Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 10:53:55 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Quảng Ninh - Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975)  (Đọc 20278 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #50 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2017, 10:11:10 pm »

Đưa được pháo trung cao về an toàn là một thắng lợi, tạo niềm tin về khả năng chiến đấu đánh trả máy bay Mỹ của lực lượng cao xạ tự vệ. Đơn vị pháo 100mm của tự vệ Hà Tu, tất cả cán bộ chiến sĩ đều có trình độ văn hóa lớp 7 trở lên, có 4 kỹ sư cơ khí và nhiều thợ bậc cao. Nhận pháo về, cán bộ công nhân viên toàn mỏ rất phấn khởi. trong ngày lễ ra mắt tiểu đoàn pháo cao xạ trung cao 85mm tại mỏ Hà Lầm, đại tá Đặng Kinh – Tư lệnh Quân khu về dự đã chúc tiểu đoàn phát huy truyền thống trung đội vệ quốc đoàn của vùng mỏ bất khuất.

Sau một thời gian huân luyện, tháng 8 năm 1972 các đơn vị pháo của Uông Bí, Hà Tu, Hà Lầm đều đánh được. Do đánh được nên phòng tránh cũng tốt. Tuy còn chệch choạc, nhưng bầu trời địa phương xuất hiện khói trắng dạn pháo 100mm – 85mm khiến máy bay địch phản phân tán đội hình không dám khinh suất bay chụm từng đàn. Sau đó địch phải chuyển xuống bay thấp. Nhưng Bộ chỉ huy tỉnh có thiếu sót tổ chức các cụm hỏa lực tầm thấp còn chậm nên không diệt được địch.

Các đồng chí Lê Văn Lương, Bí thư Trung ương Đảng, Nguyễn Hữu Mai, Bộ trưởng Điện – Than lên thăm các trận địa pháo xa của tự vệ đều khen ngợi và động viên. Thường vụ tỉnh ủy họp quyết định củng cố và tạo điều kiện cho lực lượng pháo cao xạ của tự vệ chiến đấu bắn rơi được máy bay.

Phát triển chủ trương xây dựng lực lượng tự vệ bảo vệ địa phương thay thế bộ đội chủ lực, Quảng Ninh hình thành các cụm chiến đấu hỗn hợp từng khu vực: Cửa Ông, cọc 6, Cẩm Phả, Quang Hanh, Hà Tu, Hà Lầm, nỗi nơi thành một cụm chiến đấu. Trong mỗi cụm có đơn vị phòng không cao xạ bắn máy bay, có pháo mặt đất, có đơn vị cơ động của bộ đội và dân quân tự vệ, có địa phương, có xí nghiệp. Về chiến đấu và phục vụ chiến đấu của tự vệ thì lấy xí nghiệp làm nòng cốt vì quân đông, phương tiện nhiều, khả năng lớn. Trường hợp địch đánh giao thông thì xí nghiệp và nhân dân địa phương giải phóng đường tắc bằng máy gạt, máy húc, máy cẩu. Ngành giao thông củng cố đường. Riêng Cửa Ông có hệ thống đường hầm lớn nên lực lượng sản xuất và phục vụ chiến đấu vẫn ở lại trụ bám. Toàn bộ chi phí cho việc kéo pháo, chở đạn và bảo đảm các yêu cầu của mỗi trận địa, mỗi khu vực do công ty than Hồng Gai đài thọ lên tới 1.772.260 đồng.

Từ giữa tháng 5 năm 1972 đến đầu tháng 6 năm 1972, địch đánh hầu hết các mục tiêu quan trọng về kinh tế, giao thông, quân sự, dân sự trong tỉnh.

Do chuyển trạng thái từ thời bình sang thời chiến chậm, việc chuẩn bị tác chiến chưa sát, bố trí lực lượng không tập trung nên ngay  trong tháng 5 năm 1972 tại thị xã Cẩm Phả có 3 đại đội cao xạ (tự vệ) nằm rải rác 3 nơi, trong khi Cửa Ông chỉ có 1 đại đội của tiểu đoàn 237, do đó kết quả bảo vệ Cửa Ông chưa cao.

Để đảm bảo vận chuyển hàng trên biển, Bộ tư lệnh Hải quân đưa trung đoàn 172, trung đoàn 128 Hải quân phụ trách việc mở luồng vận chuyển huyết mạch từ Hải Phòng đến biên giới phía Bắc và mở các luồng chính trong khu vực Hồng Gai, Cẩm Phả, Cửa Ông. Đêm 27 tháng 5 năm 1972 tại khu Quả Xoài – Bến Góp đại đội 150 và đại đội 53 phá nổ 5 thủy lôi MK42.

Cùng với việc rà quét các bãi thủy lôi địch trong tháng 5 năm 1972 các lực lượng vận chuyển phát hiện một đường vòng tránh trên biển từ Quảng Ninh đến Hải Phòng bảo đảm cho tàu thuyền quân sự, tàu thuyền nhà nước và nhân dân qua lại an toàn. Không khí làm việc trên tuyến này nhộn nhịp náo nức. Tàu từ ngoài vào, từ trong ra tấp nập, tàu chở gạo, tàu bột mì, thuốc chữa bệnh, tàu chở máy, vật liệu, xăng dầu, vũ khí đạn dược… nhịp nhàng đúng hẹn. năng suất lao động rát cao. Tàu bạn đến, hàng sang mạn chuyển đi ngay, tàu xăng dầu đến bơm thẳng xuống tàu dầu 50 tấn đi luôn vào chiến trường… Nhưng rồi địch cũng phát hiện điều bí mật này, chúng lại phong tỏa thủy lôi, mìn, bom chờ nổ đủ kiểu, đủ loại…

Những con tàu phóng từ đi phá thủy lôi, mở luồng lại nổ máy ra đi. Có lần tàu vừa xuất phát triển vịnh Bái Tử Long thì trời kéo mây đen ùn ùn, cả vùng đảo tối sầm lại. Trời mưa to gió lớn. Sóng biển cuộn lên. Tàu chỉ còn cách kéo kèo đi trong mưa gió mù mịt. Hải đổ mất tác dụng, nhưng thuyền trưởng vẫn vững tay lái, tự tin điều khiển con tàu.

 Tính riêng ba tháng 6, 7 và 9 năm 1972, địch đánh trung bình từ 26 đến 29 ngày trong một tháng. Chúng dùng thủy lổi hủy diệt các hải cảng, rải mìn phong tỏa biển kết hợp dùng không quân đánh ngăn chặn việc vận chuyển của ta trên biển. Riêng đảo Tuần Châu giáp lối ra vào Hồng Gai, địch đã thả xuống đây không biết bao nhiêu thủy lôi. Xác định không đi biển là chịu thua Mỹ, đội sản xuất của tiểu đội trưởng Ty và Cáp vẫn lách thủy lôi, mìn ra khơi đánh cá đạt năng suất cao nhất hợp tác xã, mỗi tháng 5 lần.

Sau những đợt địch phong tỏa thủy lôi từ ngày 10 tháng 5 năm 1972 trở đi, 6 đội sản xuất vẫn vượt thủy lôi bám biển đánh cá. Có thuyền ra đi không trở về.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #51 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2017, 10:12:49 pm »

Trên trận địa Đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, tự vệ nhà máy sàng Cửa Ông kiên trì thực hiện khẩu hiệu “Đâu khó có tự vệ”. Cỗ máy sàng thứ ba bị địch đánh hỏng. Do yêu cầu sàng rửa than và đề phòng tình huống ác liệt hơn, toàn đơn vị bỏ ra hàng trăm công ngoài giờ để sửa máy. Đây cũng là việc làm “vượt tuyến” vì nhiệm vụ sửa máy là của công nhân cơ khí. Máy được sửa và hoạt động trở lại.

Địch đánh phá nhà máy, xí nghiệp, công trường nên sản xuất bị thu hẹp, một số lớn công nhân không có việc làm. Để giữ vững tổ chức ngành than và đảm bảo mức lương cho công nhân trong thời chiến, công ty than Hồng Gai và công ty, xây dựng Uông Bí thành lập đoàn xe hàng trăm chiếc mang tên đoàn 12-11 (ngày truyền thống của công nhân mỏ) để vận chuyển hàng chiến lược cho Nhà nước, đồng thời đưa hàng nghìn tự vệ sang làm nhiệm vụ chiến đấu, phục vụ chiến đấu, bảo vệ cơ sở.

Ở huyện Cẩm Phả, từ tháng 5 năm 1972 địch phong tỏa thủy lôi quanh đảo làm cho nghề cá bị uy hiếp nghiêm trọng. Huyện ủy chủ trương thành lập ban chỉ đạo nghề cá, lấy cơ quan quân sự làm tham mưu, lấy dân quân du kích làm nòng cốt. Bằng các phương thức thô sơ kết hợp hiện đại, các lực lượng chống phong tỏa từng bước giải phóng luồng lạch, đưa thuyền ra khơi đánh cá. Nghị quyết 04/TU của tỉnh ủy năm 1972 ghi rõ: “Tỉnh ủy coi giao thông vận tải là nhiệm vụ đột xuất số một hiện nay và phải chuyển hướng theo thời chiến, dũng cảm, khẩn trương, bí mật, linh hoạt khéo che giấu địch, biết tranh thủ thời cơ, có tổ chức chỉ huy lãnh đạo và quản lý chặt chẽ”. Năm 1972, các huyện Bình Liêu, Đình Lập, Hoành Bồ, thị xã Hồng Gai, thị xã Cẩm Phả, xã Phong Dụ (Tiên Yên), mỏ Hà Tu, công ty xây dựng Uông Bí, bến cảng Cửa Ông góp 4.120 công, 67 ca xe gạt; công ty Hồng Gai góp 6.000 công, 300 xe làm đường và vận chuyển; xí nghiệp tàu thuyền Hạ Long đóng mới được nhiều tàu thuyền, cầu phà phục vụ yêu cầu của tỉnh và chi viện chiến trường.

Đầm Hà – xã nổi tiếng sau cuộc độc lập chiến đấu bắt gọn một toán biệt kích Mỹ - Diệm năm 1963, rồi 8 năm liên tục được tuyên dương đơn vị quyết thắng (1963-1971) là một xã luôn dẫn đầu, phấn đấu ngày càng vững mạnh. Tuyển quân chi viện chiến trường từ năm 1963 đến năm 1972 có 400 thanh niên lên đường chống Mỹ cứu nước (bằng 8% dân số xã). Anh em ra đi đều hoàn thành tốt nhiệm vụ, chưa có trường hợp bỏ ngũ hoặc thoái thác nhiệm vụ. Nhiều anh em thực hiện quyết tâm “đã đi là đến, đã đánh là thắng”.

Tháng 9 năm 192 địch tạm ngừng đánh phá hai nhà máy diện cọc 5 và Uông Bí vì cả hai nơi này đều bị đánh hư hại nặng, mặt khác do ta khéo ngụy trang che mắt trinh sát địch. Nhà máy điện cọc 5 nhiệm vụ chủ yếu là quản lý, phân phối diện cho sản xuất và dân dụng trong tỉnh. Bề ngoài nhà máy cứ để cảnh bị tàn phá tan hoang, nhưng bên trong bịt kín tất cả các cửa khe rãnh để khi máy vận hành, ánh sáng không hắt ra ngoài. Ở nhà máy điện Uông Bí, công nhân có sáng kiến làm ống dẫn khói tỏa xuống hệ thống ngầm che mắt địch, bên trong nhà máy vẫn phát điện liên tục ngày đêm.

Trong lúc cả tỉnh chuyển vào thời chiến, các trung tâm thị xã, thị trấn, các khu công nghiệp phải sơ tán, năm học 1971-1972 toàn tỉnh vẫn đạt tỷ lệ 18,5%, vượt chỉ tiêu đại hội đảng bộ tỉnh lần thứ nhất đề ra 0,5%.

Mạng lưới trường lớp được mở rộng hơn trước, mỗi xã ở các huyện miền xuôi, vùng núi thấp, thị trấn đều có một trường mẫu giáo, vỡ lòng, một trường cấp I, một trường cấp II, có nơi hai trường cấp I. Ở các xã vùng cao hẻo lánh mỗi xã cũng có một trường cấp I, một trường mẫu giáo và một trường vỡ lòng. Đặc biệt cấp III phát triển thêm 8 trường. Đông Triều, Yên Hưng, Hồng Gai mỗi nơi có hai trường cấp III. Hàng năm, tỉnh có 1.000 học sinh vào các trường đại học.

Phong trào bổ túc văn hóa năm học 1971-1972 có tới 12.390 người theo học ngoài giờ. Hệ bổ túc văn hóa tập trung thường xuyên có 1.000 học sinh. Trường thanh niên dân tộc vừa học vừa làm, năm học 1971-1972 có tới 815 học sinh(1). Sự nghiệp giáo dục trong tỉnh không những được duy trì mà còn phát triển. “Đó là một việc làm hiếm có trong lịch sử chiến tranh, một sự cố gắng vượt bậc, một thành tựu kỳ diệu của nhân dân ta, Đảng ta”(2).


(1) 30 năm đấu tranh, xây dựng và bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân ở Quảng Ninh, Ban nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh ủy Quảng Ninh, 1976, tr.122-123.
(2) Lời đồng chí Lê Duẩn.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #52 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2017, 10:13:56 pm »

Ngành bảo vệ sức khỏe nhân dân đạt nhiều thành tựu mới. Trước ngày giải phóng, những người thợ mỏ và người các dân tộc thiểu số tuổi thọ thấp.

Giờ đây toàn tỉnh có 217 bác sĩ, 50 dược sĩ và 600 y sĩ. Chiến tranh ác liệt lại là thời kỳ sự nghiệp y tế phát triển nhanh nhiều mặt. Số bệnh viên tăng 3 lần, bệnh xá tăng 2 lần, số giường bệnh lên tới 4.178, đạt tỷ lệ 45 giường bệnh/một vạn dân. Năm 1972 nhiều tập thể và cá nhân ngành y tế được khen thưởng.

Bệnh viện Quảng Ninh, các bệnh viện Cẩm Phả, thị xã Hồng Gai, trạm vệ sinh phòng dịch, hội chữ thập đỏ được thưởng huân chương (1972).



Bệnh viện Cẩm Phả (Quảng Ninh) được chuyển vào hang núi tiếp tục điều trị cho người bệnh

Từ 1970-1971, hoàn thành xây dựng sân vận động Hồng Gai với trên một vạn chỗ ngồi. Đến năm 1972, số loa truyền thanh tăng gấp 3 lần. Đài truyền hình Quảng Ninh đã phát sóng… Đó là phương tiện thông tin tuyên truyền đại chúng vừa động viên cổ vũ quân dân trong chiến đấu, vừa có tác dụng báo động phòng không rất tích cực.

Tháng 9 năm 1972 tỉnh đội điều đại đội 150 bảo vệ cọc 5, tập trung tiểu đoàn 237 và một số đơn vị khác về Cửa Ông bảo vệ khu nhà máy sàng và vận chuyển than của cảng. Đây là một cách mạnh dạn cơ động lực lượng tránh bỏ lỡ thời cơ tiêu diệt địch, không dể bộ đội nằm chờ ở mục tiêu mà địch lại không đến đánh, đồng thời tập trung lực lượng trực chiến của dân quân tự vệ theo tuyến, vừa phối hợp với bộ đội đánh địch bảo vệ mục tiêu vừa giáng trả thủ đoạn đánh nhỏ lẻ, dai dẳng, liên tục ngày đêm nhằm gây thiệt hại về người, tài sản nhà nước ở các vùng sơ tán, vùng đảo, ven biển, trên đường giao thông.

Các đơn vị tàu hải quân, các lực lượng phối thuộc của tỉnh, của Quân khu Tả Ngạn, của nhân dân trên các đảo ven biển, tháo gỡ hàng chục quả thủy lôi và nhiều bom chờ nổ chậm.

Bị thất bại nặng nề trên cả hai miền Nam – Bắc nước ta, ngày 22 tháng 10 năm 1972, tổng thống Mỹ lại tuyên bố ngừng ném bom bắn phá từ bắc vĩ tuyến 20 trở ra.

Bộ Chính trị chỉ thị cho các địa phương và các lực lượng vũ trang phải “đề phòng Mỹ tăng cường hành động quân sự trở lại, tuyệt đối không được lơ là mất cảnh giác”.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #53 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2017, 10:15:16 pm »

14 giờ ngày 24 tháng 10 năm 1972, chỉ sau 30 giờ địch tuyên bố ngừng ném bom, luồng Quảng Ninh – Hải Phòng được giải tỏa. Ban chỉ đạo bảo đảm giao thông liên tỉnh, thành phố Quảng Ninh – Hải Phòng chính thức đề nghị Chính phủ mở lại luồng vận chuyển này cho tàu thuyền loại nhỏ qua lại. Chính phủ phê duyệt đề nghị đó. Ngay chiều và đêm 24 tháng 10 năm 1972 đã có 182 tàu thuyền vận tải 400 tấn trở xuống đi từ Quảng Ninh về Hải Phòng và ngược lại an toàn.

Lực lượng rà quét thủy lôi vùng biển Đông Bắc phối hợp mở rộng phạm vi an toàn trên nhiều luồng lạch khác. Đầu tháng 11 năm 1972 tàu trọng tải 2.000 tấn đến 5.000 tấn vào Cửa Vạn an toàn.

Cuộc chiến đấu chống phong tỏa diễn ra những ngày tháng căng thẳng quyết liệt, hy sinh đầy sự tích anh hùng. Sau chuyến đi dài ngày vào tháng 9 năm 1972 vượt qua 1.200km qua một số tỉnh, thành phố lớn của miền Bắc trong đó có Quảng Ninh, ngày 3 tháng 10 năm 1972, nhà báo Mỹ Ri-sớt Dớt-man viết trên báo Diễn đàn thông tin quốc tế: “Bắc Việt Nam sẵn sàng có thể chiến đấu hầu như không có giới hạn. Chắc chắn là việc ném bom nặng nề và liên tiếp Bắc Việt Nam của chính phủ Ních-xơn bắt đầu giữa tháng 4 năm 1972 không ngăn cản được sức sản xuất, việc phân phối những hàng cần thiết và không làm suy yếu tinh thần họ”.

“Ném bom đã đủ để gây đau khổ cho nhiều dân thường nhưng còn xa mới đạt được mục đích quân sự và làm tan rã khả năng chiến đấu tàn phá nền kinh tế hoặc thủ tiêu ý chí tiếp tục chiến đấu của Bắc Việt Nam”(1).

Hai ngày trước khi diễn ra việc bầu cử tổng thống Mỹ, Ních-xơn lại ra lệnh đánh phá Hà Tĩnh. Nghệ An.

Ngày 27 tháng 11 năm 1972, Bộ Tổng tư lệnh chỉ thị cho các lực lượng vũ trang nhân dân tăng cường chuẩn bị chiến đấu. Bộ Tổng tư lệnh nhận định: “Có nhiều khả năng địch sẽ đánh phá trở lại toàn miền Bắc với mức độ ác liệt hơn, kể cả việc dùng B52 đánh ồ ạt vào Hà Nội, Hải Phòng”.

Thực hiện chỉ thị của Quân ủy Trung ương, Bộ tổng Tham mưu triệu tập cuộc họp với Tư lệnh Quân khu Tả Ngạn, quân binh chủng hướng dẫn “kế hoạch đối phó tình huống địch dùng máy bay B52 đánh phá các địa phương, các thành phố lớn, các khu công nghiệp, để giữ vững nền nếp sản xuất, chiến đấu, kiên quyết thực hiện sơ tán, phòng tránh trong các tình huống địch đánh phá ác liệt nhất”.

Chỉ thị của Quân ủy Trung ương, kế hoạch của bộ Tổng Tham mưu được Bộ tư lệnh Quân khu Tả Ngạn cụ thể hóa vào địa bàn từng địa phương, trước hết là các trọng điểm Hải Phòng – Quảng Ninh, đường 1 bắc.

Thường vụ tỉnh ủy họp khẩn cấp vào sáng 17 tháng 11 năm 1972. Cuộc họp mới bắt đầu thì được tin của trên thông báo: 13 lần chiếc máy bay Mỹ đến thả 150 thủy lôi xuống luồng tàu bên ngoài cửa Nam Triệu. Thường vụ Tỉnh ủy nhận định trong những ngày tới địch sẽ đánh phá Quảng Ninh. Theo quy luật, nếu địch đánh phá Hải Phòng trước thì những mũi kiềm chế và nghi binh của chúng sẽ đánh Quảng Ninh. Cần đề phòng khả năng địch đồng thời đánh cả Hải Phòng và Quảng Ninh. Thường vụ tỉnh ủy chỉ thị cho các đơn vị, các huyện, thị xã và cơ sở, nhất là ba trọng điểm Hồng Gai, Uông Bí, Cửa Ông phải thực hiện các biện pháp phòng chống B.52 mà cấp trên đã hướng dẫn.

Thực hiện chỉ thị của Thường vụ tỉnh ủy, ngay đêm 17 tháng 12 năm 1972 các thị xã Hồng Gai, Uông Bí, Cẩm Phả, Cửg Ông thực hiện kế hoạch sơ tán người, phân tán hàng hóa.

Các loại phương tiện vận tải ô tô, tàu thuyền, xe thồ… lần lượt rời khỏi nhà máy, xí nghiệp, cơ quan đường phố. Trên xe thuyền, ca nô, ô tô… đầy ắp người và hàng hóa. 53.000 dân thị xã Hồng Gai tạm rời thị xã. Rút kinh nghiệm lần trước, nhiều tài sản quý, xăng dầu… được bố trí rải rác dọc đường lớn, tiện phân tán, quản lý, cấp phát và địch khó phát hiện.

Đêm 18 tháng 12 năm 1972, 90 lần chiếc B.52 cùng 163 lần chiếc máy bay phản lực xuất hiện trên vùng biển miền Bắc. Cuộc tập kích chiến lược đường không lần thứ hai của chiến dịch Lai-nơ Bếch-cơ II của Mỹ mở đầu bằng các cuộc giội bom xuống Hà Nội, Hải Phòng và một số địa phương khác. Cùng với việc đánh phá bằng B52 ở đất liền, đế quốc Mỹ đồng thời thực hiện chiến dịch phong tỏa cửa biển, cửa sông hòng phong tỏa miền Bắc bằng bom mìn, thủy lôi. Ngày 19 tháng 12 năm 1972, đế quốc Mỹ thả hàng loạt thủy lôi xuống luồng Lạch Miêu vào Hồng Gai, luồng Hang Trống vào Cửa Ông và sau đó chúng lại thả tiếp thủy lôi xuống Hồng Gai.


(1) Chiến tranh Việt Nam và kinh tế Mỹ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1973, tr.33.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #54 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2017, 10:16:28 pm »

Ở tuyến ngoài đảo Ngọc Vừng, một ngày sau khi địch đánh tuyến trong, lực lượng chiến đấu ở đảo phát hiện địch bay ra sà thấp, phải bay gấp về căn cứ tàu sân bay. Trên đảo có 1 đại đội 37mm, 6 khẩu 14,5mm và 6 khẩu 12,7mm, nhưng bố trí còn phân tán. Chi ủy và chỉ huy đơn vị quyết định tập trung hỏa lực thành một cụm, đưa pháo 37mm lên cao. Đại đội 37mm ở giữa, phân đội 14,5mm và 12,7mm bố trí xung quanh theo kiểu bậc thang. Qua một ngày nghiên cứu địch, đơn vị đã nắm được đường bay chủ yếu và hạ quyết tâm chọn đúng thời cơ đánh máy bay địch cả lúc chúng bay vào cũng như bay ra.

12 giờ ngày 19 tháng 12 năm 1972, hai chiếc máy bay vào đánh Hồng Gai, bay cao. Lúc ra, chúng bay thấp, nhưng tốc độ lớn. Pháo 37mm ở Ngọc Vừng bắn không chính xác. Nhưng cụm 14,5mm và 12,7mm bắn trúng, một chiếc rơi tại chỗ. Đại đội 37mm rút kinh nghiệm sẵn sàng chiến đấu chưa cao, chỉ huy hạ lệnh không kịp thời cơ, các khẩu đội bắn còn chậm.

Sáng 23 tháng 12 năm 1972, một chiếc A.3J bay vào. Lúc bay ra, máy bay ở độ cao 1.500m, đại đội pháo 37mm bắn một loạt ngắn. Máy bay trúng đạn rơi xuống biển. Cùng lúc, 12 máy bay đến bắn phá xung quanh đảo. Các khẩu đội 12,7mm và 14,5mm bắn với nên không trúng mục tiêu.

Sau trận đánh này, trận địa được ngụy trang lại ngay trong đêm. Ngày 24 tháng 12 năm 1972, hai chiếc F4 bay thấp ở độ cao 1.800m và vẫn theo đường bay của chiếc A.3J hôm trước. Toàn trận địa đồng loạt nổ súng. Một chiếc F4 bị bắn rơi. Đây là chiếc máy bay Mỹ thứ 200 bị bắn rơi tại Quảng Ninh và là chiếc máy bay Mỹ cuối cùng sau 6 tháng địch gây chiến tranh phá hoại lần thứ hai trên địa bàn Quảng Ninh.

Ngọc Vừng, một đảo nhỏ nhưng rất kiên cường. Chỉ riêng trong chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, bình quân mỗi người dân trên đảo phải chịu 16 quả bom các loại. Trong gần 4 năm chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, địch đã đánh phá đảo 237 trận. Chiến tranh phá hoại lần thứ hai chỉ diễn ra trong 6 tháng, địch đánh phá đến 100 trận với trên 1.000 quả bom, phá hoại sản xuất, phá hủy trường học, cửa hàng mua bán, làm sập đổ nhiều nhà dân, đánh chìm nhiều thuyền đánh cá. Căm thù giặc Mỹ xâm lược, quân và dân trên đảo đoàn kết một lòng hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ, bắn rơi nhiều máy bay Mỹ. Dũng cảm đánh máy bay địch, quân và dân đảo Ngọc Vừng còn vượt thủy lôi mở đường liên lạc, tiếp tế các đảo xa, cứu trên 100 người bị nạn trên biển.



Dân quân đảo Ngọc Vừng, huyện Cẩm Phả đuổi bắt giặc lái Mỹ ngày 24/12/1972

7 giờ sáng ngày 30 tháng 12 năm 1972, tổng thống Mỹ Ních-xơn phải tuyên bố trở lại tình trạng trước ngày 18 tháng 12 năm 1972, nghĩa là ngừng ném bom bắn phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra để có thể tiếp tục trở lại đàm phán ở Hội nghị Pa-ri.

Cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay B52, nỗ lực quân sự cao nhất và cuối cùng của những người cầm quyền nước Mỹ bị thất bại thảm hại.

Trong 12 ngày đêm của chiến dịch, Mỹ huy động 792 lần chiếc B52, 1.900 lần chiếc máy bay cường kích, chiến thuật, ném gần 30.000 tấn bom đạn xuống Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh và một số địa phương khác. Quân và dân ta đánh những trận tiêu diệt xuất sắc: bắn rơi 81 máy bay các loại, trong đó có 34 máy bay B.52. Giới quân sự Mỹ coi chiến dịch Lai-nơ Bếch-cơ II của 12 ngày đêm cuối năm 1972 là “tấn thảm kịch”, “một trường hợp sử dụng tập trung hỏa lực không quân ở mức cao nhất trong lích sử chiến tranh chống lại một hệ thống phòng không mạnh nhất thế giới”.

Qua hai lần tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không quân, (không có B52 và cũng không có trường hợp địch dùng tàu chiến từ ngoài biển đánh phá Quảng Ninh), địch đánh vào Quảng Ninh 4 năm, 1 tháng, 7 ngày. Chúng đánh 2.340 trận, ném, thả, rải tới 28.531 bom mìn, thủy lôi các kiểu, các loại khoảng 9.680 tấn, bắn hàng nghìn rốc-két và đạn các loại xuống các mục tiêu. Từ năm 1964 đến 1968 địch đánh 1.737 trận với 19.348 quả bom, thời gian đánh là 1.035 ngày; trong đó có 17,3% số trận đánh mục tiêu dân cư, 27,4% số trận đánh giao thông vận tải. Địch đánh 14 nhà máy lớn và quan trọng nhất như: điện, cơ khí, sàng rửa, tuyển than… của khu mỏ.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #55 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2017, 10:18:41 pm »

.000 quả bom các loại. Nhà máy diện Uông Bí bị đánh 63 trận với hơn 1.500 quả bom. Tỷ lệ người bị chết do bom đạn địch gây ra là 1,30 người trong một trận, số người bị thương là 2,05 người trong một trận. Những nơi bám trụ sản xuất, địch đánh phá rất ác liệt thì thương vong lại ít hơn vì các lực lượng phòng không bắn trả mãnh liệt, và hầm hố ở những nơi đó vững chắc hơn. Nhà máy điện Uông Bí qua hai cuộc chiến tranh chết 10, bị thương 11. Xí nghiệp tàu thuyền Hạ Long năm 1972 bị đánh 12 trận, bị thương nhẹ 4 người.

Chiến tranh phá hoại lần thứ hai chỉ diễn ra 6 tháng nhưng mức độ đánh phá ác liệt hơn chiến tranh phá hoại lần thứ nhất về nhiều mặt. Số ngày địch đánh phá trong năm 1972 là 173 ngày, bằng 13,24% số ngày địch đánh phá trong chiến tranh phá hoại lần thứ nhất (1964-1968), nhưng số trận bằng 346% và số bom đạn bằng gần một nửa (45,99). Số trận đánh vào mục tiêu dân cư của chiến tranh phá hoại lần thứ hai bằng 43% tổng số trận. Số trận đánh giao thông vận tải gần bằng số trận đánh mục tiêu này trong chiến tranh phá hoại lần thứ nhất. Sáu tháng năm 1972 địch đánh 603 trận với 8.097 quả bom, 976 quả thủy lôi và đánh phá với 34 nhà máy (chiến tranh phá hoại lần thứ nhất đánh 14 nhà máy).

Địch gây cho Quảng Ninh thiệt hại nhiều mặt. Các thị xã Hồng Gai, Uông Bí, các thị trấn Hà Tu, Cửa Ông, nhiều nơi như Mông Dương, cọc 6, Vàng Danh bị đánh hủy diệt. Qua hai cuộc chiến tranh phá hoại, địch giết hại 2.501 người, làm bị thương 3.076 người, gây thiệt hại về tài sản lên tới 60.886.906 đồng(1).



Công nhân mỏ than Vàng Danh cứu đồng đội sau trận máy bay Mỹ đánh phá ngày 23/7/1972

Qua hai cuộc chiến tranh phá hoại ác liệt, tuy gian khổ, khó khăn nhiều mặt nhưng đã hình thành các cụm sơ tán của xí nghiệp, khu phố gần nhau, có tổ chức hành chính, chính trị khá chặt chẽ và những nơi đó cũng trở thành những đơn vị sản xuất, phòng tránh, chiến đấu, trị an và dịch vụ. Một số khu vực sơ tán có tổ chức tố như Bãi Soi, Hai Khe (Uông Bí), Bãi Cháy, Cao Thằng (Hồng Gai), ki-lô-mét số 4, ki-lô-mét số 8, Cửa Ông, thị xã Cẩm Phả, nhiều nơi sơ tán đã thành khu dân cư mới sau chiến tranh.

Năm 1972, địch đánh phá ác liệt khiến ngành điện than của tỉnh phải thu hẹp sản xuất và gây nhiều hậu quả khác phải khắc phục trong thời gian khá dài. Tuy nhiên, so với mục đích cơ bản của chiến tranh phá hoại của địch, muốn đưa chúng ta trở lại “thời kỳ đồ đá” thì chúng đã thất bại nặng nề và toàn diện trên địa bàn Quảng Ninh.

Trong khói lửa chiến tranh, giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể đã có sự nỗ lực phi thường. Tổng sản lượng công nghiệp, nông nông nghiệp năm 1965 mới đạt 110 triệu đồng, năm 1972 địch đánh phá ác liệt hơn vẫn đạt 150 triệu đồng, năm 1975 đạt 200 triệu đồng(2).

Quân dân Quảng Ninh dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã đoàn kết một lòng, quyết tâm chiến đấu, góp phần cùng miền Bắc đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, bắn rơi 200 máy bay Mỹ (chiến tranh phá hoại lần thứ nhất bắn rơi 173 chiếc, lần thứ hai bắn rơi 27 chiếc). Dân quân tự vệ Hồng Gai cùng với lực lượng hải quân, cao xạ bắn rơi 3 máy bay Mỹ trong trận đầu ngày 5 tháng 8 năm 1964, bắt sống tên giặc lái Mỹ đầu tiên trên miền Bắc. Dân quân du kích xã Xuân Sơn (Đông Triều) bắn rơi chiếc máy bay Mỹ thứ 100 trên bầu trời Quảng Ninh. Quân dân đảo Ngọc Vừng (huyện Cẩm Phả) bắn rơi chiếc máy bay thứ 200 trên bầu trời tỉnh nhà và là chiến công cuối cùng kết thúc hai cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ trên địa bàn Quảng Ninh. Hồng Gai là địa phương bắn rơi nhiều máy bay nhất và Yên Hưng là nơi dân quân du kích hạ nhiều máy bay nhất so với các huyện trong tỉnh. Tiểu đoàn pháo cao xạ 237 của tỉnh bắn rơi 4 chiếc. Tự vệ mỏ Hà Tu, Hà Lầm và xã Nam Hòa (Yên Hưng) là những nơi bắn rơi được 2 máy bay Mỹ.

Hai tháng 5 và 6 năm 1972 đạt mức bình quân chiến đấu bắn rơi 5 máy bay Mỹ trong một tháng là hiệu suất cao nhất trong cả hai cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của Mỹ ở Quảng Ninh.

Thắng lợi trong hai cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ trên địa bàn Quảng Ninh là do Đảng bộ phát động được cuộc chiến tranh nhân dân địa phương toàn dân, toàn diện dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của một địa bàn mà tiêu biểu là giai cấp công nhân vùng mỏ bất khuất, nhân dân các dân tộc yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Quân và dân Quảng Ninh đã tiêu diệt, tiêu hao một lực lượng đáng kể của không quân Mỹ, bảo vệ được mục tiêu với mức cố gắng cao nhất, hạn chế những thiệt hại về người và của, bảo vệ được tiềm lực của tỉnh trong chiến tranh, đồng thời tạo yếu tố phục hồi sản xuất công nghiệp sau chiến tranh được nhanh chóng.


(1) Báo cáo “Chiến tranh nhân dân đánh thắng chiến tranh phá hoại của Mỹ trên địa bàn Quảng Ninh” của tỉnh ủy, 14-1-1976, tr.5.
(2) Báo cáo “Chiến tranh nhân dân đánh thắng chiến tranh phá hoại của Mỹ trên địa bàn Quảng Ninh” của tỉnh ủy, 14-1-1976, tr.18.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #56 vào lúc: 30 Tháng Chín, 2017, 10:03:30 pm »

Chương bốn

KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CHIẾN TRANH
TĂNG CƯỜNG TIỀM LỰC, DỒN MỌI NỖ LỰC
CHO SỰ NGHIỆP GIẢI PHÓNG MIỀN NAM
(1973-1975)

1. Rà phá thủy lôi địch phong tỏa, mở thông luồng lạch, phục hồi sản xuất, tăng cường lực lượng chi viện chiến trường.

Ngày 27 tháng 1 năm 1973, hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết tại Pa-ri. 7 giờ sáng ngày 28 tháng 1 năm 1973, Hiệp định Pa-ri bắt đầu có hiệu lực.

Nhân sự kiện này, Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chính phủ ra lời kêu gọi quân và dân cả nước: “Tăng cường đoàn kết, đề cao cảnh giác, củng cố những thắng lợi đã giành được, hoàn thành độc lập, dân chủ ở miền Nam, tiến tới thống nhất nước nhà”.

Cũng trong tháng 1 năm 1973, Thường vụ Quân ủy Trung ương họp ra nghị quyết về nhiệm vụ mới của các lực lượng vũ trang nhân dân là củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng chiến đấu nhằm đáp ứng yêu cầu mới của cách mạng… Sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu phá hoại hiệp định và gây lại chiến tranh của địch.

Ngày 29 tháng 3 năm 1973, đơn vị cuối cùng của đội quân viễn chinh Mỹ và quân các nước chư hầu của Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam. Bộ chỉ huy quân sự họp ở Sài Gòn làm lễ cuốn cờ về nước.

Sau 18 năm chiến đấu đầy hy sinh anh dũng, quân và dân ta đã hoàn thành nhiệm vụ chiến lược “đánh cho Mỹ cút”. Giờ đây quân và dân ta lại đang có điều kiện và thời cơ mới để “đánh cho ngụy nhào”, giải phóng miền Nam, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thống nhất nước nhà.

Thực hiện chỉ thị, nghị quyết của Trung ương Đảng, Tỉnh ủy đề ra nhiệm vụ cấp bách cho toàn đảng bộ, quân và dân trong tỉnh lúc này là: “Khẩn trương khắc phục hâu quả chiến tranh, đẩy mạnh sản xuất, tăng cường tiềm lực mọi mặt, dốc lòng dốc sức chi viện cho tiền tuyến, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc”.

Chấp hành nghị quyết của tỉnh ủy và thực hiện sự chỉ đạo của Bộ tư lệnh Quân khu Tả Ngạn, được sự phối hợp và giúp đỡ của trung đoàn 171 Bộ tư lệnh Hải quân, tiểu đoàn công binh 23 Quân khu Tả Ngạn và một số cơ quan khoa học, kỹ thuật nhà nước, Cục Vận tải biển và quân đội tiến hành triển khai đề án rà phá thủy lôi trong vùng vịnh mà Bộ Quốc phòng đã thông qua. Bộ tư lệnh Hải quân chủ trì hiệp đồng kế hoạch thực hiện đề án: Tiếp tục quét sạch và mở rộng các luồng chính, bảo đảm cho tàu thuyền trong nước và nước ngoài ra vào cảng Hồng Gai, Cẩm Phả… Nhanh chóng rà quét, mở các luồng cửa sông các khu vực đánh cá, tạo điều kiện cho nhân dân đi lại làm ăn an toàn. Với tinh thần quyết chiến quyết thắng âm mưu thâm độc của giặc Mỹ tàn phá ta sau chiến tranh, các đơn vị tàu thuyền, các lực lượng công binh địa phương tận dụng mọi phương tiện kỹ thuật hiện đại kết hợp thô sơ, rà phá thủy lôi, bom mìn địch thả xuống luồng lạch trên sông và ven biển. Trên các điểm đã xác định, tàu thuyền phá thủy lôi rà đi quét lại hàng trăm lần liên tục cả ngày lẫn đêm.

Ngày 2 tháng 1 năm 1973, chỉ ba ngày sau khi Mỹ buộc phải chấm dứt cuộc tập kích đường không bằng B52, tuyến Cẩm Phả - Hải Phòng được giải tỏa. Đây là tuyến chính vận tải than từ Quảng Ninh đi các địa phương miền Bắc.

Từ ngày 10 tháng 3 năm 1973, tại luồng Lạch Miều vào Hồng Gai, một số đơn vị thuộc trung đoàn 171 (hải quân), tiểu đoàn công binh 23 Quân khu Tả Ngạn, công binh của tỉnh, tự vệ công ty than Hồng Gai dùng phương tiện rà quét các ô đã khoanh vùng phá nổ 11 quả. Ngày 15 tháng 3 năm 1973 luồng lạch quan trọng này được khai thông.

Việc rà quét trên luồng Hang Trống – Đồng Trắng vào cảng Cửa Ông, các đơn vị hoàn thành nhiệm vụ vào ngày 30 tháng 3. Ngày 31 tháng 3 năm 1973, một tàu Liên Xô mắc ket ở cảng Cửa Ông được một tàu dẫn của ta đưa ra hải phận quốc tế an toàn. Hai tàu của ta và của bạn cùng kéo còi tạm biệt nhau trong niềm vui chiến thắng phong tỏa của Mỹ.

Trên luồng Cửa Vạn vào Hồng Gai, các đơn vị phá lôi tiếp tục rà quét và kiểm tra hai bên hàng phao, đồng thời dẫn dắt, hộ tống các tàu nước ngoài ra vào cảng an toàn. Đến cuối tháng 3 năm 1973, luồng Cửa Vạn đã có 40 lần chiếc tàu lớn ra vào Hồng Gai an toàn.

Sang tháng 4 và 5, các bãi thủy lôi trong vịnh Hạ Long và vịnh Bái Tử Long, khu vực Cẩm Phả và một số địa điểm khác cũng được quét sạch.

Tại một số khu vực trọng điểm kinh tế như nhà máy điện Uông Bí, cảng Cửa Ông và một số nơi tàu rà quét không vào hoạt động được, các tổ công binh, thợ lặn, người nhái của hải quân đế rà mò, tháo gỡ, phá hủy thủy lôi các loại.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #57 vào lúc: 30 Tháng Chín, 2017, 10:04:02 pm »

Theo Hiệp định Pa-ri, ngày 5 tháng 2 năm 1973 “biên đội đặc nhiệm 78” vớt mìn của hải quân Mỹ do chuẩn đô đốc Mắc Cao-lây (Mc. Caulay) dẫn đầu với 44 tàu chiến, tàu quét mìn các loại, 45 máy bay lên thẳng, 5.003 binh lính và sĩ quan vào rà quét thủy lôi vùng biển Hải Phòng, Quảng Ninh và các tỉnh phía trong.

Tuy Mỹ đưa lực lượng vào vớt mìn, nhưng do âm mưu phá hoại Hiệp định Pa-ri nên họ có nhiều hành động thiếu nghiêm chỉnh trong việc quét mìn. Mỹ chậm đưa các phương tiện, khí tài phát hiện và phá hủy bom mìn mà họ có trách nhiệm phải cung cấp cho ta. “biên đội đặc nhiệm 78” chỉ thực hiện vớt mìn ngoài biển, lẩn tránh việc phá gỡ bom mìn, thủy lôi ở các luồng sông. Ngày 28 tháng 2 năm 1973 Mỹ tự ý rút “biên đội đặc nhiệm 78” ra ngoài hải phận quốc tế. Họ rút đột ngột, một bộ phận sĩ quan, chuyên viên kỹ thuật Mỹ rời bỏ khách sạn không thông báo cho ai. Ngày 5 tháng 3 năm 1973, trước sự đấu tranh kiên quyết của đoàn ta, họ quay trở lại để tiếp cụ công việc.

Vào làm nhiệm vụ quét mìn, nhưng Mỹ còn lợi dụng việc đưa phương tiện kỹ thuật vào vớt mìn để hoạt động tình báo. Một số nhân viên lên bờ, tìm cách tiếp xúc, chụp ảnh, thu thập tin tức về kinh tế, quân sự, gieo rắc luận điệu chiến tranh tâm lý. Phía Mỹ còn lợi dụng việc ta cho phép sử dụng các tàu đo đạc, máy bay trực thăng, máy bay vận tải chở người vào thành phố, chở phương tiện cho ta để thu thập tin tức. Họ còn lợi dụng việc điều khiển các ống dẫn từ hệ thống ăng-ten… để quay phim, chụp ảnh, điều tra vùng biển, bờ biển… Lực lượng an ninh của ta kịp thời phát hiện và ngăn chặn.

Ngày 6 tháng 3 năm 1973, Mỹ trở lại công việc rà quét mìn.

Ngày 17 tháng 3 năm 1973, vin cớ quân dân miền Nam giáng trả quân ngụy lấn chiếm vùng giải phóng, Mỹ lại tự ý rút biên đội đặc nhiệm về cảng Su-bích (Phi-líp-pin).

Phái đoàn ta ở Pa-ri gặp đại diện chính phủ Mỹ kịch liệt lên án hành động thiếu thiện chí của “biên đội đặc nhiệm 78”, yêu cầu họ trở lại vùng biển của ta và phải hoàn thành việc quét mìn trong 30 ngày.

Ngày 18 tháng 6 năm 1973, “biên đội đặc nhiệm 78” trở lại rà quét mìn.

Một tháng sau, ngày 18 tháng 7 năm 1973 Mỹ tuyên bố hoàn thành việc rà quét mìn và rút “biên đội đặc nhiệm 78” ra khỏi vùng biển của ta. Mấy ngày sau, Mỹ trao cho ta 10 bản thông cáo về kết quả rà phá thủy lôi trên 10 luồng từ Quảng Ninh đến Quảng Bình, trong đó có các luồng vào Hồng Gai, Cẩm Phả…

Sau 5 tháng “kéo cầy trả nợ” như báo chí phương Tây đã bình luận, cả đạo quân đông tới 5.000 người, với nhiều phương tiện rà quét mìn hiện đại như tàu quét lôi, máy bay rà phá thủy lôi bằng âm thanh, bằng từ tỉnh, chỉ phá được 3 quả ngoài luồng khơi xa. Phía Mỹ cũng bị những tổn thất: 1 tàu vớt mìn bị cháy, 3 máy bay lên thẳng bị rơi, nhiều khí tài, dụng cụ phá mìn của Mỹ bị hỏng… Mỹ không phá nổi được nhiều thủy lôi vì trước đó, quân dân ta, các nhà khoa học của ta đã dũng cảm tìm ra nhiều cách tốt nhất và sáng tạo ra nhiều phương tiện kỹ thuật rà phá có hiệu quả ngay sau khi chiến tranh phá hoại chấm dứt.

Thêm một lần nữa, quân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng loại trừ được hiểm họa mà giặc Mỹ muốn hủy diệt ta sau chiến tranh.

Ở các trọng điểm địch đánh phá có tính hủy diệt, số bom chưa nổ vẫn còn rải rác quanh vùng. Lực lượng công binh Quân khu Tả Ngạn, của bộ chỉ huy quân sự tỉnh và của tự vệ nhà máy đã phối hợp rà phá, tháo gỡ nhiều quả trong tình huống dễ gây nguy hiểm cho sự an toàn của công trình.

Tại nhà máy điện Uông Bí, một quả bom loại 250 bảng Anh còn kẹt cạnh nồi hơi 1m, một quả bom xuyên khác loại 500 bảng Anh (Model 3) còn nằm gần khu trung tâm chỉ huy vận hành. Phát huy kinh nghiệm rà phá thủy lôi tuyến biển, hai mục tiêu bom chưa nổ đã được giải quyết an toàn.

Thắng lợi chống phong tỏa rà quét hết bom mìn, thủy lôi trên biển, trên bộ, trong nhà máy, dọc các trục giao thông đã tạo thuận lợi cho Quảng Ninh khôi phục sản xuất ổn định đời sống nhân dân.

Tháo gỡ bom mìn xong, Bộ tư lệnh Quân khu Tả Ngạn điều động trung đoàn 8 tham gia dọn dẹp san lấp mắt bằng khu vực nhà máy điện Uông Bí. Sau 30 ngày miệt mài lao động, trung đoàn góp phần tích cực vào việc chuẩn bị điều kiện để nhà máy tiếp tục xây dựng giai đoạn III.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #58 vào lúc: 30 Tháng Chín, 2017, 10:05:11 pm »

Những tháng đầu năm 1973, đế quốc Mỹ vẫn tiếp tục viện trợ cho ngụy quyền Sài Gòn, củng cố và phát triển quân ngụy mở hàng loạt cuộc hành quân lấn chiếm vùng giải phóng. Với miền Bắc, Mỹ lại tung máy bay, tàu chiến khiêu khích, trinh sát vũ trang.

Thực hiện chỉ thị của tỉnh ủy, các đơn vị pháo cao xạ của bộ đội tỉnh, tự vệ các xí nghiệp, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ ở vùng ven biển, hải đảo vẫn duy trì trạng thái sẵn sàng chiến đấu, giữ nguyên các chế độ chỉ huy, trực chiến; các đài quan sát bộ đội pháo binh ở các khu vực phòng thủ thường xuyên theo dõi các hoạt động của địch trên biển.

Từ tháng 4 năm 1973, thực hiện chỉ thị của Bộ Tổng Tham mưu về điều chỉnh củng cố một bước cơ cấu tổ chức và biên chế cơ quan, đơn vị trong tỉnh, lực lượng tự vệ ở các xí nghiệp thu gom số đơn vị cho phù hợp tình hình nhiệm vụ mới. Riêng công ty xây dựng Uông Bí và mỏ Hà Lầm, đảng ủy và giám đốc đề nghị bộ chỉ huy quân sự tỉnh và Bộ tư lệnh Quân khu cho thành lập trung đoàn tự vệ, mỗi trung đoàn có tiểu đội cao xạ 37mm và 100mm, tiểu đoàn bộ binh và các đơn vị trực thuộc.

Đi đôi với việc sẵn sàng chiến đấu và phục hồi sản xuất, các hoạt động xã hội được đẩy mạnh. Năm học 1972-1973 toàn tỉnh có 106.800 học sinh. Do tổ chức sơ tán và phòng tránh tốt nên năm học này vẫn bảo đảm thời gian thi với tỷ lệ học sinh đỗ khá cao. Riêng học sinh lớp 10 đỗ với tỷ lệ cao nhất miền Bắc.

Công tác tuyển quân, chi viện tiền tuyến cũng được chú trọng. Hai cuộc chống chiến tranh phá hoại của Mỹ đã qua là một thời gian đầy thử thách. Sự đóng góp sức người, sức của cho miền Nam đã thành khẩu hiệu “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Nhưng đến đỉnh cao của sự huy động sức người, sức của đã nảy tình huống cạn nguồn, cạn quân. Chính quyền và cấp ủy các cấp đã tạo ra sức huy động có tính pháp lý và tính tự nguyện đối với mỗi người, mỗi nhà. Những kinh nghiệm đó là:

Phải điều tra cơ bản, nắm vững thực lực, chủ động lập kế hoạch tuyển quân từ 1 đến 5 năm.

Trước đây cần thì gọi, ai dễ gọi trước, nơi mạnh bù cho nơi yếu, không gọi được tức là cạn, là hết. Về lâu dài, để công bằng hợp lý, phải điều tra cơ bản, các lứa tuổi được xác định từ gia đình, trường học, từ đội sản xuất đến hợp tác xã và toàn xã. Trong các lứa tuổi điều tra, có phân loại: lứa tuổi đủ điều kiện làm nghĩa vụ quân sự, lứa tuổi đến lượt tòng quân và lứa tuổi làm nguồn từ 1 đến 5 năm. Nắm được các đối tượng, các độ tuổi, cấp ủy, chính quyền chủ động lập và xác định kế hoạch từng đợt, từng năm cho từng người, từng thôn và toàn xã thực hiện nghĩa vụ quân sự.

Phong trào xây dựng phân đội dự bị trở thành “đơn vị chủ lực tại xã” sôi nổi khắp các huyện thị.

Mỗi phân đội dự bị bao gồm những thành viên có đủ điều kiện để tuyển lựa bổ sung kế tiếp quân số đã trúng tuyển đi bộ đội. Khi vào quân dự bị, anh em được học tập những bài huấn luyện cơ bản về chính trị, về chiến thuật, kỹ thuật; về rèn luyện thể lực, được bồi dưỡng sức khỏe, được chữa bệnh thông thường. Phân đội dự bị là nguồn bổ sung chiến sĩ cho từng đợt tuyển quân, và khi cần thiết có thể bổ sung cả đơn vị, bảo đảm rút ngắn thời gian huấn luyện cơ bản xuống một nửa, thậm chí chỉ cần 1/3 thời gian huấn luyện so với trước, các chiến sĩ đã có thể ra mặt trận, đi gọn đánh thắng.

Tuyển quân chi viện tiền tuyến, một nhiệm vụ có thời gian nổi lên là nhiệm vụ hàng đầu của toàn đảng bộ. Nhiệm vụ đó có liên quan đến các nhiệm vụ chính trị khác ở địa phương nên đã đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của chi bộ, đảng bộ. Trong phạm vi lãnh đạo của chi bộ, công tác tuyển quân huy động được sự tham gia tích cực của các ngành, các đoàn thể, nhất là phong trào “3 đảm đang” của phụ nữ, “3 sẵn sàng” của đoàn thanh niên.

Năm 1972, vừa phải đối phó với chiến tranh phá hoại và phong tỏa ác liệt của địch, Quảng Ninh vẫn hoàn thành chỉ tiêu tuyển quân 107,9%, trong đó tuyển quân ở cơ sở chủ yếu là 19,10%, ở diện không công bằng tồn lại là 20,7% và diện phải nuôi dưỡng là 0,91%.



Các bà mẹ chiến sĩ gắn hoa hồng cho các chiến sĩ mới nhập ngũ tại sân Cây Tháp, Hồng Gai năm 1972
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #59 vào lúc: 30 Tháng Chín, 2017, 10:06:38 pm »

Sang năm 1973, quân tuyển dụng ở cơ sở yếu là 15,25%, ở diện không công bằng còn tồn đọng là 11,18%. Tính từ 1959-1973, Quảng Ninh đã tuyển và có số quân bổ sung cho các chiến trường là 15.000 người. Tỷ lệ huy động so với dân số ở một tỉnh có vùng công nghiệp khai thác than lớn nhất cả nước và nơi có nhiều đồng bào dân tộc ít người, năm nào cũng đạt và vượt chỉ tiêu là một nỗ lực lớn của đảng bộ và nhân dân trong tỉnh. Tỉnh được Đảng và Nhà nước tặng thưởng nhiều huân chương Kháng chiến (gồm 3 hạng nhất, 15 hạng nhì, 46 hạng ba), 9 trong tổng số 13 huyện, thị (đạt 69,23%) được thưởng huân chương Kháng chiến.

Ngày 3 tháng 9 năm 1973, tự vệ cảng Hồng Gai – Quảng Ninh được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa Tôn Đức Thắng ký lệnh tặng danh hiệu Đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Bản tuyên dương ghi rõ thành tích của tự vệ cảng Hồng Gai: “Vì đã góp phần cùng quân và dân khu mỏ đánh thắng không quân của đế quốc Mỹ ngay từ trận đâu 5 tháng 8 năm 1964”.

Trong hoàn cảnh địch đánh phá rất ác liệt, nhất là năm 1972, toàn thể tự vệ xí nghiệp bến cảng Hồng Gai luôn luôn nêu cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, kiên cường, bám trụ ở trận địa, cửa ngõ, khu mỏ, chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, đã bắn rơi 2 máy bay phản lực Mỹ và cùng các đơn vị bạn bắn rơi nhiều chiếc khác, dũng cảm phục vụ chiến đâu, phá bom, sửa đường, khôi phục giao thông, tổ chức tốt việc phòng tránh và cấp cứu, hạn chế được nhiều thiệt hại cho nhân dân và Nhà nước, tham gia giữ gìn tốt trật tự trị an.

Là nòng cốt trong phong trào tăng gia sản xuất và tiết kiệm, có nhiều sáng kiến, thường xuyên đạt năng suất lao động cao, hầu hết chiến sĩ tự vệ đều đạt danh hiệu tiên tiến.

Đã được thưởng 2 huân chương Chiến công.

Kết hợp kinh tế với quốc phòng, tham gia làm đường biên giới, hải đảo (1973-1974).



Dân quân xã Hồng Phong phá bom nổ chậm của giặc Mỹ (năm 1973)

Tháng 4 năm 1973, Quân khu ủy Tả Ngạn ra nghị quyết về nhiệm vụ chuyển lực lượng vũ trang tham gia xây dựng kinh tế quốc phòng, hướng trọng điểm là vùng núi Đông Bắc, ven biển, hải đảo.

Tiếp nhận sự chỉ đạo và giúp đỡ của Quân khu ủy, đồng chí Nguyễn Ngọc Đàm – Phó bí thư tỉnh ủy, Chủ tịch ủy ban hành chính tỉnh trực tiếp làm việc với Bộ tư lệnh quân khu về kế hoạch kinh tế gắn với quốc phòng mà khả nặng và điều kiện của các đơn vị bộ đội có thể làm tốt nhất. Nhiệm vụ trước mắt là làm đường vùng biên giới, hải đảo, mở rộng giao lưu miền xuôi, miền ngược, khai thác gỗ và các mặt hàng lâm thổ sản phục vụ sản xuất đời sống của nhân dân trong tỉnh.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM