*
Trần Minh ngồi yên. Anh lặng người. Anh chăm chú nhìn tấm bản đồ trải rộng. Vùng đất Vũng trong bản đồ hiện lên trước mắt anh những núi Lớn, núi Nhỏ, bãi Thùy Vân, bãi Tầm Dương, bãi Dâu, Bãi Dứa, ghềnh, động, hải đăng... hiện lên bao thắng cảnh và kỳ tích nơi cửa ngõ đi vào Sài Gòn. Các kỳ tích đó gợi cho anh nhớ đến những người lính biên phòng thời xa xưa đến đây trấn giữ để “diệt tặc an dân” lập nên làng ấp...
Và, tại đồn biên phòng nơi anh đang ngồi đây là đồn lũy, là làng ấp của những người lính biên phòng năm xưa. Chiến tích, kỳ công, mồ hôi và máu của họ đã đổ xuống, đã khai phá nên những thắng cảnh này. Nay lũ giặc tuy đã cuốn đi rồi, nhưng hậu quả của chúng vẫn còn để lại. Hậu họa của chúng dồn về đây, dồn về xứ Đại Phước! Làm sao cho vùng biển của Tổ quốc được trong lành, vùng đất của Tổ quốc được an ninh trọn vẹn. Đó là trách nhiệm và vinh dự mà nhân dân giao cho các anh. Trần Minh cúi rạp mình trên tấm bản đồ. Anh soi tìm những địa chỉ, những nơi xảy ra những việc mới, nhất là các nguồn tin vừa báo về. Bỗng, Đồn phó Lê Quang bước vào:
- Thế là đã rõ ràng - đồn phó vui vẻ nói, giọng đầy tự tin - T.1 và D.5 đã báo cáo tình hình khớp nhau. Tên đội lốt cha đạo là chủ trò, nhà thờ xứ là nơi quy tụ. Tên đeo kính đen cũng là một tay “anh chị”. Tôi hơi bất ngờ tên bán kem này. Từ hôm ta bố trí cho D.5 gây ra vụ nổ trên đám cỏ không trong gian nhà tôn, thì tên này mới xuất hiện. 12 giờ 5 phút “nổ kho”, sáng sớm, anh em trinh sát đã thấy hắn đạp xe đến đó bán kem. Hắn có len vào tận nơi để xác minh “thất thiệt”, nhưng các chiến sĩ trinh sát đã đuổi ra. Anh xem, hồ sơ về hắn đây, T.1 và D.5 đã báo cáo.
Đồn phó đưa tập hồ sơ dày cộp. Trần Minh lướt nhanh trên hàng chữ: “... Người bán kem đeo kính đen, đi xe đạp nữ đã cũ, chuyên bán kem ở vùng đất Vũng, vùng Đại Phước và các xứ đạo ở Hố Nai... tên thật là Đậu Vằn. Hắn còn có tên là Vằn “còm”, nguyên là đại tá ở Cục tác chiến trong Bộ Tổng tham mưu quân ngụy. Hắn là người thân cận của tướng Ngô Quang Trưởng. Ngày giải phóng, hắn đã chạy về ẩn ở Hóc Môn rồi ra trình diện với cách mạng giả là trung sĩ quân tiếp vụ. Sau đó, hắn về Hố Nai, rồi chạy về xứ đạo Đại Phước, bắt liên lạc với cha xứ Thánh Thiện. Thấy để hắn ở trong nhà thờ không tiện, Thánh Thiện đã bố trí hắn về ở trong nhà chủ tịch giáo xứ Bác Ái. Bác Ái xếp cho hắn cái nghề bán kem. Hắn thường lấy kem vào buổi sáng ở hãng kem của Hai Quắm. Với cái nghề đó, hắn đã len lỏi đi khắp các nơi, len vào trụ sở các cơ quan nhà nước, các hội nghị quan trọng, các doanh trại quân đội, công an, các bến cảng, nhà kho... Hắn vào để dò la và móc nối với đồng bọn. Quê hắn ở vùng Phát Diệm, Kim Sơn, Ninh Bình. Hắn di cư vào Nam năm 1954, lúc đó hắn là vệ sĩ của cha đạo Lê Hữu Từ. Vợ hắn là một “ca sĩ” đã bỏ chạy sang Mỹ bằng trực thăng hồi tháng 4 năm 1975. Sở dĩ hắn có tên Vằn “còm” là ngày ở Cục Tác chiến quân ngụy, hắn chơi bời trác tang quá độ nên thân xác cứ còm cọi, quắt lại, trông vừa bẩn tướng, vừa hãm tài. Bọn cố vấn Mỹ đặt cái tên đó cho hắn. Hiện nay, hắn phụ trách quân sự trong tổ chức mà cha Thánh Thiện cầm đầu. Hắn trực tiếp vẽ bản đồ tác chiến, tập hợp tổ chức các sư đoàn, trung đoàn để đánh chiếm vùng Hàm Tân, Vũng Tàu, cắt đường 15, đường số 1, lấy vùng núi Gia Kiệm, Định Quán và đường 20 làm điểm tựa. Hắn đã tìm đất lập mật khu, nhưng chưa rõ vùng nào. Chúng tôi sẽ xác minh tiếp ...”
- Thế đó, bọn phản loạn đang thách đố ta! - Trần Minh gấp tập hồ sơ lại. Anh nói tiếp với Quang:
- Tiếc rằng tên Hám bị chúng giết hụt ta đang cứu chữa chưa tỉnh. Đó là nguồn tài liệu sống rất quan trọng để xác minh, đối chiếu các nguồn tin.
- Theo anh, tại sao chúng lại giết Hám? - Quang hỏi.
- Chúng định bịt đầu mối. Vì tên này đã biết những bí mật về chúng, kể cả nước ngoài. Và nữa, có thể tên Hám đã nói với lão cha đạo là vợ hắn đã làm lộ, nên chúng lo sợ.
Quang nói tiếp:
- Như thế, T.1 và D.5 phải luồn sâu thêm vào tổ chức của chúng để tìm cho ra hết bọn đầu sỏ, tìm cho ra “mật khu” và các tổ chức quân sự của chúng. Đây là một tổ chức phản động nguy hiểm. Ta phải nhanh chóng bóp chết từ trong trứng nước, với thời gian nhanh nhất, gọn nhất, không để chúng gây tác hại ảnh hưởng đến tình hình chung...
Trần Minh chỉ vào tấm bản đồ trước mặt:
- Chúng đang phát triển tổ chức ra cả vùng này. - Anh khoanh một vùng rộng có núi, có biển, có thành phố, có nhiều xứ đạo - Chúng ta có điều kiện đưa thêm người vào.
Quang đề nghị:
- Cho cả D.7 xuất trận. Nên đánh vào. Đánh sâu vào, T.1 và D.5 đã hoàn thành tốt nhiệm vụ, nhưng phải có lý do để rút ra đúng lúc.
- Như thế, việc trước mắt là yêu cầu ta phải nắm chắc về cơ cấu tổ chức, nắm chắc về lực lượng vũ trang và kế hoạch hành động của chúng. Nhưng, chớ để chúng gây ra án. Phải đề phòng chúng tung ra hỏa mù, pháo khói để lừa ta! Chúng xảo quyệt lắm!
... Bỗng đồng chí chỉ huy đội trinh sát bước vào. Đó là người được phép mặc quần ống loe màu xanh, đi dép mút đế cao, màu nâu:
- Báo cáo các thủ trưởng, có tin mới!
- Đồng chí vào đây! - Trần Minh kéo ghế cho đồng chí trinh sát ngồi. - Tin của ai?
- T.1 xin ý kiến về việc tên Đậu Vằn muốn T.1 trao cho hắn tấm bản đồ tác chiến của đồn chúng ta và khẩu K.54 của đồn trưởng.
- Chúng muốn thử T.1 đây! Còn gì nữa? - Trần Minh hỏi.
- Cơ sở báo tin, tên Hai Quắm có hãng kem “Kim Tinh” đang tìm một người lái tàu giỏi, trả công mười lạng vàng mỗi chuyến...
- Hay lắm, còn gì nữa!
- Đội tăng gia của đơn vị Y mất tích hai chiến sĩ, mang theo hai khẩu AK.
- A chà! Găng quá!
- D.5 báo tin, cha xứ gọi vào nhà thờ đọc tập san của chúng, in trong mật khu chuyển ra. Nhưng cha không cho cầm ra khỏi nhà thờ.
- Trong tập san nói gì? D.5 có báo cáo không?
- Tập san số 3 nói đến tôn chỉ, mục đích của “Mặt trận”, lời kêu gọi giáo dân, kêu gọi tàn quân ngụy ủng hộ “Mặt trận” thực hiện “nghĩa lớn”. Và, sau cùng D.5 cho biết chúng đang chuẩn bị một cuộc họp quan trọng của bọn đầu sỏ. Địa điểm họp, D.5 chưa nắm chắc...
Khuya lắm. Chuông nhà thờ xứ Đại Phước bên kia sông đã ngân rền. Chuông lễ dứt, chỉ còn ngọn đèn biển trên đỉnh núi thao thức, quay tròn.
Trần Minh, Lê Quang và đồng chí chỉ huy đội trinh sát cúi xuống tấm bản đồ. Họ đắn đo, tính toán từng mục tiêu, từng hang núi, từng bến sông, từng đoạn đường... để tìm ra và ngăn chặn âm mưu của bọn phản loạn. Cuối cùng, Trần Minh hạ một mũi tên đỏ đậm trên biển xanh. Anh nhìn hai người và kết luận:
- Cho D.7 xuất trận. T.1 làm theo yêu cầu của tên Vằn. Ban tham mưu tạo ra bản đồ. Đồng chí quân khí kiểm tra súng, cắt ngắn kim hỏa. Đ.5 lấy cho được “tập san” và phải tìm cớ để dự cuộc họp của bọn đầu sỏ. Đội công tác cơ sở phải có kế hoạch bảo vệ mẹ con chị Lan, đề phòng chúng trả thù hãm hại...!
*
Công đang ngồi im lặng. Trước mặt anh là vùng biển rộng. Mặt biển chẳng khác gì cánh rừng biên giới, nơi anh đã từng sống và chiến đấu! Ở đây, kẻ thù còn rình rập, còn bày lắm mưu mô để phá phách ta.
Lát sau, một người đàn ông đứng tuổi, khuôn mặt xương gầy, mái tóc muối tiêu đi về phía anh. Hai người gặp nhau ngồi trên cát.
- Anh Tư! - Công hỏi người đàn ông mới tới. - Ngày trước anh có quen với lão chủ hãng “Kim Tinh”?
- Ủa! Chú hỏi gì lạ vậy? Ngày ấy nó là thằng lính partisans đó, tôi còn lạ gì nó.
- Thế là hay lắm rồi đó. Anh về đây, lại có nghề lái tàu nữa, hắn sẽ “bập” ngay. Anh nhớ kỹ những điều tôi dặn: Thằng này tinh ranh lắm. Nó có học ở Mỹ về đây. Nhưng chúng tôi sẽ có kế hoạch và trách nhiệm bảo vệ anh. Nó hẹn tối nay gặp anh, anh cứ gặp. Anh đến chỗ hẹn nên chậm từ ba đến năm phút. Anh dè dặt nhận lời và chớ có vồ vập bất kỳ việc gì nó giao...
Công chuẩn bị chu đáo cho anh Tư, đây là một mũi tên nữa xuất trận: D.7.
... Hai người đàn ông vẫn ngồi dựa vào hai ghế bố sau hàng dừa tơ. Trước mắt họ, một cái bàn xây bằng đá. Trên bàn bày hai chai bia đã cạn, hai con cua bể đỏ gạch, một con tôm hùm. Con tôm như giương đôi mắt tròn nhìn hai người bạn cũ tìm gặp lại nhau, sau những năm dài vắng biệt! Và, cái râu nó loăn xoăn rung rung trước gió như cái cần anten vươn ra, nghe ngóng. Người đàn ông béo ụ, trán hói, hai má láng mỡ tên là Hai Quắm. Hai Quắm có hãng kem “Kim Tinh” chuyên làm các loại kem dừa, kem sầu riêng, kem chuối, kem dâu... ngon nhất vùng này. Hai Quắm quay sang nói chuyện với người trẻ hơn. Anh này hơi gầy, tóc bạc muối tiêu, nét mặt khắc khổ. Giọng Hai Quắm sặc mùi anh chị:
- Nè, chú Tư nói coi, vào dịp cuối những ngày tàn trên đất Bắc, dân chúng đi về bến tự do, chú vô đây bằng con đường nào đó?
- Anh Hai! Hồi đó, anh đi bằng máy bay của Hoa Kỳ, ngon ơ, còn tôi đâu có được. Mãi tháng 3 năm 1955, tôi mới xuống đến Hải Phòng mới được vô đây bằng tàu há mõm của Pháp đó. Cực lắm anh Hai à!
Tôi vô đây bỏ liền hai đứa con trai trong nhà thương Chợ Quán rồi đến lập nghiệp ở Hố Nai. Sau tôi xuống đất Vũng ở và tậu chiếc thuyền bốn lốc chở hàng thuê cho các hãng buôn. Cuối năm 1974, tôi có xáp anh Hai một lần. Tôi ráng gọi anh, nhưng anh đâu có biết.
- Ủa, đâu có!
- Có, trong một quán rượu nè. Ngày đó anh Hai mang lon đại úy biệt động quân mà...
Đúng, ngày đó Hai Quắm là đại úy biệt động của quân ngụy. Hắn gục đầu bên cốc rượu say khướt khượt, đâu có nhìn thấy ai.
Hai Quắm và Tư Hoán - tên người đàn ông có nét mặt khắc khổ - trong những ngày sống trên đất Bắc trước đây cùng ở một xứ đạo. Hai Quắm đi lính partisans đóng ở bốt gần nhà thờ Đá. Còn Tư Hoán biết năm ba chữ thì giúp cha dạy cho trẻ trong nhà trường tiểu học của xứ đạo.
- Chú bị kẹt, hay vì sao mà không đi với ông Thiệu?
- Cực lắm anh Hai à. Tôi định đi cho êm thấm cái thân. Nhưng khi tôi vô Sài Gòn đón hai đứa cháu ngoại đang gởi học ở trỏng về thì con gái, con rể tôi đã đi hết trọi rồi. Cái tàu bốn lốc của tôi làm ăn, tụi hắn cũng lái đi hút. Tôi đang muốn tìm ai đi, gởi hai đứa cháu sang cho chúng nó. Chúng hiện ở bang California đấy!
- Chú Tư định gởi cho ai đó? Đường biển hồi này kẹt lắm.
- Tôi định tìm mối, biết ai đi thì gởi. Hoặc có tàu đánh cá, tôi nhờ lái dùm đưa nó đi rồi tôi lại về. Chắc ở ngoài đã có tàu đón họ.
- Chú tìm mối ở đâu, coi chừng đó. Chú mà tin là kẹt đó nghe. Thời buổi này, giữ mình đó chú Tư!
- Dạ! Tôi nhớ lời anh Hai dặn!
- Tôi mách chú! - Hai Quắm ngần ngừ một lúc như đắn đo. - Chú Tư à! Chỗ thâm tình cả. Tình thương là gốc của đạo đó. Chúng ta là anh em chung dòng máu của đức Chúa Trời. Tuần xưng tội tới này, chú đến xưng tội rồi nói thiệt với cha xứ điều đó, để cha có cách chi giúp chú được không? Bởi mọi việc ở đời, Chúa đã an bài sắp xếp cả, mà lời cha là ý Chúa đó, chú Tư à!
- Dạ, Tôi nhớ lời anh Hai lắm!