Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 09:20:47 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Quảng Ninh - Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954)  (Đọc 30627 lần)
0 Thành viên và 3 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #40 vào lúc: 22 Tháng Bảy, 2017, 07:46:14 pm »

Được tin Móng Cái bị tập kích bất ngờ và bị thiệt hại nặng, ngay trưa ngày 27 tháng 3 bọn chỉ huy địch đã điều lực lượng từ Hà Cối lên tiếp viện. Sau khi làm chủ thị xã quân ta đã phá hủy nhiều đoạn đường, đồng thời chặn đánh quân tiếp viện, diệt tiếp hai xe buộc bọn địch phải quay về.

Trận tập kích táo bạo và thắng lợi lớn ở thị xã Móng Cái của ta đã làm cho bọn địch rất lo sợ, hoang mang. Ngày 29 tháng 3, địch đã điều quân từ Hải Phóng ra ứng cứu, nhưng lúc này, quân ta đã thu dọn chiến trường và rút về Lạng Sơn. Giặc Pháp hèn nhát đã trả thù rất dã man. Chúng bắt hàng trăm người, trong đó có cả lính ngụy và đồng bào người Hoa mà chúng nghe là có liên lạc với kháng chiến, cho vào bao tải ném xuống sông. Tiếp đó chúng còn càn quét và tàn phá các xã lân cận thị xã Móng Cái như Vạn Ninh, Xuân Lan, Trà Cổ, Doan Tĩnh, Quất Đông. Tổng số người bị sát hại lên tới 155 người. Sau đó chúng đã rút quân của Voòng A Sáng từ Móng Cái đưa về Tiên Yên và thay thế bằng quân Âu – Phi. Chúng đóng thêm bốt ở Cái Dần, Ninh Dương, mở rộng sân bay và tăng cường công sự ở Tiên Yên để quyết ngăn chặn các hoạt động của quân ta trong chiến dịch Đông Bắc.

Được sự chỉ đạo của Bộ chỉ huy chiến dịch, Ban chỉ đạo miền đông Hải Ninh đã nhanh chóng củng cố lại cơ sở và phát động phong trào thi đua giết giặc để trả thù cho đồng bào bị giặc giết hại ở Móng Cái.

Ngày 19 tháng 4, địch đã tổ chức hai cánh quân từ Tiên Yên và Lộc Bình có máy bay yểm hộ tiến về hợp vây quân ta ở Đình Lập. Nắm được âm mưu của địch, Bộ chỉ huy chiến dịch đã lệnh cho tiểu đoàn 426 nhanh chóng tổ chức trận địa phục kích trên đường số 4, đoạn giữa Quang Hoài và Châu Sơn. Khi bọn địch đã lọt vào giữa trận địa phục kích, tiểu đoàn 426 đã nổ súng và xung phong mãnh liệt. Sau một giờ chiến đấu, quân ta đã diệt gọn cả đoàn xe 15 chiếc (trong đó có cả xe thiết giáp).

Được tin đoàn xe bị diệt, địch lập tức điều thêm hai cánh quân, một cánh từ Đình Lập gồm 200 quân và 15 xe, một cánh từ Châu Sơn gồm 30 xe đến ứng cứu. Mặc dầu quân địch rất đông và lại có máy bay chiến đấu chi viện, tiểu đoàn 426 vẫn kiên cường chiến đấu diệt 106 tên địch và đẩy lùi cả hai cánh quân tiếp viện của chúng. Tới 4 giờ chiều thì quân địch phải rút lui. Thừa thắng cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn 426 dũng mãnh truy kích địch. Bị dồn cùng đường bọn địch phải chạy vào đồng Quang Hoài và sau đó đã phải kéo cờ trắng xin hàng.

Trận chiến đấu ngày 19 tháng 4 kết thúc thắng lợi. Quân ta đã diệt 240 tên, phá hủy 15 xe thiết giáp và vận tải quân sự, phá một khẩu pháo 37 mi-li-mét, thu chín trọng liên và đại liên và 72 súng các loại.

Phối hợp với chiến dịch Đông Bắc, phong trào đấu tranh của nhân dân cũng được khơi dậy mạnh mẽ. Nhân dân Nà Thuộc không chịu đi phu cho giặc. Nhân dân xã Đồng Văn (Bình Liêu) làm nhiều cạm bẫy để chống càn. Du kích Đồng Thắng, Cường Lợi (Tiên Yên) tự chế lấy lựu đạn để đánh giặc và liên tục cắt đường dây điện thoại của địch trên các trục đường giao thông.



Đội du kích xã Đồng Văn huyện Bình Liêu trong kháng chiến chống Pháp

Phát huy ảnh hưởng của chiến dịch, cán bộ chính trị, các cơ quan đoàn thể đã gây được cơ sở Xuân Lan, Lũng Quất, Đông Lùng, Thán Phún, Mã Đầu Sơn (Móng Cái), Tấn Mài, Đại Lai, Chúc Bài Sơn, Lang Khe, Mã Tế Nùng, Đại Điền, Hà Cối. Số hội viên Liên Việt tại các địa phương này đã lên tới 6.000 người.

Ngày 27 tháng 4, chiến dịch Đông Bắc kết thúc. Sau gần hai tháng chiến đấu, các lực lượng vũ trang trên mặt trận Đông Bắc đã đánh trên một chục trận lớn nhỏ, trong đó có trận phục kích lớn trên đường 4 và trận tập kích vào thị xã Móng Cái đã thể hiện sự trưởng thành của bộ đội chủ lực ta trong giai đoạn này, đồng thời đây cũng là những trận phối hợp giữa lực lượng bộ đội với dân quân du kích và đồng bào địa phương khá chặt chẽ, do vậy tạo nên một sức mạnh tổng hợp để chiến thắng quân địch có ưu thế về trang bị và khả năng cơ động hơn ta nhiều lần. Quân và dân Đông Bắc, chủ yếu là Hải Ninh, đã hoàn thành nhiệm vụ nặng nề của chiến dịch giao cho là đánh viện, phá giao thông, kiềm chế, nghi binh và bước đầu đã thực hiện được việc mở rộng vùng duyên hải và tạo điều kiện lên lạc với Quân giải phóng Trung Quốc sau này.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #41 vào lúc: 22 Tháng Bảy, 2017, 07:48:13 pm »

*

Trong lúc chiến dịch Đông Bắc và chiến dịch Cao – Bắc – Lạng 2 đang chuẩn bị bước sang giai đoạn hai thì Bộ Tổng tư lệnh đã giao cho Liên khu 1 nhiệm vụ đưa lực lượng sang phối hợp với nhân dân Trung Quốc chiến đấu.

Đầu năm 1949, cách mạng Trung Quốc đang phát triển mạnh, Quân giải phóng nhân dân Trung Hoa dồn dập tiến công bọn phản động Quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch và đang chuẩn bị tiến xuống Hoa Nam. Bọn Quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch cố sức chống đỡ bám lấy Hoa Nam, do vậy tình hình Hoa Nam, đặc biệt là ở khu giáp biên giới Trung – Việt rất khó khăn, quần chúng bị o ép khống chế, các cơ sở của Đảng Cộng sản Trung Quốc bị đánh phá và các khu căn cứ cách mạng bị bao vây, thu hẹp lại.

Trước tình hình đó, đầu tháng 3 năm 1949, Đảng Cộng sản Trung Quốc cử đại diện sang gặp Trung ương Đảng ta đề nghị cho quân đội sang giúp xây dựng, củng cố Biên khu Điền Quế và Việt Quế, phát triển lực lượng chính trị và vũ trang chuẩn bị sẵn thời cơ để đón Giải phóng quân Trung Quốc tiến xuống giải phóng Hoa Nam.

Với tinh thần quốc tế vô sản cao cả, mặc dù cuộc kháng chiến của ta còn cực kỳ gian khổ, Ban Thường vụ Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chấp nhận đề nghị của phía Trung Quốc và chỉ thị cho Bộ Tổng tư lệnh đưa một bộ phận lực lượng quân đội sang phối hợp hoạt động.

Ngày 23 tháng 4, Bộ Tổng tư lệnh ra mệnh lệnh “Phối hợp với Giải phóng quân Trung Quốc mở rộng khu giải phóng Việt Quế biên khu”(1) và giao nhiệm vụ cho liên khu “Phối hợp cùng các lực lượng vũ trang của Giải phóng quân Biên khu Việt Quế, kịp thời hành động giúp Giải phóng quân xây dựng một vùng giải phóng ở khu Ung – Long – Khâm liền với biên giới đông bắc của ta thông ra bể, liền với khu giải phóng Việt Quế”(2).

Như vậy đây là lần thứ hai trong vòng ba năm, lực lượng vũ trang và nhân dân Việt Nam lại nêu cao tinh thần quốc tế vô sản, ủng hộ, giúp đỡ cách mạng Trung Quốc. Lần thứ nhất trong những năm 1947, 1948 khi cách mạng Trung Quốc bị chính quyền Tưởng Giới Thạch khủng bố, truy quét phải vượt qua biên giới sang Việt Nam, nhân dân và lực lượng vũ trang Hải Ninh, Quảng Yên và Đặc khu Hồng Gai cũng như các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng đã từng giúp lương ăn, áo mặc cho các cơ sở Đảng và các đơn vị Giải phóng quân địa phương Trung Quốc; giúp họ chỗ ở, chia sẻ từng khẩu súng, viên đạn cho tới từng viên thuốc chữa bệnh để từ đó họ củng cố chấn chỉnh lại lực lượng và quay trở về nước phát động quần chúng khôi phục phong trào.

Mặc dù nhiệm vụ tác chiến đang khẩn trương, nặng nề, Liên khu 1 còn rất nhiều khó khăn, song Đảng ủy và Bộ tư lệnh đã nhanh chóng bắt tay vào công tác chuẩn bị, kịp thời lên đường đi chiến đấu.

Căn cứ vào nhiệm vụ của Bộ Tổng tư lệnh giao cho, Bộ tư lệnh Liên khu 1 tổ chức lực lượng thành hai cánh quân, cùng Giải phóng quân Trung Quốc tiến công địch trên hai hướng: hướng Tả Giang ở Long Châu và hướng Thập Vạn Đại Sơn ở Phòng Thành và Khâm Châu. Một bộ tư lệnh chung được tổ chức. Đồng chí Lê Quảng Ba, chỉ huy trưởng mặt trận Đông Bắc của ta làm tư lệnh. Đại diện của Quân giải phóng Biên khu Việt Quế là Trần Minh Giang làm chính ủy.

Trên hướng Tả Giang, lực lượng của ta có hai tiểu đoàn, một đại đội sơn pháo, một đại đội trợ chiến và hai đại đội của địa phương. Đồng chí Thanh Phong, phó tư lệnh Liên khu 1 làm chỉ huy trưởng hướng này.

Hướng Thập Vạn Đại Sơn ta tổ chức một lực lượng đặc biệt gọi là chi đội 6, thành phần gồm tiểu đoàn 426 (thuộc trung đoàn 59) được tăng cường một đại đội và tiểu đoàn 1 thuộc trung đoàn độc lập Hải Ninh do tiểu đoàn trưởng Minh Hồ chỉ huy. Về hỏa lực có hai đại đội pháo binh và một đại đội trợ chiến. Chỉ huy chi đội 6 có đồng chí Nam Long là trung đoàn trưởng trung đoàn 59 làm chi đội trưởng; đồng chí Hoàng Bình trung đoàn trưởng trung đoàn độc lập Hải Ninh là chi đội phó và đồng chí Đỗ Trình, chính trị viên trung đoàn 59 làm chính trị ủy viên chi đội kiêm chính trị hiệp lý viên cho Bộ tư lệnh khu Thập Vạn Đại Sơn.

Ngày 6 tháng 6 năm 1949, sau khi đồng chí Nguyễn Khang, bí thư Liên khu ủy đến thăm và giao nhiệm vụ, bộ đội ta bắt đầu xuất phát.


(1), (2) Mệnh lệnh số 264, B/TTL, ngày 23 tháng 4 năm 1949
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #42 vào lúc: 22 Tháng Bảy, 2017, 07:49:15 pm »

Sau một thời gian làm công tác vận động quần chúng và điều tra tình hình địch, Bộ tư lệnh khu Thập Vạn Đại Sơn quyết định bước vào chiến đấu. Ngày 1 tháng 7, tiểu đoàn 426 được giao nhiệm vụ tiến đánh Trúc Sơn (một vị trí có gần một tiểu đoàn địch đóng). Hai tiểu đoàn khác được bố trí chặn viện ở hai hướng Nà Lương – Phòng Thành và Đông Hưng.

Đêm 5 tháng 7, tiểu đoàn 426 bắt đầu nổ súng, mở đầu bằng đợt bắn cấp tập các loại súng cối 60, 82 mi-li-mét vào khu trung tâm và hỏa lực đại liên, trung liên bắn vào các hỏa điểm chìm của giặc nhưng không phá được các lô cốt. Các đại đội bộ binh 85, 86, 87 được sự yểm hộ của hỏa lực bắn thẳng đã xung phong lên, nhưng cũng chỉ chiếm được các góc phố. Trận đánh kéo dài. Ta phải chuyển sang bao vây tiêu diệt địch.

Trong thời gian này trên đường Phòng Thành – Đông Hưng, các đơn vị chặn viện của ta đã hai lần đánh lui viện binh địch.

Ngày 10 tháng 7, bộ đội ta rút về Vọng Tâm sau khi đã tiêu diệt và làm bị thương gần 200 tên địch. Về phía ta, cũng bị tổn thất, 53 đồng chí hy sinh.

Sau một thời gian nghỉ ở Nà Sốn, Vọng Thôn, quân ta lại tiếp tục đánh địch ở Mào Lủng (ngày 25 tháng 7) và vượt sông sang Khâm Châu đuổi đánh đoàn thuyền lương của tên trùm phỉ Trương Thụy Quý trên bến Trường Thán.

Sang đầu tháng 8, ta bao vây quân Tưởng ở núi Quan Đường phía nam Nam Ninh, diệt và bắt sống một đại đội địch. Tiếp dó, quân ta đánh địch ở Voòng Chúc, Đại Trực và một số vị trí khác.

Sau năm tháng hành quân và chiến đấu gian khổ, bộ đội ta cùng Quân giải phóng Trung Quốc đã loại khỏi vòng chiến hơn một trung đoàn quân Tưởng, giải phóng 10 trong tổng số 12 thị trấn của Phòng Thành, nối liền các căn cứ của khu Thập Vạn Đại Sơn thành một dải.

Sau khi hoàn thành nhiệm vụ quốc tế, Quân tình nguyện Việt Nam đã rút về nước và cử một đại đội ở lại để tiếp tục gây cơ sở và đánh địch ở vùng biên giới giữa hai tỉnh Quảng Đông và Hải Ninh. Đại đội này do chính trị viên Bế Thủy và đại đội phó Lê Phan chỉ huy và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Hải, ủy viên thường vụ tỉnh ủy kiêm trưởng ban cán sự miền Đông của tỉnh Hải Ninh. Đại đội đã được tăng cường một trung đội bộ đội chủ lực tỉnh và một trung đội bộ đội huyện Móng Cái. Tháng 10 năm 1949, khi Giải phóng quân Trung Quốc ào ạt tiến xuống Hoa Nam, lực lượng quân Tưởng ở Đông Hưng tháo chạy, các đồng chí Bế Thủy, Lê Phan chỉ huy đại đội tiến vào chiếm thị trấn này. Hai ngày sau, khi Quân giải phóng Trung Quốc đến, ta đã bàn giao lại thị trấn còn nguyên vẹn cho Giải phóng quân.

Chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn kết thúc thắng lợi. Với tinh thần hy sinh chiến đấu của mình, Quân đội cách mạng Việt Nam, trong đó có các con em của các tỉnh đông – bắc và Quảng Ninh đã góp phần xây dựng tình hữu nghị giữa quân đội và nhân dân hai nước. Và cũng qua chiến dịch này bộ đội Việt Nam đã làm cho nhân dân ở đây hiểu rõ các lực lượng vũ trang Việt Nam, một quân đội cách mạng thương dân, dũng cảm vô song, sẵn sàng hy sinh thân mình vì nghĩa vụ quốc tế cao cả.

*

Tháng 7 năm 1949, đại hội đại biểu Đảng bộ Hải Ninh lần thứ hai đã họp tại Khe Lao (Hải Chi) với 400 đại biểu. Đại hội đã kiểm điểm công tác lãnh đạo kháng chiến trong hai năm, đặc biệt là sáu tháng đầu năm 1949. Đại hội nhất trí nhận định: phong trào kháng chiến của Hải Ninh đã thu được kết quả trên nhiều mặt, phong trào chiến tranh nhân dân đã phát triển tương đối đổng đều, lực lượng vũ trang đã có nhiều tiến bộ. Đại hội quyết nghị trong thời gian tới phải chú ý đến công tác cơ sở, đặc biệt là công tác vận động người Hoa, tiến tới phát động chiến tranh du kích ở những nơi có điều kiện.

Để khắc phục những khó khăn về tài chính – kinh tế, tháng 10 năm 1949 tỉnh Hải Ninh đã tổ chức Ban kinh tế - tài chính của tỉnh và hai đội du kích tập trung của miền biển để tạo nguồn thu cho kháng chiến và bao vây kinh tế địch ở vùng biển Tiên Yên, Móng Cái. Các đội du kích và cán bộ tài chính của ta đã tiến hành thu thuế của các thuyền buôn, thuyền khai thác lâm sản của các tư thương; đồng thời tổ chức các trận đánh vào các tàu vận chuyển hậu cần của địch trên biển từ Móng Cái – Tiên Yên – Hồng Gai. Chỉ ít ngày sau khi thành lập quân ta đã phục kích thu được ba thuyền gạo, một bè gỗ và đánh một ca nô quân sự, diệt 49 tên địch, thu được nhiều vũ khí. Ngoài ra họ còn phối hợp với du kích Bình Liêu tịch thu được 60 con trâu bò của bọn gian thương mua từ Trung Quốc về bán cho quân Pháp.

Đến tháng 11 năm 1949, hội nghị tỉnh ủy Hải Ninh mở rộng đã họp bề bàn giải quyết một số công việc cần kíp. Sau khi kiểm điểm về công tác xây dựng chính quyền và các đoàn thể có làm được nhưng hoạt động chưa mạnh, chưa đồng đều… hội nghị biểu dương về sự trưởng thành của các lực lượng vũ trang địa phương, đặc biệt là dân quân du kích. Trong năm 1949 Hải Ninh đã có nhiều cố gắng trong xây dựng lực lượng bộ đội địa phương. Sau khi tiểu đoàn 439 được rút, tỉnh đã xây dựng được hai tiểu đoàn chủ lực: tiểu đoàn 10 gồm hai đại đội 5 và 8, tiểu đoàn 20 gồm hai đại đội 45 và 60. Các đơn vị bộ đội địa phương huyện mới được thành lập gồm: đại đội 35 của huyện Bình Liêu; ba trung đội của huyện Hải Chi (tức Ba Chẽ), hai trung đội của huyện Móng Cái và ba trung đội của các huyện Tiên Yên, Đầm Hà, Hà Cối.

Đây là một thành tích đáng khuyến khích của đảng bộ và nhân dân Hải Ninh; tuy nhiên với một tỉnh rừng núi quá nghèo về lương thực mà có tới hai tiểu đoàn chủ lực, trong khi ở các tỉnh đồng bằng đông dân mỗi tỉnh cũng chỉ có một tiểu đoàn cho nên việc nuôi quân ở Hải Ninh gặp rất nhiều khó khăn(1).


(1) Lúc đầu hai tiểu đoàn này còn dựa vào sự giúp đỡ của nhân dân Trung Quốc khu Ung – Long – Khâm, nhưng sau do địch phong tỏa gay gắt và một phần nhân dân ở đây cũng có khó khăn nên ta đã giải thể hai tiểu đoàn và một vài đơn vị khác vào năm 1950.
« Sửa lần cuối: 22 Tháng Bảy, 2017, 07:59:47 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #43 vào lúc: 22 Tháng Bảy, 2017, 07:51:30 pm »

*

Tới mùa hè năm 1949, cuộc kháng chiến của nhân dân ta đang có những bước phát triển mạnh mẽ. Bên kia biên giới cách mạng Trung Quốc vừa thành công tạo điều kiện cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta mở rộng giao lưu với các nước xã hội chủ nghĩa.

Về phía địch, giữa năm 1949, trong thế bị động khó khăn của chính phủ Pháp cấp tốc cử tướng Rơ-ve tổng tham mưu trưởng quân Pháp sang Đông Dương. Rơ-ve đã vạch ra một kế hoạch, trong đó có đề cập đến việc thành lập một khu phòng thủ tứ giác hẹp Lạng Sơn – Tiên Yên – Hải Phòng – Hà Nội. Để thực hiện kế hoạch trên chúng đã cấp tốc đưa tiểu đoàn Ma-rốc từ Sơn La về Hải Ninh và đưa lực lượng chiếm đóng Âu – Phi lên tuyến biên giới, đóng thêm các vị trí mới ở cầu Đông Hưng và Nam Hải (Ba Chẽ). Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương trực tiếp về Móng Cái để chỉ đạo củng cố thế trận phòng thủ ở vùng Đông Bắc.

Tháng 6 năm 1950, Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Biên Giới trên phạm vi ba tỉnh Cao Bằng – Bắc Cạn – Lạng Sơn. Trung ương cũng chỉ thị cho các địa phương phải đẩy mạnh hoạt động phối hợp với chiến trường chính. Hải Ninh và Quảng Yên là những địa bàn kề sát chiến trường chính, có liên quan trực tiếp với chiến dịch vì có đường giao thông chiến lược số 4 chạy qua.

Phát hiện được ý định chiến lược của ta đối với vùng Đông Bắc, quân địch tìm mọi cách chống phá. Từ tháng 5 đến tháng 9 năm 1950, chúng đã mở hai cuộc hành quân càn lớn vào vùng rừng núi, căn cứ địa của tỉnh Quảng Yên và huyện Ba Chẽ thuộc tỉnh Hải Ninh để thăm dò lực lượng và phá sự chuẩn bị của ta. Các lực lượng vũ trang của ta đã tổ chức đánh địch bảo vệ căn cứ và tiếp tục chuẩn bị phục vụ chiến dịch; mặt khác cũng chủ động đánh địch để làm lạc hướng sự chú ý của chúng.

Tháng 8 năm 1950, bộ đội và du kích Bình Liêu đã phục kích trên đường số 10 đoạn từ Khe San đi Vạn Mây, phá hai xe, diệt tám tên địch, thu sáu súng và lấy lại cho dân hơn bốn chục con trâu bị địch cướp. Ngày 10 tháng 9, du kích và công an Bình Liêu bao vây bọn phản động ở Cô Hồn. Cùng lúc đó ở Móng Cái bộ đội ta lại đột nhập thị xã Móng Cái một lần nữa.

Ngày 16 tháng 9 năm 1950, chiến dịch Biên Giới mở màn bằng trận đánh vào cứ điểm Đông Khê (Cao Bằng).

Tuyến phòng thủ biên giới của địch bị lung lay dữ dội. Từ ngày 13 đến ngày 23 tháng 10 năm 1950, địch vội vã rút khỏi các vị trí Đồng Đăng, Lạng Sơn, An Châu (Sơn Động, Quảng Yên) và Đình Lập (Hải Ninh). Tại Đình Lập, nhân lúc lính ngụy hoang mang lo lắng, cán bộ, bộ đội và nhân dân ta đã vận động 70 lính thuộc các đồn Nà Thuộc, Nà Pá, Khe Cháy về hàng kháng chiến, mang theo toàn bộ vũ khí.

Theo phản ứng dây chuyền, từ ngày 18 đến ngày 20 tháng 10, địch rút khỏi An Châu, Khe Cháy trên đường số 13; trên đường 4 chúng rút quân ra Mũi Ngọc (Móng Cái). Ngày 22 tháng 10, đại bộ phận địch ở Tiên Yên rút vội ra đảo Vạn Hoa, ở thị trấn chỉ còn lại một trung đội. Ngày 30 và 31 tháng 10 địch hốt hết kho tàng ở Đình Lập rồi rút về Tiên Yên. Tại đây, đại đội 35 của Đình Lập được lệnh tới bảo vệ vùng mới giải phóng và truy quét những tàn quân địch.

Tới đây, chiến dịch Biên Giới ở mặt trận Đôn Bắc kết thúc. Trên suốt một dải Đông Bắc dài 100 ki-lô-mét từ Đồng Đăng, Lạng Sơn đến Đình Lập, Tiên Yên, An Châu đã sạch bóng địch. Hệ thống đường số 4, vành đai khép chặt biên giới mà địch đã ra công xây dựng bị phá vỡ tan tành.

Trong chiến dịch này, quân và dân ba tỉnh Hải Ninh, Quảng Yên và Đặc khu Hồng Gai có những đóng góp đáng kể. Tại Quảng Yên, mặc dù bị địch càn phá ác liệt liên tục, nhưng hơn 3.000 thanh niên đã xung phong nhập ngũ ra chiến trường, 38 nghìn lượt người đã hăng hái đi dân công, chuyển được 120 tấn thóc và 320 tấn hàng hóa ra mặt trận. Ở khu mỏ, thực hiện kế hoạch phá hoại kinh tế địch, các mỏ Mạo Khê, Tràng Bạch, Uông Bí nhiều lần bị các đội biệt động và công nhân ta đánh phá. Ở Hồng Gai, công nhân ta đã phá sập nhà máy sàng, làm tê liệt hàng chục ô-tô chở than; phá hủy hai tàu cuốc và lợi dụng mùa mưa đã phá sập 60 phần trăm các tầng lò, đưa tổng số thiệt hại của địch ở khu mỏ lên tới gần 200 triệu đồng Đông Dương.

Tuy nhiên do lực lượng vũ trang địa phương của ta cỏn có hạn, lại chưa dày dạn kinh nghiệm chiến đấu và chỉ đạo chưa chủ động, quyết đoán, nhạy bén với tình hình nên còn bỏ lỡ một số cơ hội để giải phóng thêm một số đất đai như ở Tiên Yên, Móng Cái địch đã rút chạy một ngày (ở Tiên Yên chỉ còn lại một trung đội địch) nhưng ta không kịp thời có hành động gì, nên địch lại quay trở lại chiếm đóng; ở đường 13 (An Châu) khi địch rút chạy rất hỗn loạn, đội hình xộc xệch ta cũng không có lực lượng chặn đánh; hoặc ở Quảng Yên, Phả Lại, địch chuẩn bị rút chạy, nhưng ta cũng không kịp thời tiến đánh hoặc làm công tác địch vận để làm tan rã hàng ngũ địch. Những điểm yếu này sau chiến dịch đã được Liên khu ủy Việt Bắc và các cấp ủy địa phương kịp thời rút kinh nghiệm và khắc phục trong các chiến dịch tiếp theo.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #44 vào lúc: 22 Tháng Bảy, 2017, 07:58:31 pm »



Tình hình ta - địch trên chiến trường Quảng Ninh
(đến trước chiến dịch biên giới 1950)
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #45 vào lúc: 25 Tháng Bảy, 2017, 09:39:45 pm »

2. Tham gia chiến dịch Trung Du và chiến dịch đường 18, phá kế hoạch phòng ngự và bình định của địch trên chiến trường đồng bằng Bắc Bộ.

Sau thất bại nặng nề trên chiến trường Biên Giới, Bộ tham mưu quân đội viễn chinh Pháp phán đoán có nhiều khả năng quân ta sẽ tiếp tục đánh xuống vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ trong Đông Xuân 1950 – 1951. Để chuẩn bị đối phó với ta, chúng đã tăng cường phòng thủ trung du. Trên các địa bàn Vĩnh Yên, Bắc Giang, Bắc Ninh, Gia Lâm và Phủ Lỗ, năm binh đoàn cơ động đã được bố trí trong thế liên hoàn có thể chi viện cho các mục tiêu bị công kích trong vòng một bán kính khá rộng với thời gian chỉ trong vòng 24 giờ.

Cùng với việc triển khai lực lượng cơ động trên các địa bàn chiến lược, địch bắt đầu triển khai kế hoạch lập tuyến công sự mới (công sự boong-ke) và tiến hành phá làng, dồn dân lập “vành đai trắng”.

Tại mặt trận Đông Bắc, địch còn chốt lại ở các vị trí Bình Liêu, Tiên Yên, Móng Cái, triển khai xây tuyến phòng thủ boong-ke từ Yên Lập theo đường 18 lên đến Đông Triều, Chí Linh, Phả Lại và tổ chức sư đoàn cơ động Bắc Bộ số 2 đứng chân ở Mạo Khê. Địch tăng cường các cuộc càn quét lớn, đồng thời phát triển hoạt động biệt kích để đánh phá ta. Địch phong tỏa đường 18 bằng cách lập vành đại trắng, hàng rào dây thép gai, bãi mìn, kết hợp với dùng phi pháo bắn phá đã làm cho việc liên lạc vận chuyển giữ vùng rừng núi với đồng bằng của ta gặp nhiều khó khăn.

Về phía ta, ngay từ sau chiến thắng Biên Giới, Trung ương Đảng đã chủ trương tiếp tục mở các chiến dịch tiến công nhằm tiêu diệt sinh lực địch, phát triển chiến tranh du kích, phá kế hoạch củng cố lực lượng và bình định đồng bằng của địch, giữ vững quyền chủ động chiến lược của ta trên chiến trường Bắc Bộ.

Thực hiện chủ trương của Đảng, cuối tháng 12 năm 1950, Bộ Tổng tư lệnh quyết định mở chiến dịch Trung Du (Trần Hưng Đạo) với mục đích tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch trên hướng chính của chiến dịch là khu vực từ Việt Trì đến Vĩnh Yên, Phúc Yên, Bắc Ninh. Trên vùng duyên hải Đông Bắc – hướng phối hợp của chiến dịch, lực lượng vũ trang của Liên khu 1 phối hợp với bộ độ địa phương và dân quân du kích Quảng Yên, Hải Ninh có nhiệm vụ đánh địch ở Móng Cái, Tiên Yên, Bình Liêu, Hoành Mô, giải phóng một đoạn đường số 4. Trên hướng Hải Ninh, để chuẩn bị vào chiến dịch, một đoàn cán bộ của Bộ Tổng tư lệnh đã về Tiên Yên, Móng Cái nghiên cứu và chuẩn bị chiến trường. Trong thời gian này, trung đoàn 28 đã dùng nội ứng hạ đồn Chúc Bài Sơn ở Hà Cối. Sau đó tiếp tục bao vây, bức rút hoặc tiêu diệt các đồn Pò Hèn, Thán Phún, Tấn Mài, Pắc Si diệt trên 400 tên địch.

Phối hợp với hoạt động của chủ lực của Bộ và Liên khu, từ ngày 15 đến ngày 30 tháng 11 năm 1950, đại đội 54 của tỉnh và đại đội 35 của Đình Lập đã phục kích ở Khen San, chặn địch ở Nà Pá, phá bốn xe vận tải chở quân, diệt 32 tên, thu sáu súng.



Bộ đội ta chuẩn bị đánh đồn Tấn Mài (Quảng Hà) tháng 11 năm 1950
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #46 vào lúc: 25 Tháng Bảy, 2017, 09:44:54 pm »

Ngày 26 tháng 12 năm 1950, hướng chính của chiến dịch bắt đầu mở màn thì ở Hải Ninh, trung đoàn 174 nổ súng tiến công đồn Bình Liêu.

Bình Liêu là một vị trí quan trọng của địch trên tuyến phòng thủ đông – bắc Hải Ninh. Trong chiến dịch Biên Giới, khi đốt phá rút chạy khỏi Đình Lập, chúng đã tăng cường lực lượng cho Bình Liêu, quân số ở đây đã tập trung tới trên một tiểu đoàn gồm phần lớn là Âu – Phi.

Trận Bình Liêu, ngoài lực lượng bộ binh quân ta có sử dụng pháo binh (sơn pháo 75 mi-li-mét). Sau hơn một giờ tiến công, quân ta đã đánh chiếm được các công sự, ổ đề kháng ở vòng ngoài. Nhưng từ lô cốt chính ở giữa đồn quân địch vẫn chống trả mãnh liệt mà đạn pháo 75 để bắn sập được lô cốt chỉ còn vài viên, khó bảo đảm bắn sập được lô cốt địch. Giữa lúc tình huống đang gay cấn thì Nguyễn Văn Sáu(1) đã đi khảo sát thực địa, anh đề nghị cho đục một lỗ thủng ở bức tường nhà gần kề lô cốt chính rồi đưa pháo vào bắn ngắm trực tiếp. Đề nghị của anh được chỉ huy trận đánh chấp nhận. Và chỉ với một phát đạn 75 mi-li-mét bắn trực tiếp, lô cốt cố thủ kiên cố nhất của đồn Bình Liêu đã bị phá sập. Cuộc cầm cự dai dẳng của bọn địch ở đây đã chấm dứt. trong trận này quân ta đã tiêu diệt hai đại đội địch, bắt sống 120 tên, thu toàn bộ vũ khí, quân trang, quân dụng. Bị đánh mạnh ở Hà Cối, Móng Cái, Bình Liêu, bọn chỉ huy địch buộc phải cho rút các vị trí Châu Sơn, Khe Mò, Phong Dụ, Hoành Mô về lập khu trung tâm đề kháng ở Tiên Yên để cố thủ.

Bình Liêu trở thành huyện thứ hai ở Hải Ninh được giải phóng trong năm 1950.

Sau một loạt trận đánh ở Hà Cối và Móng Cái, trung đoàn 98 được lệnh về tham gia đánh địch trên hướng chính ở Bắc Giang. Khi qua Chí Linh (Quảng Yên), trung đoàn đã phối hợp với tiểu đoàn Bạch Đằng, bộ đội chủ lực của Quảng Yên tiến công tiêu diệt đồn Cẩm Lý ở Chí Linh và đánh quân tiếp viện.

Cũng trong tháng 1 năm 1951, tại Quảng Yên, tiểu đoàn Bạch Đằng, đại đội 917 (Sơn Động) đã phối hợp với tiểu đoàn 28 của tỉnh Bắc Giang tiến công địch ở Lục Nam, Yên Hưng, Kinh Môn và Đông Triều. Ngoài ra tiểu đoàn còn tham gia phá tề, diệt bảo an ở một số nơi.

Ngày 17 tháng 1 năm 1951, chiến dịch Trung Du kết thúc. Sau hơn hai mươi ngày đêm chiến đấu, quân ta đã tiêu diệt và loại khỏi vòng chiến đấu hơn 5.000 quân địch, thu nhiều vũ khí. Trên hướng chính ta đã giải phóng được phần phía bắc của hai tỉnh Vĩnh Yên, Phúc Yên. Ở hướng đông – bắc ta đã giải phóng huyện Bình Liêu, mở rộng vùng tự do của Hải Ninh tới sát đường Tiên Yên – Móng Cái, thực hiện được một phần nhiệm vụ mở rộng khu lương thực và phát triển chiến tranh du kích trong vùng sau lưng địch ở chiến trường đông – bắc và trung du.

Trong chiến dịch này lực lượng vũ trang địa phương và nhân dân hai tỉnh Quảng Yên, Hải Ninh đã tích cực phối hợp chiến đấu với bộ đội chủ lực và phục vụ chiến trường. Tuy nhiên ở Quảng Yên công tác chỉ đạo thiên về phục vụ chiến trường nhiều hơn, chưa chú ý đẩy mạnh chiến tranh du kích ở địa phương, do đó hiệu quả chiến dịch trên địa bàn của tỉnh còn bị hạn chế.


(1) Nguyễn Văn Sáu, tên thật là Cô-hi-rô I-oai, sĩ quan pháo binh trong quân đội Nhật. Khi phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh, được giác ngộ anh đã tình nguyện gia nhập quân đội Việt Nam chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng của nhân dân Việt Nam.



Quảng Yên, Hải Ninh trong chiến dịch Trung Du (26-12-1950 – 17-1-1951)
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #47 vào lúc: 25 Tháng Bảy, 2017, 09:47:30 pm »

*

Tiếp theo chiến dịch Trung Du, cuối tháng 2 năm 1951, Bộ Tổng tư lệnh quyết định mở chiến dịch đường 18 (chiến dịch Hoàng Hoa Thám) nhằm phá kế hoạch phòng ngự và bình định đông bằng Bắc Bộ của địch.

Hướng chính của chiến dịch là đường 18, đoạn từ Phả Lại đến Uông Bí dài 50 ki-lô-mét, nằm trên địa phận tỉnh Quảng Yên. Hướng phụ là trung du và hướng phối hợp là Liên khu 3. Trong chiến dịch này ta tổ chức tiến công vào một tuyến phòng ngự vững chắc của địch ở đồng bằng, nơi gần kề các mục tiêu chiến lược của địch. Ý định ở hướng chính là lợi dụng yếu tố bất ngờ, đánh điểm diệt viện; lực lượng sử dụng gồm năm trung đoàn của đại đoàn 308 và 312, hai trung đoàn 98 và 174 do đồng chí Hà Kế Tấn làm tư lệnh chiến dịch. Đồng chí Trịnh Nguyên, bí thư tỉnh ủy Quảng Yên được cử tham gia Bộ chỉ huy chiến dịch.



Đồng chí Trịnh Nguyên

Sau khi nhận lệnh của Bộ Tổng tư lệnh, Liên khu Việt Bắc giao nhiệm vụ cho Đảng bộ, lực lượng vũ trang và nhân dân Quảng Yên: “Phải phát huy thắng lợi của chiến dịch Trần Hưng Đạo và chuẩn bị gấp rút cho chiến dịch mới. Khi chuẩn bị phối hợp với chiến dịch của địa phương, mức chuẩn bị cho chiến dịch mới phải gấp đôi chiến dịch trước”(1).

Sau khi nhận nhiệm vụ của Liên khu Việt Bắc, tỉnh ủy Quảng Yên đã mở hội nghị quân sự để quán triệt nhiệm vụ Liên khu giao, đồng thời đề ra quyết tâm của quân dân Quảng Yên là:

- Tích cực chuẩn bị chiến trường, dốc toàn lực cho chiến dịch toàn thắng.

- Phối hợp với chủ lực tích cực tiêu diệt sinh lực địch, ngăn cản và kiềm chế chúng. Phát triển chiến tranh du kích đến cao độ.

Tỉnh ủy cũng xác định nguyên tắc chỉ đạo chiến tranh du kích trong chiến dịch là:

- Độc lập trong kế hoạch, chủ động trong từng chiến trường.

- Phát huy lòng dũng cảm của bộ đội, đánh cận chiến.

- Vượt mọi khó khăn, liên tục chiến đấu.

Các địa phương và đơn vị còn được giao nhiệm vụ và chỉ tiêu là: Chủ trương đánh phá các vùng giao thông quan trọng và các tháp canh, mỗi huyện phải diệt từ một đến ba tháp canh. Tiểu đoàn chủ lực chú trọng phục kích, bao vây tiêu diệt địch trong phạm vi nhỏ, có thể tác chiến với một đại đội ứng chiến trở xuống. Các đại đội của huyện chú trọng phục kích, quấy rối, đánh phá đường giao thông và diệt các tháp canh. Dân quân du kích chú trọng phá hoại, trừ gian, diệt tề, bao vây kinh tế địch, đánh liên tục và giúp đỡ bộ đội. Tất cả các lực lượng đều phải chú ý chống càn.

Hội nghị cũng nhấn mạnh cần đẩy mạnh phong trào toàn dân làm địch vận; thực hiện truyền tin nhanh nhân lúc địch hoang mang mà gây nhân mối, v.v.


(1) Chỉ thị “Nhiệm vụ của các địa phương đối với chiến dịch” của Liên khu Việt Bắc (tháng 2 năm 1951). Lưu trữ Khu ủy Việt Bắc.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #48 vào lúc: 25 Tháng Bảy, 2017, 09:49:21 pm »

Sau gần một tháng chuẩn bị, đêm ngày 23 tháng 3 năm 1951, chiến dịch Hoàng Hoa Thám bắt đầu. Mở màn chiến dịch quân ta đã tiến công tiêu diệt bốn vị trí: Lán Tháp, Lọc Nước, Máng Nước và Đồng Trâu. Tin chiến bại từ phân khu quân sự Quảng Yên dội về bộ chỉ huy tham mưu của Pháp.Quân đội đối phương mở cuộc tiến công lớn ở vùng mỏ Đông – Bắc. Bảy đồn bị diệt, hai trăm súng bị mất. Nguồn nước ngọt tiếp tế cho Hải Phòng bị cắt. Đồng thời trên đường 5 nhiều đoạn đường sắt Hà Nội – Hải Phòng bị phá. Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương đang ở Pa-ri vội vàng về Hà Nội và tối 26 tháng 3 về Hải Phòng để lo bề chống trả.



đồn Lán Tháp bị tiêu diệt trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám năm 1951

Sau ba ngày chuẩn bị sẵn sàng để đánh quân tiếp viện (nhưng bọn địch không đến), đêm 27 tháng 3 quân ta diệt tiếp hai vị trí Bí Chợ và Tràng Bạch (đây là hai vị trí phòng ngự mạnh của địch trên đường 18 do một đại đội địch chốt giữ). Để chống trả cuộc tiến công quyết liệt của ta, đêm 27 tháng 3, pháo binh và máy bay địch đã đánh phá dữ dội vào các trận địa của ta. Trước sức tiến công của ta ngày 28 tháng 3, bọn địch ở hai vị trí Lâm Xá, Dốc Đỏ rút chạy. Lính địch hoang mang, nhiều tên đã buộc khăn tay trắng lên đầu mũi súng để sẵn sàng đầu hàng.

Thừa thắng, đêm 29 và ngày 30 tháng 3, quân ta tiến công Mạo Khê phố và Mạo Khê mỏ. Tại đây bọn lính Âu – Phi chống trả quyết liệt. Quân ta đã xung phong đánh giáp lá cà nhiều đợt nhưng cuối cùng chỉ tiêu diệt được một số lớn địch ra phản xung phong, còn các lô cốt cố thủ của chúng vẫn được giữ vững.

Trước sức tiến công liên tiếp của ta trên tuyến đường 18 và trước yêu cầu khẩn thiết của bọn chủ mỏ than, tướng Tát-xi-nhi, tổng chỉ huy kiêm cao ủy Pháp ở Đông Dương đã phải về Đông Triều để chỉ huy các đơn vị của chúng chiến đấu. Tên thủ tướng bù nhìn Trần Văn Hữu cũng bám gót Tát-xi-nhi về úy lạo và trấn an bọn ngụy quân đóng ở đây.

Sau khi nghiên cứu tình hình, Tát-xi-nhi đã điều tiểu đoàn dù của sư đoàn cơ động Bắc Bộ 2 cùng với thủy đội xung kích 1 trên sông Bạch Đằng có tàu chiến và pháo binh ở Đông Triều yểm hộ, đến tăng viện cho Mạo Khê mỏ.

Trước tình hình đó quân ta đã chuyển sang đánh quân tiếp viện và bắn rơi một máy bay phóng pháo Hen-cát của địch. Lợi dụng lúc quân ta đang tập trung đánh quân tiếp viện, bọn địch còn lại trong Mạo Khê mỏ đã vội vàng tháo chạy.



Quang cảnh đồn Mạo Khê bị quân ta tiêu diệt ngày 29-3-1951

Ngày 30 tháng 3, ở Mạo Khê phố quân ta đánh sập hai lô cốt và bắn cháy ba xe tăng. Trước nguy cơ lực lượng ở đây bị tiêu diệt, Tát-xi-nhi đã điều tiếp một tiểu đoan dù nữa của sư đoàn cơ động Bắc Bộ 2 đến tăng cường. Trước tình hình không có lợi, quân ta đã rút khỏi Mạo Khê phố.

Để ngăn chặn các cuộc tiến công của ta, địch đã liên tục dùng máy bay oanh tạc dữ dội vào các vị trí chúng nghĩ là nơi tập kết quân của ta. Có lần chúng đã ném bom vào gần sở chỉ huy chiến dịch ở bên dãy núi Yên Tử, gây thương vong một trung đoàn trước giờ xuất kích.

Tuy được phi pháo yểm hộ tới mức tối đa, nhưng tinh thần bọn địch ở các vị trí tiếp giáp với ta rất dao động. Địch ở các vị trí thuộc Uông Bí và trên đường Máng Nước thuộc Yên Hưng lũ lượt rút chạy về Hải Phòng, Quảng Yên. Địch ở vị trí Yên Lập (ở khá xa chiến trường chính) cũng bỏ chạy.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #49 vào lúc: 25 Tháng Bảy, 2017, 09:50:45 pm »

Trong hai đêm 4 và 5 tháng 4, quân ta tiến công các vị trí Bến Tắm, Bãi Thảo, Hoàng Đán, Hạ Chiều. Đây là những vị trí kiên cố của địch nên ta không giành được thắng lợi hoàn toàn. Cũng trong thời gian này địch đã điều hai binh đoàn cơ động số 4 và số 7 về Quảng Yên, đưa số quân ở Đông Triều lên 2.500 tên, ở Phả Lại lên 3.000 tên và ở Bến Tắm lên 2.100 tên. Địch quyết tâm giữ bằng được các vị trí then chốt này.

Trước sự đối phó điên cuồng của địch, cân nhắc thấy đánh tiếp không có lợi, mặt khác lúc này quân ta cũng thiếu gạo tiếu đạn, nên Bộ chỉ huy chiến dịch đã quyết định kết thúc chiến dịch vào ngày 7 tháng 4.

Sau nửa tháng chiến đấu, quân và dân Quảng Yên cùng với bộ đội chủ lực tham gia chiến dịch đường 18 đã diệt trên 2.000 tên địch, bắt sống và làm bị thương 1.050 tên, tiêu diệt 143 vị trí, bức rút bốn vị trí, thu trên 400 súng các loại, phá hủy 49 xe vận tải quân sự, sáu xe tăng và xe bọc thép, bắn rơi một máy bay; ta đã thực hiện được một phần yêu cầu của chiến dịch là tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, mở rộng được đường từ căn cứ vào vùng sau lưng địch, đồng thời đã buộc địch phải đình chỉ việc khai thác than ở mỏ Vàng Danh.

Thực hiện quyết tâm của tỉnh ủy “dốc toàn lực cho chiến dịch toàn thắng”, quân và dân Quảng Yên đã đẩy mạnh mọi mặt hoạt động một cách đồng đều, vừa phục vụ chiến dịch vừa trực tiếp chiến đấu; đánh địch ở phía trước và phía sau lưng địch, kết hợp giữa tác chiến với địch vận, tiêu diệt sinh lực địch với phá tề, trừ gian. Trên hướng chính của chiến dịch dân quân du kích Bình Dương, Vĩnh Khê, Yên Đức (Đông Triều) Minh Thành (Yên Hưng) đã phục kích ba trận trên đường 18 và đường 10, phá hủy ba vị trí địch là Dốc Đỏ, Tràng Bạch, Yên Lập, phá 21 cầu, phà trên đường 18, đường 17 của Đông Triều, Chí Linh, Yên Hưng; ngoài ra quân ta còn căng nhiều khẩu hiệu để làm công tác dịch vận đối với lính Âu – Phi trên đường 18 và 17 ở Đông Triều, Chí Linh, Yên Hưng…



cầu Uông Bí (trên đường 18) bị quân ta phá sập
trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám năm 1951

Sau khi chủ lực ta đánh Mạo Khê, một số cơ sở địch vận của ta ở Xuân Sơn, Hưng Đạo (Đông Triều) đã liên hệ với nhân mối trong binh lính địch buộc hai đồn trưởng của hai đồn Cầu Cầm và Thôn Mai ra hàng cùng với 24 lính và 27 súng.

Ở vùng địch tạm chiếm, du kích Kinh Môn đã tiến công bốn tháp canh và bốt bảo an, diệt và bắt 49 tên, phá một cầu, quấy rối vị trí Nhị Chiểu, Chí Linh và phục kích một trận. Du kích Sơn Động quấy rối vị trí Đồi Ngô, phá đường, cắt bảy ki-lô-mét dây điện.

Từ ngày 24 tháng 3 đến ngày 29 tháng 3 năm 1951, tiểu đoàn Bạch Đằng đã tiến công vị trí pháo Phi Liệt (Thủy Nguyên). Trong trận chống càn ở Diệu Tú (Yên Hưng), tiểu đoàn đã diệt 74 tên địch. Trong chiến dịch này, tiểu đoàn đã đánh 10 trận ở vùng Chí Linh, Yên Hưng, Thủy Nguyên, Kinh Môn, diệt 120 tên địch.

Trong đợt hoạt động phối hợp với chiến dịch Hoàng Hoa Thám, quân và dân Quảng Yên đã đánh 90 trận, diệt 307 tên giặc, phá một xe và ba vị trí, bức hàng hai đồn giặc, vận động 35 lính và đồn trưởng trở về mang theo 27 súng, phá tề và dõng ở 22 thôn, diệt bốn tháp canh và đồn bảo an, phá hàng chục cầu, phá, cắt bảy ki-lô-mét dây điện. Sau trận đánh Hạ Chiểu, quân ta có gần 40 thương binh lọt giữa vùng có nhiều vị trí địch cần đưa đến nơi an toàn. Bất chấp sự kiểm soát của giặc, nhân dân đã dùng bè chuối đẩy trên mặt nước hoặc dùng xe thô sơ để chuyển thương binh giữa ban ngày đến một nơi an toàn.

Trong công tác phục vụ chiến dịch, tỉnh Quảng Yên đã góp 30.000 công, số lượng lương thực được huy động và vận động phục vụ chiến dịch lên tới 660 tấn và 278 trâu, bò, lợn. Nhân dân ủng hộ cho thương binh hơn 3.000.000 đồng. Trong chiến dịch có một đoàn thuyền tiếp tế bị đắm ở gần xã Ái Quốc (Nam Sách) là nơi có nhiều vị trí và tháp canh, nhân dân đã vớt hàng chục tấn hàng đem phơi, bảo quản và gửi tiếp đi tiếp tế cho bộ đội. Sau chiến dịch, nhân dân Sơn Động được tặng thưởng huân chương Kháng chiến hạng ba về thành tích phục vụ chiến dịch. Nhân dân Quảng Yên đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen:

“Thân ái gửi đồng bào tỉnh Quảng Yên.

Trong chiến dịch đường số 18, đồng bào đã hết lòng giúp công, giúp của, giúp đỡ bộ đội, săn sóc thương binh.

Nhờ vậy mà bộ đội ta đã giết được nhiều giặc, thu được nhiều thắng lợi.

Tôi thay mặt Chính phủ thân ái gửi lời khen ngợi đồng bào và khuyên đồng bào ra sức tham gia kháng chiến cố gắng hơn nữa để chúng ta tiến đến thắng lợi mới”.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM