Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Ba, 2024, 12:19:54 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Tây Ninh 30 năm trung dũng kiên cường  (Đọc 30983 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« vào lúc: 15 Tháng Hai, 2018, 05:18:23 am »

Tây Ninh 30 năm trung dũng kiên cường
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy xuất bản
Năm xuất bản: 1990
Người số hóa: macbupda



LỜI NÓI ĐẦU

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã làm nên cuộc cách mạng tháng 8 thắng lợi, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chấm dứt thời kỳ nô lệ tăm tối ngót một thế kỷ trên đất nước ta, đưa dân tộc ta tiến vào một kỷ nguyên mới.

Cùng với thắng lợi chung của cả nước, quân và dân Tây Ninh đã giành được chính quyền vào đêm 25-8-1945. Nhưng sau đó không bao lâu, thực dân Pháp tiến hành cuộc chiến tranh tái chiếm đất nước ta. Tháng 11-1945, tại Suối Sâu (huyện Trảng Bàng) đã vang lên những tiếng súng đầu tiên mở đầu cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ trên quê hương Tây Ninh thân yêu.

Mùa xuân năm 1975, chiến dịch Hồ Chí Minh thắng lợi, Tây Ninh và miền Nam được hoàn toàn giải phóng, kết thúc một chặng đường đấu tranh cách mạng vô cùng ác liệt, đầy hy sinh, gian khổ nhưng cũng vô cùng hào hùng, cả thế giới nghiêng mình khâm phục!

30 năm kháng chiến, quân và dân cả nước nói chung và Tây Ninh nói riêng đã làm nên những chiến công oanh liệt, viết nên những trang sử hào hùng, chói lọi nhất trong lịch sử của dân tộc và lịch sử của nhân dân Tây Ninh.

Để ghi lại những chiến công, tên đất, tên người đã từng một thời làm cho quân thù khiếp sợ và khâm phục; để tưởng nhớ những anh hùng liệt sĩ và đồng chí, đồng bào đã hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc; để đời đời con cháu mai sau hiểu biết và ghi nhớ về một chặng đường lịch sử cách mạng vẻ vang này, Tỉnh ủy Tây Ninh đã chỉ đạo biên soạn và cho xuất bản tập sách “Tây Ninh 30 năm trung dũng kiên cường”.

Tập sách này được hoàn thành là nhờ sự nỗ lực to lớn của Ban Tổng kết chiến tranh và sự giúp đỡ to lớn của các cơ quan, đồng bào, đồng chí trong và ngoài tỉnh; đặc biệt là các đồng chí Nguyễn Văn Tất (Hai Bình), nguyên Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Phan Văn, Nguyên Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, đồng chí Trần Vạn Ân, nguyên Phó ban Nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh, Phân viện lịch sử quân sự và Phòng lịch sử Quân khu 7. Tỉnh ủy Tây Ninh xin chân thành cảm ơn tất cả đồng bào, đồng chí đã đóng công, góp sức hoàn thành tập sách này.

Tỉnh ủy Tây Ninh xin trân trọng giới thiệu tập sách “Tây Ninh 30 năm trung dũng kiên cường” và rất mong được sự góp ý, bổ sung của đồng bào, đồng chí trong và ngoài tỉnh.


Tây Ninh, ngày 15 tháng 10 năm 1990
                                                                                                                                                         
BAN CHẤP HÀNH TỈNH ĐẢNG BỘ TÂY NINH
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #1 vào lúc: 15 Tháng Hai, 2018, 05:25:05 am »

PHẦN MỘT

ĐẤT NƯỚC CON NGƯỜI VÀ TRUYỀN THỐNG ĐẤU TRANH
CHỐNG NGOẠI XÂM CỦA NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH

CHƯƠNG I

ĐẤT NƯỚC VÀ CON NGƯỜI

1/ - Địa lý tự nhiên:

Tây Ninh là một tỉnh miền Đông Nam bộ, nằm về phía Tây Bắc thành phố Hồ Chí Minh giáp với nước Campuchia. Thị xã Tây Ninh cách trung tâm thành phố khoảng 88 km đường chim bay, 99 km tính theo quốc lộ 22 và 22b.

Vào đầu thế kỷ 17 mảnh đất Tây Ninh còn là một vùng rừng rậm hoang vu và đầy thú dữ. Đến năm 1658, mới có những tộc người Việt đầu tiên đến đây khai hoang lập ấp và làm ăn sinh sống. Trải qua bao thăng trầm, biến đổi của lịch sử, tên gọi và địa giới cũ, Tây Ninh nhiều lần thay đổi. Từ đạo Quang phong thuộc phủ Gia Định (1698) thành phủ Tây Ninh của tỉnh Gia Định (1838). Đến năm 1871, mới thành tỉnh Tây Ninh và ranh giới của tỉnh (như ngày nay) được chính thức công nhận kể từ năm 1890. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp từ tháng 8-1945 đến năm 1951 Tây Ninh là một tỉnh riêng tháng 5-1951, ta sát nhập 2 tỉnh Tây Ninh và tỉnh Gia Định thành tỉnh Gia Ninh. Cuối năm 1954, ta lại tách ra làm 2. Tây Ninh trở lại ranh giới cũ. Thời ngụy quyền thuộc Mỹ, chúng đã cắt quận Phú Đức (Trảng Bàng) nhập vào tỉnh Hậu Nghĩa. Lúc chuẩn bị cho Tổng tiến công mùa Xuân 68 huyện Trảng Bàng được tách ra cộng với một số huyện ven thành phố thành lập phân khu một. Năm 1972, huyện Trảng Bàng được trả về cho Tây Ninh. Ngày nay ranh giới hoàn chỉnh của Tây Ninh có: phía Bắc và Tây giáp nước Campuchia, chiều dài biên giới là 232 km, phía Nam giáp tỉnh Long An 13,5km và thành phố Hồ Chí Minh 32 km, phía Đông giáp tỉnh Sông Bé 123 km đường ranh tỉnh lấy dọc theo sông Sài Gòn.

Diện tích tự nhiên của toàn tỉnh là 4.030 km2. Địa hình tương đối bằng phẳng ở diện rộng, có xu hướng nghiêng dần từ Bắc xuống Nam. Dạng địa hình cao đổi thoải lượn sóng có độ cao trung bình so với mặt biển từ 20m đến 60m, chủ yếu nằm ở phía Bắc tỉnh. Dạng trung bình có độ cao từ 10m đến 20m, chạy dọc giữa tỉnh từ Thị Xã xuống Gò Dầu, Trảng Bàng. Dạng địa hình thấp, bằng ven sông có độ cao trên 5m, là vùng đất ven sông Vàm Cỏ Đông, sông Sài Gòn và các trạch phụ lưu của 2 sông này. Trên dạng địa hình tổng thể, có độ cao không quá 60m, nổi lên ngọn núi Bà Đen cao 986m, đây là ngọn núi cao nhất Nam bộ, giống như một chiếc nón lá khổng lồ úp giữa những cánh đồng phẳng, những đồng lúa, đồng màu bạt ngàn xanh tốt. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, khu vực Núi Bà Đen là một địa điểm tốt, để cho các nhóm Đảng hoạt động khi bị lộ, bị kẻ thù khủng bố, tạm rút về đây ẩn náu chờ thời cơ. Đế quốc Mỹ sau này cũng lợi dụng đỉnh Núi cao để đặt trạm viễn thông nhằm khống chế cửa ngõ phía tây bắc Sài Gòn và cả miền Đông và Campuchia. Nơi đây đã diễn ra những trận chiến đấu ác liệt giữa ta và địch để giành giật nhau từng triền núi, hang đá.

Khí hậu Tây Ninh mang những nét điển hình của chế độ khí hậu nhiệt đới gió mùa, quanh năm nóng ẩm. Nhiệt độ trung trung bình cả năm là 27o4, tháng giêng có nhiệt độ thấp là 17o6, nhiệt độ cao nhất là vào tháng 4: 37o. Sự chênh lệch nhiệt độ giữa các tháng trong năm ít, nhưng sự chênh lệch giữa ngày và đêm cao: Vào buổi sáng 24o4, trưa 32o, chiều 30o và đêm 27o. Đây là điều kiện thuận lợi để tạo ra sự tích lũy chất tinh bột cho các lại cây trồng như lúa, mía, mì, đậu phộng, bắp… Lượng mưa trung bình hàng năm ở Tây Ninh là 1.508 mm, Độ ẩm trong không khí trung bình là 79%. Lượng bốc hơi cả năm trung bình là 1.434mm, tổng số giờ nắng trong năm. là 2.728 giờ. Khí hậu thời tiết trong năm được chia thành 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 11, lượng mưa chủ yếu tập trung vào mùa này (chiếm 90% lượng mưa cả năm với khoảng 104 ngày mưa). Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4, lượng mưa rất ít (khoảng 12 ngày mưa với 80mm – 100mm).

Được thiên nhiên nhiệt đới ưu đãi, rừng và các sinh vật khác phát sinh, phát triển nhanh, mạnh, đa dạng và phong phú. Rừng có nhiều gỗ quý như: Giáng hương, Cẩm lai, Cẩm xe, Trai, Dầu, Chò, Sao, Gõ. Chẳng những có nhiều chủng loại mà còn giàu về sản lượng, có nơi đạt từ 100 đến 200 m3 gỗ tròn 1 ha. Rừng còn là một vườn cây thuốc Nam quý giá với nhiều loại thông dụng như hả thủ ô, mã tiền, sa nhân, ba kích, ké đầu ngựa, bạch đậu khấu…. được dùng rộng rãi trong việc điều trị bệnh và bồi dưỡng sức khỏe cho nhân dân. Rừng còn có hàng chục loại cây ăn quả (như: Trường, mít, gùi, thị…) hàng trăm loại cây có thể dùng làm rau ăn. Đi đôi với nguồn tài nguyên về thực vật, nguồn tài nguyên về động vật ở Tây Ninh cũng khá phong phú, bao gồm nhiều loại từ cọp, voi, heo rừng, bò rừng, khỉ, nhím, cheo, trăn… cho đến chim muông. Nhiều loại bò sát cũng được xác minh là có thể dùng làm dược liệu tốt như các loại rắn, thằn lằn, tắc kè, kỳ đà, ở dưới lòng đất có nhiều loại khoảng sản quí. Dưới sông suối có những vùng đất thấp bị ngập nước có các loại cá sinh sôi nẩy nở quanh năm. Cây cối tươi tốt, mùa nào thức ấy. Đây chính là kho thực phẩm dự trữ dồi dào cho nhân dân ta từ xa xưa, cho bộ đội và nhân dân những năm kháng chiến chống giặc. Đây cũng chính là tài nguyên kích thích lòng tham của bọn tư sản nhảy vào khai thác để làm giàu. Trong chiến tranh, Mỹ - Ngụy đã dùng bom đạn và chất độc hóa học để phá hoại rừng làm cho nguồn tài nguyên này bị phá hủy nghiêm trọng. Ngày nay Tây Ninh chủ trương trồng cây trả lại màu xanh cho rừng. Đồng thời có những chính sách pháp lệnh cụ thể về việc bảo vệ rừng, bảo vệ thú rừng, sử dụng gây nuôi và khai thác một cách hợp lý nhằm đáp ứng được nhu cầu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và đời sống nhân dân.

Tây Ninh có 2 con sông lớn chảy qua ở phía tây tỉnh là sông Vàm Cỏ Đông dài 220km bắt nguồn từ Campuchia băng qua những cánh rừng biên giới chảy vào đất Tây Ninh (đoạn dài 180km) xuống Long An và đổ ra biển Đông. Dòng sông này rất tiện lợi giao thông đường thủy, giặc lợi dụng đánh ra phía Tây và Campuchia, dòng sông đã từng làm mồ chôn quân cướp nước, nó là một chứng nhân của lịch sử, ghi dấu bao chiến công oai hùng của quân và dân ta. Về phía Đông có sông Sài Gòn bắt nguồn từ Campuchia dài 250km chảy qua Tây Ninh theo hướng Bắc Nam (đoạn dài 123km) lòng sông không sâu, rộng nhưng ghe thuyền có thể đi lại dễ dàng. Hiện nay nó là nguồn cung cấp nước dồi dào cho hồ Dầu Tiếng, một công trình thủy lợi lớn của cả nước.

Tây Ninh là cửa ngõ phía tây bắc thành phố Hồ Chí Minh có đường biên giới giáp Campuchia 232km. Đây là một vị trí có ý nghĩa chiến lược quan trọng về các mặt chính trị, kinh tế và quốc phòng. Địa thế núi rừng hiểm trở của Tây Ninh đã trở thành những căn cứ kháng chiến chống ngoại xâm của ông cha ta, ngay từ buổi đầu khi mới đặt chân đến vùng đất này, cho đến lúc có Đảng lãnh đạo, những chiến khu An Cơ, căn cứ C.1000, căn cứ 105, căn cứ địa Dương Minh Châu (từ 1952 đến 1975), chiến khu Bời Lời và còn biết bao địa danh khác mãi mãi đi vào lịch sử. Đây là niềm tự hào của quân và dân Tây Ninh trong suốt 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam mà trực tiếp là Tỉnh Đảng bộ Tây Ninh. Rừng Tây Ninh còn là căn cứ cho sự phối hợp chiến đấu giữa những người yêu nước Việt Nam và Campuchia cùng chung sức chống quân xâm lược.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #2 vào lúc: 15 Tháng Hai, 2018, 05:26:21 am »

2/ - Về địa lý kinh tế:

Với điều kiện tự nhiên về địa hình, đất đai khí hậu, sông ngòi và các nguồn tài nguyên khác của tỉnh, Tây Ninh có một tiềm năng to lớn về phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp.

Trải qua hàng mấy thế kỷ từ khi mới khai phá lập nghiệp, người dân Tây Ninh chủ yếu sống bằng nghề nông và nghề rừng. Kho tài nguyên thì dồi dào mà cuộc sống của người dân thì khổ cực trăm bề, bởi vì đất nước còn đang lệ thuộc ách thống trị của bọn phong kiến, thực dân, đế quốc.

Dưới thời Pháp thuộc, nông dân là những người trực tiếp khai vỡ đất đai nhưng không được làm chủ mảnh đất của mình. Đất phù sa mới nhiều phèn khó canh tác, được một số ruộng tốt đều tập trung trong tay bọn địa chủ và bọn quan lại địa phương. Sản xuất manh mún cá thể, kỹ thuật canh tác lạc hậu gần như phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên. Diện tích canh tác không được mở rộng, năng suất cây trồng không cao, làm lụng vất vả quanh năm nhưng không đủ gạo ăn.

Đất Tây Ninh phần lớn là đất xám trên phù sa cổ, loại đất này thích hợp với những loại cây ngắn ngày như mía, đậu phộng, mì, thuốc lá,… bọn tư bản cũng đã đầu tư vào đây để khai thác. Chúng đã xây dựng nhà máy đường ở Thanh Điền với trên 500 công nhân, (kể cả công nhân trồng mía). Về sau bọn chủ Pháp cho mở rộng thêm diện tích trồng mía và trang bị máy ép đường, loại có công suất 250 tấn mía cây/ngày để tăng cường bọc lột lao động của công nhân. Bên cạnh đó, chúng còn chiếm dụng đất đai của nhân dân để làm đồn điền cao su bóc lột nguồn công nhân rẻ mạt tại chỗ, trong thời gian này, công ty cao su Đông Dương (SIBH) của Pháp đã xây dựng được một số đồn điền lớn ở Bến Củi, Vên Vên… Đây là loại đồn điền khá quy mô thu hút nhiều công nhân, vì nó có cả nhà máy chế luyện cao su. Ngoài ra còn có nhiều sở cao su của bọn địa chủ, tư sản ngoại kiều khác như sở Cầu Khởi, sở Ác nô, sở Ôcônen, sở Syna, sở Phơ-răng-sy-ny, sở Sốc-Văng… Một số sở địa chủ người Việt có diện tích khoảng 10 đến 15 ha ở rải rác khắp tỉnh và dự kiến còn mở nhiều đồn điền… Trong các đồn điền, bọn địa chủ đã bóc lột sức lao động của công nhân một cách dã man, mỗi ngày họ làm việc từ 10 đến 14 tiếng đồng hồ lại còn phải gánh chịu bao nhiêu roi vọt trút lên đầu.

Nguồn lợi lớn nhất mà thực dân Pháp thu được trên mảnh đất hơn 400 ngàn hécta của Tây Ninh là lâm sản. Rừng chiếm ½ diện tích đất đai trong toàn tỉnh,. Sản lượng gỗ cao, lại dễ khai thác vì địa hình bằng phẳng, rất thuận tiện cho việc vận chuyển. Sau gỗ còn có nhiều lâm sản phụ quan trọng khác như mây, tre, lá, củi, dầu trong, mủ chai và rất nhiều thịt thú rừng. Khi mới chiếm Tây Ninh, thực dân Pháp đã áp dụng ngay chính sách khoanh rừng, tổ chức kiểm soát chặt chẽ để làm chủ rừng, bán gỗ thu thuế lâm sản, chúng đã thành lập ở Tây Ninh một sở kiểm lâm gồm 7 quận và nhiều đồn. Ở mỗi quân có một tên sếp và một số viên chức trông coi cùng với một đội lính thường xuyên rình rập, bắt bớ phạt vạ những người làm rừng sai với quy chế do chúng đặt ra.

Về công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp gần như địch không quan tâm chỉ ở Thị xã có 1 nhà máy đèn, 1 nhà máy nước qui mô nhỏ với khoảng vài chục công nhân. Trong toàn tỉnh có hơn 10 nhà máy xay xát gạo, công suất từ 5 đến 10 tấn lúa/ngày và một số xí nghiệp thủ công khác như xưởng giấy, lò gạch, che ép đường, bọng ép dầu đậu phộng, lò rèn, lò than. Tất cả các cơ sở sản xuất trên đều thuộc tiểu chủ người Việt và Hoa kiều. Các tiểu chủ này phải nộp thuế khá cao cho bọn thống trị, nên họ đã bóc lột người làm công không kém gì Pháp, thậm chí có nơi còn nặng nề hơn, bởi vì họ bóc lột theo cung cách của thực dân kết hợp với kiểu bóc lột của địa chủ, phong kiến. Ngoài những thủ đoạn bóc lột về kinh tế, thực dân Pháp còn áp dụng một chế độ thuế khóa hà khắc đối với nhân dân ta. Chúng đặt ra mọi thứ thuế như điền thổ, nhà cửa, trâu bò, patăng, môn bài… và dã man nhất là thuế thân. Tình cảnh này đã đưa cuộc sống của người dân Tây Ninh ngày càng đi vào chỗ cùng cực bế tắc.

Thời Pháp thuộc là như thế, thời Mỹ Ngụy nhằm mục đích biến Tây Ninh thành một tiền đồn vững chắc để bảo vệ cửa ngõ phía tây bắc Sài Gòn, đế quốc Mỹ đã đổ vào đây rất nhiều bom đạn, chất độc hóa học và các phương tiện chiến tranh khác hình thành nên một hệ thống đồn bót và căn cứ quân sự dầy đặc. Vì thế, diện tích đất đai nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, ở những vùng xảy ra chiến sự nhân dân không thể sản xuất được, phải bỏ ruộng, bỏ vườn chạy vào thị trấn, thị xã. Điều này đã làm cho nền kinh tế nông nghiệp bị đình đốn, không phát triển được. Bom napan và chất độc hóa học của Mỹ đã hủy diệt rừng một cách nghiêm trọng, làm cho nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng thêm kiệt quệ. Việc khai thác rừng và các nguồn lâm sản phụ khác đều tập trung trong tay bọn cai thầu và bọn tướng tá Ngụy với ý đồ khai hoang phá rừng, phá căn cứ cách mạng, địch cho tay chân tự do phá rừng làm gỗ, củi, và xẻ đường ngang dọc chia nhỏ vùng rừng. Về công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp trên cơ sở những di sản của thực dân Pháp để lại, Mỹ Ngụy có trang bị thêm một ít máy móc và thiết bị kỹ thuật không đáng kể. Hàng hóa ế thừa của phe tư bản chủ nghĩa tràn vào thị trường, đã bóp chết những ngành nghề truyền thống ở địa phương. Nền kinh tế Tây Ninh vốn đã què quặt lại bị chiến tranh tàn phá liên miên, sản xuất đình đốn, đời sống của nhân dân trong vùng tạm chiếm vô cùng khó khăn. Còn ở vùng tự do (địch kêu là vùng oanh kích tự do), dưới sự lãnh đạo của chính quyền cách mạng, nhân dân ta vượt mọi khó khăn, về thiên nhiên địch họa vừa sản xuất, vừa chiến đấu, nhằm đáp ứng được phần nào yêu cầu của công cuộc kháng chiến và đời sống.

Do điều kiện địa hỉnh tương đối bằng phẳng, hệ thống đường giao thông ở Tây Ninh khá thuận tiện. Về đường bộ: có quốc lộ 22 và 22b chạy suốt từ thành phố Sài Gòn (phía Nam) lên bắc tỉnh, qua Campuchia.

Tỉnh lộ 13 xuyên suốt từ đông sang tây: chạy từ sông Sài Gòn qua thị xã Tây Ninh đi Bến Sỏi và đến biên giới Việt Nam – Campuchia. Tỉnh lộ 4 chạy lên phía Bắc từ Thị xã qua Kheđon, Đồng Pan đi Kà-tum và đến biên giới Việt Nam – Campuchia bắc Sông Bé. Xuyên giữa rừng nối liền lộ 4 tại Đồng Pan với quốc lộ 22b, địch làm đường (Trần Lệ Xuân) để khai thác gỗ và tiếp cận căn cứ ta. Tỉnh lộ 26 xẽ giữa tỉnh chạy xuống phía Nam băng qua các vùng nông thôn trù phú thuộc các huyện Dương Minh Châu, Gò Dầu, Trảng Bàng nối với lộ 22 cửa ngõ vào Sài Gòn. Nối liền các trục lộ chính là một mạng lưới đường nông thôn chằng chịt, phục vụ tốt cho việc đi lại của nhân dân và việc vận chuyển hàng hóa bằng các loại xe. Về đường thủy có 2 sông Sài Gòn và Vàm Cỏ Đông, nhiều con rạch nhỏ thuyền ghe có thể lưu thông được quanh năm như rạch sóc Ôm, rạch Tây Ninh, rạch Trảng Bàng, rạch Suối Đôi…. Trong thời gian chiến tranh, thực dân Pháp cũng như đế quốc Mỹ đã sử dụng hệ thống đường giao thông này chủ yếu để phục vụ cho mục đích quân sự, nhằm thực hiện các cuộc hành quân càn quét vào các vùng tự do của ta.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #3 vào lúc: 15 Tháng Hai, 2018, 05:27:31 am »

3/ - Địa lý nhân văn và xã hội:

Dân số Tây Ninh thời Pháp thuộc năm 1921 có khoảng 200.000 người, năm 1942: 200.000 người, thời Mỹ Ngụy năm 1969: 335.301 người, năm 1972: 392.840 người. Sau giải phóng 30-4-1975 có khoảng 578.000 người. Theo tổng điều tra dân số 1978 có 701.000 người. Mật độ dân số trung bình trong toàn tỉnh là 174 người/km2, nơi có mật độ cao nhất là huyện Hòa Thành: 900 người/m2, thấp nhất là huyện Tân Biên 42 người/km2.

Từ khi vùng rừng núi hoang vu tở thành nơi cư trú của con người cho đến nay, ở Tây Ninh có 3 dân tộc anh em cùng sống đoàn kết gắn bó với nhau, đó là người Việt, Khơme và Chàm. Người Việt ở Tây Ninh là những người có nguồn gốc từ các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và một số tỉnh Miền Bắc vào cửa Cần Giuộc theo đường sông lên Tây Ninh buôn bán, trao đổi hàng háo với người địa phương rồi dần dần trụ lại đây làm ăn sinh sống. Dân tộc Việt phát triển nhanh, ngày càng đông, yêu câu mở rộng địa bàn sản xuất ngày càng trở nên cấp bách, do đó họ tiến dần lên vùng Trảng Bàng, Gò Dầu và tận chân núi Chiện (Bà Đen) để khẩn đất lập làng, hình thành nên những vùng cư dân đầu tiên của người Việt ở Tây Ninh. Trước và qua 2 cuộc kháng chiến, dân tộc Việt luôn luôn thể hiện được truyền thống yêu nước chống ngoại xâm mãnh liệt của mình, biết đoàn kết với các dân tộc anh em trong công cuộc giải phóng đất nước. Người Khơme sống quây quần lại với nhau thành từng phum, sóc. Sống chủ yếu dựa vào hái lượm, đốt nương, tỉa rẫy. Vào thời Pháp thuộc họ tập trung lại trong 4 tổng (Chơn, Bà Đen, Tabenduyn, Băng-chơ-rum, Khăn Xuyên) gồm 15 làng. Qua 2 cuộc kháng chiến do chiến tranh tàn phá ác liệt, đồng bào Khơme phải di chuyển tứ tán đi nhiều nơi, không còn sống theo từng làng riêng biệt nữa mà chung sống với người Việt, phần lớn là ở những vung rừng và nông thôn hẻo lánh. Dân số Khơme phát triển chậm, hiện nay có khoảng 18.654 người. Dân tộc Chàm (1692) đã cùng người Việt từ miền trung Trung bộ tiến lần về phía Nam, về sau định cư lại ở 2 nơi là Châu Đốc và Tây Ninh. Ở Tây Ninh người Chăm quy tụ lại thành 2 xóm: xóm Chàm Đông Tác (nay thuộc ấp Thái Vĩnh Đông – Phường 1 Thị xã Tây Ninh) và xóm Chàm Tạo Tác (xã Tân Hưng, huyện Tân Biên) người Chàm theo đạo Hồi, thuộc phái Pa-ni không ăn thịt heo và chôn xác chết. Giáo đường được xây theo kiểu La-mát (Ấn Độ, Ả Rập) không giống người Chàm ở Bình Định, Phan Rang. Hiện nay có khoảng 1.400 người Chàm đang cư trú trên địa bàn Tây Ninh.

Ngoài 3 dân tộc lớn đã nêu trên, còn có một số dân tộc ít người khác như dân tộc Tà Mun (576 người), Mường (74 người), Thổ (9 người), Ê đê (6 người) và kiều dân Ấn Độ (53 người, Pháp (13 người), Thái Lan (11 người), Lào (7 người), Tiệp Khắc (3 người), Nhật (4 người) và người Việt gốc Hoa (9.698 người) (theo số liệu điều tra năm 1978).

Đồng bào các dân tộc với phong cách sống hào hùng của cha ông đã để ra bao công sức và xương máu để khai lập và giữ gìn mảnh đất Tây Ninh từ khi mới thành lập cho đến nay. Dân tộc Kinh sống chan hòa đoàn kết với các dân tộc anh em trong quá trình sản xuất, chống thiên nhiên thú dữ và giặc ngoại xâm, chống mọi chính sách chia rẽ dân tộc của kẻ thù.

Đại bộ phận dân số Tây Ninh là nông dân lao động cần cù và sáng tạo. Cách đây khoảng 300 năm về trước, Tây Ninh còn là vùng rừng rậm hoang vu vắng bóng người, thuở ấy ông cha ta đã phải đạp rừng xông tới tìm đường đi mở đất, quây quần bên nhau để chống thứ dữ, nương tựa vào nhau trong cảnh sống heo hút vất vả. Bằng những công cụ lao động thô sơ trong buổi ban đầu, nhân dân đã vượt qua muôn vào khó khăn gian khổ từng bước tiến lên cải tạo thiên nhiên. Khi thực dân Pháp nhảy vào xâm chiếm Tây Ninh, tất cả những vùng đất, những mảnh ruộng tốt đã bị chúng chiếm đoạt.

Vào đầu thế kỷ 20, trong chính sách khai thác thuộc địa lần thứ hai, thực dân Pháp cho xây dựng ở Tây Ninh một số đồn điền cao su, một vài cơ sở sản xuất chế luyện cao su, xưởng chế biến mía đường, nhà máy đèn, nhà máy nước…. Ruộng đất bị chiếm đoạt, nông dân không có đất để sản xuất bắt buộc phải bán sức lao động của mình cho bọn địa chủ ở các đồn điền và nhà máy để kiếm sống. Từ đó giai cấp công nhân được hình thành, tuy số lượng không đông, tính chất không thuần nhất (bần nông, cố nông), điều kiện làm việc không hiện đại nên tinh thần tập thể và ý thức tổ chức kỷ luật chưa chặt chẽ, nhưng họ lại bị áp bức bóc lột quá nặng nề, điều này đã làm cho mâu thuẫn giữa họ với bọn tư bản thống trị ngày càng trở nên gay gắt. Xuất phát từ giai cấp nông dân, sẵn có lòng căm thù giặc sâu sắc của người dân nô lệ bị cướp đất và sẵn có truyền thống yêu nước của dân tộc lại được sự cổ vũ mạnh mẽ của phong trào công nhân trong cả nước, giai cấp công nhân ở Tây Ninh đã sớm thấy được vai trò và trách nhiệm của mình trong cuộc cách mạng, nên họ đã đoàn kết chặt chẽ với giai cấp nông dân, tiến hành cách mạng lật đổ giai cấp thống trị.

Giai cấp tư sản và địa chủ ở Tây Ninh quá nhỏ bé, chiếm tỷ lệ không đáng kể so với dân số toàn tỉnh, nhưng đó lại là giai cấp có thế lực mạnh nhất trong xã hội đương thời được bọn thống trị nuôi dưỡng để làm tay sai cho chúng.

Hoàn cảnh xã hội phức tạp, đời sống kinh tế quá khó khăn, thiên nhiên thú dữ và giặc cướp hoành hành, chiến tranh xảy ra liên miên, sinh mạng của con người bị nhiều mối đe dọa. Vốn hiểu biết của con người về thiên nhiên và xã hội còn nhiều hạn chế, con người còn tin sự che chở cứu vớt của trời phật, lấy đó làm chỗ dựa về tinh thần. Đó là điều kiện tốt để cho ba tôn giáo lớn lần lượt ra đời và tồn tại ở Tây Ninh cho đến ngày nay.

Đạo Phật xuất hiện rất sớm, gắn liền với quá trình khai vỡ đất đai và bảo vệ cuộc sống của nhân dân Tây Ninh nó có phần về đạo nghĩa làm người phù hợp với đạo Phật. Cảnh non thâm cùng cốc của núi Bà Đen thích hợp với các thầy tu lập chùa sùng đạo. Nhiều vị công thần sau khi dẹp giặc xong lại lui về lập chùa tu niệm. trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và Mỹ có một số chùa Phật là nơi ẩn náu tốt cho những người yêu nước, các cán bộ đảng viên của ta khi bị địch truy lùng và bắt bớ. Đạo Phật rất gần gũi với nhân dân. Liên quan bản tính nhân hậu, hiếu thảo, hào hiệp, nhân nghĩa, trí dũng, làm lành kính dữ, diệt tà cứu dân… vì thế gần như người Việt Nam nào cũng thờ cũng tổ tiên, ông bà trong những ngày rằm lớn ở chùa đã trở thành tập quán của mọi người, mặc dù họ không phải là tăng ni phật tử.

Đạo Thiên chúa người mở đường cho Pháp xâm lược, có ở Tây Ninh là do các linh mục bị triều đình Huế truy nã, phải trốn vào Nam lãnh nạn, tìm đến vùng đất Thala quy tụ một số đồng bào ở Lò mo, Trường Đà thành lập nên họ Đạo Tha La vào đầu thế kỷ 19. Khi Pháp chiếm Tây Ninh (1861), Họ đạo này phát triển mạnh, đã cử nhiều linh mục lên Thị xã thành lập họ Đạo Tây Ninh và đi nhiều nơi trong tỉnh để thành lập tiếp các họ Đạo khác. Đạo có quan hệ chặt chẽ với bọn thống trị. Họ định đào tạo một số trí thức và linh mục sau đẻ ra Đảng Tân Đại Việt (Nguyễn Tôn Hoàng). Thời Ngô Đình Diệm cùng với nhóm giáo dân mới di cư từ miền Bắc vào (1954) họ thành lập các “khu trù mật”, “khu dinh điền”, “khu tị nạn công sản” chống cộng triệt để gây nhiều khó khăn cho phong trào cách mạng địa phương. Phần lớn tín đồ Thiên Cháu giáo súng đạo tin Cháu bị tầng lớp cha cố lợi dụng mê hoặc mù quáng. Trong cuộc sống họ bị áp bức bóc lột năng nề như bao nhiêu người khác nên khi được giác ngộ lòng yêu nước họ cam thù giặc ngoại xâm. Ngoài một số bị kẻ thù mua chuộc thật sự làm tay sai cho giặc, chống phá cách mạng, số còn lại đã cùng với nhân dân địa phương tìm mọi cách giúp đỡ cán bộ ủng hộ cách mạng góp phần vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.

Đạo Cao Đài ra đời ở Tân An rồi chuyển lên Tây Ninh năm 1926, do một số quan lại địa chủ bất mãn Pháp theo phong trào Đông du từ Cường Để theo Nhật với thuyết Đại Đông Á qui tụ từng lớp trung gian đứng ra thành lập, họ bày ra việc lập đàn cầu cơ, một biện pháp, thủ đoạn lừa mị kéo nông dân yêu nước không có sự lãnh đạo đúng, bị đàn áp không lối ra. Họ cho đây là quốc đạo và giải thích: tuy thờ Thích ca, Jêsu, Không Tử, Phật bà Quan Âm nhưng đạo Cao Đài được sáng lập trong nước chứ không phải từ ngoài du nhập vào. Khi cần họ cũng có thể lý giải quốc đạo là đạo làm quốc sự. Hai câu đối trước mỗi thánh thất đều có nên rõ: “Dân chủ mục, tự do quyền” và trong lòng quần chúng tín đồ đều tâm niệm câu “Nước nhà Nam là của người Nam!”. Trên thực tế, đó chỉ là cách mị dân của một số lãnh tụ và chức sắc được phát xít Nhật, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ lôi kéo sử dụng để tranh giành ảnh hưởng quần chúng với Đảng ta. Chính thủ đoạn lừa mị đó mà chỉ trong một thời gian ngắn đạo Cao Đài đã thu hút được hàng chục vạn tín đồ.

Đối với tầng lớp chức sắc cấp cao trừ một số ít còn có tin thần dân tộc, có lòng yêu nước, còn đại đa số mượn danh nghĩa đạo để hoạt đông nhằm mục đích chính trị riêng với ý định xưng bá đồ vương. Họ đã tiếp tay với Đế quốc chống lại cách mạng, đi ngược lại quyền lợi của quân dân và dân tộc. Quần chúng tín đồ tuy có bị họ lợi dụng để làm tay sai cho giặc, nhưng tuyệt đại đa số là nông dân cơ bản có tinh thần yêu nước có căm thù bọn bóc lột khi họ được hiểu lẽ phải, sự thật nhận ra kẻ thù cướp nước và bè lũ bán nước nên đồng bào tín đồ sẵn sàng đi theo cách mạng, cùng toàn dân đứng lên đánh đuổi bọn đế quốc và tay sai.

Thời kỳ này, ở Tây Ninh còn các đảng phái hoạt động như: Đảng Đại Việt ở Gò Dầu (Võ Thành Cứ), Đảng Tân Đại Việt trong công giáo Tha La, Đảng Việt Nam phục quốc trong Cao Đài xu hướng của họ phục vụ đế quốc, tranh giành quần chúng với Đảng ta. Riêng tổ chức Thiên địa hội có xu hướng tiến bộ vì dân tộc độc lập.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #4 vào lúc: 15 Tháng Hai, 2018, 05:28:44 am »

CHƯƠNG II

TRUYỀN THỐNG ĐÂU TRANH BẤT KHUẤT CHỐNG NGOẠI XÂM
CỦA NHÂN DÂN TÂY NINH TỪ TRƯỚC KHI CÓ ĐẢNG
CHO ĐẾN CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945

1.- Phong trào đấu tranh trước khi có Đảng lãnh đạo

Địa thế núi rừng Tây Ninh bao la hiểm trở, tài nguyên thiên nhiên trong rừng phong phú đa dạng bảo đảm được nguồn hậu cần tại chỗ. Chính vì thế Tây Ninh luôn luôn là mảnh đất của những căn cứ địa chống ngoại xâm nổi tiếng.

Quá trình hình thành và phát triển của tỉnh là quá trình đấu tranh gay bắt quyết liệt với quân thù. Ngay từ buổi đầu mới thành lập tỉnh, nhân dân Tây Ninh liên tục chống giặc bảo vệ biên thùy mà chứng tích còn ghi lại ở đền Ông lớn Trà Vông (ấp Tua Hai, xã Thái Bình, huyện Châu Thành) hoặc Vịnh cù, Vàm Sóc Om mãi mãi cho đến ngày nay.

Thực dân Pháp xâm lược nước ta, triều đình phong kiến nhà Nguyễn hèn yếu đầu hàng giặc, đã đi từ nhượng bộ này đến nhượng bộ khác. Năm 1862, ký hòa ước cắt dâng ba tỉnh Miền Đông Nam kỳ cho Pháp. Nhân dân Tây Ninh đã cùng với nhiều vị quan lại địa phương chống lại lệnh bãi binh của triều đình lại về dựa vào thế núi rừng chống giặc.

Ở phía bắc tỉnh Khâm Tấn Tường rút về phủ An Cơ (xã Hảo Đước) xây dựng lực lượng kháng chiến. Ông đã cùng anh em binh sĩ và nhân dân đánh cho giặc Pháp những đòn tan tác ở Trảng An Cơ, Vịnh Cù, Sóc Om.

Phía Nam có cơ sở kháng chiến do Lãnh Binh Tòng chỉ huy. Từ đây Lãnh Binh Tòng đã từng đưa quân về tiếp viện ở đồn Chí Hòa, lúc Chí Hòa đang bị uy hiếp. Sau khi đồn Chí Hòa thất thủ, Pháp đánh lên vùng Trảng Bàng. Ông đã cùng nghĩa quân chống cự quyết liệt, làm thực dân Pháp mất ăn, mất ngủ trong nhiều năm.

Còn ở các xã phía Tây (thuộc huyện Bến Cầu ngày nay) có lực lượng kháng chiến của Lãnh Binh Két. Ông đưa quân về đây lợi dụng địa hình vừa có rừng rậm, vừa có đầm lầy để mai phục và chủ động đánh Pháp. Ông đã từng đưa quân tấn công vào đồn giặc gây cho chúng nhiều thiệt hại nặng nề. Đây là căn cứ địa được giữ vững ở Tây Ninh thời bấy giờ.

Trong các phong trào kháng chiến chống Pháp khác, giai đoạn này, nổi bật hơn hết là lực lượng nghĩa quân do Trương Quyền lãnh đạo Sau khi Trương Định hy sinh oanh liệt ở Gò Công, Trường Quyền đưa quân về Tây Ninh tiếp tục tổ chức đánh Pháp ở vùng Truông núi (Gò Dầu), Trảng Bàng… Về sau ông phối hợp với nghĩa quân Khơme của Pô-cum-pô, liên quân Việt Khơme đã tiến vào Thị xã Tây Ninh đánh với tên quan ba Pi-nô, giết chết tên tỉnh trưởng Lắc-cơ-lô và tên quan một Lơ-Sa ngay trước đồn lính của chúng. Thực dân Pháp điên cuồng cử tên quan năm Mác-Sét-Sơ đưa viện binh từ Sài Gòn lên theo đường sông để tấn công và truy quét lực lượng nghĩa quân. Một tuần lễ sau Mác-Sét-Sơ cũng đã đền tội ở Rạch Vịnh, quân Pháp phải rút.

Tinh thần bất khuất chống ngoại xâm của nhân dân Tây Ninh dưới sự lãnh đạo của các vị quan lại địa phương đã phá triển mạnh mẽ và rộng khắp trong toàn tỉnh, nhưng không làm xoay chuyển được tình thế, bởi vì so sánh tương quan giữa ta và địch quá chênh lệch nhau, một bên là nhân dân yêu nước đã bị triều đình phong kiến bán đứng cho ngoại bang phải đương đầu với đội quân viễn chinh của một tên thực dân sừng sỏ. Cho nên phong trào kháng chiến dần dần bị tan rã. Về sau các tổ chức yêu nước khác như Thiên địa hội do ông Hồ Văn Chư đứng đầu ở An Tịnh, ông Nguyễn Văn Phát ở An Hòa và nhiều vị khác ở Gia Bình, Vàm Trảng… nổi lên hoạt động nhưng không thu được kết quả gì đáng kể, vì thiếu một đường lối chính trị đúng đắn phải chờ đến khi có ảnh sáng của Đảng Cộng sản Việt Nam rọi vào Tây Ninh thì các phong trào yêu nước của quần chúng nhân dân mới tồn tại và phát triển được.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #5 vào lúc: 15 Tháng Hai, 2018, 05:29:30 am »

2. Phong trào đấu tranh từ khi có Đảng đến cách mạng tháng Tám năm 1945:

Vào cuối những năm 20 của thế kỷ này, phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân lao động đã diễn ra sôi nổi trong cả nước. Công nhân hãng Ba Son, sở cao su Phú Riềng bãi công đòi tăng lương, giảm giờ làm, chống đánh đập. Nông dân Nam Bộ đấu tranh chống cướp đoạt ruộng đất, đòi giảm sưu thuế, chống cường hào nhũng lạm. Học sinh bãi khóa truy điệu Phan Chu Trinh. Tiểu tương, tiểu chủ chống thuế.

Trong khi đó, các tổ chức Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội, Đảng Tân Việt ngày càng phát triển mạnh và có cơ sở khắp Bắc Trung Nam. Phong trào cách mạng dân tộc dân chủ đang cuồn cuộn dâng lên đòi hỏi phải có sự lãnh đạo của một chính Đảng thật sự của giai cấp công nhân. Những người tiên tiến trong Việt Nam cách mạng đồng chí hội đã sớm nhận thức được yêu cầu bức thiết đó, và tự nhận thấy rằng vai trò lịch sử của mình đến đây đã kết thúc. Chính vì thế ngày 1-5-1929, Đại hội đại biểu toàn quốc của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội họp ở Hương Cảng để bàn việc thành lập một chính đảng của giai cấp công nhân ở nước ta. Trong hội nghị này có những điểm không nhất trí nhau nên đoàn đại biểu Bắc Kỳ bỏ về nước, ngày 17-6-1929 quyết định thành lập Đông Dương cộng sản Đảng. Tháng 9-1929 các đại biểu Nam kỳ tuyên bố cải tổ Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội thành An Nam cộng sản Đảng. Tháng 1-1930, Đảng Tân Việt cũng tổ chức thành lập Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Các tổ chức cộng sản ra đời như thế thể hiện được bước phát triển nhảy vọt của phong trào công nhân và phong trào yêu nước phù hợp với ý chí và nguyện vọng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động. Ba tổ chức cộng sản này đều có chi bộ Đảng hoạt động ở thành phố Sài Gòn và các tỉnh lân cận như Gia Định, Chợ Lớn, Thủ Dầu Một, Tân An… sự phát triển của phong trào công nhân và phong trào yêu nước đòi hỏi phải có một sự lãnh đạo chặt chẽ thống nhất của một bộ tham mưu chiến đấu duy nhất của cách mạng. Trước tỉnh hình đó đồng chí Nguyễn Ái Quốc với tư cách là đại biểu quốc tế cộng sản triệu tập hội nghị hợp nhất các Đảng lại thành Đảng Cộng sản Việt Nam tại Cửu Long (cạnh Hương Cảng – Trung Quốc từ 3-2 đến 7-2-1930. Sự việc này có sức cổ vũ mạnh mẽ đối với phong trào cách mạng cả nước. Từ đây các hệ thống tổ chức của Đảng được củng cố vững mạnh và ngày càng mở rộng phạm vi hoạt động trong khắp nước… Ban chấp hành Trung ương Đảng có trụ sở đặt tại Sài Gòn để chỉ đạo ra các tỉnh ở phía Nam. Đó là cơ sở cho ánh sáng của Đảng vào tỉnh ta.

a) Ảnh hưởng của Đảng vào Tây Ninh:

Tây Ninh nằm tiếp giáp với các tỉnh có phong trào cộng sản hoạt động mạnh như Gia Định, Chợ Lớn nên sau khi đồng chí Châu Văn Liêm được cử về Nam và làm xong nhiệm vụ thống nhất các tổ chức cộng sản ở thành phố Sài Gòn và các tỉnh đó lại rồi được phân công trực tiếp phụ trách liên tỉnh Gia Định, Chợ Lớn thì phong trào lên mạnh và lan tràn qua các tỉnh lân cận, tác động đến vùng phía nam của Tây Ninh rất sớm.

Đồng chí Vũ Văn Lợi người ở Bà Điểm bị bắt đi lính tập ở thành Ô-Ma. Năm 1929 đồng chí Lợi tổ chức lấy vũ khí trong thành và bỏ trốn lên Giồng Nầng làm ăn và tuyên truyền giác ngộ quần chúng đánh Pháp. Nam 1930, đồng chí Lợi được kết nạp vào Đảng ở Bà Điểm, rồi nhận nhiệm vụ về Tây Ninh tiếp tục hoạt động và xây dựng phong trào. Đồng chí Lợi đã giác ngộ được 4 quần chúng tốt là Chẩn, Phú, Viết, Luông… làm nòng cốt cho phong trào. Trong những năm này đồng chí bị địch bắt đày ra Côn Đảo. Địch tăng cường ruồng rập các vùng, 4 quần chúng có cảm tình chưa được kết nạp Đảng phải chuyển vùng sang các làng của người Việt trên đất Campuchia làm ăn sinh sống. Sau đó móc nối được với tổ chức Đảng ở Ba-tì và được kết nạp đưa về len lỏi hoạt động ở vùng Giồng Nầng. Cũng tại đây hai đồng chí Viết, Luông bị địch bắt đày đi mất tích. Còn lại hai đồng chí Chẩn, Phú tiếp tục hoạt động cho đến năm 1945 thì tổ chức đảng này mới bị vỡ.

Ngoài ra, còn có một số đồng chí ở các tỉnh, xã do tình hình ở địa phương nhất thời gặp khó khăn phải tạm lánh về Tây Ninh một thời gian như đồng chí Lê Minh Xuân (Tân An) lên ở vùng động Lông Công, Bàu Đồn.

Năm 1930 các đồng chí Hai Giáp, Bảy Son, Tám Độ được chi bộ Đảng ở Ba-ti (một làng người Việt bên đất Campuchia) kết nạp và đưa về hoạt động thành lập nhó Đảng ở các xã Long Gian, Lương Khánh, Long Chử. Tháng 5-1931 đồng chí Trần Độ bị địch bắt, chúng tra tấn rất dã man nhưng vẫn không khai thác được cơ sở Đảng của ta. Địch mở rộng truy tìm khủng bố, lùng sục khắp nơi, 2 đồng chí Hai Giáp và Bảy Son phải chuyển hẳn về Long Khánh để tiếp tục hoạt động.

Các nhóm Đảng này hoạt động hết sức bí mật, chủ yếu dựa vào các tập quán sinh hoạt của nhân dân địa phương như cúng đình, cúng miếu, ma chay, cướp xin, vạn cấy… để tuyên truyền giác ngộ quần chúng. Đồng thời kết hợp với các hình thức treo cờ, băng khẩu hiệu của Đảng trên các ngọn cây cao để gây thanh thế nổi bật là hưởng ứng phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh bằng hình thức treo khẩu hiệu “thả tù chính trị Nghệ An đỏ” trên ngọn tre ở nhiều vùng thuộc các xã Lương Giang, Long Thuận, Long Khánh. Những ánh sáng ban đầu của Đảng làm nền tảng cho việc phát triển thành hệ thống của Đảng bộ Tây Ninh sau này, nhưng đây chính là những nhóm lửa nhỏ được nhen nhóm lên trong lòng quần chúng, từ đây ngọn lửa cách mạng ngày càng được thổi bùng lên mạnh mẽ trong những năm sau.
« Sửa lần cuối: 10 Tháng Ba, 2018, 07:05:41 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #6 vào lúc: 15 Tháng Hai, 2018, 05:29:55 am »

b) – Thời kỳ đấu tranh khôi phục phong trào (1932-1935)

Sau phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930-1931) thực dân Pháp đã tổ chức một cuộc khủng bố trắng nhằm dập tắt ngọn lửa đấu tranh của quần chúng, phong trào cách mạng trong cả nước tạm thời lắng xuống. Sự hoạt động của các nhóm Đảng ở Tây Ninh cũng nằm trong tình trạng chung của cả nước, các đồng chí đảng viên và quần chúng nòng cốt tạm thời ẩn náu, gìn giữ bí mật lực lượng chờ thời cơ. Đến năm 1934-1935, phong trào dần dần được khôi phục, trở lại co đồng chí Lên (tức Tư Địa) là cán bộ liên khu ủy, đến rừng Bàu Sen, Bàu Dài (Dương Minh Châu ngày nay) hoạt động tuyên truyền giác ngộ quần chúng. Từ đây đồng chí chuyển dần lên vùng Quán Cơm (xã Thái Bình) trụ lại một thời gian và mở rộng phạm vi hoạt động ra các xã Ninh Thạnh, Thái Bình, Thanh Điền, đã kết nạp được một số đảng viên mới là người địa phương (như đồng chí: Chấn, Dú, Sự, Bằng, Mạnh) hình thành nên nhóm Đảng Quán cơm Thanh Điền. Về sau đồng chí Liên tiến dần xuống hoạt động ở Cẩm Giang, Gò Dầu, Đồn Thuận và kết nạp thêm đồng chí Xuyến.

Địa bàn hoạt động của đồng chí Lên khá rộng từ phía Đông lên phía bắc và xuống phía nam của tỉnh. Đồng chí có quan hệ rộng rãi với quần chúng cách mạng ở nhiều vùng, nhưng về công tác tổ chức còn hạn chế, nên chỉ mới hình thành được một số nhóm Đảng và đảng viên lẻ tẻ hoặc cơ sở quần chúng có cảm tình với Đảng, chưa tổ chức được chi bộ hẳn hoi. Ngay như nhóm Đảng ở Quán cơm được coi như là trung tâm chỉ đạo của đồng chí Lên đi các vùng, cũng chưa hình thành một chi bộ Đảng, chưa có nghị quyết chủ trương cụ thể mà chỉ gặp mặt truyền miệng cho nhau, nhận việc và thi hành nhiệm vụ. Hoạt động chủ yếu của các nhóm Đảng và các đảng viên trong giai đoạn này là tuyên truyền về sự khổ nhục của người dân mất nước, phải sống cảnh đời nô lệ, vạch trần sự áp bức, bóc lột của bọn thống trị và tay sai của đại phương, kêu gọi quần chúng đứng lên đấu tranh để giải phóng mình, giành lại quyền sống tự do, giành lại cơm áo và ruộng đất.

c) Phong trào cách mạng trong những năm 1936-1939:

Tình hình thế giới trong giai đoạn này có nhiều chuyển biến quan trọng, phong trào đấu tranh chống Phát xít dâng lên mạnh mẽ ở nhiều nước. Mặt trận Bình dân Pháp mà Đảng cộng sản Pháp là nòng cốt đã thắng thế trong cuộc tổng tuyển cử tháng 1-1936. Tháng 6-1936, chính phủ Mặt trận Bình Dân lên cầm quyền ở Pháp, sự kiện này có ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình chính trị ở Đông Dương. Bọn thực dân Pháp cai trị ở Đông Dương cũng phải nới rộng một số quyền tự do dân chủ cho nhân dân. Phong trào quần chúng hoạt động công khai phát triển rầm rộ khắp nơi. Ở Tây Ninh cũng có nhiều tổ chức công khai ra đời, nổi bật nhất là vùng Phước Chỉ (Trảng Bàng) có một nhóm thanh niên yêu nước được sự chỉ đạo của cán bộ Tổng ủy Cầu An Thượng, hoạt động tổ chức các hội Ái hữu giúp nhau cày cấy, lo liệu ma chay, cưới xin, giỗ chạp, khi túng thiếu… Hội phát triển mạnh mẽ, thu hút nhiều thanh niên vào làm việc nghĩa. Riêng ở ấp Phước Hưng, hội Ái hữu có đến hàng trăm hội viên. Ở chợ Rạch Tràm còn có các nhóm hoạt động đấu tranh xin giảm thuế được đông đảo quần chúng ủng hộ. Năm 1938 phong trào quần chúng công khai hoạt động khá mạnh, đủ điều kiện tiến tới thành lập một Ủy ban hành động. Ủy ban này có trụ sở tại chợ Rạch Tràm, hoạt động dưới hình thức mua báo từ Sài Gòn đem về (như tờ Tranh Đấu, Dân Chúng) phổ biến cho đông đảo quần chúng.

Bọn thống trị hoảng sợ trước sự phát triển của phong trào dân chủ, chúng tìm mọi cách để ngăn chặn. Tháng 6-1938 chúng cho tên Quản Điểm từ Thị Xã Tây Ninh dẫn lính về đóng đồn ở Rạch Tràm và bước đầu cấm không cho nhân dân tụ họp đông quá 20 người. Trước tình hình đó, Ủy ban hành động phải tổ chức từng dợt khoảng 18-19 người vào phòng họp nghe đọc báo. Còn các tổ chức công khai hoạt động bí mật hơn, phạm vi tuyên truyền chó thu hẹp hơn những vẫn duy trì được phong trào. Tháng 8-1938 nhân dịp tên tỉnh trưởng Rờ-nu xuống chợ Rạch Tràm xem xét tình hình và hiểu dụ đồng bào, Ủy ban hành động vận động hàng ngàn quần chúng kéo đến nghe diễn thuyết, sau đó biến nội dung diễn thuyết thành cuộc biểu tình đấu tranh đưa yêu sách đòi giảm thuế. Đoàn người kéo đến chỗ Rờ Nu cử 3 đại biểu là Vẳng, Thạnh, Ngỏi lên gặp trực tiếp tỉnh trưởng để đưa yêu sách và nói chuyện với hắn bằng tiếng Pháp không cần phiên dịch. Cuộc đấu tranh của quần chúng thắng lợi, tên Rờ-Nu phải xuống giọng nhận yêu sách và hứa sẽ báo cáo lên quan thống đốc Nam Kỳ xem xét giải quyết.

Ngày 21-6-1939, ở Châu Thành đồng chí Trần Văn Mạnh vận động tổ chức được trên 200 công nhân Sở Cao su Phrăng-xi-ni đấu tranh đòi giải quyết chế độ nước nóng cho công nhân uống lúc làm việc, chống đánh đập, đòi tăng lương, giảm giờ làm, đòi trả lương tháng trước. Cuộc đấu tranh này đã giành được thắng lợi.

Tháng 9-1939 cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, chính phủ phản động Pháp Đa-la-đi-ê ôm chân phát-xít, thẳng tay đàn áp phong trào Mặt trận dân chủ, ban hành một số chính sách phản động, giải tán Đảng Cộng sản Pháp, thủ tiêu luật xã hội, hủy bỏ các quyền tự do dân chủ. Bọn cai trị Pháp ở Đông Dương tiến hành khủng bố phong trào Mặt trận dân chủ. Ở Tây Ninh, tên tỉnh trưởng Rờ-Nu ra lệnh giải tán các tổ chức dân chủ tại Phước Chỉ, cho lính bắt một số cán bộ đảng viên của ta, trong đó có các đồng chí Vẳng, Thạnh, Ngỏi và Mạnh. Phong trào Mặt trận dân chủ trong toàn tỉnh bị dập tắt.

Đến giai đoạn này, các nhóm Đảng và các đồng chí đảng viên vẫn còn hoạt động lẻ tẻ chưa được tổ chức thành hệ thống, chưa có sự lãnh đạo thống nhất của một Đảng bộ, nên phong trào quần chúng hưởng ứng Mặt trận dân chủ cũng bị hạn chế và bị dập tắt nhanh chóng. Nhưng ảnh hưởng của phong trào đã thôi thúc quần chúng đứng dậy đấu tranh, chống áp bức bóc lột đòi quyền sống ngày càng mạnh mẽ hơn.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #7 vào lúc: 15 Tháng Hai, 2018, 05:30:17 am »

d) – Hoạt động hưởng ứng Nam kỳ khởi nghĩa (11-1940)

Cho đến năm 1939, Tây Ninh vẫn chưa có một Đảng bộ chính thức, cho nên các đồng chí đảng viên ở Tây Ninh không được học tập nghị quyết lần 6 (11-1939) của Trung ương Đảng. Nhưng nhờ liên lạc được với các tổ chức Đảng ở Đức Hòa (qua nhóm đồng chí Ngỏi ở Phước Chỉ) Gia Định, Thủ Dầu Một (qua nhóm đồng chí Lên) các đồng chí đã kịp thời chuyển hướng hoạt động, lui vào bí mật hình thành tổ chức Nông hội đó, phân tán theo từng nhóm nhỏ từ 3 đến 5 người vào các hội làm nhà, hội đưa đám ma… Tiếp tục hoạt động giữ vững cơ sở, chuẩn bị lực lượng quần chúng chờ thời cơ nổi dậy hưởng ứng khởi nghĩa.

Tháng 9-1940, thực dân Pháp đầu hàng Phát xít Nhật, chúng đã quỳ gối dâng Đông Dương cho Nhật, nhân dân Đông Dương lâm vào cảnh “Một cổ hai tròng” càng thêm điêu đứng, vì thuế má tăng vọt, tô tức nặng nề… Thực dân Pháp câu kết với Phát-xít Nhật tăng cường áp bức bóc lột nhân dân ta, làm cho mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc Phát-xít Pháp-Nhật ngày càng trở nên gay gắt. Không thể chịu đựng nổi cuộc sống nô lệ đó, lại được tinh thần: “Khởi nghĩa Bắc Sơn” cổ vũ mạnh mẽ, nhân dân ta ở miền Nam nổi dậy sôi sục đấu tranh. Lòng căm thù đế quốc sâu sắc và khí thế cách mạng của quần chúng đã thúc đẩy Đảng bộ miền Nam chủ trương khởi nghĩa và ngày 23-11-1940 “Khởi nghĩa Nam Kỳ” bùng nổ.

Tây Ninh nhận lệnh chuẩn bị khởi nghĩa từ Đức Hòa, lên. Các đồng chí hoạt động ở vùng Phước Chỉ mở một cuộc họp ở vùng cấm giữa hai xã Phước Chỉ và Bình Thạnh, để phổ biến chỉ thị và phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng bộ phận chuẩn bị sẵn sàng, chờ lệnh hành động. Đêm 23-11-1940, nhận được lệnh hành động, đồng chí Ngỏi huy động lực lượng Nông hội đỏ tiến hành đào đứt các đoạn đường xuy yếu, chặt ngã cây cản đường từ Bến đò Lộc Giang vào chợ Rạch Tràm. Bộ phận của đồng chí Ba Mảng kết hợp với Mỹ Quý tổ chức chặt đứt dây cáp của chiếc sà lan làm phà qua sông, ngăn cản đường tiến quân của địch. Bộ phận của đồng chí Vẳng có nhiệm vụ huy động thanh niên, võ trang tiến công bót cảnh sát, giành chính quyền ở chọ Rạch Tràm. Mọi việc đang tiến hành khẩn trương, thì có lệnh báo cuộc khởi nghĩa đã bị lộ, địch đang đàn áp phong trào, phải phân tán lực lượng ngay và có kế hoạch ẩn náu đề phòng địch khủng bố trắng.

Tại Phước Trạch, đồng chí Đoàn Văn Tùng lãnh đạo một nhóm quần chúng hạ một số cây sao làm vật cản trên quốc lộ 22 từ Gò Dầu lên Tây Ninh. Ở phía Bắc Thị Xã, nhóm Đảng vùng Quán cơm cũng nhận được lệnh chuẩn bị khởi nghĩa (qua đồng chí Chín là liên lạc của Xứ Ủy) các đồng chí tổ chức đội du kích bí mật gồm một số anh em phu cao su không vợ con, chuẩn bị cờ búa liềm, rèn gươm bằng nhíp xe ngựa để trang bị chi anh em, ghi tên bọn hội tề có súng để khi hành động thì có biện pháp xử lý. Đêm 22-11-1940, các đồng chí họp bàn kế hoạch cụ thể, sẵn sàng hành động khi có lệnh. Ở vùng Giải Hóa cũng vậy, nhóm Đảng Giồng Nầng cũng có chuẩn bị khởi nghĩa, nhưng vì liên lạc quá khó khăn nên khi nhận được lệnh là đã chậm trễ.

Cuộc khởi nghĩa thất bại, phong trào trong toàn tỉnh bị địch khủng bố dã man. Ở Rạch Tràm chúng cho 1 trung đội lính Lê Dương tập trung tại chợ, nửa đêm kéo vào xóm lùng sục, khám xét và đốt nhà dân. Trong số nhà bị đốt có nhà của đồng chí Ngỏi và của mấy anh em trong Nông hội đỏ. Sáng ra, tàu giặc từ Sài Gòn chạy lên xả súng bắn vào hai bên bờ sông Vàm Cỏ, chúng nã đạn pháo vào sâu trong đồng ruộng, bưng biền để uy hiếp tinh thần của quần chúng. Về người, tuy chúng có làm dữ như vậy nhưng cũng chỉ bắt được có anh Liệu, một thanh niên trong tổ chức Ái hữu không kịp tránh né. Nhờ phân tán lực lượng kịp thời nên phong trào ở Phước Chỉ không bị những tổn thất đáng kể. Sau đó, địch tăng cường thêm lính mã tà ở bót Rạch Tràm, tiếp tục lùng sục và theo dõi tình hình vùng này. Ở huyện Châu Thành, địch ra lệnh thiết quân luật đồng thời trang bị vũ khí cho bọn hội tề xã để sẵn sàng chống “Cộng Sản nổi dậy”. Tại Giồng Nầng, 2 đồng chí Chẩn, Phú bị địch bắt với đầy đủ tang chứng chuẩn bị khởi nghĩa, nên chúng đày hai đồng chí này đi Côn Đảo.

Rừng núi Tây Ninh có địa thế thật tốt cho các đồng chí đảng viên, các tổ chức cách mạng ở các tỉnh khác, tạm lánh về đây để tránh sự khủng bố trắng của kẻ thù. Sau cuộc khởi nghĩa ở Hóc Môn thất bại, hai đồng chí Võ Công Bình và Lê Bình Đẳng đã chỉ huy một cánh quân của Gia Định khoảng hơn 100 người với 20 khẩu súng về vùng Bàu Đồn, Truông Mít (Tây Ninh) dựa vào địa thế rừng và các cơ sở quần chúng địa phương để bảo toàn lực lượng. Nghĩa quân đóng ở đây gần một tháng. Thực dân Pháp phát hiện được, chúng cho tập trung quần để tấn công. Vì cán cân lực lượng không ngang sức, ta rút xuống Bàu Cỏ (Đôn Thuận – Trảng Bàng). Địch bủa vây truy kích, nghĩa quân rút về Lộc Hưng, qua Bàu Công, đồng chí chỉ huy trưởng (Võ Công Bình) bị thương và bị địch bắt. Từ đó lực lượng nghĩa quân phải phân tán ra thành nhiều nhóm nhỏ rút về Đồng Tháp Mười. Tạm lánh về Tây Ninh trong lúc này cón có đồng chí Huỳnh Văn Thanh, quản lý báo “Dân Tiến” cùng với vợ là đồng chí Mỹ Lan từ Sài Gòn về tại Núi Bà. Năm 1941, các đồng chí Trần Kim Tấn, Tiểu và nữ đồng chí Bày từ Cần Thơ lên ẩn náu ở Suối Đá (về sau đồng chí Tiểu, Bảy đi vùng khác, còn đồng chí Tấn hoạt động luôn ở Tây Ninh). Đồng chí Nguyễn Oắng được Tỉnh ủy Gia Định đưa lên Tây Ninh giả dạng thầy thuốc, vừa bán thuốc sinh sống, vừa tuyên truyền giác ngộ quần chúng.

Địch tăng cường các cuộc hành quân truy tìm các tổ chức cách mạng. trước tình hình đó, các đồng chí đảng viên phải chuyển vùng để tránh né hoặc tạm ngưng hoạt động để bảo vệ các cơ sở mật của Đảng. Phong trào trong toàn tỉnh tạm thời lắng xuống, hoạt động của các nhóm Đảng và các đồng chí đảng viên chưa có sự liên kết chặt chẽ với nhau, đồng thời cũng chưa liên lạc được với cấp trên thường xuyên.
« Sửa lần cuối: 22 Tháng Ba, 2018, 03:55:24 am gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #8 vào lúc: 15 Tháng Hai, 2018, 05:30:52 am »

3/ - Những ngày sôi sục chuẩn bị khởi nghĩa tháng 8-1945:

a) – Bối cảnh lịch sử:

Qua 80 năm (1861-1941) chiếm đóng Tây Ninh, thực dân Pháp đã hoàn chỉnh xong bộ máy cai trị của chúng ở đây:

Về chính trị: chúng đã đưa ra đủ các mưu đồ gian xảo, từ lừa bịp dụ cỗ, mua chuộc cho đến các thủ đoạn răn đe nhằm khống chế về mọi mặt đời sống của nhân dân ta. Chúng còn có kế hoạch đào tạo tầng lớp trí thức hành chánh, hình thành đội ngũ tay sai người Việt, có khả năng phục vụ lâu dài cho chúng từ cấp tỉnh đến cấp huyện, quận. Còn ở cấp xã, chúng nắm lấy giai cấp địa chủ, phú nông, trung nông khá, xây dựng các ban hội tề, hương chức để cai quản nhân dân vùng nông thôn. Chúng còn dựa vào phong tục, tập quán sinh hoạt, tôn giáo của các dân tộc anh em đang sinh sống trên lãnh địa Tây Ninh, để gây tâm lý chia rẽ, tạo ra không khí mất đoàn kết trong nội bộ nhân dân giữa người Việt, Khơme, Chàm, giữa người không có đạo và người có đạo, giữa người theo đạo này với người theo đạo khác. Chúng lợi dụng các giáo lý duy tâm của các tôn giáo để đầu độc tinh thần quần chúng, làm cho nhân dân tin vào số mệnh của mình là do trời định, mà cam tâm chịu cảnh áp bức bóc lọt. Trong từng lúc, chúng còn nắm lấy cơ hội, bọn cầm đầu phản động trong các tôn giáo, để lừa phỉnh tín đồ cầm súng chống lại nhân dân, chống lại tổ quốc.

Về kinh tế: chúng nới tay cho bọn quan lại, địa chủ tha hồ chiếm hữu ruộng đất của nhân dân, tha hồ bóc lột nông dân bằng đủ mọi hình thứ từ tô thuế, lãi nợ cho đến công sức lao động. Tình trạng đó làm cho nền nông nghiệp không thể phát triển được. Còn công nghiệp, chúng không đầu tư xây dựng những cơ sở sản xuất lớn nhằm thúc đẩy nền kinh tế của tỉnh phát triển, mà chúng chỉ chú trọng đến việc khai thác, vơ vét tài nguyên, bóc lột sức lao động của công nhân trong các đồn điền cao su và các xí nghiệp sản xuất nhỏ. Chúng còn áp dụng một chế độ thuế khóa nặng nề, coi đây là nguồn thu chính trong ngân sách chung và riêng của tỉnh. Chính về thế, đời sống của mọi tầng lớp nhân dân lao động càng khốn khổ hơn.

Về văn hóa xã hội: nhằm mục đích thực hiện chính sách ngu dân để dễ bề cai trị, thực dân Pháp đã tìm mọi cách để ru ngủ đầu độc tinh thần quần chúng bằng đủ các hình thức. Sự nghiệp giáo dục không được chúng quan tâm đến, cả tỉnh chỉ có 2 trường phổ thông cấp 1 toàn chỉnh (khoảng 400 học sinh là con em của các tầng lớp khá giả trong xã hội) ở một số xã có lớp vỡ lòng và lớp 1. Do vậy, con em của nhân dân lao đông hầu như mù chữ hoặc chỉ biết đọc, biết viết. Trong khi đó, các loại rượu lại được “nhà nước” khuyến khích tiêu dùng, các đại lý rượu mọc lên ở khắp nơi. Tệ nạn cờ bạc đĩ điếm công khai, xóm ấp nào cũng có sòng chứa, ngày đêm sát phạt lẫn nhau, nhằm lôi cuốn thanh niên vào con đường ăn chơi sa đọa, mà quên đi nỗi nhục mất nước. Trong xã hội đã có sự phân hóa giai cấp sâu sắc. Tuyệt đại bộ phận nhân dân Tây ninh là nông dân nhưng ruộng đất đã bị bọn thực dân phong kiến chiếm đoạt. Cuộc sống của người nông dân bị bần cùng hóa, họ phải bán sức lao động của mình cho bọn thống trị ở các đồn điền cao su, các xí nghiệp sản xuất để đổi lấy bát cơm, manh áo. Từ đó, giai cấp công nhân được hình thành, cuộc đời làm thuê của những người công nhân cũng không hơn gì cuộc sống vất vưởng của nông dân. Họ phải lao động cật lực suốt ngày, nhưng chỉ được bọn chủ đền bồi lại bằng roi vọt, cúp phạt… Công nhân và nông dân là hai giai cấp bị bóc lột nặng nề nhất trong xã hội thực dân nửa phong kiến, họ thấu hiểu được nỗi thống khổ của cuộc đời nô lệ; cho nên họ tìm mọi cách đứng dậy đấu tranh chống lại bọn thống trị để tự giải phóng mình và giải phóng toàn xã hội. Trong các cuộc đấu tranh đó, giai cấp công nhân tuy ít nhưng lại là lực lượng tiêu biểu, là đối thủ đáng sợ của giai cấp bóc lột. Nông dân là lực lượng quần chúng đông đảo, có khả năng làm cách mạng, là người bạn đồng hành chiến đấu của giai cấp công nhân. Giai cấp tư sản, địa chủ nhỏ bé gắn chặt quyền lợi với giai cấp thống trị, nên là động lực cản trở sự phát triển của phong trào cách mạng. Giai cấp tiểu tư sản trí thức mới hình thành theo yêu cầu đào tạo của thực dân Pháp, để từng bước củng cố bộ máy cai trị của chúng, nên họ chỉ làm lợi cho giai cấp thống trị nhiều hơn.

Điểm qua một số nét về tình hình chung trong tỉnh như thế, chúng ta thấy nổi lên mâu thuẫn cơ bản giữa thực dân Pháp và bè lũ tay sai với đại đa số nhân dân lao động, mà tiêu biểu là hai giai cấp công nhân và nông dân. Mâu thuẫn nầy ngày càng trở nên gay gắt, và chỉ có thể được giải quyết bằng một cuộc cách mạng xã hội. Đó là một tất yếu khách quan của lịch sử, chắc chắn sẽ dẫn tới việc quần chúng lao động lật đổ giai cấp bóc lột, giành lại quyền sống từ tự phát đến tự giác khi có ánh sáng cách mạng của Đảng soi đường. Từ năm 1930, ở Tây Ninh đã có sự hoạt động của các nhóm Đảng và các đảng viên, chủ yếu là tuyên truyền giác ngộ quần chúng, khơi dậy lòng yêu nước và ý chí căm thù giặc. Trong từng thời kỳ, Tây Ninh còn chịu ảnh hưởng phong trào cách mạng ở các nơi và tổ chức Đảng đã lãnh đạo nhiều cuộc đấu tranh của quần chúng chống lại bọn thống trị và tay sai, thu được một số thắng lợi nhất định như trong phong trào ủng hộ Xô Viết Nghệ Tĩnh, phong trào Mặt trận dân chủ, hoạt động hưởng ứng Nam kỳ khởi nghĩa và phong trào đấu tranh của công nhân cao su.

Từ khi nhảy vào Đông Dương, giặc Nhật vừa khống chế vừa cấu kết với thực dân Pháp bóc lột và vơ vét triệt để nhân vật lực của nhân dân ta nhằm phục vụ cho cuộc chiến tranh Phát-xít của chúng. Chúng lập ra nhiều kho ở các nơi trưng thu, trưng mua những mặt hàng nông sản quan trọng của nhân dân ta như lúa, đậu phộng… với giá rẻ mạt. Để ngăn chặn làn sóng cách mạng đang lan tràn trong quần chúng, toàn quyền Pháp (Đờ-cu) cho bọn tay sai tổ chức “Đoàn thanh niên đế quốc Pháp” (JEF) hàng ngày bắt công chức, học sinh chào cờ suy tôn tổng thống bù nhìn Pháp Pê-tanh. Chúng còn cho mở trường đào tạo cán bộ, tổ chức học sinh, sinh hoạt theo hình thức cắm trại của hướng đạo sinh. Hoạt động tổ chức của Pháp chỉ có ảnh hưởng trong một số công chức và học sinh ở Thị Xã, thị trấn. Hoạt động chính trị của Phát xít Nhật có ảnh hưởng nghiêm trọng hơn, đặc biệt là trong quần chúng, tín đồ Cai Đài. Giặc Nhật đưa ra thuyết “Đại Đông Á”, “Đồng văn, đồng chủng” đã mê hoặc được một số người, nhất là những người cầm đầu đạo Cao Đài. Bọn này dựa vào chủ trương của Phát-xít Nhật, lợi dụng lòng sùng đạo của tín đồ để bóc lột quần chúng bằng các hình thức quyên góp hoặc tổ chức các đợt công quả dài ngày nhằm phục vụ cho mục đích riêng của chúng. Những thanh niên nông dân có đạo bị mê hoặc nên tuyệt đối tin tưởng nơi bọn cầm đầu, được chúng đưa vào “quân đội Thiên hoàng” với luận điệu dựa vào Nhật để đánh Pháp giành độc lập dân tộc. trước tình hình đó, đảng viên trong tỉnh liên lạc với cấp trên không được hường xuyên nên không nhận được chương trình và chỉ đạo chưa thống nhất trong toàn tỉnh. Tuy nhiên do tình hình thôi thúc, các đồng chí đảng viên đã tập hợp và tổ chức quần chúng làm được một số công việc cần thiết, đáp ứng được yêu cầu cụ thể trước mắt. Tại vùng Quán cơm, đồng chí Lên sau một thời gian đi vắng đã mang chủ trương tổ chức những nội dung cứu quốc trở về Tây Ninh tiếp tục hoạt động. Vì chưa nhận được chương trình Việt Minh nên các đồng chí vận động quần chúng theo hình tinh thần của tổ chức Nông hội đỏ đã có từ trước. Ở vùng Trảng Bàng, đồng chí Ngởi bắt liên lạc được với Tổng ủy Tổng Cầu An Thượng nhận chỉ thị trở về xã móc nối lại cơ sở, thực hiện chủ trương vận động quần chúng không đi lính, đi xâu cho Nhật, tuyên truyền vạch trần thuyết “Đại Đông Á”, “Đồng văn đồng chủng” của giặc Nhật, luận điệu mị dân của bọn tay sai Nhật trong tôn giáo Cao Đài. Sau đó ít lâu, đồng chí Vẳng liên lạc được với Đức Hòa nhận chương trình Việt Minh về, các đồng chí viết tay sao chép lại và gởi cho mỗi xã một bản (xã Phước Chỉ và Bình Thạnh). Từ đây các đồng chí bắt đầu hoạt động theo chương trình Việt Minh, tổ chức Nông hội đỏ được chuyển thành hội Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc. Các đồng chí đảng viên được phân công về hoạt động ở chợ Rạch Tràm và các vùng nông thôn. Phong trào cách mạng của quần chúng ở Phước Chỉ từng bước được khôi phục lại và phát triển nhanh chóng.

Tháng 9/1944, đồng chí Huỳnh Văn Thanh bắt liên lạc được với Xứ ủy đồng chí đã cùng vợ là đồng chí Mỹ Lan, đem chương trình Việt Minh về Tây Ninh phổ biến. Hai đồng chí ở tại nhà đồng chí Nguyễn Tri Túc, móc nối lại với các nhóm Đảng và các đồng chí đảng viên hoạt động lẻ tẻ. Sau đó, đồng chí Thanh tổ chức một cuộc họp (ở nhà đồng chí Chấn tại Quán cơm) để nói chuyện thời sự, phổ biến chỉ thị của Xứ ủy và tổ chức phân công, phân nhóm hoạt động cho các đồng chí ở các nơi. Từ đây các nhóm hoạt động theo một sự chỉ đạo thống nhất, đồng chí Huỳnh Văn Thanh được coi là Trưởng ban cán sự tỉnh. Phong trào quần chúng lên dần, có những bước chuyển biến lớn, nhưng do trình độ tổ chức và lãnh đạo còn non yếu nên đôi lúc lại tỏ ra lúng túng trước những biến động của tình hình.
« Sửa lần cuối: 10 Tháng Ba, 2018, 07:04:22 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #9 vào lúc: 15 Tháng Hai, 2018, 05:31:19 am »

b) – Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp, hoạt động của Cao Đài dựa vào Nhật càng bành trướng nhanh. Nhờ cung cấp cho Nhật khá nhiều nhân tài, vật lực nên Cao Đài được chúng ban bố cho một số quyền lợi về chính trị. Tuy là quyền lợi giả hiệu, nhưng bước đầu nó cũng có sức lôi cuốn rất mạnh đối với quần chúng tín đồ. Bộ máy trị sự các cấp trong đạo hoạt động mạnh, gần như thay thế cho bộ máy cai trị của thực dân Pháp. Cao Đài bắt đầu xây dựng lực lượng quân đội riêng, một số đồng bào xin gia nhập đạo để dựa thế, thanh niên nghe theo lời phỉnh phờ, bịp bợm của Nhật đã xung phong vào lính đạo, không hiểu đó là cầm súng chống lại cách mạng, chống lại nhân dân.

Càng về sau tình hình thế giới ngày càng chuyển biến có lợi cho ta, trên khắp các chiến trường, quân đồng mình liên tiếp chiến thắng Phát xít. Bọn Nhật ở Đông Dương tỏ ra hoang mang, bọn tay sai thân Nhật bắt đầu dao động, thế bành trướng của Cao Đài khựng lại, không còn ảnh hưởng rộng rãi trong quần chúng như trước nữa. Về phía tay, lúc này các tổ chức đảng trong tỉnh được củng cố có hệ thống có sự lãnh đạo thống nhất, hoạt động theo chương trình cương lĩnh Việt Minh rõ ràng. Sau cuộc họp ở Phồn Chàm (3-1945), đồng chí Thanh truyền đạt chỉ thị của Xứ ủy, phổ biến rõ thêm chương trình Việt Minh, các nhóm đảng và các đồng chí đảng viên hoạt động ở các vùng đều tích cực vận động quần chúng, tuyên truyền Việt Minh, nêu lên chủ trương của Việt Minh là đánh đuổi Pháp Nhật, giành độc lập dân tộc, lập chính quyền công nông, bảo đảm quyền lợi chung của dân tộc và đưa ra các đối sách của Việt Minh đối với công nhân, nông dân, trí thức thanh niên, phụ nữ,… ngoài ra, ta có một số khẩu hiệu viết tay mang nội dung chống Nhật Pháp, ủng hộ Mặt trận Việt Minh. Một số tờ báo công khai từ Sài Gòn đưa về nêu lên thời cơ đã đến, kêu gọi quần chúng hưởng ứng phong trào Việt Minh; gia nhập các tổ chức Việt Minh để sẵn sàng hành động cứu nước. Phong trào quần chúng hưởng ứng theo Mặt trận Việt Minh phát triển sôi nổi và lan rộng khắp tỉnh.

Tháng 4-1945, nhóm các đồng chí ở Thanh Điền đã tổ chức được cơ sở Việt Minh ở làng Đường, dựa vào một số công nhân (Lầu, Tư, Chính) vào làm nòng cốt, hoạt động tuyên truyền không những đối với công nhân đang làm việc tại nhà máy mà còn mở rộng ra công nhân trồng mía (do Cập rằn làm nòng cốt). Ảnh hưởng của phong trào Việt Minh dội vào toàn xã Thanh Điền đã thu hút những sĩ quan cũ trong quân đội Pháp chạy về làng tham gia hoạt động theo chương trình Việt Minh. Từ Thanh Điền phong trào phát triển mạnh và lan dần xuống 9 xã thuộc tổng Giai Hóa.

Tháng 5-1945, nhóm các đồng chí ở xóm Vịnh, hoạt động tổ chức cơ sở việt Minh ở nhiều nơi trong các xã Hảo Đước, Hòa Hội… các hội cứu quốc được hình thành trong các giới, nhất là thanh niên tham gia luyện tập võ nghệ, tuần tra canh gác bảo vệ xóm ấp suốt ngày đêm.

Tháng 6-1945, nhóm Trảng Bàng tuyên truyền vận động quần chúng ở Thị Trấn và các xã xung quanh như An Tịnh, Lộc Hưng… các đồng chí bắt liên lạc với anh Phiên (thơ ký quận) dựa vào lực lượng thanh niên và các cụ lão thành trong các giới. Cũng trong thời gian này, được sự giới thiệu của Mặt trận Việt Minh Nam bộ các đồng chí ở Trảng Bàng bắt liên lạc với anh Lê Thanh Dân. Qua sự chỉ đạo của Trảng Bàng anh Dân hoạt động ở vùng Bàu Đồn, Bà Nhãn, Bùng Binh… Sau đó, anh Dân đưa hai ông Trịnh Bá Thơ và Bùi Văn Hà vào làm nòng cốt cho phong trào, vận động thành lập các hội cứu quốc ở vùng này. Còn các đồng chí ở Đôn Thuận, Lợi Thuận đã chọn những thanh niên giác ngộ khá đưa vào các tổ chức cứu quốc theo từng ba người một. Những người lớn tuổi cũng được tập hợp lại thành tổ. Đồng thời các đồng chí cũng đã tranh thủ được anh Quý, một thủ kho ở sở cao su Bến Củi, qua anh Quý ta tổ chức được cơ sở Việt Minh đầu tiên trong giới công nhân cao su. Các vùng thuộc phạm vi hoạt động của nhóm Phước Chỉ, các đồng chí vẫn duy trì được phong trào, các hội cứu quốc ngày càng được củng cố và mở rộng như chợ Rạch Tràm, Phước Chỉ, Bình Thạnh len qua xã Mỹ Quý Tây (Chợ Lớn).

Ở Gò Dầu, tuy có Võ Thành Cứ đang hoạt động cho tổ chức “Quốc gia độc lập Đảng” tranh giảnh ảnh hưởng với ta, nhưng phong trào Việt Minh ở đây vẫn phát triển mạnh, nhất là ở các xã Thanh Phước và Phước Thạnh. Các nhóm đảng ở Suối Đá, Quán cơm, Hiệp Ninh, Thị xã Tây Ninh do nhiều đồng chí đảng viên làm nòng cốt đã đưa phong trào hoạt động mạnh mẽ và gần như công khai.

Đến đây, phong trào cách mạng của quần chúng trong toàn tỉnh dưới sự chỉ đạo trực tiếp của các nhóm đảng, đã hoạt động theo chương trình, cương lĩnh của Mặt trận Việt Minh. Đó là kết quả bước đầu của sự lãnh đạo thống nhất của một tổ chức đảng, từ tỉnh xuống tận cơ sở và ngược lại từ cơ sở lên đến tỉnh. Qua đó thể hiện được bước phát triển nhảy vọt và mở ra một triển vọng mới cho cao trào cách mạng ở Tây Ninh.

Cùng tồn tại song song với phong trào Việt Minh, ở các Thị trấn, Thị xã và một số ít xã trong toàn tỉnh, còn có sự hoạt động công khai của lực lượng Thanh niên tiền phong. Thủ lãnh của Thanh niên tiền phong tỉnh là Nguyễn Công Mạnh, một chủ sự thương chính của chính quyền thời bấy giờ. Hầu hết những người lãnh đạo trong tổ chức này là số cán bộ trong phong trào học sinh cũ (như phong trào JEF, SET).

Các đồng chí đảng viên hoạt động ở Tây Ninh nhận được chỉ thị của Xứ ủy là “Nắm lấy Thanh niên tiền phong, cấp bộ đảng phải tranh thủ chỉ đạo và sử dụng phong trào công khai này”. Tháng 7/1945, ở Thị xã các đồng chí tìm cách nắm lấy Nguyễn Công Mạnh, Trần Văn Hương và một số cán bộ chủ chốt của Thanh niên tiền phong. Các đồng chí ở Trảng Bàng vận động thuyết phục được thầy giáo Có (phụ trách thanh niên Thị trấn) để nắm lực lượng thanh niên và giới trí thức, qua anh Phiên ta đã tranh thủ được nhóm công chức, đồng thời hướng các hoạt động của Thanh niên tiền phong theo chương trình Việt Minh.

Tại Phước Chỉ, tuy không nhận được chỉ thị nắm Thanh niên tiền phong, nhưng các đồng chí đã chủ động đề ra chủ trương lôi kéo đám con cháu của bọn Hội tề làng xã và một số thanh niên tích cực trong các hội Ái hữu cũ, vào làm nòng cốt trong phong trào và đưa họ hoạt động theo hướng Việt Minh.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM