Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 07:30:31 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Quảng Ninh - Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954)  (Đọc 30649 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #20 vào lúc: 17 Tháng Bảy, 2017, 08:58:33 pm »

CHƯƠNG HAI

CHỐNG ĐỊCH LẤN CHIẾM, BÌNH ĐỊNH,
GÂY DỰNG CƠ SỞ CHIẾN TRANH NHÂN DÂN
(1946-1948)

1. Phá hoại kinh tế, tiêu hao sinh lực địch làm chậm bước tiến của chúng trong những ngày đầu kháng chiến.

Trong khi quân dân ba tỉnh Quảng Yên, Hải Ninh và Hồng Gai xây dựng, bảo vệ chính quyền cách mạng chuẩn bị chống chiến tranh xâm lược thì tình hình trong nước có những diễn biến quan trọng.

Ngày 6 tháng 3, nhằm gạt bớt kẻ thù và thực hiện chủ trương “hòa để tiến”, Chính phủ ta đã ký Hiệp định sơ bộ với đại diện chính phủ Pháp. Tiếng súng trên các chiến trường vì thế cũng tạm lắng xuống.

Nhưng Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 và Tạm ước ngày 14 tháng 9 ký chưa ráo mực, thực Pháp đã trở mặt nổ súng tiến công ta ở nhiều nơi.

Nhân dân ta đã tự động đứng lên đấu tranh để giữ lấy độc lập và tự do.

Phản ánh ý chí và nguyện vọng của toàn dân, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng (họp ở rộng ở làng Vạn Phúc) ngày 18 và 19 tháng 12 năm 1946 đã chủ trương phát động cuộc kháng chiến trong cả nước, và đề ra những phương pháp cơ bản cho cuộc kháng chiến. Đêm 19 tháng 12 năm 1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ.

Ngày 20 tháng 12 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi nhân dân cả nước:

“Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa.

Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ!... Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu Tổ quốc”(1).

Ngày 22 tháng 12 năm 1946, Trung ương Đảng ra chỉ thị toàn dân kháng chiến. Chỉ thị vạch rõ mục đích cuộc kháng chiến là giành độc lập và thống nhất Tổ quốc. Phương châm cơ bản của cuộc kháng chiến là toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh. Khẩu hiệu được nêu lên là “mỗi phố là một mặt trận, mỗi làng là một pháo đài”, “vừa kháng chiến vừa kiến quốc”, “triệt để dùng chiến thuật du kích và chiến thuật vận động”.

Đáp lời kêu gọi cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đường lối kháng chiến đúng đắn của Đảng, nhân dân cả nước quyết sống mái với giặc, cứu nước, cứu nhà.

 Tại địa bàn vùng đông bằng Bắc Bộ và đông – bắc Tổ quốc, từ ngày 20 tháng 11 năm 1946, quân Pháp đã đánh chiếm Hải Phòng và Lạng Sơn, ngày 17 tháng 12 năm 1946 quân Pháp gây hấn tại Thủ đô Hà Nội. Và cũng trong những ngày này trên địa bàn Đông Bắc quân Pháp có tới 1.050 tên tập trung ở xung quanh khu mỏ, chiếm những vị trí quan trọng như các điểm cao, các đồn binh cũ, nhà cửa kiên cố, khống chế các đường giao thông thủy, bộ. Trong khi đó ở thị xã Hồng Gai, ta chỉ có hai trung đội Vệ quốc quân, một trung đội cảnh vệ, một trung đội quyết tử (tự vệ) bố trí ở Hồng Gai, Hà Tu, Hà Lầm, Bãi Cháy. Ở thị xã Cẩm Phả ta có một trung đội vệ quốc quân, một trung đội cảnh vệ, một trung đội tự vệ chiến đấu. Ở Cửa Ông, ta có một trung đội Vệ quốc quân, một trung đội tự vệ chiến đấu. Nhìn chung lực lượng ta so với địch quá ít, thiếu súng đạn (bình quân hai đến ba chiến sĩ Vệ quốc quân một khẩu súng, các đơn vị tự vệ ở cơ sở thường chỉ có một vài khẩu súng trường cũ và một số lựu đạn để canh gác), đóng quân phân tán và ở những địa hình thấp hơn so với địch.

Để đối phó với âm mưu và thủ đoạn của địch, đồng thời để giúp cho Đặc khu ủy và Ủy ban hành chính đặc khu lãnh đạo chỉ đạo công tác quân sự trong thời gian này, ta đã thành lập Ủy ban bảo vệ do đồng chí Nguyễn Kim Cương làm trưởng ban.

Ngày 16 tháng 12 năm 1946 Ban Chấp hành Đảng bộ đặc khu họp hội nghị bất thường tại Hồng Gai và chủ trương: khi nhận được lệnh kháng chiến sẽ tiến công và phá hoại kinh tế của địch đồng loạt ở khu mỏ, sau đó rút lực lượng ra ngoài lập căn cứ kháng chiến.

Một kế hoạch phá hoại nhà máy cơ khí Hồng Gai và nhà máy điện Cột 5 được vạch ra khá chu đáo. Theo kế hoạch các trung đội Vệ quốc quân đang đóng ở ba thị xã khi có lệnh sẽ bất ngờ tiến công các vị trí đóng quân của giặc Pháp.

Tối 19 tháng 12 năm 1946, Pháp tăng thêm quân ở Hồng Gai. Sáng ngày 20 chúng đưa tối hậu thư yêu cầu Ủy ban đặc khu đầu hàng. 11 giờ trưa cùng ngày từ các điểm cao có lợi thế, chúng tỏa ra bao vây thị xã Hồng Gai, tăng cường kiểm soát các nhà máy và hầm mỏ, đánh chiếm các công sở của ta.

Mặc dù cho tới lúc này Đặc khu ủy và Ủy ban hành chính đặc khu chưa nhận được mệnh lệnh từ Trung ương, nhưng quân ta vẫn tổ chức chặn đánh địch khu chúng tiến công các trụ sở ủy ban hành chính, Mặt trận Việt Minh, nhà bưu điện. Ngay đêm hôm đó, bộ đội và tự vệ chiến đấu đã bảo đảm an toàn cho các cơ quan dân, chính, Đảng rút ra ngoài thị xã.

Trong khi bộ đội nổ súng, tự vệ và công nhân đã phá nhà máy cơ khí Cẩm Phả, cần trục, hai bốt điện (Núi Ngọc và Cột 2), máng than.

Ở Cửa Ông, do có sự chuẩn bị rất đầy đủ từ trước, nên ta đã chủ động đối phó với địch. Trước ngày toàn quốc kháng chiến tự vệ ta đã giác ngộ được một số cai ký có tinh thần yêu nước, tạo thuận lợi cho việc đặt sẵn các quả mìn vào những nơi cần thiết để phá hoại máy móc khi có lệnh kháng chiến. Các em thiến niên (phần đông là con em công nhân mỏ) thường xuyên theo dõi và nắm tình hình của quân Pháp để báo cho bộ đội và du kích. Đêm 19 tháng 12 năm 1946, thấy bọn Pháp ở địa phương có những hoạt động khác thường, đài Tiếng nói Việt Nam ngừng hoạt động, các lực lượng của ta đã bước vào tư thế sẵn sàng chiến đấu. Trước khí thế của quân và dân Cửa Ông, cả ngày 20 tháng 12 năm 1946, giặc Pháp không dám rời khỏi vị trí.

Ngay đêm 20 tháng 12 năm 1946, bộ đội ta tập kích quân Pháp đóng ở Đồn Cao, Cửa Ông. Các đơn vị cảnh vệ và tự vệ đã tham gia phá hoại các máy móc, phương tiện của địch và bảo vệ cho các cơ quan và nhân dân rút ra ngoài thị xã. Công nhân đã dùng xăng lửa, bom mìn, lựu đạn và cả choòng, búa để phá nhà máy sáng, nhà máy bào, đánh sập một số cần trục, sáu tàu hỏa và lao cả xe goòng xuống vực. Máy ba nhà sàng Cửa Ông bị phá bởi một quả mìn với lượng thuốc nhồi vào phuy xăng 200 lít, mái tôn bay rào rào vào phố Cửa Ông trở thành một biển lửa, khói đen cả một góc trời. Đám cháy kéo dài cho tới ngày 22 tháng 12 năm 1946.

Tuy vậy, những ngày đầu toàn quốc kháng chiến do không nhận được mệnh lệnh của trên, một số nơi đã bị tổn thất. Ở Bãi Cháy, chủ tịch khu phố bị bắt. Ở Hà Lầm, tiểu đội cảnh vệ bị Pháp đánh úp bắt bảy người, thu ba súng. Ở thị xã Cẩm Phả, chiều 20 tháng 12 năm 1946, quân Pháp bất ngờ bao vây trụ sở ủy ban hành chính, bắt chủ tịch và công an thị xã. Các lực lượng vũ trang của ta đối phó với địch một cách bị động rồi rút ra ngoài thị xã.

Sau khi các cơ quan, các đơn vị bộ đội, tự vệ, cảnh vệ và nhân dân vượt Tài Xá sang Cái Bầu thì một số công nhân và phần lớn nhân dân được vận động quay về Cửa Ông (sau này nhiều người trong số hồi cư ngày ấy trở thành cơ sở của ta).

Các lực lượng chính trị, vũ trang và cơ quan lãnh đạo của Cửa Ông về Hoành Bồ, nơi tập kết của các lực lượng trong toàn đặc khu.


(1) Hồ Chí Minh, Vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1970, tr.67.
« Sửa lần cuối: 18 Tháng Bảy, 2017, 05:51:42 am gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #21 vào lúc: 17 Tháng Bảy, 2017, 09:01:05 pm »

*

Ngày 21 tháng 12 năm 1946, lực lượng của đặc khu và thị xã Hồng Gai đã tới Xích Thổ (Hoành Bồ) rồi sau đó về Sơn Dương. Một số cán bộ được lệnh quay lại thị xã để nắm quần chúng và sau đó đưa thêm một số công nhân ra ngoài.

Sau khi ổn định lại biên chế, đặc khu chủ trương tiếp tục đưa lực lượng vào khu mỏ để đánh địch và phá hoại tiêu hao sinh lực địch, phá cơ sở kinh tế của chúng.

Được cơ sở báo về địch sẽ tập trung 24 sĩ quan tại nhà tên Pháp Ca-chi-e ở Hà Lầm để bàn kế hoạch quân sự vào ngày 25 tháng 12 năm 1946, Đặc khu đã khẩn trương tổ chức lực lượng tiêu diệt bọn sĩ quan Pháp ở đây. Lực lượng ta tham gia trận đánh có một trung đội Vệ quốc đoàn do đồng chí Lan trực tiếp chỉ huy. Đặc khu ủy cử đồng chí Nguyễn Kim Cương, ủy viên thường vụ Đặc khu ủy chỉ huy chung.

Trận đánh diễn ra vào đúng đêm Nô-en, khi bọn địch đang say rượu thì quân ta bắt đầu nổ súng. Một số tên địch canh gác dùng trung liên chống trả nhưng bị quân ta nhanh chóng tiêu diệt. Trận đánh đã kết thúc thắng lợi giòn giã. Gần 30 tên Pháp bị tiêu diệt, trong đó có 24 sĩ quan. Ta thu hai trung liên, 14 tiểu liên, bảy súng trường và mốt số quân trang, quân dụng.



Đồn Hà Lầm, nơi ghi nhận chiến công đêm Nô-en 24-12-1946, diệt gọn hơn 20 sĩ quan Pháp


Hòa cùng tiếng súng tiến công của bộ đội ở Hà Lầm, tự vệ và công nhân đã đốt kho, phá bốt điện và cần trục, đánh sập lò và phóng xe goòng xuống vực thẳm.

Sau trận Hà Lầm, ta tổ chức cho nhân dân tản cư quay về khu mỏ và gài cán bộ đi theo để trở về vùng tạm chiếm hoạt động.

Trung đội Vệ quốc quân và một số người trong “Duyên biên tự vệ đội” giác ngộ cách mạng đã được bổ sung cho bộ đội chủ lực. Số còn lại của “Duyên biên tự vệ đội” do bản chất phản động đã lần lượt quay lại chống phá cách mạng, chống phá kháng chiến. Các đơn vị cảnh vệ, tự vệ chiến đấu được biên chế lại thành một đại đội gồm bốn trung đội, mỗi trung đội có một đảng viên.

Ngày 30 tháng 12 năm 1946 tại xã Sơn Dương, đại đội này được chính thức thành lập và mang tên của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cán bộ chiến sĩ đại đội hầu hết là công nhân mỏ. Đây cũng là đại đội đầu tiên của khu mỏ. Đồng chí Trần Quốc Thảo, bí thư Đặc khu ủy Hồng Gai đã công bố quyết định thành lập đơn vị và quyết định công nhận chi bộ Đảng của đại đội Hồ Chí Minh.



Liệt sĩ Trần Quốc Thảo (Hồ Xuân Lưu) – Đảng viên năm 1930, Bí thư Đặc khu ủy Hồng Gai, Ủy viên Trung ương Cục miền Nam, Bí thư Thành ủy Sài Gòn – Chợ Lớn

Từ đầu năm 1947, các cơ quan lãnh đạo của đặc khu đóng tại Sơn Dương đã tổ chức ra các bộ phận như: Ủy ban bảo vệ, ban tiếp tế, ban dân vận, xưởng công binh. Đặc khu còn có ý định tổ chức đội biệt động để đánh địch trên đường 18 và tập kích vào các mục tiêu trong mỏ (lúc đó cấp trên có dự kiến và thành lập liên tỉnh Quảng Hồng nên đặc khu chưa có quyết định về việc xây dựng căn cứ chính thức ở Sơn Dương).
« Sửa lần cuối: 18 Tháng Bảy, 2017, 05:51:52 am gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #22 vào lúc: 17 Tháng Bảy, 2017, 09:08:25 pm »

Để bảo vệ căn cứ của đặc khu Sơn Dương, đại đội Hồ Chí Minh đã tổ chức bốn trung đội và một tiểu đội súng máy bố trí trên các hướng: Đồng Đăng, Trới, Yên Mỹ, Bang, Đá Trắng.

Phát hiện lực lượng ta tập trung ở Sơn Dương, ngày 11 tháng 1 năm 1947, giặc Pháp đã bất ngờ tiến công từ ba hướng Đồng Đăng, Yên Mỹ, Đá Trắng vào nơi đóng quân của ta.

Mũi tiến công của địch bằng ca nô từ Yên Mỹ lên đã bao vây một tiểu đội của ta về phía Đồng Đăng. Một trung đội của ta ra giải vây cho tiểu đội ở Đá Trắng cũng bị giặc từ trên đồi nổ súng dữ đội vào đội hình.

Đại đội trưởng Nguyễn Kim Cương đã điều tiểu đội súng máy ra đánh bật chúng về Yên Mỹ. Hai cánh quân của địch từ hướng Đông Đăng, Đá Trắng buộc phải rút lui.

Trong trận này, ta đã tiêu diệt được một số địch, bảo vệ an toàn cho cơ quan lãnh đạo nhưng cũng bị hy sinh một trung đội.

Sau trận Sơn Dương không lâu, các lực lượng của đặc khu đều rút về Đông Triều để chuẩn bị thành lập liên tỉnh Quảng Hồng. Trên chiến trường Đặc khu Hồng Gai và huyện Hoành Bồ hầu như không còn lực lượng quân sự của ta.

Từ tháng 1 đến tháng 7 năm 1947, địch đóng các vị trí Trới, Yên Lập, Quảng La, Đồng Đăng. Chúng nuôi dưỡng tên trùm phỉ người Hoa là Quang Phô và 80 tên phỉ khác, để bọn này biến Trại Thán thành một làng phản động ở phía tây – bắc Hoành Bồ.

Từ Trại Thán, An Châu, chúng tổ chức một trận càn lớn tới tận Vũ Oai (Hoành Bồ) và huyện Đình Lập, nhằm xây dựng cơ sở phản động trong vùng rừng núi.

Sau khi lập được hành lang bảo vệ phía sau khu mỏ, giặc Pháp đã lập tề ở các xã ven thị, phục hồi hệ thống mật thám mỏ, mua chuộc một số trong tầng lớp trên của người thiểu số.

*

Sau khi chiếm được thành phố Hải Phòng, ngày 22 tháng 12 năm 1946 địch tổ chức tiến công trên quy mô lớn nhằm đánh thông đường 5, giải vây cho Hải Dương.

Dưới sự chỉ huy của Chiến khu 3, quân dân Quảng Yên không những đánh địch trên địa bàn của tỉnh mà còn liên tục tiến công địch phối hợp với mặt trận Hải Phòng. Ngày 28 tháng 1 năm 1947, giặc Pháp tiến vào Yên Lập. Đại đội Hồ Chí Minh cùng với bộ đội chủ lực chặn đánh quyết liệt. Địch bị diệt 50 tên và bị chìm một ca nô.

Đến cuối tháng 2 năm 1947, địch được tăng viện từ chính quốc sang, những tiểu đoàn đầu tiên đã tới Hải Phòng. Ngày 28 tháng 2 năm 1947, giặc Pháp tiến công thị xã Quảng Yên theo ba hướng Núi Đèo, Yên Lập và toán quân đổ bộ lên bến Đò Lá…

Trước tình hình đó, đại đội Ký Con được lệnh rời Cát Bà. Một bộ phận của đại đội cùng du kích Tiền An chặn đánh địch. Các đại đội 41 (Trung đoàn 98)(1), Bạch Đằng, Hồ Chí Minh từ Uông Bí tiến vào Yên Lập. Quân ta đã liên tiếp đánh chặn địch tiêu diệt một số tên, phá hủy hai xe quân sự.

Do lực lượng ta quá ít so với địch, nên giặc Pháp đã chiếm được thị xã Quảng Yên. Giặc càn sang Cát Hải và giết 400 đồng bào ta một cách dã man. Ngày 19 tháng 3 năm 1946 giặc Pháp đánh chiếm Phả Lại, Chí Linh, Đông Triều, Lục Nam và Chũ.

Lúc này trung đoàn 98 đang đảm nhiệm việc bảo vệ tuyến đường 18 từ Chí Linh tới Uông Bí và giúp đỡ phong trào kháng chiến của các huyện bên đường 18 thuộc Hải Hưng và Quảng Yên. Trung đoàn đã giúp các đại đội Bạch Đằng, Hồ Chí Minh và dân quân du kích bảo vệ vùng căn cứ và chủ động tìm địch mà đánh. Bộ đội và du kích Nguyễn Huệ, Yên Đức, Yên Thọ đã sang tận Đồn Lưu (Kinh Môn) và Phú Thái (đường số 5) để đột kích vào nơi sơ hở của địch.

Ngày 20 tháng 3 năm 1947, bộ đội của lực ta đột nhập vào thành phố Hải Phòng và tiến công Lộc Bình (Lạng Sơn), buộc địch rút khỏi Đông Triều, Phả Lại, Nam Sách vào ngày 23 tháng 3 năm 1947.

Trong những trận cùng bộ đội đánh địch trên đường 18, du kích Chí Linh và du kích Yên Đức, Đông Triều đã đánh “chim sẻ” phá hơn 40 ki-lô-mét đường 18, phá cột điện, cắt dây điện. Du kích Yên Thanh, Uông Bí, Thượng Yên Công (Yên Hưng) đã phá đường, đánh tàu, đánh xe và trừ gian ven các đường giao thông thủy bộ.


(1) Khoảng trung tuần tháng 2 năm 1947, các đơn vị của Chiến khu 3 hoạt động ở tỉnh Quảng Yên và Núi Đèo được sáp nhập lại và được bổ sung thêm quân để thành lập trung đoàn 98, đồng chí Vũ Mạnh Hùng làm trung đoàn trưởng.
« Sửa lần cuối: 22 Tháng Bảy, 2017, 06:43:58 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #23 vào lúc: 17 Tháng Bảy, 2017, 09:10:28 pm »



Tinh hình địch trên chiến trường Quảng Ninh (từ sau tháng 8-1945 đến 12-1946)
« Sửa lần cuối: 18 Tháng Bảy, 2017, 05:52:17 am gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #24 vào lúc: 22 Tháng Bảy, 2017, 06:33:45 pm »

2. Bám sát các địa phương, xây dựng lực lượng, phát triển chiến tranh du kích.

Để thống nhất chỉ đạo kháng chiến, ngày 31 tháng 3 năm 1947, liên tỉnh Quảng Hồng được thành lập bao gồm tỉnh Quảng Yên (trong đó có huyện Yên Hưng với cả vùng Uông Bí và Minh Tân, Lưu Kiếm, huyện Hoành Bồ, huyện Cát Hải), Đặc khu Hồng Gai (với ba thị xã Hồng Gai, Cẩm Phá, Cửa Ông và vùng đảo Cẩm Phả), và các huyện Thủy Nguyên, Chí Linh, Nam Sách, Kinh Môn, Đông Triều. Tháng 8 năm 1947 phần lớn địa bàn của hai huyện Sơn Động, Lục Ngạn được sáp nhập vào liên tỉnh Quảng Hồng (vì địch đã chiếm An Châu và nối thông đường 13).

Đồng chí Nguyễn Công Hòa được cử làm bí thư liên tỉnh ủy, đồng chí Trần Quốc Thảo được cử làm chủ tịch Ủy ban hành chính kháng chiến liên tỉnh.



Đồng chí Nguyễn Công Hòa

Căn cứ của liên tỉnh Quảng Hồng lúc này đựa vào vùng Bến Tắm, Đèo Mòi, Tràng Lương, Cây Châm, Năm Mẫu. Lực lượng vũ trang của liên tỉnh gồm hai đại đội cảnh vệ Bạch Đằng, đại đội Hồ Chí Minh, đội vũ trang tuyên truyền Trần Hưng Đạo và đội công binh căn cứ đảm nhiệm việc làm nhà cửa, làm công sự cho cơ quan lãnh đạo.

Trong hai ngày 5 và 6 tháng 4 năm 1947, liên tỉnh ủy Quảng Hồng đã họp phiên đầu tiên. Sau khi biểu dương tinh thần chiến đấu của quân và dân liên tỉnh trong việc chặn bước tiến của địch và gây cho chúng nhiều thiệt hại, hội nghị thống nhất nhận định:

- Ở Yên Hưng, mặc dù giặc đã lập tề ở khu Hà Bắc, nhưng nhân dân vẫn liên lạc với kháng chiến, còn ở khu Hà Nam, các đoàn thể ở Phong Cốc, Trung Bàn vẫn hoạt động. Ở những nơi này ta vẫn làm chủ được về ban đêm, vẫn tiến hành các hình thứ như gọi loa, rải truyền đơn, dán áp phích, viết bản tin để thông báo chiến sự và tuyên truyền kháng chiến.

- Ở Hoành Bồ mặc dù địch đóng quân ở nhiều nơi nhưng nhân dân vẫn hướng về kháng chiến. Ở Uông Bí, mặc dù có vị trí địch chiếm đóng nhưng nhân dân vẫn tản cư và chúng chưa lập được tề, dân từ Uông Bí tản cư vào Năm Mẫu vẫn được đồng bào Hoa giúp đỡ.

- Ở khu mỏ, giặc đã lập được ngụy quyền, phục hồi việc khai thác than và tăng cường phá cơ sở của ta, nhưng chúng vẫn không khuất phục được dân.

Từ những thực tiễn trên, hội nghị đã đi đến kết luận là phải kiên quyết đưa lực lượng về để bám đất, bám dân.

Với các huyện đồng bằng thuộc liên tỉnh, các huyện ủy chịu trách nhiệm đưa cán bộ về giúp các xã chắp nối lại cơ sở.

Với vùng hành lang trên rừng núi và hải đảo bao quanh khu mỏ, liên tỉnh ủy đã chỉ thị cho huyện ủy Hoành Bồ (lúc này đã chạy lên Linh Tràng, Đông Triều) phải quay về bám đất, đồng thời liên tỉnh ủy cũng chấn chỉnh lại việc lãnh đạo vùng đảo Cẩm Phả.

Liên tỉnh ủy tổ chức đoàn cán bộ phục hồi cơ sở vùng mỏ, do một tỉnh ủy viên phục trách.

Từ tháng 4 đến tháng 7 năm 1947, ta đã phục hồi được cơ sở trong mỏ, Ban cán sự khu mỏ được kiện toàn để chỉ đạo việc xây dựng lại công đoàn và tự vệ khu mỏ. Ta đã xây dựng được hai chi bộ và nhiều tổ đảng ở các nhà máy, hải cảng, tầng lò.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #25 vào lúc: 22 Tháng Bảy, 2017, 06:34:34 pm »

Đối với huyện ủy Hoành Bồ, ngay từ tháng 3 năm 1947, liên tỉnh ủy đã chỉ thị “huyện ủy và cơ quan huyện phải bám sát địa phương, xây dựng cơ sở, lãnh đạo nhân dân đấu tranh”. Do vậy huyện đã tổ chức được trung đội của huyện với 13 súng trường. Các tổ dân quân, du kích được phục hồi với vũ khí là súng kíp, dao găm. Tháng 5 năm 1947 huyện đội được thành lập ở Khe Mèo (Sơn Dương).

Đến cuối năm 1947, chính quyền kháng chiến được thành lập ở các xã rẻo cao như Tân Dân, Tân Ốc, Đồng Quặng, Hòa Bình. Phong trào khá vững ở các xã Lê Lợi, Thống nhất, Việt Hưng, Thành Công.

Tháng 7 năm 1947, liên tỉnh ủy đã cử cán bộ về xã Đoàn Kết thuộc vùng đảo Cẩm Phả và từ xã này ta đã đưa phong trào kháng chiến chống Pháp lan rộng ra các xã Thạch Hà, Văn Châu, Cộng Hòa, Hạ Long. Một đội trừ gian gồm bảy người được tổ chức để nắm tin tức của địch. Cho tới tháng 9 năm 1947, vùng đảo Cẩm Phả đã xây dựng được một trung đội du kích tập trung.

Trong lúc quân dân Hồng Gai liên tục chiến đấu ngăn chặn các bước tiến của giặc thì ở Hải Ninh tình hình kháng chiến của nhân dân ta diễn ra hết sức phức tạp.

Ngày 19 tháng 12 năm 1946, hàng ngàn quân Pháp có phi pháo yểm hộ đã từ Tiên Yên đánh chiếm Khe Tù. Ngày 22 tháng 12 năm 1946, giặc Pháp theo đường số 4 tiến lên đánh chiếm Đình Lập. Trung đoàn Tiên Yên đang đóng ở Khe Mò, Bản Tùm thuộc Kiều Mộc, Bình Xá đã lui về Lãng Dạ, Đồng Thắng, Lâm Ca.

Cuối tháng 12 năm 1946, trên địa bàn tỉnh Hải Ninh, địch đã chiếm được các huyện Tiên Yên, Đình Lập, Bình Liêu, Đầm Hà và đánh thông đường số 4. Trung đoàn Tiên Yên được lệnh rút về phía sau.

Ngày 20 tháng 3 năm 1947, sau khi đánh chiếm đoạn đường số 13 thuộc Hải Ninh, địch đã đổ bộ lên Vĩnh Thực, Trà Cổ, Vạn Ninh, rồi tiến công huyện lỵ Móng Cái.

Bọn cơ hội đang lũng đoạn chính quyền của ta ở Móng Cái đã đầu hàng và làm tay sai cho Pháp. Lực lượng vũ trang của ta định rút về Thán Phún, nhưng khi vòng qua biên giới Việt Trung đã bị quân Tưởng bắt và tước vũ khí.

Liên khu 12 đã ra lệnh giải thể Ban cán sự Hải Ninh và chính quyền cấp tỉnh của Hải Ninh.

Từ tháng 3 đến tháng 6 năm 1947, về cơ bản giặc Pháp đã chiếm xong tỉnh Hải Ninh và đánh bật lực lượng của ta ra ngoài. Với quân số tương đương hai trung đoàn, chúng đã đóng thành 40 vị trí trong tỉnh, trong đó có 13 vị trí ở Đình Lập, 10 vị trí ở Lộc Bình, 17 vị trí ở huyện Móng Cái, Đầm Hà, Hà Cối, Bình Liêu, Ba Chẽ, Tiên Yên.

Trong những ngày đầu kháng chiến đầy khó khăn và phức tạp, ở Hải Ninh đã nổi lên một tập thể chiến đấu kiên cường – khu Nà Thuộc.

Sau khi trung đoàn Tiên Yên rút đi, một số cán bộ, chiến sĩ người địa phương đã ở lại và tổ chức thành hai trung đội bộ đội địa phương để hợp lực với một trung đội du kích quyết tâm chống giặc. Các đồng chí Nông Văn Nguyên, Nông Minh Đạo, Hoàng Dã Thiếu được chính quyền ba xã Kiên Mộc, Bình Xá, Pắc Xa ủy nhiệm cho việc tổ chức và chỉ huy khu chiến đấu Nà Thuộc (nằm trên địa bàn ba xã này).

Ngày 14 và 15 tháng 4 năm 1947, trận ra quân đầu tiên của ta đã đánh thắng một cuộc càn của giặc Pháp, buộc chúng phải rút lui và khiêng theo hai xác chết.

Sau trận này, nhân dân nô nức góp công, góp của, góp người, góp vũ khí vào khu chiến đấu. Lực lượng của ta tăng lên gồm 78 bộ đội và 259 du kích. Cuối tháng 6 năm 1947 địch cho hai tiểu đoàn có phi pháo yểm hộ chia thành nhiều mũi đánh vào khu chiến đấu Nà Thuộc. Tới hướng nào chúng cũng bị quân ta dựa vào cây rừng và thế núi tiến công lại. Phía trước, bộ đội và du kích đánh giặc, phía sau nhân dân già trẻ, gái trai lo tiếp tế. Các cụ già mặc áo thụng nguyện cầu để “rước Thành hoàng ra ủng hộ cho con cháu đánh giặc”. Tiếng trống, tiếng thanh la vang dậy bên những lá cờ thần được phất lên để động viên chiến sĩ. Trước sức tiến công của ta, hai tiểu đoàn địch phải rút chạy(1).

Ngay sau trận đánh này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi tặng Nà Thuộc bức trướng thêu dòng chữ “Ủng hộ kháng chiến”. Nhân dân ở đây đã treo bức trướng vào nơi thờ Thành hoàng và truyền tụng rằng Thành hoàng làng Pò Háng là “Thành hoàng kháng chiến” nên được sắc phong của Chủ tịch Hồ Chí Minh.


(1) Tháng 2 năm 1948, quân và dân Nà Thuộc được Chính phủ tặng thưởng huân chương Quân công hạng ba.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #26 vào lúc: 22 Tháng Bảy, 2017, 06:35:32 pm »

*

Trước tình hình phát triển không thuận lợi nửa đầu năm 1947, để tìm cách gỡ thế bí thực dân Pháp đã phác thảo một kế hoạch chiến lược nhằm kết thúc chiến tranh với hai nội dung chủ yếu: Một là, tổ chức lực lượng cơ động khoảng 20 tiểu đoàn đánh thẳng vào căn cứ địa Việt Bắc. Hai là, xây dựng chế độ bù nhìn tay sai cho Pháp. Đi đôi với kế hoạch trên, địch ra sức củng cố vùng tạm chiếm của chúng với ý định biến những vùng đất này thành chỗ đứng chân và hậu cứ để thực hiện kế hoạch tiến công trong thu – đông 1947.

Để đối phó với âm mưu mới của địch, ngày 15 tháng 9 năm 1947, Hội nghị Thường vụ Trung ương đảng đã họp và ra chỉ thị phá cuộc tiến công thu – đông của giặc Pháp. Bộ chỉ huy Liên khu 12 (Liên khu Việt Bắc) đã ra chỉ thị cho các tỉnh Hải Ninh, Quảng Yên, Đặc khu Hồng Gai phải tích cực hoạt động phối hợp với chiến trường Việt Bắc trong thu – đông 1947.

Kể từ những tháng cuối năm 1947, Hải Ninh là một chiến trường được Liên khu 12 và Bộ Tổng chỉ huy đặc biệt chú ý.

Cuối tháng 6 năm 1947, Hải Ninh tiếp nhận huyện Lộc Bình (của tỉnh Lạng Sơn) và một số xã thuộc Quảng Yên, Bắc Giang để thành lập thêm huyện Hải Chi (Ba Chẽ).

Vùng căn cứ của Hải Ninh đã được hình thành bao gồm huyện Lộc Bình và một phần địa bàn của hai huyện Hải Chi, Đình Lập.

Theo quyết định của Liên khu ủy 12 (Việt Bắc), ngày 13 tháng 9 năm 1947, tại khu Sơn Dương (Lộc Bình), tỉnh ủy Hải Ninh và Ủy ban hành chính kháng chiến Hải Ninh được tái lập.

Căn cứ kháng chiến của tỉnh gồm 11 xã (Pắc Xa, Kiên Mộc, Đình Xá, Đình Lập, Đồng Quan, Sơn Dương, Xa Lý, Văn Lung, Tĩnh Gia, Tu Mạch, Tam Long) với 4.000 dân. Số cán bộ cấp tỉnh, huyện có 45 người (36 là đảng viên), bộ đội địa phương có 89 người, dân quân du kích có 259 người (ở Nà Thuộc) và 40 người của Chi Lăng, Hải Chi.

Tỉnh ủy Hải ninh đã nọp đề ra một số công việc trước mắt là:

- Xây dựng Nà Thuộc thành căn cứ địa vững chắc, có cán bộ địa phương để chỉ đạo phong trào, thực hiện sản xuất để có lương thực dự trữ trong sáu tháng.

- Xây dựng một trung đội vũ trang tuyên truyền, hai đại đội du kích thoát ly cho các huyện Đình Lập, Hải Chi, Lộc Bình để tiễu phỉ, trừ gian và bảo vệ cơ quan tỉnh.

- Khắc phục khó khăn để tổ chức chính quyền kháng chiến trong vùng địch tạm chiếm. Tích cực lôi kéo ban tề lừng chừng, bao vây, trừng trị những tên phản động.

- Lập tiểu ban địch vận.

- Chọn người trung thành với Đảng, với cách mạng, hăng hái tham gia kháng chiến để phát triển Đảng.

- Về tác chiến phải khắc phục lối phòng ngự cứng nhắc, chờ địch đến mới đánh, chuyển sang đánh du kích, bí mật, bất ngờ tìm chỗ yếu của địch mà đánh, chủ động tiêu hao địch, làm cho chúng ăn không ngon, ngủ không yên để hạn chế hoạt động của chúng.

Ngày 7 tháng 10 năm 1947, giặc Pháp bắt đầu cuộc tiến công quy mô vào Việt Bắc, căn cứ địa kháng chiến của cả nước.

Bộ Tổng chỉ huy ra mệnh lệnh số 132 “các khu phải đánh mạnh để phối hợp với Việt Bắc”.

Thi hành mệnh lệnh đó, tiểu đoàn 426 hành quân về Hải Ninh để chiến đấu. Cũng trong tháng 10 năm 1947, tỉnh đội Hải Ninh được thành lập để giúp cho tỉnh ủy chỉ đạo phong trào kháng chiến chống Pháp ở địa phương.

Tiểu đoàn 426 đã dẫn dắt bộ đội và du kích Hải ninh trong chiến đấu và đã đánh một số trận thắng giòn giã… Từ ngày 10 tháng 10 đến 13 tháng 10 năm 1947, được sự giúp đỡ của nhân dân địa phương, tiểu đoàn 426 tập kích đồn Quân, đồn Pò Lòng, ngày 15 tháng 10 năm 1947 đánh đồn Nà U trên đường số 4, diệt một trung đội địch.

Trong ba tháng cuối năm 1947, quân và dân Hải Ninh đánh chín trận, diệt 140 lính Âu – Phi, 15 lính ngụy, làm bị thương và bắt sống 75 tên, thu 58 khẩu súng trường và trọng liên, phá bốn ô-tô, hai kho đạn, cắt 5.200 mét dây điện.

Dưới sự chỉ đạo của tỉnh ủy, cán bộ, bộ đội địa phương của ta đã vào vùng tạm bị địch chiếm ở các xã Yên Vũng, Đình Lập, Cường Lợi, Đồng Thắng, Thái Bình, Lâm Ca, nhiều người ở Đình Lập, Bình Liêu đã vận động con em mình không làm lính cho địch, nộp súng cho cách mạng, về nhà làm ăn.

Để chống lại phong trào kháng chiến của nhân dân Hải Ninh, bọn cầm đầu của quân Pháp và quân Tưởng ở Hải Ninh và Đông Hưng đã câu kết với nhau mở nhiều cuộc tiến công lớn.

Trong tháng 2 và tháng 3 năm 1948, hai tiểu đoàn Pháp có máy bay và phi pháo yểm trợ đã 10 lần tấn công khu Chi Lăng – Nà Thuộc, phối hợp với các cuộc vây quét của quân Tưởng vào căn cứ của du kích Trung Quốc bên kia biên giới. Có trận cà quân Pháp và quân Tưởng đều hợp lực đánh vào khu Nà Thuộc. Tuy vậy dựa vào hào lũy kiên cố, quân và dân Nà Thuộc vẫn bảo vệ được căn cứ, tiêu diệt nhiều địch, thu nhiều vũ khí.

Phối hợp với cuộc chống càn của Nà Thuộc, bộ đội và du kích ở Hải Ninh đã tăng cường hoạt động, diệt được 138 tên Pháp, 185 tên ngụy, làm bị thương 50 tên,cắt 17.800 mét dây điện và phá cầu Pò Toòng trên đường Đình Lập – Nà Pá.

Ngày 4 tháng 4 năm 1948, hai tiểu đoàn giặc có máy bay yểm hộ đã kiềm chế quân ta ở Chi Lăng và thọc sâu vào Bản Pục (Kiên Mộc) nơi đặt cơ quan lãnh đạo và chỉ huy của ta. Tiểu đoàn 439 bộ đội chủ lực ra chặn địch ở Chi Lăng nhưng đã bị quân địch bao vây và chọc thủng, tiểu đoàn phải rút lui, bộ đội và du kích Nà Thuộc không còn sức chiến đấu. Địch chiếm được Nà Thuộc, lực lượng vũ trang và nửa vũ trang của ta ở đây đã tản mát hết.

Cùng lúc này, “Duyên biên tự vệ đoàn”(1) cũng bị quân Tưởng o ép mạnh đã phải chạy sang đất Chúc Bài Sơn (Hà Cối) của Hải Ninh để củng cố.

Chiếm xong Nà Thuộc, giặc Pháp vừa tăng cường khủng bố cướp bóc vừa ra sức dùng cách chia rẽ các dân tộc ở huyện Bình Liêu.


(1) Đội du kích của Trung Quốc hoạt động ở Đông Hưng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #27 vào lúc: 22 Tháng Bảy, 2017, 06:36:12 pm »

*

Năm 1947, việc tổ chức và chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang địa phương đã có chuyển biến mới từ Trung ương đến thôn, xã.

Thông tư tháng 2 năm 1947 của Bộ Quốc phòng quy định rõ:

- Vào dân quân là nghĩa vụ của mọi công dân từ 18 đến 45 tuổi.

- Ở thôn và xã chỉ có hai lực lượng là dân quân và du kích, đây là những lực lượng chiến đấu, do địa phương trang bị và đài thọ bằng cách dựa vào dân.

Tháng 3 năm 1947, Chính phủ quyết định chuyển Bộ Tổng chỉ huy quân đội quốc gia Việt Nam thành Bộ Tổng chỉ huy quân đội quốc gia và dân quân tự vệ Việt Nam. Chính phủ cũng quyết định xây dựng các ban chỉ huy tỉnh đội, huyện đội, xã đội dân quân thuộc ủy ban kháng chiến các cấp.

Tháng 4 năm 1947, Trung ương Đảng yêu cầu mỗi địa phương, mỗi cơ sở phải cử một đảng viên hoặc cán bộ đoàn thể có năng lực phụ trách theo dõi phong trào dân quân.

Sau hội nghị dân quân toàn quốc tháng 5 năm 1947, hệ thống cơ quan quân sự các cấp được thành lập và dân quân tự vệ trở thành một bộ phận trong các lực lượng vũ trang của nhàn nước.

Thực hiện chỉ thị của trên, từ tháng 5 đến tháng 10 năm 1947, tỉnh đội dân quân Quảng Hồng và Hải Ninh được thành lập.

Bộ đội chủ lực hoạt động ở các địa phương trong thời kỳ này thường có trung đoàn 98 (ở phía Quảng Hồng) và các tiểu đoàn 426, 439 ở Hải Ninh.

Ở các xã thuộc các huyện đồng bằng của liên tỉnh Quảng Hồng ta vẫn giữ được phong trào chiến tranh du kích. Quân ta dựa vào địa hình thuận lợi như núi đá hoặc núi đất xen kẽ với xóm làng để xây dựng làng chiến đấu, khu du kích liên tục tiến công địch.

Ở Thủy Nguyên, từ tháng 7 năm 1947, đại đội Lê Lợi được thành lập. Huyện ủy đã giao cho đại đội này và lực lượng công an lập căn cứ ở vùng rừng núi phía bắc Thủy Nguyên. Đại đội Lê Lợi cùng dân quân du kích đã tiến hành trừ gian và phục kích, chống càn 10 trận, diệt 37 địch trong năm 1947.

Tháng 8, tháng 9 năm 1947, du kích các xã Trúc Châu, Đồng Ngọ, Thanh Quang, An Lâm, Kim Bịch (Nam Sách), Đồng Lạc, Lê Lợi (Chí Linh), Lạc Long, Đại Uyên, Hiệp Thượng (Kinh Môn), Yên Đức, Yên Thọ, Nguyễn Huệ, Bình Dương (Đông Triều) là những nơi có thành tích trong chiến đấu và tham gia xây dựng cơ sở.

Du kích xã Yên Đức (Đông Triều) là nơi sớm có truyền thống chiến đấu. Trong trận ngày 10 tháng 6 năm 1947, xã đã đánh lui một tiểu đoàn giặc. Trong trận tháng 10 năm 1947, du kích đã chống lại một trung đoàn giặc đến bao vây. Đêm đến du kích đã đánh vào nơi giặc trú quân, làm cho chúng phải bỏ nhiều cuộc càn quét.

Đặc biệt là ở Hoành Bồ, từ đầu năm 1947 phong trào kháng chiến còn yếu thì nay rộ lên một số trận đánh hay. Các đơn vị của trung đoàn 98, đại đội Hồ Chí Minh và trung đội của huyện đã tấn công địch nhiều trận trên đường Đồng Đăng – Yên Lập. Tháng 12 năm 1947, một đơn vị của trung đoàn 98 cùng du kích Việt Hưng đã phục kích một xe chở đầy lính địch vừa rút từ Việt Bắc về. Ta diệt một số tên địch thu một trung liên, hai tiểu liên, bảy súng trường.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #28 vào lúc: 22 Tháng Bảy, 2017, 06:37:25 pm »

Ngay từ những ngày đầu toàn quốc kháng chiến, liên tỉnh ủy ở Quảng Hồng rất chú trọng đến việc xây dựng Đảng để đảng bộ đủ sức lãnh đạo cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện của địa phương. Đi đội với xây dựng tổ chức Đảng mạnh, ở các huyện, các đơn vị bộ đội chủ lực, tỉnh ủy còn cử nhiều cán bộ đảng viên thâm nhập quần chúng ở vùng tạm bị địch chiếm. Lực lượng vũ trang tuyên truyền được tổ chức thành từng đội, có đảng viên, cán bộ phụ trách.

Công tác tuyên truyền và cổ động được tỉnh ủy hết sức quan tâm và đã góp phần tích cực vào việc đẩy mạnh phong trào thi đua giết giặc lập công.

Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Hồng họp lần thứ nhất (tháng 10 năm 1947) đã nhất trí trao phần thưởng thi đua cho Đảng bộ Thủy Nguyên là địa phương lập được nhiều thành tích xuất sắc trong ba phong trào thi đua giữa năm 1947.

Vào tháng 10 năm 1947, liên tỉnh Quảng Hồng đã mở “Hội nghị Diên Hồng” tại Bắc Mã (Đông Triều). Các cụ phụ lão từ các bản làng, thôn xóm, khu phố trong liên tỉnh đến dự bày tỏ quyết tâm kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng.

Để kịp thời động viên tinh thần chiến đấu, tỉnh Hải Ninh và liên tỉnh Quảng Hồng đã xuất bản các tờ tin in bằng mực li-tô. Tờ “Hải Ninh kháng chiến” xuất bản với ba thứ tiếng: Việt, Thổ và Hoa. Ở Quảng Hồng, ngoài tờ tin của Ty thông tin – tuyên truyền còn có tờ “Quân Bạch Đằng” của tỉnh đội, phát hành trong bộ đội và dân quân tự vệ.

Trong những năm đầu kháng chiến ở Quảng Hồng đã nổi lên tấm gương bất khuất của đồng chí Lê Hồng Thạch, của đồng chí Đồng và những chiến sĩ Vũng Đụn (Khu Mỏ), Yên Đức và đặc biệt là tấm gương của đồng chí Đỗ Thị Minh Hà. Chị Đỗ Thị Minh Hà là tỉnh ủy viên tỉnh Quảng Hồng phụ trách phong trào của Cát Hải và Hà Nam. Tháng 7 năm 1947 chi bị địch bắt. Giặc Pháp đã tra tấn chị rất dã man nhưng chị không một lời khai báo cho địch. Cuối cùng chị đã hy sinh trong nhà tù của đế quốc.



Nữ liệt sĩ Minh Hà, ủy viên dự khuyết Đảng bộ tỉnh Quảng Hồng,
người xây dựng cơ sở cách mạng khu Hà Nam và Cát Hải, bị giặc Pháp sát hại năm 1947
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #29 vào lúc: 22 Tháng Bảy, 2017, 06:41:09 pm »

3. Kết hợp giữa đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị phá âm mưu lập tề - kìm kẹp nhân dân và mở rộng vùng chiếm đóng của địch.

Từ sau chiến dịch Việt Bắc (từ ngày 7 tháng 10 đến ngày 9 tháng 11 năm 1947), giặc Pháp chuyển từ chiến lược “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang đánh lâu dài. Chúng ra sức củng cố vùng Đông Bắc, một khâu quan trọng trên “hành lang Đông – Tây” kéo dài từ Móng Cái, Quảng Yên, Bắc Ninh đến Sơn Tây, Việt Trì, Hòa Bình. Chúng ra sức tăng cường hệ thống đồn bốt trên các trục đường 13, 18, 4.

Tới tháng 4 năm 1948, địch đóng 50 vị trí ở địa bàn Quảng Yên trong đó nơi nhiều nhất là Thủy Nguyên và Lục Sơn Hải (mỗi nơi có hơn 10 vị trí), những nơi có từ ba đến bốn vị trí là Chí Linh, Hoành Bồ, Cát Hải, Yên Hưng, Kinh Môn.

Địch luôn càn quét vào căn cứ của liên tỉnh ở bắc đường 18 (về phía huyện Chí Linh) và đánh phá các khu du kích Nguyễn Huệ, Yên Đức (Đông Triều), Minh Tân, Lưu Kiếm (Yên Hưng), Bích Nhôi, Kính Chủ, Minh Tân (Kinh Môn), Trại Kênh (Thủy Nguyên) và Cát Hải.

Ở Nam Sách, nơi có đồng bào theo đạo Thiên chúa, địch đã nuôi dưỡng bọn phản động đội lốt tôn giáo, dùng bọn chúng để móc nối với quân Pháp, cưỡng bức giáo dân biểu tình, giết cán bộ bộ đội, rào làng lập căn cứ.

Ngày 20 tháng 5 năm 1948, Ban Chấp hành Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ tư ra nghị quyết về công tác trong vùng địch kiểm soát và chiếm đóng.

Thực hiện nghị quyết của Trung ương Đảng, Liên khu ủy 1(1) đã chỉ thị cho Quảng Hồng và Hải Ninh phải “đánh phá âm mưu chính trị và kinh tế của địch, đánh vào sau lưng địch, biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta”. Liên khu cũng nhắc nhở: làm như vậy là góp phần phá cuộc tiến công lên Việt Bắc vào thu đông năm 1948 (theo dự kiến) của giặc.

Để mở rộng căn cứ Đông Bắc, khoét sâu vào chỗ yếu của địch, thúc đẩy phong trào chiến tranh nhân dân đang phát triển trong khu vực địch coi là an toàn, Bộ Tổng chỉ huy chủ trương mở chiến dịch “Đông Bắc 1”.

Liên tỉnh ủy Quảng Hồng đã họp và đề ra nhiệm vụ “đi sâu vào hậu địch, chuyển trọng tâm hoạt động vào nơi “đại thái bình” của giặc, chuẩn bị cho cuộc tổng phá tề và phát động chiến tranh du kích, hưởng ứng với chiến dịch Đông Bắc của liên khu”.

*

Đại hội đại biểu Đảng bộ liên tỉnh lần thứ hai họp (tháng 6 năm 1948) đã đề ra phương hướng là phải tiếp tục chú trọng công tác xây dựng cơ sở quần chúng để phát động cuộc đấu tranh ở vùng sau lưng địch.

Được sự chỉ đạo chặt chẽ của Liên khu ủy và sự nỗ lực chung, năm 1948 liên tỉnh Quảng Hồng đã xây dựng được nhiều cơ sở trong vùng địch tạm chiếm. Từ những cơ sở được xây dựng ở các địa phương, phong trào đấu tranh chống địch được nhen nhóm và phát triển. Trong lúc địch kêu gọi nhân dân “hồi cư” thì tỉnh ủy cũng chủ trương vận động nhân dân về bám đất để sản xuất, đồng thời đưa cán bộ, đảng viên, chiến sĩ trung đoàn 98 tỏa về vùng địch tạm chiếm giải thích cho nhân dân rõ âm mưu thâm độc, bản chất tàn bạo của địch.

Dựa vào cơ sở chính trị, các thành viên tốt được chọn vào đội du kích bí mật dưới sự lãnh đạo của cấp ủy địa phương. Hoạt động quân sự trong vùng địch tạm chiếm vì thế được dấy lên từng bước, tạo điều kiện thuận lợi cho nhiệm vụ phá tề trừ gian, xây dựng củng cố chính quyền cách mạng.

Chỉ từ bốn đến sáu tháng sau, cơ sở của ta đã được chắp nối và xây dựng ở các huyện đồng bằng. Với vùng rừng núi thuộc Lục Sơn Hải, trung đoàn độc lập của liên khu cùng các cán bộ Hoa kiều vụ của liên tỉnh đã đạt nhiều thành tích trong việc vận động đồng bào người Hoa.

Ở Yên hưng, huyện ủy đã về Đồng Nai, cách tỉnh lỵ hơn 10 ki-lô-mét đường bộ. Cơ sở kháng chiến trong huyện được xây dựng từ Yên Thành, Uông Bí tới khu Hà Bắc. Bộ đội và công an còn sang cả vùng Hà Nam để gây dựng cơ sở, có thời gian còn sang cả Hoàng Tân và Cát Hải vận động quần chúng xây dựng chính quyền cách mạng.

Các huyện Chí Linh, Đông Triều có nhiều xã đã lập chính quyền kháng chiến. Ở Nam Sách cơ sở cách mạng đã được xây dựng ở các xã xung quanh huyện lỵ.

Công tác gây cơ sở của Thủy Nguyên có những nét riêng biệt so với các nơi khác. Ngay từ những năm 1946, 1947, huyện ủy đã nắm chắc các đơn vị bộ đội của huyện (cuối năm 1947, đại đội Lê Lợi được thành lập) để hỗ trợ cho việc vũ trang tuyên truyền, gây cơ sở và xây dựng căn cứ ở miền bắc Thủy Nguyên. Từ tháng 3 năm 1948, đại đội Lê Lợi vào vùng tạm bị địch chiếm để tham gia xây dựng cơ sở chính trị.

Ngoài những hình thức mà các huyện khác đã làm, do nắm chắc tình hình địch nên ở Thủy Nguyên đã xây dựng các biện pháp chính trị kết hợp với vũ trang uy hiếp địch nhanh chóng xây dựng được cơ sở cách mạng. Chẳng hạn như nhân lúc hội tề đang tụ tập để chè chén thì cán bộ, du kích và bộ đội bất ngờ ập vào, bắt họ ký vào biên bản là nhận làm việc cho kháng chiến.

Chỉ qua mấy tháng, Thủy Nguyên đã có cơ sở cách mạng ở khắp các xã trong huyện và có cơ sở trong binh lính địch ở nhiều đồn bốt. Ngay cả quận trưởng Thủy Nguyên cũng liên lạc với kháng chiến. Huyện còn đưa một số đảng viên và cán bộ vào tề và dõng để nắm các tổ chức này.

Vì có thành tích trong việc phục hồi và phát triển cơ sở trong năm 1948, Thủy Nguyên đã được Liên khu thưởng cho 3.000 đồng và một khẩu súng ngắn.

Cho đến cuối năm 1948, hầu hết các ban tề ở các huyện thuộc Quảng Yên đã do ta khống chế. Nhiều ban tề xã phải thường xuyên xin ý kiến của chủ tịch Ủy ban kháng chiến xã hoặc bí thư chi bộ Đảng.

Công tác diệt trừ những tên tề gian ác có nợ máu với nhân dân đã hỗ trợ đắc lực cho công tác xây dựng cơ sở. Tuy nhiên việc này không được tổ chức và lãnh đạo một cách thống nhất, chặt chẽ thận trọng nên có một số trường hợp đã làm ảnh hưởng tới lòng tin của quần chúng đối với kháng chiến.

Từ đầu năm 1948 trở đi, phong trào chiến tranh nhân dân ở Hoành Bồ có chuyển biến rõ rệt. Ta đã khôi phục và phát triển cơ sở ở Quang La, Bằng Cả, Dân Chủ, Sơn Dương tới Việt Hưng, Lê Lợi, Thống Nhất, Vũ Oai. Ở các xã vùng rẻo cao như Tân Dân, Đồng Quảng, chính quyền cũng được xây dựng. Các chi bộ Đảng ở Sơn Dương, Quảng La, Việt Hưng, Lê Lợi, Tân Dân, Đồng Quặng đã lãnh đạo nhân dân ở các xã hăng hái tham gia kháng chiến, hăng hái đi dân công và nhiệt tình đóng góp công, của cho cuộc kháng chiến. Nhiều xã có phong trào bình dân học vụ khá sôi nổi.

Sự phát triển của cuộc chiến tranh trong vùng địch tạm chiếm đã tạo được đoàn kết, gắn bó giữa các lực lượng vũ trang và nhân dân trước sự sống còn của từng người, từng gia đình với vận mệnh của quê hương đất nước. Qua thử thách, mọi người càng dày dặn, xác định được chỗ đứng và nhiệm vụ của mình.


(1) Ngày 21 tháng 1 năm 1948, Chính phủ ra sắc lệnh sáp nhập các khu lại thành liên khu. Liên khu 1 được thành lập do hai Chiến khu 1 và 12 hợp thành.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM