Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 04:51:23 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Các chiến dịch phản gián tiêu diệt bọn phản cách mạng thời kỳ hậu chiến  (Đọc 11772 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
bodoibienphong
Thành viên
*
Bài viết: 828



« vào lúc: 01 Tháng Tám, 2017, 01:27:57 am »

1/Chiến dịch CM12

Kỳ 1: http://vnca.cand.com.vn/Truyen-thong/Bi-mat-cua-mot-chien-dich-phan-gian-324315/

Cách đây 25 năm, vào tháng 9-1981, Chiến dịch phản gián mang tên "Kế hoạch CM-12" được khởi đầu bằng một chiến công ghi đậm dấu ấn của bản lĩnh và trí tuệ của Lực lượng Công an nhân dân Việt Nam.  Chiến dịch phản gián có một không hai này được kéo dài 7 năm, từ năm 1981 đến 1988 là kết thúc. Trong đó, Kế hoạch CM-12 là phần cốt lõi nhất, thắng lợi to lớn nhất.

Vào một ngày thượng tuần tháng 1/1981, đồng chí Phạm Hùng, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) gọi điện thoại cho đồng chí Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm ở TP HCM:

- Ông biết gì chưa? Có bọn xâm nhập ở biên giới Tây Nam đấy. Cho triển khai ngay công tác xác minh và truy bắt bọn xâm nhập!Đồng chí Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm báo cáo đồng chí Bộ trưởng Phạm Hùng là cũng đã nhận được tin này và triển khai ngay việc thực hiện lệnh của Bộ trưởng. Đồng chí Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm gửi điện cho Công an các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang triển khai phương án truy tìm gián điệp biệt kích. Bức điện có nội dung:

“Theo  tin từ Campuchia ngày 11 tháng 1, một toán gián điệp đang đi qua tỉnh Tà Keo để xâm nhập vào Việt Nam. Đề nghị các đồng chí triển khai phương án nắm tình hình và truy quét. Cần phải xác nhận tin này đúng không? Có tin tức gì cụ thể báo ngay K4 và K4/2”.

Vào lúc đó, tình hình an ninh miền Nam vẫn còn nhiều vấn đề phức tạp. Lãnh đạo Bộ Nội vụ phân công đồng chí Cao Đăng Chiếm phụ trách công tác công an ở các tỉnh miền Nam. K4 là ký hiệu của Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm, còn K4/2 là ký hiệu của Tổ An ninh trực thuộc đồng chí Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm.

Xuất phát từ tình hình thực tế an ninh ở miền Nam, được sự đồng ý của đồng chí Bộ trưởng và tập thể lãnh đạo Bộ, một số cán bộ có kinh nghiệm được bố trí vào ba tổ công tác tham mưu cho đồng chí Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm. Tổ K4/1 là bộ phận nghiên cứu tổng hợp. Tổ K4/2 giải quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ của lực lượng an ninh. Tổ K4/3 giải quyết các vấn đề thuộc lực lượng cảnh sát.

Tổ K4/2 về danh chính có chức năng tham mưu cho đồng chí Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm là chủ yếu, nhưng trên thực tế, bộ phận K4/2 đã trở thành các đơn vị chiến đấu thực sự khi có các vụ án lớn xảy ra và được đồng chí Thứ trưởng trực tiếp giao nhiệm vụ.

Lãnh đạo Bộ Nội vụ cử đồng chí Nguyễn Phước Tân, Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ chính trị 2 làm Tổ trưởng Tổ An ninh K/2. Chức vụ này tương đương Cục trưởng. Các đồng chí Lê Tiền, Phó Cục trưởng phụ trách đơn vị PK9 và đồng chí Hồ Khiết, Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ chính trị 1 làm Tổ phó. Các đồng chí Nguyễn Phước Tân và Lê Tiền sau này được bổ nhiệm làm Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh.

Bộ cũng điều động một số cán bộ an ninh dày dạn kinh nghiệm, có trình độ nghiệp vụ giỏi từ các đơn vị về Tổ An ninh K4/2 như các đồng chí Nguyễn Khánh Toàn, Thi Văn Tám, Trần Tôn Thất,... Hiện nay, đồng chí Nguyễn Khánh Toàn là Thượng tướng, Thứ trưởng Thường trực Bộ Công an; đồng chí Thi Văn Tám là Trung tướng, Thứ trưởng Bộ Công an và đồng chí Trần Tôn Thất là Thiếu tướng, Phó Tổng cục trưởng Tổng Cục An ninh.

Trở lại với vụ xâm nhập của bọn gián điệp biệt kích.

Ngày 11/1/1981, Công an tỉnh Tà Keo (Campuchia) trao đổi cho chúng ta biết có một tên Khmer Đỏ ra đầu thú khai báo rằng y có tham gia dẫn một toán người Việt Nam từ nước ngoài đi qua Campuchia để xâm nhập  về hoạt động chống Việt Nam. Tin này được báo cáo ngay cho đồng chí Bộ trưởng Phạm Hùng, các đồng chí Thứ trưởng Viễn Chi, Cao Đăng Chiếm và đồng chí Huỳnh Thanh Việt (Mười Việt), Giám đốc Công an tỉnh An Giang, địa phương có biên giới giáp tỉnh Tà Keo.

Nguồn tin cho biết: “Một tên Khmer Đỏ tên là Săm Sua đã ra đầu thú chính quyền cách mạng Campuchia tại Tà Keo. Y khai có tham gia dẫn đường cho 23 tên gián điệp biệt kích xâm nhập về Việt Nam”.

Thực hiện sự chỉ đạo của lãnh đạo Bộ, được sự đồng ý của chính quyền Campuchia, đồng chí Huỳnh Thanh Việt, Giám đốc Công an tỉnh An Giang và một số cán bộ an ninh là đồng chí Trần Văn Lệnh, Trưởng phòng Chấp pháp và đồng chí Huỳnh Hữu Chiến, Trưởng phòng Tổng hợp (hiện đồng chí Huỳnh Hữu Chiến là Thiếu tướng, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh) ngay lập tức lên đường sang Tà Keo, Campuchia. Qua trực tiếp xét hỏi tên Săm Sua, đoàn Công an An Giang nhận thấy khả năng là tên Săm Sua đã khai báo thật. Ngày 12/1/1981, đồng chí Mười Việt đã báo cáo cho lãnh đạo Bộ nhận định về việc có một toán gián điệp biệt kích mang vũ khí, điện đài xâm nhập Việt Nam.
Logged

Người Việt Nam không biết quỳ gối. Chúng mày tới đây, chúng mày sẽ chết
bodoibienphong
Thành viên
*
Bài viết: 828



« Trả lời #1 vào lúc: 01 Tháng Tám, 2017, 01:29:52 am »

Tiếp đó, ngày 13/1, Công an Kiên Giang điện báo cáo lãnh đạo Bộ Nội vụ biết về việc có một toán gián điệp, biệt kích xâm nhập. Theo báo cáo của Công an Kiên Giang, ngày 8/1/1981, bộ đội làm kinh tế ở Bình Sơn (Kiên Giang) bắn chết 1 tên gián điệp, biệt kích từ nước ngoài xâm nhập về Việt Nam.

Qua nguồn tin của quần chúng phát hiện, Công an Kiên Giang đã thu được 12 súng AK báng gấp, 7 quả lựu đạn, 2 tay quay máy phát điện dùng cho điện đài và một số quân trang, quân dụng. Đáng chú ý là có một số phù hiệu đề là “Mặt trận quốc gia thống nhất giải phóng Việt Nam”... Có dấu hiệu đây là một tổ chức phản cách mạng đưa quân xâm nhập vào Việt Nam.

Ngày 15/1/1981, đồng chí Phạm Hùng đã điện chỉ thị cho đồng chí Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm tổ chức xác minh, khai thác và truy bắt cho hết bọn xâm nhập. Đồng thời, tin này còn được thông báo cho các Cục nghiệp vụ kiểm tra.

Báo cáo của lực lượng trinh sát kỹ thuật cũng phù hợp với những diễn biến toán gián điệp biệt kích xâm nhập trong thời gian cuối năm 1980.

Đồng chí Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm trực tiếp đi miền Tây để chỉ đạo tại hiện trường. Các đơn vị nghiệp vụ an ninh của Bộ cũng được huy động tham gia, phối hợp cùng với công an các địa phương điều tra, truy bắt bọn xâm nhập. Các biện pháp nghiệp vụ trinh sát, điều tra được sử dụng. Chính vì vậy, chỉ ít ngày sau khi bọn địch xâm nhập bị phát hiện, công tác truy bắt đã có sự chỉ đạo thống nhất của lãnh đạo Bộ.

Chỉ trong vòng một thời gian tương đối ngắn, với sự chỉ đạo của lãnh đạo Bộ mà trực tiếp là đồng chí Bộ trưởng Phạm Hùng và đồng chí Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm, các Cục nghiệp vụ an ninh và công an các địa phương Nam Bộ đã nhanh chóng phối hợp truy bắt và khai thác bọn gián điệp biệt kích xâm nhập.

Trong khi đang khẩn trương triển khai công tác truy bắt bọn gián điệp biệt kích xâm nhập, thì Công an Kiên Giang báo cáo là đã bắt giữ được 1 tên trong bọn chúng. Ngày 18/1/1981, Trần Minh Hiếu sau khi được lệnh của toán trưởng cho phân tán, y về quê ở An Biên. Sau một thời gian biền biệt không được tin gì kể từ ngày Hiếu vượt biên, nay thấy con trở về, mẹ của Hiếu vừa mừng lại vừa lo.

Hiếu nói thật cho mẹ biết về việc tại sao y lại trở về Việt Nam. Ông cậu ruột của Hiếu làm việc ở Tỉnh đội Kiên Giang biết được chuyện của Hiếu và động viên anh ta ra đầu thú công an. Trong khi Hiếu đang lừng chừng vì sợ thì người cậu của Hiếu đã báo cho công an địa phương biết. Công an Kiên Giang ngay lập tức bắt giữ Trần Minh Hiếu và khai thác.

Được công an động viên, giáo dục và thuyết phục, Trần Minh Hiếu đã khai nhận là một trong số 23 tên gián điệp biệt kích của tổ chức “Mặt trận thống nhất các lực lượng yêu nước giải phóng Việt Nam” của Lê Quốc Túy - Mai Văn Hạnh. Hiếu đã khai quá trình xâm nhập của toán gián điệp.

Qua lời khai của Hiếu, ta biết chúng sẽ gặp nhau vào ngày 15 và 30 hàng tháng ở  bến Ninh Kiều (Cần Thơ). Hiếu cũng khai nơi ẩn náu của tên toán trưởng Lê Hồng Dự. Công an Kiên Giang và Công an Hậu Giang đã tổ chức bắt giữ Lê Hồng Dự tại Cần Thơ. Qua các buổi xét hỏi, Lê Hồng Dự khai báo quá trình xâm nhập của y và những hiểu biết của y về tổ chức phản cách mạng của Lê Quốc Túy - Mai Văn Hạnh. Những lời khai này khớp với lời khai của Trần Minh Hiếu.

Qua lời khai của Lê Hồng Dự và Trần Minh Hiếu, bước đầu chúng ta đã xác định đây là một tổ chức phản cách mạng do Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh cầm đầu có cơ sở hoạt động ở nước ngoài.

Để tiến hành đấu tranh với tổ chức này, về mặt tổ chức chỉ đạo, trên cơ sở tính chất, phạm vi hoạt động khá phức tạp và rộng của bọn Lê Quốc Túy - Mai Văn Hạnh, lãnh đạo Bộ nhất trí với đề xuất của Tổ An ninh là thành lập Ban chuyên án do đồng chí Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm chỉ đạo và K4/2 trực tiếp thực hiện.

Chỉ vài ngày sau, đồng chí Bộ trưởng Phạm Hùng từ Hà Nội vào TP Hồ Chí Minh để trực tiếp chỉ đạo đấu tranh với vụ án này. Đồng chí Bộ trưởng Phạm Hùng đã yêu cầu đồng chí Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm triệu tập ngay một cuộc họp để bàn biện pháp, kế hoạch đấu tranh với vụ án này tại TP Hồ Chí Minh.--PageBreak--

Cái gọi là “Mặt trận thống nhất các lực lượng yêu nước giải phóng Việt Nam” của Lê Quốc Túy - Mai Văn Hạnh là một tổ chức phản cách mạng được một số nước lớn và một số cơ quan tình báo nước ngoài ủng hộ, hậu thuẫn. Sau khi xác minh từ các nguồn tin, cơ quan an ninh đã nhanh chóng dựng lại quá trình hình thành và sự ra đời của tổ chức này.

Qua nhiều nguồn tin và tài liệu thu thập được, chúng ta biết được  vào năm 1976, một tổ chức phản cách mạng Việt Nam lưu vong được thành lập tại Paris, thủ đô nước Pháp. Đó là “Mặt trận thống nhất các lực lượng yêu nước giải phóng Nam Việt Nam”.

Ngày 17/2/1976, tại khách sạn Méridien, Lê Quốc Túy và những kẻ cầm đầu tổ chức này làm một cuộc họp báo cho ra mắt cái gọi là “Mặt trận thống nhất các lực lượng yêu nước giải phóng Nam Việt Nam”. Chủ tọa cuộc họp báo này là Lê Quốc Túy - “chủ tịch”, Lê Phước Sang - “phó chủ tịch”, và Lại Hữu Tài làm “tổng thư ký”.

Tại đây, Túy ba hoa giới thiệu “Mặt trận thống nhất các lực lượng yêu nước giải phóng Nam Việt Nam” ở Pháp do y làm “chủ tịch” là một bộ phận của “Mặt trận thống nhất các lực lượng yêu nước giải phóng Việt Nam” được thành lập từ tháng 10/1975 tại đồng bằng sông Cửu Long bao gồm các lực lượng Cao Đài, Hòa Hảo, Phật giáo, Thiên Chúa giáo và một số đảng phái chính trị, một số sĩ quan ngụy cũ do Hội trưởng Phật giáo Hòa Hảo Lương Trọng Tường làm “chủ tịch”. Lê Quốc Túy và đồng bọn quyết định dùng cờ vàng ba sọc đỏ của ngụy Sài Gòn làm cờ của “mặt trận”.

Trong buổi họp báo, Túy thay mặt “Hội đồng trung ương mặt trận” giới thiệu thành phần “lãnh đạo” của tổ chức này như sau:

- Lê Quốc Túy: chủ tịch mặt trận.

- Lại Hữu Tài: ủy viên sáng lập.

- Lê Phước Sang, ủy viên,

- Lương Trọng Văn, ủy viên.

- Mai Văn Hải, ủy viên.

- Thùy, phát ngôn viên của “mặt trận”.

Trong số người tham dự cuộc họp báo của Túy, có một người bạn thân của Lê Quốc Túy là Mai Văn Hạnh từ Marốc sang. Ngồi hàng đầu, người ta thấy có Trần Văn Hữu, cựu Thủ tướng ngụy thời Bảo Đại; Phạm Văn Huyến, Trần Xúy (người Việt gốc Hoa, nguyên là sĩ quan hậu cần của tướng ngụy Đỗ Cao Trí)...

Mặc dù tổ chức cuộc họp báo có vẻ ầm ĩ và tuyên bố huênh hoang nhưng thực lực của chúng lúc đó chưa có gì ngoài những gương mặt tham dự tại khách sạn Méridien hôm ấy.

Ngay từ khi mới phát hiện, cơ quan an ninh đã tập hợp được những tài liệu ban đầu về những tên đầu sỏ của tổ chức “Mặt trận thống nhất các lực lượng yêu nước giải phóng Nam Việt Nam”.

Lê Quốc Túy sinh ngày 1/1/1934 tại An Bình, huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp. Túy sinh ra trong một gia đình giàu có trong vùng. Bố của Túy là Lê Văn Năm hay thường gọi là Quản Lọ, đã chết vào ngày 20/7/1957. Mẹ là Vương Thị Đối, sống cùng con trai là Lê Quốc Quân, em trai kề Túy tại số nhà 201/42 đường Hoàng Văn Thụ, quận Tân Bình, TP Hồ Chí Minh. Lê Quốc Túy có hai đời vợ. Vợ thứ nhất là người Pháp có tên là Dupuis Jacqueline. Túy cưới cô gái Pháp này vào năm 1955 tại Paris khi y còn đang học trường không quân ở Pháp.

Năm 1974, Túy và Dupuis Jacqueline ly dị và họ đã có với nhau ba con: hai trai, một gái. Vợ thứ hai là Nhan Thị Kim Chi, một phụ nữ Việt Nam sang Pháp du học lúc còn nhỏ. Kim Chi khoảng 34 - 35 tuổi, kém Túy chừng 20 tuổi. Kim Chi là cháu gọi Trần Văn Hữu, cựu Thủ tướng chế độ Sài Gòn thời Bảo Đại bằng cậu ruột. Túy cưới Kim Chi vào năm 1976 tại Paris và có một con gái.

(Còn tiếp)
Logged

Người Việt Nam không biết quỳ gối. Chúng mày tới đây, chúng mày sẽ chết
bodoibienphong
Thành viên
*
Bài viết: 828



« Trả lời #2 vào lúc: 01 Tháng Tám, 2017, 01:33:40 am »

Kỳ 3: http://vnca.cand.com.vn/Truyen-thong/Bi-mat-cua-mot-chien-dich-phan-gian-(Phan-3)-324327/ (hình như lỗi đánh máy hay sao mà không có kỳ 2)

Ngày 27/1/1981, tại phòng họp lớn của Văn phòng Bộ Nội vụ ở phía Nam, có một cuộc họp rất quan trọng để bàn chủ trương, phương hướng, biện pháp đấu tranh và lề lối làm việc trong vụ án gián điệp biệt kích mới xảy ra. Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Hùng dự họp nhưng giao nhiệm vụ chủ trì cho đồng chí Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm.

Đồng chí Phạm Hùng đã từng là Phó Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (sau này là Phó chủ tịch HĐBT, Chủ tịch HĐBT - Thủ tướng), khi vào miền Nam công tác là Bí thư Trung ương Cục miền Nam. Mặc dù bận trăm công nghìn việc, nhưng đồng chí Phạm Hùng đã nhạy cảm nhận thấy đây là một vụ án có tầm quan trọng đối với an ninh quốc gia. Chính sự chỉ đạo sát sao và việc đồng chí trực tiếp vào TP HCM để chỉ đạo đấu tranh vụ án này đã góp phần quyết định bước mở đầu đúng hướng của kế hoạch đấu tranh.

Dự cuộc họp quan trọng này gồm các đồng chí lãnh đạo Công an TP HCM, Công an một số tỉnh ở Nam Bộ và một số Cục nghiệp vụ.

Không khí của cuộc họp rất khẩn trương. Đồng chí Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm trình bày tóm tắt diễn biến chính của vụ án, rút ra âm mưu, tính chất hoạt động của địch và phát biểu ý kiến chỉ đạo về phương hướng đấu tranh với chủ trương nghiên cứu đánh lại địch.

Sau đó, đồng chí Bộ trưởng Phạm Hùng phát biểu ý kiến đánh giá những kết quả bước đầu và thông báo tình hình chính trị, an ninh và những yêu cầu của cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới.

Nói về vụ lực lượng của Lê Quốc Túy - Mai Văn Hạnh xâm nhập Việt Nam, đồng chí Bộ trưởng nhận định:

- Đây là một toán biệt kích hoạt động táo bạo, có nhiệm vụ móc nối cơ sở, xây dựng căn cứ, gây tiếng vang chính trị. Vụ này rất nghiêm trọng, chúng xâm nhập vào nội địa ta bằng lực lượng vũ trang. Nếu trót lọt chúng sẽ còn những toán khác tiếp theo. Ta làm triệt để, ngăn được một toán đầu tiên mà còn phá được âm mưu của chúng. Tuy nhiên, ta cũng cần xem lại âm mưu và hoạt động tiếp theo của chúng.

Đồng chí Phạm Hùng nêu chủ trương của ta là: Đối phó phải toàn diện, trung ương phối hợp với địa phương, thống nhất hành động, truy quét và khai thác... Vụ này nằm trong âm mưu chung của địch, nên công tác đấu tranh của ta cũng phải thống nhất chỉ huy. Tất cả tin tức phải báo cáo về Bộ (tại TP HCM), không báo cáo nhiều nơi. Tất cả tài liệu báo cáo về Bộ phải tập trung vào anh Sáu Hoàng (đồng chí Cao Đăng Chiếm). Không được điện báo lung tung, không được dùng điện thoại. Tất cả tài liệu đều phải tập trung vào một đầu mối. Khi khai thác có những việc cần trao đổi, nếu khẩn trương lắm thì được phép trao đổi thẳng. Phải khẩn trương, không được làm theo lối hành chính.

Sau cuộc họp ngày 27/1/1981 do Bộ trưởng Phạm Hùng và Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm chủ trì, Công an các địa phương và các Cục nghiệp vụ ở phía Nam nhanh chóng triển khai chỉ đạo của lãnh đạo Bộ. Chỉ sau một thời gian ngắn, với tinh thần cảnh giác cao và được sự giúp đỡ của nhân dân các địa phương, chúng ta đã bắt gọn cả toán gián điệp biệt kích do tên Lê Hồng Dự cầm đầu xâm nhập.

Trên cơ sở kết quả khai thác bọn xâm nhập, tổng hợp các nguồn tin, lãnh đạo Bộ phán đoán địch sẽ tiếp tục tổ chức xâm nhập bằng đường biển. Vấn đề là chúng ta chưa biết đích xác địch sẽ xâm nhập vào thời gian nào, khu vực bờ biển tỉnh nào. Do đó, Công an các tỉnh ven biển từ Khánh Hòa đến Kiên Giang đều phải triển khai các phương án sẵn sàng đón bắt bọn xâm nhập.

Thế trận của ta được bố trí chặt chẽ, liên hoàn.

Lại nói về phía địch.

Sau khi tung toán “Minh Vương 1” xâm nhập Việt Nam không thành, Lê Quốc Túy quyết định tung toán “Minh Vương 2” xâm nhập Việt Nam bằng đường biển, tiếp tục thực hiện ý đồ tung quân vào rừng U Minh, xây dựng “căn cứ” và tăng cường hoạt động ở thành phố. Kế hoạch này hình thành trong đầu của Túy. Ý đồ của Lê Quốc Túy là sẽ đưa vào Việt Nam 10 tấn vũ khí và chiến cụ cùng với một toán quân nhằm mục đích trước mắt là thành lập “mật khu kháng chiến”. Để thực hiện kế hoạch có tên là “Chiến dịch Hồng Kông 1”, Lê Quốc Túy nhờ nước ngoài tạo điều kiện về chỗ neo đậu và cấp các thủ tục giấy tờ cho quân của Túy hoạt động.

Được T.V.V (K12) giới thiệu K64 là người Cà Mau, am hiểu vùng này và có thể lập kế hoạch xâm nhập được, cho nên Túy cho điều K64 từ “Mật cứ Tự Thắng” về trung tâm.

K64 là một người khá nhạy cảm, anh đoán được ý đồ của Túy và Hạnh là muốn đưa vũ khí và quân xâm nhập bằng đường biển nhưng chưa biết đưa vào vùng nào. Vì muốn thoát khỏi cái “án tử hình” treo lơ lửng do bị nghi là cộng sản, K64 chủ động gợi ý với Mai Văn Hạnh nên tổ chức xâm nhập vùng Cà Mau và nói thêm là muốn xâm nhập thì phải có người địa phương quen thuộc vùng này. Trong toán “Minh Vương 2” có hai người cùng quê với K64 là K59 và K61. Buổi chiều hôm đó, Mai Văn Hạnh cùng nhóm này bàn kế hoạch xâm nhập vùng biển.

Nhiệm vụ của toán “Minh Vương 2” là xây dựng cơ sở và phát triển lực lượng ở trong nước theo kế hoạch “Hồng Kông 1”. Chúng được giao những nhiệm vụ cụ thể là sau khi đã xâm nhập Việt Nam thì tổ chức tiếp nhận người và vũ khí từ nước ngoài chuyển về các chuyến sau, đưa khối lượng vũ khí đó về các địa bàn hoạt động. Toán này còn có nhiệm vụ tổ chức phá hoại, ám sát cán bộ ở các mục tiêu: trụ sở các cơ quan của đảng, chính quyền, công an, bộ đội, nhất là Tổng lãnh sự quán Liên Xô tại TP HCM, các cơ sở công nghiệp, điện, nước, kho xăng Nhà Bè, cầu cống, các trại cải tạo... Chúng dự kiến sẽ dùng tiền thuê bọn bụi đời, bọn tù được thả về, ngụy quân ngụy quyền cũ; giao vũ khí, mìn để bọn này làm những việc phá hoại.-
Logged

Người Việt Nam không biết quỳ gối. Chúng mày tới đây, chúng mày sẽ chết
bodoibienphong
Thành viên
*
Bài viết: 828



« Trả lời #3 vào lúc: 01 Tháng Tám, 2017, 01:35:55 am »

Toán “Minh Vương 2” do Nguyễn Văn Thanh mang ám danh “K44” làm toán trưởng. Hắn là một sĩ quan quân đội Sài Gòn trốn cải tạo. Chịu trách nhiệm “chỉ huy trưởng” toán “Minh Vương 2”, Thanh có nhiệm vụ liên lạc và giữ liên lạc với những “giới chức” trong nước, giới thiệu những “giới chức” đó với những “cán bộ” mà “trung ương” phái về. Ngoài ra, hắn còn được Túy giao những nhiệm vụ đặc biệt, những “tín vật”, ám hiệu để bắt liên lạc với các cơ sở của Túy ở Sài Gòn, kể cả nơi nhận tài liệu theo một đường dây chuyển ngân đen ở số nhà X đường Hoàng Phố, quận 8, TP HCM. Vai trò của tên Thanh rất quan trọng...

Ngày 12/5/1981, chiếc tàu của bọn Túy – Hạnh chở 16 tên gián điệp biệt kích khởi hành từ R đi xâm nhập Việt Nam. Cùng đi có một chiếc tàu hải quân nước ngoài hộ tống. Khi đến hải phận quốc tế, K12 chuyển sang tàu nước ngoài và quay trở về. Chúng dự định đổ bộ vào vàm sông Ông Đốc - vùng quê của K64.

Trong một phiên liên lạc, Lê Quốc Túy từ trung tâm ra lệnh cho Nguyễn Văn Thanh thủ tiêu HK121 và HK125 vì nghi là cộng sản. Tên Nguyễn Văn Thanh thi hành mệnh lệnh ngay và hất xác hai người này xuống biển. Sau đó, chúng cho tàu xâm nhập vùng biển Cà Mau.

Nhưng chúng không biết rằng, thế trận an ninh nhân dân của ta đã được triển khai.

* * *

Ngày 14/5/1981, Cơ quan trinh sát kỹ thuật phát hiện một tàu lạ ở hải phận Việt Nam và nhận định: bọn Lê Quốc Túy đã tổ chức xâm nhập bằng đường biển. Kết quả phát hiện có tính chất mở màn này lập tức được báo cáo lên Bộ Nội vụ và Ban chuyên án.

Lúc này đồng chí Bộ trưởng Phạm Hùng đang ở TP HCM. Đồng chí Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm rất phấn khởi báo cáo với Bộ trưởng và nhanh chóng chỉ thị cho các lực lượng An ninh triển khai ở vùng biển Minh Hải - Kiên Giang. Nguồn tin kỹ thuật đã giúp Ban chuyên án không chỉ đạo dàn trải quân dọc biên giới nữa mà tập trung phía biển Kiên Giang - Cà Mau và khẳng định lần này chúng xâm nhập bằng đường biển.

Suốt dọc bờ biển từ Hà Tiên đến Cà Mau dài 350km đã được canh phòng chặt chẽ. Mạng lưới cảnh giác đã giăng kín.

* * *

Đúng 21 giờ ngày 15/5/1981, chiếc tàu của bọn gián điệp biệt kích cập bờ biển khu vực Bãi Ghe gần vàm sông Ông Đốc (Minh Hải). Bọn gián điệp biệt kích được lệnh lên bờ. Chúng lục đục xuống tàu, lội bì bõm. Chúng nặng nề đi theo hướng tây, tính vượt đầm lầy vào U Minh.

Trời đã dần dần sáng rõ. Thấy tình thế không ổn, Nguyễn Văn Thanh ra lệnh phân tán theo từng nhóm và hẹn nơi tập kết. Mạnh tên nào tên nấy tìm nơi ẩn nấp.

K64 đã tính toán một nước cờ mà chỉ riêng một mình anh biết, không hề nói cho ai. Anh quyết định sẽ ra đầu thú lập công chuộc tội và mong muốn được trở về với vợ con, gia đình. Và thế là K64 ra đầu thú tại Cơ quan Công an huyện Trần Văn Thời, tỉnh Minh Hải. Trước Cơ quan An ninh, anh đã thành khẩn thú nhận mọi tội lỗi của mình và đồng bọn, khai rõ mục đích ý đồ của “Mặt trận thống nhất các lực lượng yêu nước giải phóng Nam Việt Nam...”.

Chỉ trong vòng một ngày sau, ta đã tóm gọn toán gián điệp biệt kích xâm nhập đêm 15/5/1981. Toàn bộ toán “Minh Vương 2” bị sa lưới, riêng toán trưởng Nguyễn Văn Thanh bị bắn chết.

Sau đó, lực lượng của ta tiếp tục ra bờ biển thu giữ toàn bộ 3,5 tấn vũ khí. Đến khoảng 3 giờ chiều 17/5/1981 thì vớt được hết và đưa toàn bộ về đến Công an huyện.

Vào đêm 16/5, Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm gọi điện thoại cho đồng chí Nguyễn Phước Tân và yêu cầu đến nhà riêng ngay vào lúc nửa đêm. Đồng chí Cao Đăng Chiếm nói:

- Minh Hải vừa báo cáo có bọn xâm nhập. Đúng là của đám Túy - Hạnh, có mang theo vũ khí, điện đài. Có một số tên ra đầu thú. Ta đã bắt được tất cả. Tôi cử Hai Tân xuống Minh Hải thực hiện kế hoạch “tương kế tựu kế”, dùng địch đánh lại địch.

Đồng chí Cao Đăng Chiếm chỉ nói ngắn như vậy. Đồng chí Nguyễn Phước Tân hiểu đó là mệnh lệnh.

Khoảng 2 giờ sáng, đồng chí Nguyễn Phước Tân cùng đồng chí Thi Văn Tám, lúc đó là cán bộ của Tổ An ninh  cùng đi. Nhận được chỉ thị của đồng chí Cao Đăng Chiếm, Cơ quan trinh sát kỹ thuật cũng cử cán bộ đi Minh Hải ngay sáng hôm đó.

Đồng chí Nguyễn Phước Tân, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh, năm 1986 được phong danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân là một cán bộ an ninh lão luyện, dày dạn kinh nghiệm đấu tranh với địch. Ông sinh năm 1930, quê ở Đồng Tháp. Tham gia hoạt động cách mạng từ thời thanh niên, ông được lãnh đạo An ninh khu Tây Nam bộ điều động về làm nhiệm vụ tổ chức và chỉ huy công tác điệp báo từ năm 1959.

Năm 1968, ông được Ban An ninh Trung ương Cục miền Nam rút lên tổ chức và chỉ đạo một mạng lưới điệp báo an ninh ở ngay trung tâm Sài Gòn. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, từ sau tết Mậu Thân 1968, đồng chí Nguyễn Phước Tân là người chỉ huy trực tiếp của cố Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đình Ngọc, một cán bộ tình báo hoạt động trong lòng địch, sau này là Thiếu tướng Công an. Trong kế hoạch CM-12, đồng chí Nguyễn Phước Tân được lãnh đạo Bộ Nội vụ giao nhiệm vụ trực tiếp chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác đấu tranh với địch.

Ngày 22/5/1981 tại TP HCM, đồng chí Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm chủ trì cuộc họp để quyết định kế hoạch này. Dự cuộc họp có các đồng chí Nguyễn Phước Tân, Lê Tiền và Hồ Khiết. Tại cuộc họp này, chuyên án CM-12 chính thức được quyết định mở màn. Hai chữ cái CM lấy hai chữ cái đầu của Cà Mau, còn 12 là ngày xuất phát của toán gián điệp biệt kích là 12/5/1981.

Ngày 23/5/1981, đồng chí Cao Đăng Chiếm xuống Cà Mau để chỉ đạo công việc. Địa điểm điện đài của “Tổ đặc biệt” được bố trí tại một căn nhà dành cho cán bộ công an của trại giam Rạch Ruộng. Căn nhà lá này nằm ở bìa trại. Một căn nhà khác được dành cho đồng chí Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm làm việc và nghỉ ngơi cách đó chừng 10 mét

Logged

Người Việt Nam không biết quỳ gối. Chúng mày tới đây, chúng mày sẽ chết
bodoibienphong
Thành viên
*
Bài viết: 828



« Trả lời #4 vào lúc: 01 Tháng Tám, 2017, 01:37:33 am »

Kỳ 4:http://vnca.cand.com.vn/Truyen-thong/Bi-mat-cua-mot-chien-dich-phan-gian-(Phan-4)-324335/

Trong phiên liên lạc đầu tiên với trung tâm địch dưới danh nghĩa là "Tổ đặc biệt" vào lúc 21giờ ngày 25/5/1981, ta chỉ gửi một bức điện ngắn có nội dung như sau: "Tất cả đều an toàn và công tác đang xúc tiến. Vũ khí đã chôn giấu xong. Cần thêm cán bộ thành và tiền bạc. Hẹn 20 giờ ngày 28/5/1981 lên máy". Trung tâm của địch cũng chuyển cho "Tổ đặc biệt" một bức điện: "Tàu đã về tới B. vô sự. Ngày giờ khởi hành chuyến thứ nhì sẽ cho biết sau. Tổng đài sẽ trực máy theo giờ quy định".

Phiên liên lạc đầu tiên thành công.

Đồng chí Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm rất vui, khen ngợi các cán bộ, chiến sĩ trực tiếp thực hiện nhiệm vụ đặc biệt này. Đêm hôm đó tất cả cùng được thưởng thức một nồi cháo gà thật ngon lành. Anh em cảm thấy sung sướng vì công việc bước đầu đã thành công.

Sau khi anh em về nghỉ, đồng chí Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm và đồng chí Nguyễn Phước Tân bàn bạc về những công việc sắp tới. Đồng chí gợi ý là ta phải thiết kế một kế hoạch, chọn bãi đổ, làm “mật cứ” giả... Rồi cần phải đấu tranh với các mảng của địch trong nội địa như thế nào, làm sao cho địch bộc lộ hết những cơ sở của chúng ở trong nước...

* * *

Sau thắng lợi ban đầu là thực hiện việc liên lạc giữa CM-12 và “Tổng hành dinh” đã được “nối”, cơ quan an ninh bàn kế hoạch đón chuyến xâm nhập mới của địch. Kế hoạch được vạch ra rất khẩn trương và được báo cáo lên đồng chí Bộ trưởng Phạm Hùng. Sau đó vài hôm, ngày 29/5, Bộ trưởng có ý kiến chỉ đạo và nêu rõ 4 điểm cần chú ý nghiên cứu kỹ và bố trí kế hoạch thực hiện cho chu đáo. Đồng chí Bộ trưởng còn chỉ đạo cụ thể về cách tổ chức đón bắt địch xâm nhập.

Do phạm vi, đối tượng đấu tranh của CM-12 đã vượt tầm cỡ một “chuyên án”, mặt khác, do các đối tượng đấu tranh lại không đơn thuần là gián điệp biệt kích mà còn mang tính chính trị hết sức nhạy cảm, nên đến đầu tháng 6/1981, đồng chí Bộ trưởng Phạm Hùng gọi đây là “Kế hoạch CM-12”.

Lãnh đạo Bộ Nội vụ nêu yêu cầu của Kế hoạch CM-12 là: Thu hút, đánh bắt hết các lực lượng xâm nhập theo kế hoạch của ta.  Thông qua bọn Túy - Hạnh để bóc gỡ lực lượng bí mật của chúng ở trong nội địa. Từ công tác đấu tranh phản gián trong Kế hoạch CM-12 ta cần nắm cho được  toàn bộ âm mưu của các thế lực thù địch với cách mạng nước ta. Bảo đảm an toàn tuyệt đối an ninh của đất nước, kiên quyết không để cho địch phá hoại. Nâng cao trình độ năng lực chiến đấu của lực lượng an ninh. Từng bước rút kinh nghiệm về tổ chức công tác an ninh trong quá trình đấu tranh.

Trong thời gian này, một mặt ta vẫn tiếp tục chuẩn bị về việc đón nhận chuyến xâm nhập tiếp theo của bọn gián điệp biệt kích, đồng thời tiến hành các biện pháp điều tra đối với các mảng khác trong nội địa có liên quan đến CM-12 như cụm Lê Quốc Quân,  cụm Lê Chơn Tình và cụm Hồ Tấn Khoa trong đạo Cao Đài. Tổ An ninh K4/2 được giao nhiệm vụ chỉ đạo và phối hợp với các đơn vị, công an các địa phương liên quan như thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh, An Giang... đấu tranh với các chuyên án có liên quan. Yêu cầu bảo đảm bí mật đối với công tác đấu tranh với CM-12 rất cao, nhưng ta lại phải đấu tranh với nhiều chuyên án có liên quan, phạm vi khá rộng, có nhiều đối tượng, vì vậy nhiệm vụ lại càng khó khăn gấp bội.

* * *

Trong khi đó, các yêu cầu của “chủ tịch” Lê Quốc Túy đều được “tổ công tác đặc biệt” thi hành một cách “nghiêm chỉnh” nhưng cũng làm cho Túy hiểu là không phải hoàn toàn dễ dàng.

Để có lực lượng trực tiếp tham gia đấu tranh trong chuyên án này,  đồng chí Trần Phương Thế, tức Tám Thậm, Trưởng phòng Bảo vệ chính trị của Công an Minh Hải được chọn vào vai NK-A1, nghĩa là “Kinh Kha số 1” ở trong nước. Để tránh lộ bí mật, ta thường gọi NK-A1 là A1, tên thường dùng khi hoạt động của anh Tám Thậm là Hai Tài, còn bọn biệt kích thường gọi là Hai Râu vì anh Tám Thậm vốn có bộ râu quai nón rất đẹp.

Đồng chí Tám Thậm lúc đó mới ngoài ba mươi tuổi, tính điềm đạm, cẩn thận và chắc chắn. Trong kháng chiến chống Mỹ, đồng chí làm hiệu thính viên, chữ viết rất đẹp. Địa bàn Cà Mau thì anh rất thông thuộc. Nếu có các tình huống xuất hiện ngoài dự kiến của Ban lãnh đạo kế hoạch anh cũng có đủ khả năng để xử lý khi cần thiết. Tuy nhiên, đồng chí Tám Thậm chưa hoạt động trong lòng địch, kinh nghiệm hoạt động bí mật chưa nhiều, chưa sử dụng ngôn ngữ trong chế độ cũ thường dùng trước đây.

Mặt khác, ở Minh Hải, rất nhiều người biết mặt đồng chí Tám Thậm, ta không loại trừ một số người vượt biên hoặc bọn biệt kích có thể nhận biết, nhất là trong trường hợp Túy, Hạnh yêu cầu ra nước ngoài để huấn luyện, hội họp... Nhưng đồng chí Tám Thậm có ngoại hình phù hợp với “vai” được giao, nhất là khi anh để râu quai nón, rất dễ ngụy trang và có thể khắc phục những “nhược điểm” ấy. Đồng chí Bộ trưởng Phạm Hùng và đồng chí Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm tỏ ý hài lòng về sự lựa chọn này.

Người đóng vai NK-A2 là đồng chí Hồ Việt Lắm (hiện nay là Thiếu tướng, Cục trưởng Cục An ninh Tây Nam Bộ), lúc đó là Phó Công an huyện phụ trách An ninh của Công an huyện Trần Văn Thời.

Đồng chí Mười Lắm cũng là người địa phương này, am hiểu ngọn nguồn sông lạch và là người đã được đào tạo về nghiệp vụ trinh sát. Một số cán bộ của Tổ An ninh K4/2 như Nguyễn Khánh Toàn, Vũ Thành Hà, Trần Tôn Thất, Trần Lương Tư..., khi cần có thể thực hiện các vai được phân công. Đồng chí Nguyễn Văn Xíu, tức Ba Tài cũng được chọn đưa vào kế hoạch với vai phụ tá điện đài và lo cơm nước, bảo vệ...

Các đồng chí này đều phải làm việc trong điều kiện giữ bí mật tuyệt đối. Thậm chí, họ hàng và người ngoài không biết các đồng chí này còn làm việc cho công an nữa...

* * *

Trong các bức điện gửi cho “Tổ đặc biệt”, Lê Quốc Túy cho biết ý đồ của y là định đưa vào 3 chuyến trong tháng 9/1981 với khối lượng vũ khí khoảng 40-50 tấn. Ngày 25/8/1981, trung tâm địch gửi một bức điện hỏi “Tổ đặc biệt” là “trong đêm có thể đổ hai bãi cùng một lúc được không, khoảng 15 tấn 2 tàu”. Cũng trong bức điện này chúng còn yêu cầu K64 chuẩn bị một địa điểm an toàn tạm trú cho “6 cán bộ thành”.

Như vậy là có thêm tình huống địch sẽ cho một toán gián điệp biệt kích xâm nhập trong chuyến này. Công việc chuẩn bị của ta không chỉ đón “hàng” mà còn bắt bọn gián điệp biệt kích, tổ chức khai thác để phục vụ công tác nghiệp vụ tiếp theo.
Logged

Người Việt Nam không biết quỳ gối. Chúng mày tới đây, chúng mày sẽ chết
bodoibienphong
Thành viên
*
Bài viết: 828



« Trả lời #5 vào lúc: 01 Tháng Tám, 2017, 01:38:08 am »

Trong phiên liên lạc vào lúc 21 giờ 30 phút ngày 31/8/1981, trung tâm địch thông báo cho “Tổ đặc biệt” 2 tàu xâm nhập sẽ khởi hành vào ngày 6/9/1981. Qua biện pháp trinh sát khác, chúng ta cũng nắm được quá trình chuẩn bị, tên tuổi cụ thể số “cán bộ thành” sắp xâm nhập  và chỉ huy chuyến xâm nhập này là T.N.C, có ám danh là K19.

Trong những ngày hạ tuần tháng 8/1981, công việc chuẩn bị rất khẩn trương. Sau khi nghiên cứu kỹ, ta quyết định chọn các bãi đổ cho Kế hoạch CM-12 ở vùng phía tây mũi Cà Mau chứ không ở phía đông. Vùng biển phía tây vừa có nhiều luồng lạch và thường lặng sóng. Bãi đổ ở khu vực này không sình lầy nhiều như vùng phía đông.

Kế hoạch được báo cáo lên đồng chí Bộ trưởng Phạm Hùng và được đồng chí Bộ trưởng phê duyệt.

Chiều 7/9/1981, đồng chí Cao Đăng Chiếm và đồng chí Nguyễn Phước Tân từ TP Hồ Chí Minh đi xuống Minh Hải. Các đồng chí Sáu Phương, Ba Dũng, Sáu Sáu, Tám Phú, Hoài Việt, Năm Xinh, Hai Minh từ công an các tỉnh đã có mặt tại trại Cây Gừa. Đồng chí Nguyễn Phước Tân thông báo tình hình và phân công từng đồng chí chuẩn bị khai thác đối tượng khi chúng bị bắt.--PageBreak--

Đúng như ta dự đoán, “Tổ đặc biệt” nhận được điện của trung tâm địch gửi, cho biết khoảng 20 giờ ngày 9/9 tàu sẽ đến bãi đổ.

Lực lượng của ta đã triển khai theo phương án chiến đấu thứ nhất. “Tổ đặc biệt” chuẩn bị ra bãi biển. Các đồng chí Thi Văn Tám, Trần Phương Thế, Hồ Việt Lắm và một số chiến sĩ Công an Minh Hải đã chuẩn bị đủ vỏ lãi để “nhận” người và không quên mang theo 6 chiếc khóa số 8.

Biển tốt. Gió nhè nhẹ. Đúng 19 giờ 10 phút ngày 9/9/1981, hai chiếc tàu đã vào đến bờ biển Minh Hải. So với thời gian dự định, chúng vào sớm gần một tiếng đồng hồ. T.N.C  (K19) quyết định cho hai chiếc tàu neo cách cửa sông ông Đốc khoảng 2.000 mét chờ các “chiến hữu” ra đón. Sau khi phát và nhận tín hiệu, hai bên gặp nhau và trao đổi những điều cần thiết. K19 ra lệnh cho bọn ở trên tàu ném “hàng” xuống biển. Phải mất hơn 3 tiếng mới thả “hàng” xong. K19 bàn giao thư và quà của Lê Quốc Túy gửi cho “Tổ đặc biệt”. Việc vớt vũ khí tương đối vất vả, mãi tới tối 10/9/1981 mới xong và chất lên ba chiếc tàu.

Trong lúc đó, 6 tên “cán bộ thành” đi theo người của “Tổ đặc biệt”. Cả toán đi được khoảng 4km thì đến một con kinh. Ở đây đồng chí Mười Lắm chỉ huy 12 chiến sĩ an ninh của ta đã mai phục bắt gọn 6 tên biệt kích. Diễn biến trận đánh rất nhanh, gọn, không một tiếng súng nổ.

Chiến công này có ý nghĩa rất quan trọng và quyết định đối với kế hoạch CM-12 sau này. Có thể gọi đây là chiến công đầu trong Kế hoạch CM-12. Lãnh đạo Bộ đánh giá cao thành tích của lực lượng tham gia đấu tranh với chuyên án. Thắng lợi này nâng cao tinh thần và càng củng cố niềm tin vào kế hoạch đánh địch tiếp theo.

Bộ trưởng Phạm Hùng đã báo cáo về Kế hoạch CM-12 cho các đồng chí lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước như đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn, đồng chí Trường Chinh, đồng chí Phạm Văn Đồng và đồng chí Lê Đức Thọ. Bộ Chính trị rất phấn khởi và căn dặn cần phải thận trọng, kiên quyết làm thất bại âm mưu của địch, nhưng đồng thời không để địch phá hoại ta trong quá trình thực hiện Kế hoạch CM-12.

* * *

Kế hoạch CM-12 tiếp tục giành được những thắng lợi quan trọng. Tháng 3/1982, Mai Văn Hạnh có ý định xâm nhập Việt Nam và thông báo cho “Tổ đặc biệt” biết qua bức thư của y, trong đó có yêu cầu liên lạc với Huỳnh Vĩnh Sanh và một số đầu mối khác, bố trí cho họ xuống gặp Hạnh tại Minh Hải.

Người của ta tiếp cận được với Huỳnh Vĩnh Sanh và  Lê Quốc Quân, thông báo ý kiến của Hạnh. Cả hai rất phấn khởi và nhận lời sẽ đi “căn cứ” gặp Hạnh. Đồng chí Lê Tiền chỉ đạo thực hiện kế hoạch đưa Huỳnh Vĩnh Sanh và Lê Quốc Quân xuống gặp Mai Văn Hạnh trong chuyến xâm nhập tới. Chúng ta cũng có kế hoạch  khéo léo khai thác thật kỹ Huỳnh Vĩnh Sanh để nắm được nội dung mà ông ta sẽ trao đổi khi gặp Mai Văn Hạnh.

Ban chỉ đạo Kế hoạch CM-12 lập kế hoạch đón, đưa, bố trí Mai Văn Hạnh vào nội địa và đặt ra yêu cầu đối phó với việc kiểm tra của Mai Văn Hạnh làm sao để Hạnh tin tưởng vào “Tổ đặc biệt” và các “cơ sở”,  qua đó, buộc chúng bộc lộ lực lượng ngầm, âm mưu, kế hoạch hành động sắp tới của chúng. Đồng chí Phạm Hùng thấy báo cáo hợp lý và phê duyệt kế hoạch của Ban chỉ đạo CM-12.

Lãnh đạo Bộ Nội vụ nhận định rằng, việc tổ chức thực hiện kế hoạch đón Mai Văn Hạnh vào kiểm tra thành công sẽ có ý nghĩa rất quan trọng, có tính chất quyết định Kế hoạch CM-12 tiếp tục hay không. Bởi vì nếu Hạnh vào thấy tình hình khả quan thì sẽ báo cáo lại cho Túy tiếp tục hành động. Mặc dù tính cách của Túy và Hạnh xung khắc với nhau nhưng Túy lại rất tin Hạnh và cần Hạnh.

Đúng như kế hoạch của Túy – Hạnh và ta đã khéo léo “tương kế tựu kế”, Mai Văn Hạnh xâm nhập Việt Nam trong một chuyến tàu mà ta đã biết trước và tổ chức “đón tiếp” khá chu đáo. Trong thời gian Mai Văn Hạnh ở Minh Hải, ta bố trí cho Huỳnh Vĩnh Sanh, Lê Quốc Quân gặp y.
Logged

Người Việt Nam không biết quỳ gối. Chúng mày tới đây, chúng mày sẽ chết
bodoibienphong
Thành viên
*
Bài viết: 828



« Trả lời #6 vào lúc: 01 Tháng Tám, 2017, 01:38:39 am »

Do chuẩn bị chu đáo và các cán bộ, chiến sĩ an ninh cũng như người của ta thực hiện tốt kế hoạch nên Mai Văn Hạnh và đồng bọn rất phấn khởi, tin tưởng vào “Tổ đặc biệt” và “các lực lượng ngầm” ở trong nước. Mặc dù Mai Văn Hạnh tỏ ra rất xảo quyệt, dùng thủ đoạn kiểm tra chéo, hỏi riêng từng người về một sự việc, nhưng do ta đã có kế hoạch đối phó rất bài bản nên y không nghi ngờ gì. Trái lại, y rất tin vào “Tổ đặc biệt”.

Lúc Huỳnh Vĩnh Sanh gặp Mai Văn Hạnh ở Minh Hải, Sanh phấn khởi nói với Hạnh:

- Tôi không thể tưởng tượng được là chúng mình lại được gặp nhau ở đây. Tôi nói thiệt, gặp anh ở đây là thắng lợi rồi. Trên thế giới không có tổ chức nào làm được điều này - ý của Huỳnh Vĩnh Sanh là nói đến các tổ chức phản động người Việt lưu vong hoạt động chống phá cách mạng nước ta không có được đám nào làm nổi việc này.

Do tàu của địch bị sự cố và phải khởi hành chuyến tiếp theo chậm hơn một ngày, nên ta để Hạnh ở thêm một ngày nữa ở trong nước. Sáng hôm sau, Mai Văn Hạnh và anh em mình “từ giã” ông bà Sáu Tiệm cơ sở của ta bố trí cho Hạnh ở trong thời gian ở "quốc nội". Lại xuống ghe đi theo đường Kinh Xáng Bạc Liêu, qua Cà Mau rồi đến Rạch Ruộng. Đến Rạch Ruộng thì có các đồng chí Bảy Thất, Ba Tài ra đón. Các đồng chí này trong vai là cơ sở  “Tổ  đặc biệt”. Một cái chòi được dựng trong rừng là của ông bà Năm Tài.

Cái chòi này được giao cho đồng chí Mười Lắm chịu trách nhiệm chuẩn bị và đảm bảo an ninh trong thời gian diễn ra các hoạt động của kế hoạch. Đến gần 4 giờ chiều thì ghe tới rừng lá. Sau khi cơm nước xong cả toán ngủ lại một đêm ở trong chòi. Hôm sau khoảng 4 giờ chiều mới lên đường ra bãi biển.

Sau khi biết Mai Văn Hạnh vào trong nước an toàn, ngày 16/4, Lê Quốc Túy điện cho Mai Văn Hạnh yêu cầu Hạnh chỉ đạo “Các K trong quốc nội phải trực lo sẵn sàng đón rước C4 trong vòng tháng tới. C4 sẽ đón C5 khi trở về để bàn gấp chuyện này”. Như vậy là Túy cũng nóng lòng được vào Việt Nam như Hạnh.

Đến khoảng 20 giờ ngày 19/4/1982 thì tàu đón Hạnh do Trần Văn Bá chỉ huy xâm nhập vào bờ biển Minh Hải. Khi thấy tín hiệu của tàu xuất hiện, Mai Văn Hạnh mừng ra mặt. Phía ta có hai tàu ra đón, trong đó có một chiếc chở Mai Văn Hạnh. Chuyến này, địch đem gần 10 tấn vũ khí gồm đạn AK và B40. Do đồng chí Thi Văn Tám có sáng kiến dùng ống khóa lớn móc vào hai khoeo ở cột buộc dây neo của hai con tàu nên việc nhận “hàng” gọn gàng và đỡ nguy hiểm hơn trước rất nhiều.

Kế hoạch đưa đón Mai Văn Hạnh được thực hiện thắng lợi. Đây là một thành công quan trọng, tạo được niềm tin cho bọn đầu sỏ để tiếp tục duy trì Kế hoạch CM-12 theo chủ trương của lãnh đạo Bộ Nội vụ.

(Còn tiếp)
Logged

Người Việt Nam không biết quỳ gối. Chúng mày tới đây, chúng mày sẽ chết
bodoibienphong
Thành viên
*
Bài viết: 828



« Trả lời #7 vào lúc: 01 Tháng Tám, 2017, 01:40:15 am »

Kỳ 5: http://vnca.cand.com.vn/Truyen-thong/Bi-mat-cua-mot-chien-dich-phan-gian-(Phan-5)-324338/

Lúc đầu, chúng chỉ đặt ra mục đích “giải phóng” miền Nam Việt Nam, nhưng sau đó được sự hậu thuẫn của các thế lực đế quốc và phản động quốc tế, Túy và Hạnh điều chỉnh ý đồ chiến lược đầy tham vọng. Lê Quốc Túy đổi tên “Mặt trận thống nhất các lực lượng yêu nước giải phóng Miền Nam Việt Nam” thành “Mặt trận thống nhất các lực lượng yêu nước giải phóng Việt Nam”.

Qua bức điện của Túy gửi cho CM-12, chúng ta thấy y cũng rất phấn khởi và rất muốn vào “quốc nội” như Mai Văn Hạnh để kiểm tra việc thực hiện kế hoạch của chúng. Ngày 10/5/1982, Lê Quốc Túy điện cho biết là: “C4 và C5 sẽ vào cuối tháng với 12K và 8,5 tấn phân gồm 630 cục đá. Chương trình 5 hôm, ngoài việc gặp với các tổ, mỗi tổ 3 giờ, phải dự trù nửa ngày cho C.5 S.G ( Lê Quốc Quân - TG) và bác Tư (Huỳnh Vĩnh Sanh – TG). Riêng cậu út và thím Ba một ngày. Nếu có thể bố trí cho tổ N.C.B, A.Đ. và C.T lưu lại trong suốt thời gian nói trên. Sắp đặt không cho các tổ biết nhau. Sẽ xác định trước vài hôm ngày tới”.

Sau khi quán triệt sự chỉ đạo của lãnh đạo Bộ và căn cứ vào thực tế, Ban chỉ đạo Kế hoạch CM-12 bàn rất kỹ và thống nhất kế hoạch đối phó với địch trong thời gian tới. Đồng chí Lê Tiền, Tổ phó Tổ An ninh K4/2 được đồng chí Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm cử ra Hà Nội báo cáo về kế hoạch đối phó của ta và xin chỉ thị của Bộ trưởng.

Thiếu tướng Lê Tiền, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh, tham gia cách mạng từ lúc còn nhỏ, làm liên lạc cho Ủy ban Kháng chiến Liên khu 1, sau đó chuyển sang ngành công an. Trước khi vào miền Nam chiến đấu năm 1961, ông đã là Trưởng phòng Bảo vệ chính trị của Công an tỉnh Vĩnh Phúc. Khi vào miền Nam, ông chiến đấu ở chiến trường miền Tây Nam Bộ rồi ở miền Đông Nam Bộ. Ông có trí nhớ rất tuyệt vời và có tác phong làm việc cực kỳ tỉ mỉ, thận trọng. Cùng với đồng chí Nguyễn Phước Tân, đồng chí Lê Tiền là những trợ lý đắc lực của đồng chí Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm trong công tác an ninh.

Ngày 12/5/1982, đồng chí Lê Tiền bay ra Hà Nội. Bộ trưởng sắp xếp làm việc với đồng chí Lê Tiền vào buổi tối hôm đó, từ 7 giờ tối đến 9 giờ. Cùng dự có cả đồng chí Thứ trưởng Trần Đông. Đồng chí Lê Tiền báo cáo với đồng chí  Bộ trưởng Phạm Hùng về nhận định về tình hình và kế hoạch đấu tranh của ta, trong đó có việc gây trở ngại để chưa cho Túy và Hạnh vào.

Sau khi hỏi thêm một số chi tiết, đồng chí Bộ trưởng Phạm Hùng và đồng chí Thứ trưởng Trần Đông trao đổi, nhận định tình hình, cân nhắc các tình huống có thể xảy ra, cuối cùng đồng chí Bộ trưởng kết luận như sau: Trong kế hoạch này ta nắm chặt toàn bộ lực lượng địch xâm nhập, vũ khí, phương tiện... Một phần lớn lực lượng nội địa của địch thông qua ta để móc  ráp, tuy ta chưa biết hết mạng lưới ở dưới nhưng đã biết được một số tên nòng cốt của từng mạng lưới. Cho nên Túy và Hạnh vào dù có quyết định những chủ trương liều lĩnh nào  đó, ta vẫn có đủ cách đối phó, địch có triển khai thêm lực lượng vào các địa bàn mới ta cũng có kinh nghiệm bắt chúng sử dụng theo ý định của ta. Bọn nội địa có thể có tên hung hăng, manh động, nếu thấy có nguy hiểm ta vẫn có thể chủ động đánh tỉa, bắt giữ, gây khó khăn, không để chúng hành động được. Cũng có thể có lúc địch nghi ngờ điều này, điều khác, ta phải làm cho địch tin bằng cách lý giải của ta. Có thể có lúc địch tạm dừng để xem xét, kiểm tra sau đó vẫn bắt buộc tiếp tục kế hoạch. Do đó, hiện nay ta nên kiên định kế hoạch đấu tranh, cho Túy và Hạnh vào để làm rõ thêm âm mưu, tổ chức và hành động sắp tới của chúng.

Đây là quyết định rất táo bạo nhưng được suy tính kỹ lưỡng trong việc cho cả Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh cùng vào, hơn nữa lại không kết thúc Kế hoạch CM-12 ngay mà vẫn cho hai tên đầu sỏ trở ra nước ngoài. Đồng chí Bộ trưởng cũng chỉ đạo cụ thể về kế hoạch đấu tranh của ta. Tuy nhiên, theo kế hoạch của địch, ta phải đối phó với hai vấn đề khá hóc búa như có cho chúng mang tiền giả vào hay không? Khi Túy và Hạnh vào kiểm tra có nên bắt hai tên đầu sỏ này hay chưa?

Lúc đầu Bộ trưởng Phạm Hùng không cho mang tiền giả vào. Phương án là có thể dùng lực lượng không quân ném bom tiêu diệt hai tàu B1 và B2 trên đường vào. Bộ trưởng Phạm Hùng có trao đổi phương án này với  Đại tướng Văn Tiến Dũng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Nhưng sau khi cân nhắc các yếu tố thì thấy có thể ảnh hưởng đến kế hoạch chung nên phương án này bị huỷ bỏ. Cuối cùng, Bộ trưởng Phạm Hùng chỉ đạo chấp nhận cho đưa tiền giả vào chỉ thị là bằng mọi giá kiên quyết không để lọt ra ngoài.

Vấn đề thứ hai thì qua tính toán, ta mới chỉ “hút” vào, bắt giữ và tiêu diệt khoảng gần 100 tên, trong khi đó ở trung tâm địch còn đang tuyển mộ thêm lực lượng, do vậy quyết định kiên trì mục tiêu chiến lược đã đề ra là “thu hút toàn bộ lực lượng của địch”, buộc chúng phải đưa hết lực lượng ở nước ngoài xâm nhập về theo kế hoạch của ta, tổ chức bắt gọn các toán gián điệp biệt kích, thu toàn bộ vũ khí, phương tiện. Vì vậy, lãnh đạo Bộ quyết định vẫn cho Túy và Hạnh trở ra sau khi “làm việc” để tính toán thực hiện chủ trương chiến lược.

Sau đó, đích thân Bộ trưởng Phạm Hùng vào TP HCM, kiểm tra công tác chuẩn bị “đón” Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh. Đặc biệt, trong chuyến này, theo kế hoạch của địch là đưa tiền giả (hàng đặc biệt) vào. Do đó, công việc nhận “hàng” lần này được bàn rất kỹ, nhất là số hàng “đặc biệt”. Công tác hậu cần phục vụ chiến dịch này được bảo đảm chu đáo, từ tàu thuyền, xe cộ, xăng dầu, lương thực, kinh phí, thuốc men. Mặt khác, trong Kế hoạch CM-12, chủ trương “dùng địch đánh địch” kể cả việc khai thác nguồn tài chính, một số cơ sở vật chất của địch cung cấp cho lực lượng “quốc nội” mà thực chất là của ta để đánh lại địch rất có hiệu quả.

Phải nói rằng, vào thời kỳ bao cấp, đất nước còn khó khăn, việc tổ chức được như thế là cả một vấn đề. Hơn nữa, lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước cũng rất quan tâm đến vấn đề này. Có lần đồng chí Phạm Hùng báo cáo với Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng về quá trình tổ chức đấu tranh với địch trong Kế hoạch CM-12, người đứng đầu Chính phủ ta lúc đó đã nói là sẵn sàng ưu tiên cho lực lượng an ninh, nếu cần thiết thì sẽ chi cả kinh phí đặc biệt của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng để đảm bảo cho kế hoạch đánh địch thắng lợi.

Tất cả các bộ phận được phân công đều triển khai nhiệm vụ một cách khẩn trương và Ban chỉ đạo phân công từng đồng chí chỉ huy kiểm tra và báo cáo kết quả chuẩn bị. Mọi việc cũng đã sẵn sàng để đón “C4, C5”
Logged

Người Việt Nam không biết quỳ gối. Chúng mày tới đây, chúng mày sẽ chết
bodoibienphong
Thành viên
*
Bài viết: 828



« Trả lời #8 vào lúc: 01 Tháng Tám, 2017, 01:41:12 am »

Vào ngày 23/5/1982, CM-12 có nhận được một bức điện của Trung tâm địch cho biết: “C4 đến trước với 10 cán bộ thành... C5 vào sau 2 ngày với phân bố như đã hứa. Mọi tổ chức để gặp nhau với tất cả các tổ và giới chức. Phải cẩn thận ai cũng có thể bị Cộng sản theo dõi”.

Việc C4 và C5 không cùng vào là tình huống nằm ngoài dự kiến của ta, vì vậy ta kiên quyết không để chúng thực hiện ý định này. Lấy lý do “rất khó bố trí tiếp đón và bảo đảm an ninh di chuyển đến nơi làm việc”, ta yêu cầu cả Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh cùng vào một lúc và nhắc lại đề nghị phải vào trước 21 giờ. Đề nghị này được đáp ứng. Ngày 25-5-1982, trung tâm thông báo cho Tổ đặc biệt “C4 và C5 sẽ tới tối 1/6 như trù liệu, sẽ có 600 gói hàng và 10 cán bộ thành”. Tuy nhiên, thực tế không diễn ra như mong muốn của ta và cả Lê Quốc Túy. Tàu của Mai Văn Hạnh đi nước khác về trễ hơn dự kiến, Túy liên tục hẹn vào tối 2 rồi 3/6 và cuối cùng ấn định chắc chắn là tối 4/6/1982 sẽ vào. Ngày 3/6, Túy sang tàu B2 cùng với Mai Văn Hạnh xâm nhập Việt Nam. Một toán gián điệp biệt kích gồm 11 tên (chứ không phải 10 tên như chúng thông báo) do T.N.M (K18) làm toán trưởng cùng vào trong chuyến này.

Sáng 4/6, anh em trong Tổ đặc biệt đi từ “nhà thiếc” – nơi đặt “sở chỉ huy tiền phương” của ta  ra huyện Trần Văn Thời. Chiều thì đến nơi và ra chốt chỉ huy. Trời tối dần. Biển tím ngắt. Gió thổi mát rười rượi. Thời gian nặng nề nhích từng phút một. Đúng 21 giờ 30 phút, từ trong màn đêm, đèn tàu địch xuất hiện và nháy sáng theo quy định. Khi tàu ta cập được vào tàu địch, Trần Văn Bá ra đón. Bọn gián điệp biệt kích nằm im và chĩa súng vào tàu của ta đề phòng bất trắc. Trần Văn Bá lên tiếng chào anh Hai (Tám Thậm) và K64 sau đó dẫn tới chỗ Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh để giới thiệu “anh Hai” với “Chủ tịch”. Lê Quốc Túy thông báo sơ bộ về “thuốc nổ đặc biệt” (tiền giả), vũ khí và toán của K18 trong chuyến này. Đồng chí Tám Thậm “báo cáo” cho “Chủ tịch” và “Chú Năm” biết về lịch trình đi vào việc tiếp nhận “hàng” và toán của K18. Túy và Hạnh chăm chú lắng nghe, vẻ hài lòng. Cả hai đều bận đồ bà ba màu đen như nhiều ông già Nam Bộ. Sau đó, Túy và Hạnh được anh Tám Thậm và K64 đưa vào nội địa theo kế hoạch.

Đưa Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh đi xong thì ta cũng “nhận” quân của toán T.N.M (K18). Cả toán gồm 11 tên được đưa vào hầm chiếc tàu và một chiếc ghe rồi đi thẳng vào cửa sông ông Đốc, sau đó đến địa điểm đã bố trí sẵn. Trong khi đó, đồng chí Mười Lắm cùng lực lượng thủy thủ của ta đi trên ghe nhận “hàng”. Đồng chí Thi Văn Tám chỉ huy việc đưa “hàng” về địa điểm tập kết tại cầu Sập, cách thị xã Bạc Liêu vài kilômét, bàn giao cho đồng chí Ba Bút nhận. Tiền giả địch mang vào rất giống tiền thật. Trong chuyến này, địch còn đưa vào 637 thùng thuốc nổ cực mạnh, ta cũng thu giữ an toàn.

Ngày hôm sau, đồng chí Phạm Hùng chỉ thị là bằng mọi biện pháp, bằng mọi cách đối phó, giữ ngay số tiền giả. Nếu đã đưa cho bọn chúng chở về thành phố thì phải tổ chức xét và lấy lại cho bằng được tất cả và giữ cả người.

* * *

Trong thời gian Túy và Hạnh ở “quốc nội”, ta cho A.Đ từ TP HCM xuống Minh Hải gặp lại người tình cũ. Đó là một phụ nữ trạc ngoài 40, còn chút nhan sắc. Thị chỉ mang theo một giỏ sầu riêng. Túy và cô bồ cảm động, mừng rỡ, ôm nhau một cách tự nhiên. A.Đ nói: "Được báo là em đi, chứ dọc đường không chắc là gặp anh ở đây. Không ngờ lại gặp anh ở Cà Mau". Lê Quốc Túy hể hả: "Thấy không? Anh nói là anh làm mà. Anh làm là thành công. Hôm nay gặp đây là bước đầu của sự thắng lợi đó em". Cả hai ngồi tâm sự trên chiếc giường nhỏ rất thân tình.

Còn Mai Văn Hạnh lặng thinh, có ý chờ đợi người tình của mình. Nhưng C.T không tới. A.Đ đưa cho Năm Hạnh bức thư của C.T. Hạnh lấy kính ra và đọc rất kỹ bức thư. Sau đó y đi ra ngoài và không nói gì.

Các ngày sau đó, ta bố cho Túy, Hạnh gặp lại Huỳnh Vĩnh Sanh, Lê Quốc Quân và một số cơ sở của ta theo kế hoạch. Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh trực tiếp nghe và có vẻ hài lòng với báo cáo của các tổ. Túy khen việc các tổ làm được là những "thắng lợi" bước đầu, sắp tới sẽ giải quyết yêu cầu cho các tổ. Túy nói việc cấp tiền và vũ khí sẽ do “Tổ đặc biệt” giải quyết. Sau đó Lê Quốc Túy khoe là đã đi vận động nhiều nước, kể cả CIA. Nào là “Mặt trận” bây giờ “tiếng tăm lừng lẫy”. Túy chê lực lượng của Hoàng Cơ Minh “không là cái gì” và nói khoác nếu Hoàng Cơ Minh muốn về nước thì Túy cho quá giang về. Lê Quốc Túy hứa cấp cho Lê Quốc Quân 500.000 đồng. Quân mừng lắm. Việc này Túy “chỉ thị” cho “Tổ đặc biệt” thực hiện.

Ta buộc phải đưa 500.000 tiền giả cho Lê Quốc Quân. Tuy nhiên, ta cũng đã có kế hoạch phá án TQ-42. Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ trưởng, lấy lý do Quân mang tiền giả ta bắt y trên đường về. Mười ngày sau đó, CM-12 điện thông báo cho Lê Quốc Túy biết là Quân đã bị bắt vì “xài tiền giả”.

Đến chiều 11/6, tàu của ta đưa Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh trở ra vàm Mỹ Bình. Trong khi đó, một con tàu đánh cá đi qua chiếc tàu chở Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh. Tất nhiên là Túy và Hạnh không biết trên tàu đó có những ai. Được sự đồng ý của đồng chí Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm, các đồng chí Trưởng ty Công an các tỉnh từ Vũng Tàu  đến Minh Hải để chứng kiến việc ta tổ chức cho Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh xâm nhập theo kế hoạch, đồng thời đây cũng là dịp để các đồng chí chỉ huy công an ven biển tham quan chiến trường, có thể rút kinh nghiệm cho việc đấu tranh chống xâm nhập. Các đồng chí Sáu Ngọc (Giám đốc Công an TP HCM), Chín Nghĩa (Tây Ninh), Tư Nam (Bà Rịa - Vũng Tàu), Ba Trắng (Cửu Long), Mười Việt (An Giang), Ba Thành (Bình Dương), Tư Chiểu (Long An), Sáu Huấn (Tiền Giang), Võ Thái Hòa (Đồng Tháp), Hai Hồng (Kiên Giang) đã tham gia chuyến đi này.

Trời tối dần. Vào khoảng 19 giờ, bóng đêm buông xuống. Lúc đó, 2 tàu địch từ nước ngoài vào cũng vừa tới. Chuyến này địch cho xâm nhập một toán quân nữa gồm 12 tên do Đ.Q.B chỉ huy và đưa thêm 9 tấn vũ khí, gồm 450 thùng đạn B40 vào. Ta tiếp nhận và tổ chức bắt giữ chúng theo kế hoạch được chuẩn bị từ trước một cách chủ động. Còn Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh thoả mãn lên tàu trở lại Thái Lan sau một chuyến xâm nhập “thành công”.

Đêm tối mênh mông nhưng yên tĩnh.

(Còn nữa)
Logged

Người Việt Nam không biết quỳ gối. Chúng mày tới đây, chúng mày sẽ chết
bodoibienphong
Thành viên
*
Bài viết: 828



« Trả lời #9 vào lúc: 01 Tháng Tám, 2017, 10:55:25 am »

Kỳ 6: http://vnca.cand.com.vn/Truyen-thong/Bi-mat-cua-mot-chien-dich-phan-gian-(Phan-6)-324351/

Qua các biện pháp nghiệp vụ và nghiên cứu các “chỉ thị” của “chủ tịch” Lê Quốc Túy, chúng ta đã biết được mục tiêu chiến lược của địch là tìm mọi cách để “giải phóng” miền Nam và sau đó là toàn bộ Việt Nam “khỏi tay Cộng sản (?!)”.

Để thực hiện mục tiêu đó, kế hoạch của chúng được chia ra làm ba giai đoạn:

Giai đoạn 1: Từ năm 1977 đến năm 1980: Nhiệm vụ của giai đoạn này là móc nối tìm quan thầy để tranh thủ sự giúp đỡ, viện trợ về tài chính, phương tiện, vũ khí, xây dựng căn cứ, tuyển mộ và tổ chức huấn luyện để xây dựng và phát triển lực lượng. Đồng thời tìm cách móc nối với các tổ chức, đảng phái phản động trong nước để bàn kế hoạch phối hợp hành động.

Giai đoạn 2: Từ năm 1980 đến năm 1984. Đây là giai đoạn chủ yếu nhằm tổ chức xâm nhập người, vũ khí và phương tiện về trong nước, xây dựng căn cứ, phát triển lực lượng trong nước, tiến hành các hoạt động phá hoại, tổ chức chiến tranh du kích.

Giai đoạn 3: Bắt đầu từ năm 1985. Nhiệm vụ của giai đoạn này là tiến hành các hoạt động vũ trang, cướp chính quyền ở từng vùng, chủ yếu là các vùng núi, vùng biển. với phương châm lấy “nông thôn bao vây thành thị” kích động quần chúng nổi dậy, tổ chức thành lập chính phủ, dùng đài phát thanh tranh thủ dư luận quốc tế và kêu gọi các nước giúp đỡ... để tiến tới chiến tranh giành chính quyền trong cả nước.

Trên thực tế Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh cùng một số tay chân đắc lực đã phần nào thực hiện được giai đoạn 1. Túy đã “móc” liên lạc với các viên chức tình báo một vài nước lớn và nhận được sự hậu thuẫn nhất định. Với sự trợ giúp của lực lượng tình báo quân đội  một nước trong khu vực Đông Nam Á Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh đã lập được “Tổng hành dinh” ở thủ đô và xây dựng một căn cứ huấn luyện tại nước này. Trong các năm 1981, 1982 đồng thời với việc huấn luyện, chúng ráo riết thực hiện các chuyến đưa người xâm nhập về nước để xây dựng cơ sở, căn cứ.

Trong kế hoạch của chúng, dựa vào sự thỏa thuận từ năm 1975 với các tổ chức, đảng phái phản động lợi dụng đạo Cao Đài, Hòa Hảo... Lê Quốc Túy có ý đồ tổ chức đưa người và vũ khí về trang bị cho những tổ chức đó. Kế hoạch của Túy, triển khai thành lập 3 “quân khu”: “quân khu” A (miền Tây), “quân khu B” (miền Đông), “quân khu” Sài Gòn - Gia Định và một “Liên tỉnh xứ”, đồng thời phát triển các tổ chức phản cách mạng, nắm nhân sĩ, chuẩn bị lực lượng chính trị, hình thành bộ máy chính quyền, chờ thời cơ nổi dậy cướp chính quyền một số nơi, tiến tới giành chính quyền trong cả nước.

“Tương kế tựu kế”, trên cơ sở kế hoạch của địch,  ta đã thành lập “quân khu A” với căn cứ ở Minh Hải và “quân khu Sài Gòn - Gia Định”. Còn việc triển khai thành lập “quân khu B” được “triển khai” sau chuyến xâm nhập 9/9/1981 của địch. Tất nhiên, cũng như “quân khu A”, “quân khu B” chỉ là giả. Địa bàn “quân khu B” và các hoạt động của các toán này được ta tính toán kỹ để đối phó với địch, làm cho chúng tin tưởng.

Thông qua CM-12, ta phát hiện được âm mưu của địch là muốn xây dựng một căn cứ mật ở vùng Đồng Nai - Bà Rịa. Thời kỳ đó, tỉnh Đồng Nai còn gồm cả Bà Rịa -Vũng Tàu, nghĩa là có cả bờ biển. Ý đồ của Túy là muốn thiết lập một “bãi đổ” cho các chuyến xâm nhập ở vùng biển này. Không những thế, Túy còn muốn mở rộng ra cả miền Trung để đổ quân, vũ khí cho “Liên tỉnh xứ”. Lê Quốc Túy còn có kế hoạch đưa T.N.M (K18), một trong những “Kinh Kha” lớp đầu tiên “Minh Vương 1” vốn là một sĩ quan quân đội Sài Gòn, về “quân khu B” hoạt động, sau đó sẽ đưa M lên vị trí chỉ huy các lực lượng quân sự của Túy -Hạnh ở trong nước.

Trong Kế hoạch ĐN-10, ta sử dụng toán “6 cán bộ thành” xâm nhập ngày 9/9/1981, tức là chuyến xâm nhập đầu tiên của địch theo kế hoạch của ta. Toán này do T.Đ (K55) làm toán trưởng và T.H.M.(K66) làm hiệu thính viên. Lê Quốc Túy rất tin tưởng K55. Đây là một thanh niên khá lanh lợi nhưng cũng có cá tính mạnh. Sau khi mới bị bắt, lúc đầu K55 rất “cứng đầu”, không chịu khai báo và quyết định tự tử. Nhưng cán bộ, chiến sĩ công an trại Cây Gừa kịp thời phát hiện và cứu sống anh ta. Sau khi được bồi dưỡng phục hồi sức khỏe, Đ đã thực sự cảm động trước tấm lòng của những cán bộ công an chăm sóc cho mình. Trong một cuộc hỏi cung, vốn rất thèm thuốc lá mà Đ lại quen hút thuốc lá ngon, nên khi đồng chí Ba Gừng, cán bộ của Công an Minh Hải đưa gói thuốc lá cho Đ hút, còn ông lại lấy trong túi một gói thuốc rê ra quấn hút, Đ rất cảm động. Từ đó, anh không còn mặc cảm và tự hại mình nữa. Đ chấp nhận khai báo và tự nguyện làm việc cho ta.

Theo sự phân công của lãnh đạo Bộ và lãnh đạo Tổ An ninh K4/2, đồng chí Lê Tiền phụ trách công tác đấu tranh với các chuyên án trong nội địa và Kế hoạch ĐN-10. Tham gia công tác quan trọng này có đồng chí Nguyễn Khánh Toàn và một số cán bộ từ công an các tỉnh được điều động về như đồng chí Nguyễn Đông Phương (Sáu Phương, nguyên là Phó giám đốc Công an tỉnh Sông Bé trước đây, nay là Giám đốc Sở Thương mại – Du lịch Bình Phước). Công an Đồng Nai cũng cử một số cán bộ an ninh giỏi, tham gia Kế hoạch ĐN-10. Tuy được phân công chuyên trách các mảng như vậy, nhưng trên thực tế, mỗi khi có các chuyến xâm nhập, các đồng chí Lê Tiền, Nguyễn Khánh Toàn... cũng trực tiếp tham gia chỉ đạo hoặc các công tác đón bắt.

Thực hiện Kế hoạch ĐN-10 nhằm khống chế việc mở rộng phạm vi hoạt động của địch, ta chọn một địa điểm thích hợp ở Xuyên Mộc, Đồng Nai. Ban chỉ đạo Kế hoạch chọn 4 cán bộ trinh sát có kinh nghiệm vào các vai “phụ việc” cho toán K55.

Mặt khác, thông qua đường liên lạc của CM-12 với “Tổng hành dinh”, ta đã khéo léo buộc địch phải đưa quân và vũ khí xâm nhập ở Cà Mau để có thể kiểm soát cho chắc và đỡ vất vả. Mặt khác, thực hiện sự chỉ đạo của lãnh đạo Bộ Nội vụ, ban chỉ đạo Kế hoạch ĐN-10 chuẩn bị chu đáo, cho bộ phận điện đài của “quân khu B” lên máy liên lạc với trung tâm. Ngày 16/8/1982, ta tổ chức phiên liên lạc đầu tiên của điện đài ĐN-10. Chúng ta cho K66 lên máy theo quy ước đã được “Tổng hành dinh” trao cho toán K55. Trong phiên liên lạc này, ta cho đài ĐN-10 gửi một bức điện cho trung tâm dưới danh nghĩa K55. Nội dung như sau:

“K55 kính trình, HK132 an toàn đang thiết lập căn cứ và phát triển lực lượng. Điều kiện lên máy khó khăn. Hẹn 20 giờ 15 phút ngày 25/8 liên lạc lại. Nếu không gặp sẽ lên máy vào 21 giờ ngày 28”.

Trung tâm gửi một bức điện thông báo là từ nay điện đài ĐN-10 liên lạc với “Tổng đài” theo quy ước “đã gửi cho K66”.

Phiên liên lạc đầu tiên của ĐN-10 thành công. Trung tâm địch không hề nghi ngờ gì cả. Hơn thế, Túy - Hạnh lại còn tỏ ra đắc thắng vì đã mở rộng phạm vi hoạt động và phát triển được thêm lực lượng.  Như vậy là cùng một lúc ta duy trì hai điện đài liên lạc với “Tổng hành dinh” của địch ở nước ngoài. Kế hoạch CM-12 được phát triển. Tuy nhiên, để làm cho bọn Túy - Hạnh hiểu được là hoạt động bí mật ở vùng Đồng Nai - Bà Rịa không dễ dàng nên ngay trong phiên liên lạc đầu tiên ta đã cho biết tình thế khó khăn của ĐN-10 và báo cho trung tâm biết là điện đài của toán K55 chỉ nên liên lạc với trung tâm sau 10 ngày nữa.
Logged

Người Việt Nam không biết quỳ gối. Chúng mày tới đây, chúng mày sẽ chết
Trang: 1 2 3 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM