía Pháp, đưa họ vào con đường chống đối kháng chiến, luôn luôn là vấn đề thực dân Pháp ưu tiên ráo riết thực hiện.

Sau khi ý hiệp ước quân sự (8-1-1947) giữa Pháp và Phạm Công Tắc, giặc Pháp tiếp tục dùng nhiều thủ đoạn nắm chặt Phạm Công Tắc, một số tướng tá và chức sắc cao cấp Cao Đài, thúc đẩy họ chống lại ta. Đêm 30 Tết Bính Tuất (21-1-1947) tại tòa thánh Tây Ninh, Pháp làm lễ trao cho quân đội Cao Đài nhiều súng các loại. Cao Đài rải truyền đơn, một mặt chống chế việc quân đội Cao Đài hàng Pháp là dùng kế “Hán Tín” để lấy súng Pháp sau đánh lại Pháp, mặt khác kêu gọi lãnh đạo Việt Minh giao chiến trường Tây Ninh cho chúng. Đồng thời, chúng gởi giấy mời đại diện quân, dân, chính của ta vào Tòa thánh hội đàm.

Ngay trong đêm 30 Tết, lực lượng liên quân của Khu 7 do tham mưu trưởng Huỳnh Kim Trương chỉ huy tấn công vào khu Tòa Thánh nhằm phá lễ trao súng giữa Pháp và Cao Đài. Các chiến sĩ đột nhập được vào khu tòa thánh và nổ súng nhưng không gây thiệt hại gì đáng kể mà hậu quả lớn là tạo cớ để bọn phản động cho là Việt Minh diệt đạo… Cuộc tấn công này không có sự thông báo với lực lượng của tỉnh nên không được địa phương tham gia. Lúc này chủ trương của tỉnh ủy là hết sức khôn khéo tránh tạo cho bọn phản động Cao Đài cớ để chống lại ta. Lễ trao súng vẫn được diễn ra. Lực lượng liên quân của Khu sau cuộc tấn công rút về Gia Định ngăn quân đội Cao Đài tràn xuống.

Chi đội 11 sau khi thay đổi ban chỉ huy, chuyển văn phòng về vùng Bàu Chanh. Ở đây, tuy ít dân nhưng có thế rừng lớn, có lương thực là trung tâm của 2 huyện Châu Thành và Trảng Bàng rất thuận lợi cho việc chỉ huy toàn chiến trường. Văn phòng chi đội lúc đầu đóng tại chiến khu Yên Thế của đại đội 3. Văn phòng tiến hành chấn chỉnh và củng cố tổ chức, các bộ phận tham mưu, chính trị, các ban quân nhu, quân báo… Binh công xưởng cũng được luyện chuyển từ Xóm Mía sang vùng Trà Vong và phân đội Z được thành lập làm nhiệm vụ bảo vệ căn cứ, đồng thời có kế hoạch phát động xây dựng khu căn cứ kháng chiến lâu dài.

Từ lúc chấn chỉnh, đại đội 3 chuyển sang vùng khu 4 của tỉnh lập chiến khu Yên Thế ở Bố Bịch (Bàu Chanh). Đại đội 2 chuyển xuống vùng Trảng Bàng lập chiến khu ở rừng Bời Lời. Đại đội 1 vẫn ở bên hữu ngạn sông Vàm Cỏ Đông, nhưng chuyển khu căn cứ lên rừng Cây Chò, Xóm Mía và rừng Hòa Hội, 3 đại đội nằm ở 3 khu vực then chốt của 2 huyện trong tỉnh, được đồng bào ủng hộ tiếp tế. Các đại đội chuẩn bị bám chặt địa bàn chống giặc Pháp và phản động Cao Đài. Ban chỉ huy chi đội chỉ đạo tiếp tục củng cố các vị trí đóng căn cứ và phân chia vùng hoạt động và nhiệm vụ hỗ trợ chiến đấu cho các đại đội.

Các đại đội bám chắc địa bàn, chống càn quét bảo vệ nhân dân, bảo vệ chính quyền, yểm trợ đắc lực cho các đoàn cán bộ xây dựng cơ sở. Trong một thời gian ngắn, các đại đội đã có một số trận thắng vang dội, như trận đánh của đại đội 3 vùng đông bắc Gò Dầu diệt trên 50 tên địch, thu 20 súng. Tiếp đó là trận đánh địch tại Trà Nguồn (An Tịnh) của đại đội 2. Năm xe bọc thép địch bắn đại bác 20 ly dọn đường cho bộ binh tiến vào làng. Anh em ta đã sẵn sàng, bình tĩnh chờ cho xe địch tiến ra giữa cánh đồng Trần Minh Ngọc đại đội trưởng dùng đại liên làm súng lệnh. Anh bắn chết ngay tên xạ thủ đại bác trên xe địch. Các chiến sĩ đồng loạt nổ súng. Anh Ngọc rà đại liên bắn bọn bộ binh và diệt tiếp các tên bắn đại bác khác. Địch núng thế quay xe tháo lui, có chiếc đã bốc cháy. Anh Ngọc cho lệnh xung phong. Chúng bỏ xe chạy thục mạng. Ta diệt 5 xe địch, thu 1FM, và trên 10 súng trường. Địa điểm này về sau thành tên là Rừng 5 xe.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #28 vào lúc: 17 Tháng Hai, 2018, 04:20:20 am »

Sau trận Trà Nguồn không đầy 1 tháng, đại đội lại đánh thắng lớn. Địch đi làm 3 mặt vào Trung Hưng giáp An Tịnh (thuộc Củ Chi ngày nay) và cho một cánh 14 xe cơ giới vu hồi bao vây tiêu diệt 2 đại đội của chi đội 6 (Sài Gòn, Gia Định). Đại đội 2 nghe súng nổ nhiều, biết là địch càn, lập tức cấp tốc chi viện cho đơn vị bạn. Các anh chạy băng qua Bàu Cá Chạch, đến nơi vừa lúc cánh quân vu hồi của địch đang khép kín vòng vây. Đại đội 2 dàn hàng ngang áp sát địch và đồng loạt nổ súng. Bất ngờ bị đánh xuyên hông, cánh quân này không còn sức chống cự nữa. Ta xung phong diệt địch, đốt xe… Thấy cánh quân vu hồi bị bẻ gãy, toàn bộ quân Pháp núng thế co lại. Hai đại đội của chi đội 6 phản công phối hợp với đại đội 2 của chi đội 11 nổ súng tiến công quyết liệt. Địch phải cho pháo bắn yểm trợ để rút quân. Trong trận này ta diệt 14 xe cơ giới, hơn 10 tên địch, thu 2 trung liên 13,2 ly và gần 100 súng trường.

Ban chấp hành tỉnh ủy xem xét thêm các diễn biến mới trong âm mưu địch, khẳng định địa bàn chính của Tây Ninh, mối quan hệ của Tây Ninh với Gia Định, Chợ Lớn…, chỉ đạo các ngành khẩn trương tiếp tục thực hiện nghị quyết đại hội đảng viên, phát huy thắng lợi Hiệp ước 14/9 chủ động chuẩn bị mọi mặt, sẵn sàng đối phó với các hành động cấu kết đánh phá kháng chiến của Pháp và phản động Cao Đài. Cơ quan mặt trận Việt Minh và Ban tuyên truyền tập trung cán bộ xuống xã, ấp tiến hành ngay các đợt tuyên truyền giáo dục quần chúng, đưa quần chúng vào các tổ chức cứu quốc tham gia kháng chiến và ủng hộ kháng chiến, kêu gọi đồng bào lương và giáo đoàn kết chống lại âm mưu giành dân và đánh phá kháng chiến của địch. Vấn đề cốt yếu là nắm và giáo dục lực lượng quần chúng. Ai nắm được quần chúng là người ấy thắng. Giặc Pháp muốn dùng người Việt đánh người Việt, lôi kéo phản động Cao Đài nắm tín đồ đi vào âm mưu Pháp. Ta muốn tiến hành kháng chiến thắng lợi, muốn chống các âm mưu của địch đều phải có lực lượng quần chúng và toàn dân võ trang chống giặc. Tỉnh ủy nhấn mạnh thêm, cái lõi bên trong phong trào quần chúng là lực lượng cán bộ, đảng viên, các tổ chức đảng phải quan tâm đúng mức vấn đề đào tạo cán bộ địa phương và tổ chức phát triển đảng viên ở các ngành và cơ sở. Đối với vấn đề truyền đơn và giấy mời của Cao Đài, Tỉnh ủy chủ trương chống lại truyền đơn Hàn Tín “lòn trôn” của bọn chức sắc phản động bằng cách giải thích trong sinh hoạt đoàn thể chứ không dùng truyền đơn giấy tờ đối lại. Với việc mời vào Tòa Thánh hội đàm, lần đầu tiên trong Tỉnh ủy không đồng ý cử đại diện ta vào, với lý do lực lượng võ trang của kHu đã đánh vào Tòa Thánh, họ lại vừa rải truyền đơn thì đại biểu đi vào cũng không cản được sự tạo phản của họ mà lại có thể nguy hiểm… Nhưng qua trao đổi phân tích, các đồng chí thấy cần phải đi vì nếu không họ sẽ có lý do đổ lỗi cho ta thiếu thành tâm và tuy không hy vọng quy phục được họ mà đây là cách làm chậm việc dấy phản và có thể biết được ý đồ của họ và nêu cao thiện chí chính nghĩa của ta, Tỉnh ủy giao cho đồng chí Bí thư chuẩn bị: dự kiến nội dung hội đàm, chọn đại biểu đủ uy tín, tiếng nói có trọng lượng và tổ chức đoàn đi vào Tòa Thánh, bảo đảm giành phần thắng về ta.

Đoàn đại biểu của ta gồm 3 đồng chí: đại diện cho Đảng (đồng chí Nguyễn Hữu Dụ), đại diện chính quyền (đồng chí Dương Minh Châu), đại biểu quân sự (đồng chí Trần Văn Đẩu). Đoàn thông qua nội dung các vấn đề có thể đưa ra bàn cãi khi cần thiết: đại diện Đảng giữ vai trò cố vấn, chỉ phát biểu khi cần thiết, đại biểu chính quyền phát biểu là chính, đại biểu quân đội phụ thêm khi nói đến quân sự. Đoàn ta thông báo cho Phạm Trung Kiên – anh Phạm Công Tắc – báo với Phạm Công Tắc ta nhận lời mời và Đoàn xe sẽ vào Tòa Thánh hội đàm.

Khi đoàn đi, các đồng chí trong tỉnh ủy và anh em trong chi đội đều có ý kiến đưa lực lượng võ trang vừa bí mật, vừa công khai để bảo vệ. Các đồng chí trong Đoàn phân tích, đưa lực lượng quân đội đi chỉ làm vấn đề thêm nặng nề, và đưa đi bao nhiêu cho vừa… Vậy, chỉ 3 người đi với tay không là ổn nhất. Đoàn đi tới Rạch Rễ, chuẩn bị qua sông thì có liên lạc hỏa tốc của tỉnh đưa thư cho Tỉnh ủy nói: “Họ rài truyền đơn nữa, thái độ họ vậy, vào là nguy hiểm, nên cân nhắc thêm”.

Sau khi qua đò Rậm Rễ, đoàn được đón vào nhà Phạm Trung Kiên và nghỉ đêm tại đây. Mãi đến chiều ngày sau họ mới đưa đoàn vào Tòa Thánh với lý do là thường mỗi buổi sáng Tây hay vào Tòa Thánh.

Tiếp đoàn chiều và đêm hôm đó có 4 sĩ quan và 1 người tóc dài chấm gáy mặc thường phục, về sau ta mới biết là một tên Quốc dân đảng, mưu sĩ của họ (tên Hồ Hán Sơn).

Họ trình bày quan điểm của họ, cho là pháp yếu nên mới ký hòa ước nhưng Mỹ lại không muốn và Mỹ sợ cộng sản. Mà Cụ Hồ là Cộng sản. Nếu có một chính phủ không phải Cộng sản thì chiến tranh sẽ chấm dứt ngay. Khi xây dựng đất nước hùng cường rồi, Quốc dân sẽ bầu cử chính phủ, lúc bấy giờ, Cụ Hồ lại ra ứng cử, thì chính phủ vẫn là Cụ Hồ thôi.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #29 vào lúc: 17 Tháng Hai, 2018, 04:22:40 am »

Việc hợp tác với giặc, họ giải thích là muốn tạo cho mình có lực lượng nên phải dùng kế Hàn Tín, lợi dụng Pháp để lấy súng. Tuy vậy, họ vẫn chưa được Pháp tin lắm, việc ta đánh vào Tòa Thánh vừa rồi là điều kiện để cho Pháp tín nhiệm hơn, nay mai đủ mạnh rồi, họ sẽ quay lại cùng với ta đánh Pháp. Và để tạo thêm điều kiện thuận lợi cho Pháp tin, họ đề nghị ta giao mặt trận Tây Ninh cho họ, ta sẽ có thêm sức mạnh để kháng chiến ở nơi khác. Bù lại, họ sẽ giúp đỡ ta điều trị thương binh, người đau ốm và có thể giúp cho ta cả thuốc men, đạn dược.

Phái đoàn ta kiên nhẫn phân tích ý đồ xâm lược nước ta của thực dân Pháp và đế quốc, âm mưu dùng người Việt đánh người Việt của chúng, khẳng định chỉ có chính phủ Cụ Hồ mới thật sự đoàn kết toàn dân lãnh đạo cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc. Đồng thời, đoàn cũng khẳng định lập trường quyết tâm giữ vững chiến trường Tây Ninh của lực lượng kháng chiến tỉnh.

Họ đuối lý nhưng cố nhiên là không thể chấp nhận ý kiến của ta được. Mọi người nói:

- Vậy để chờ mai các anh gặp giáo chủ, xem người có cao kiến gì hơn không.

Chiều hôm sau gặp ta, Phạm Công Tắc nói rất lâu về tinh thần của hiệp định 6/3 và thỏa hiệp án 14/9. Ông cho là ta đã nhân nhượng với Pháp nhiều quá. Sau cùng, ông ta cũng đề nghị là ta nên rút về phía bên này sông Vàm Cỏ Đông (bên tả ngạn) vì ông ta đã thỏa thuận với Pháp là Cao Đài sẽ chịu trách nhiệm ở bên này sông, nếu ta không rút đi, Pháp sẽ dùng xăng đốt rừng, thiệt hại sinh linh.

Ta trình bày về ý nghĩa thắng lợi to lớn của hai văn kiện ta ký kết với Pháp, đồng thời cũng đề nghị ông ta rút quân đội Cao Đài do Luyến, Thế chỉ huy đang đóng ở Giồng Nầng về, vì họ chuyên đi cướp bóc, quấy nhiễu dân chúng và mời ông ta ra kháng chiến, bảo đảm sẽ đưa ông ta về Ủy ban kháng chiến Nam bộ.

Đầu tiên ông ta nói không biết gì về hành vi của Luyến, Thế. Ta đưa bằng chứng cụ thể, ông ta thở dài: “Anh em quân sự cũng có những việc làm phiền phức, nhưng ở đây tôi cũng khó nói”. Về việc ra kháng chiến, ông ta nói: “hiện nay tôi chưa nghỉ đến”, nhưng cũng có nói thêm là “về việc quân sự nếu hai bên có gì với nhau thì cũng nên giữ việc liên lạc giữa các anh và tôi, gửi cho tôi những bản tin tức và trước mắt cho xin hai văn bản hiệp định và thỏa hiệp án bằng tiếng Việt”.

Cuộc gặp gỡ kết thúc ở đó. Tuy không thu được kết quả cụ thể, nhưng cuộc hội đàm đã làm bộc lộ âm mưu thái độ câu kết với thực dân Pháp. Đồng thời chứng tỏ cho họ và quần chúng tín đồ biết thiện chí và lập trường kháng chiến kiên định sáng ngời chính nghĩa của ta.

Ngay sau đó, giặc Pháp thực hiện giao ước với Cao Đài, tiến hành các cuộc càn quét lớn vào vùng hữu ngạn sông Vàm Cỏ. Chúng cho tàu chiến chở quân cặp dọc theo hữu ngạn sông Vàm Cỏ đổ bộ vào nhiều mặt tấn công chiến khu của ta ở vùng Gò Nổi, Cây Chò, Xóm Mía, Rừng Nhum… Với lực lượng lớn chúng bao vây chia cắt, lùng sục trong rừng. Lúc này các đại đội của chi đội 11 đã phân tán xuống các địa phương. Các cơ quan chính quyền, mặt trận… nằm trong vòng vây của giặc, phải tự lực, phân tán tránh né. Đồng chí Dương Minh Châu cùng một số anh em phân tán rút ra rừng Cây Chò nhưng lại lọt vào vòng càn quét của địch và bị giết.

Qua cuộc càn lớn của giặc, đồng bào trong vùng bị giặc đốt nhiều nhà cửa, bắn giết một số trâu, cướp bóc một số tài sản khác, gây thêm khó khăn trong cuộc sống. Các cơ quan tỉnh, huyện đóng trong khu cơ sở nhà ở bị giặc đốt sạch. Về người, tỉnh chịu một tổn thất lớn, đồng chí Dương Minh Châu, chủ tịch Ủy ban tỉnh đã hy sinh!...

Sau cuộc càn lớn này, Tỉnh ủy đánh giá âm mưu cấu kết giữa Pháp và Cao Đài đã bắt đầu thực hiện cụ thể, tình hình đã chuyển sang bước mới. Tỉnh ủy nhắc các ngành, các cơ quan các cấp phải nghiêm chỉnh chấp hành nghị quyết của tỉnh ủy, tiến hành theo kế hoạch phân tán theo vùng, triệt để giữ bí mật, bảo tồn và phát triển lực lượng, đồng thời tạo điều kiện hỗ trợ nhau khi cần thiết. Tất cả các bộ phận phải dự trữ lương thực, vật dụng, cất giấu chu đáo và triệt để tiết kiệm từng hột muối, trang giấy… Lực lượng quân sự phải gọn nhẹ biên chế, phải củng cố đơn vị chiến đấu, chuẩn bị tổ chức chiến đấu phân tán, chuẩn bị lương thực, đạn dược, giảm bớt những vụ đánh, những trận chống càn không cần thiết, mọi đơn vị phải tiết kiệm đạn dược, phải tìm cách lấy đạn địch để dự trữ, đảm bảo cho chiến đấu lúc tình huống găng nhất và tạo điều kiện giúp đỡ cho du kích xã cùng hoạt động chiến đấu du kích, chiến đấu bằng hầm hào và vũ khí thô sơ.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM