Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 05:48:37 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử nhà tù Côn Đảo 1862 - 1975  (Đọc 49446 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #80 vào lúc: 05 Tháng Bảy, 2017, 05:14:43 am »


Chương năm

CÔN ĐẢO TRONG BƯỚC CHUYỂN MÌNH CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN (1947 - 1949)

        Những thủ đoạn mới của thực dân Pháp

        Tháng giêng 1947, Chính phủ Ramađiê (Ramadier) lên cầm quyền ở Pháp. Ramađiê dựa vào viện trợ Mỹ, củng cố thế lực của giai cấp tư sản phản động, gạt tất cả các bộ trường cộng sản ra khỏi chính phủ và tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. chính phủ Pháp cử Bôlae làm Cao ủy Đông Dương với sứ mệnh nhanh chóng kết thúc cuộc chiến tranh bằng cách dùng lực lượng quân sự đè bẹp lực lượng võ trang và Chính phủ kháng chiến, dọn đường đưa Bảo Đại về nước, lập chính phủ bù nhìn. 

        Tháng 5-1947, Cao ủy Bôlae cử đại úy lê dương Bruylê (Jacques Brulé) làm Giám đốc Côn Đảo. Bruylê có bằng cử nhân Văn chương, có tham vọng để lại dấu ấn của một thời làm quan cai trị ở Côn Đảo. Hắn tỏ ra quan tâm đến đời sống tù nhân, hạn chế đánh đập, tăng cường bóc lột khổ sai bằng các biện pháp vật chất và tinh thần tinh vi và xảo quyệt.

        Nhân dịp Bộ trưởng Bộ hành động xã hội và bình dân của Chính phủ bù nhìn Nam Kỳ công cán tại Côn Đảo Bruylê đã đề nghị tăng tiền công lao động khổ sai cho tù nhân. Theo Nghị định ngày 16-11-1916 của Thống đốc Nam Kỳ thì mỗi ngày công lao động của tù nhân được trả 3 xu, trong đó một xu nộp lại cho ngân sách Nam Kỳ, một xu vào quỹ lưu ký. Người tù chỉ được lãnh một xu dưới dạng tích kê mua hàng ở hợp tác xã tiêu thụ của nhà tù. Người tù khỏe mạnh, đi làm suốt tháng lãnh được 26 xu.

        Thời giá lúc ấy, theo lời Bruylê thú nhận trong báo cáo thì tù nhân có lao động cả năm cũng chỉ đủ tiền mua 2 bao thuốc lá. Trước đó, Giám đốc Oóchếchcơ đã đề nghị trả từ 9 đến 12 xu cho một ngày công. Nay Bruylê đề nghị tăng lên ít nhất là 10 lần (tức 30 xu cho một ngày công). Ngày 8-11-1947, Thủ tướng bù nhìn Nguyễn Văn Xuân đã ký quyết định tăng đồng loạt tiền công của tù nhân lên 40 xu một ngày, không kể tính chất nặng nhẹ của công việc.

        Bruylê cho phép các tù nhân có tiền ký gửi ở phòng lục sự kế toán được rút dần dể mua hàng, mỗi tháng không quá 30 đồng. Đối với kíp tù sản xuất đồ mỹ nghệ bằng đồi mồi, sò ốc, sừng và gỗ quý, y cho phép chủ sở trích lại một phần sản phẩm làm phần thưởng để kích thích lao động. Y cho mở cửa thơ viện và phòng đọc báo, cử 2 tù nhân là Lương Văn Thắng và họa sĩ Nam Hải trông coi. Thư viện và phòng đọc dành cho viên chức nhà tù nhưng cho phép tù nhân đến đọc trong ngày nghỉ. Bruylê còn tổ chức chiếu phim, cho phép một số tù nhân “có hạnh kiểm tốt” được đi xem và sửa sang lại sân khấu, cho phép tù nhân diễn kịch; xin thêm dụng cụ thể thao để giải trí, sứ dụng nhiều tù nhân có văn hoá làm thơ ký, bồi bếp và làm việc ở các sở ngoài. Một số tù nhân được giao nhiệm vụ tập hợp tư liệu ở thư viện và lưu trữ của nhà tù để giúp Bruylê viết một cuốn sách về Côn Đảo. Chỉ trong vòng mấy tháng, cuốn Poul Condore (Côn Đảo) đã hoàn thành và đưa in tại nhà in T.F.E.O ở Sài Gòn (12-1947).

        Vừa sử dụng các biện pháp mị dân để bóc lột khổ sai, Bruylê đồng thời siết lại kỷ luật của nhà tù. Ngay trong tháng đầu nhận chức, y đã phạt xiềng và xà lim 30 tù nhân. Xiềng và xà lim là 2 hình phạt phổ biến trong hơn 2 năm đương nhiệm của y. Giờ đi làm khổ sai, hàng chục tù nhân bị phạt kéo lê xiềng trên những con đường đá lổm nhổm. Tiếng kim khí va vào đá nghe đến rợn người. Bụi cuốn lên từng đám.

        Được tận mắt nhìn cảnh tượng rùng rợn ấy trong chuyến đi công cán tại Côn Đảo, Bộ trưởng Bộ hành động xã hội và bình dân đã đề nghị bãi bỏ hình phạt xiềng tay chân, “bởi vì nó là một hình phạt chà đạp lên nhân phẩm và vô hiệu”1.

        Bruylê còn có ý đồ khôi phục lại Hầm xay lúa, một nhục hình khổ sai đày ải tù nhân tàn bạo như thời trung cổ. Y giao cho chủ sở Bản Chế thiết kế và tìm thợ đóng cối. Kíp thợ mộc đã từ chối, viện cớ là không biết  đóng. Họ chẳng dại gì tiếp tay để bọn chúa ngục lập lại hình phạt rùng rợn có một không hai ở nhà tù này. 

---------------------
        1. Báo cáo số 2589/1VIL/DAA ngày 5-8-1947 của Tổng nha hành chánh. Hồ sơ của Trung tâm Lưu trữ Nhà nước II.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #81 vào lúc: 05 Tháng Bảy, 2017, 05:15:04 am »


        Nhà tù Côn Đảo lúc ấy đang khủng hoảng trầm trọng về nhân lực. Tính đến ngày 31-5-1947, nhà tù chỉ còn 606 tù nhân (phúc trình tháng 5-1947 số 1033-P).  44 tù nhân thuộc đối tượng nguy hiểm không được ra khỏi trại; 26 tù nhân được chọn vào Sở Rờsẹc (truy tìm ít trốn); 29 tù nhân làm thư ký các loại; 95 người làm bồi bếp và lao động khổ sai. Mỗi sở tù khổ sai trước năm 1945 có hằng trăm lao động, nay chỉ còn đủ nhân lực tập trung vào một vài sở thiết yếu, mỗi sở vài chục người.

        Theo phúc trình tháng 5-1947:

        - Sở rẫy An Hải: 71 tù nhân

        - Sở Bản Chế: 51 tù nhân Sở Củi: 47 tù nhân Sở Vệ Sinh: 27 tù nhân ‘

        - Sở Chăn Nuôi: 25 tù nhân

        - Sở Lưới: 21 tù nhân

        Các sở khác chỉ có dăm ba người tù. Tình trạng thiếu nhân lực đã ảnh hưởng đến mọi hoạt động cửa nhà tù. 44 tù nhân mãn án được đưa về Sài Gòn ngày 10 5-1947 và tiếp theo một danh sách gần 50 tù nhân chuẩn bị rời đảo đã được Bruylê coi là “khủng hoảng trầm trọng”, “ảnh hưởng xấu đến tình trạng nhà tù”.. Y khẩn khoản yêu cầu: “Phải tăng con số phạm nhân lên rất nhiều... Khẩn thiết gửi ngay cho chúng tôi một đợt phạm nhân khá đông, như vậy vừa có thể giảm bớt được kinh phí chung, vừa nâng cao được năng suất lao động”. 

        Bọn thực dân đầu sỏ không để Bruylê phải nhắc nhiều. Côn Đảo là một nhà tù lý tưởng ở xứ Đông Dương, dành riêng cho những người tù nguy hiểm. ở đó, người tù hoàn toàn bị cô lập khỏi xã hội và phong trào cách mạng. Lao động khổ sai và kỷ luật của nhà tù sẽ đày ải họ chết dần chết mòn về thể xác và tinh thần.  Chuyến tù thứ 3 đày ải gần 400 tù nhân từ Khám Lớn Sài Gòn ra Côn Đảo ngày 6-8-1947 đã nâng số tù Côn Đảo lên 960 người.

        Bruylê cho sửa sang lại nhà giam Sở Muối để thay thế cho nhà giam Sở rẫy An Hải sắp sụp đổ; tăng thêm nhân công cho sở Bản Chế để đóng một chiếc xà lan gỗ trọng tải 40 tấn phục vụ việc chuyển hàng từ tàu lớn vào bờ. Một kíp tù nhân khác được huy động khai thác các loại ốc xà cừ để thu lợi theo hợp đồng bán 5.000 kg sản phẩm cho chi nhánh xuất nhập khẩu Sài Gòn.

        Cuối năm 1947, tù nhân ở Khám Lớn Sài Gòn liên tục đấu tranh đòi xoá án tử hình, đòi cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho tù nhân và tổ chức 2 cuộc vượt ngục bằng cách dỡ mái ngói và chui qua đường cống ngầm. 

        Ngày 2-12-1947, Cao ủy Pháp đã quyết định chuyển đến Côn Đảo một số lượng lớn tù nhân để giảm bớt mật độ và tình trạng căng thẳng ở Khám Lớn. Cuối tháng 12-1947, Ba tê (Battet) Tư lệnh hải quân Pháp ở Viễn Đông đã ra lệnh cho tất cả các tàu chiến hoạt động trên vùng biển tham gia vận chuyển, tiếp tế theo yêu cầu của Côn Đảo. 

        Những ngày đầu năm 1948, mấy chuyến tàu kế tiếp nhau chở hằng trăm tù nhân từ Khám Lớn ra Côn Đảo, trong đó có 63 tù nhân án tử hình và 69 tội phạm Nhật Bản. Tù binh Nhật bị giam riêng ở khu vực Banh III, có lúc lên tới 89 tên (31-8-1948). Họ cũng phải làm khổ sai và được đối xử đỡ khắc nghiệt hơn tù án. Viên bác sĩ quân y Nhật Sa tô được điều ra phục vụ tại Nhà Thương.  Có tên được về Nhà Đèn trông coi máy móc để hạn chế sự phá hoại của tù kháng chiến.

        Một sĩ quan Nhật được tin cậy giao cho trông coi chiếc canô của nhà tù. Chúa đảo Bruylê trong các báo cáo gửi Thống đốc Nam kỳ đã khen ngợi tù binh Nhật về tinh thần tuân thủ kỷ luật và chịu khó nhọc trong lao động khổ sai. Vài tù binh Nhật đã bị tai nạn chết thê thảm. Trại Nhật lặng lẽ cắt cử người đi chôn. Họ âm thầm chịu đựng và nén chặt nỗi đau trong lòng. Họ yên phận và dễ bảo dưới sự sai khiến của gacdang Pháp mà mới 2 năm trước đó, còn xun xoe với lính Nhật trên hòn đảo này.

        Có thêm lao động khổ sai, nhà tù lại gặp thêm nhiều khó khăn mới. Bộ máy cai trị còn quá yếu. Theo báo cáo của nhà tù, tháng 3 năm 1948 để cai quản hơn 1.000 tù nhân, chỉ có 34 giám thị Pháp, 22 gác ngục người Việt và một phân đội lính thuộc địa 18 tên (cả sĩ quan). Ngoài ra còn có một trạm liên lạc của Hạm đội Viễn Đông do tên quan tư hải quân Mêniê (Meynier) trực tiếp chỉ huy. Theo báo cáo của Giám đốc thì cần phải có thêm ít nhất là 7 giám thị Việt Nam và 19 giám thị Pháp “có kiến thức nghiệp vụ và ý thức trách nhiệm cao” mới khắc phục được tình trạng thiếu nhân viên quản tù một cách trầm trọng như hiện tại.

        Tỷ lệ tù chính trị tăng lên là một nỗi lo ngại lớn cho bọn chúa đảo. Báo cáo tháng 3 cho biết tỷ lệ tù chính trị đã tăng từ 30% (5-1947) lên 62% (3-1948).  Bruylê đã nhận xét tương đối chính xác rằng, “tù chính trị” khó cai quản gấp mấy lần tù thường phạm về mọi phương diện” (Công văn 93-C ngày 20-3-1948). 
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #82 vào lúc: 05 Tháng Bảy, 2017, 05:15:58 am »


        Tổ chức và hoạt động của tù nhân kháng chiến.

         Bước vào năm 1947, tế chức và hoạt động của tù nhân Côn Đảo chưa có sự lãnh đạo tập trung và thống nhất. Tù nhân ở các sở tự tập hợp nhau lại theo nhu cầu bảo vệ quyền sống và nhân phẩm con người. Mỗi sở tù có những cách tổ chức và hoạt động khác nhau. Xây dựng tổ chức, chống sự ngược đãi của nhà tù; cải thiện đời sống, đẩy mạnh các phong trào bình dân học vụ, văn nghệ và vượt ngục về kháng chiến là những đặc trưng cơ bản của thời kỳ này.

        Nhà Thương là sở tù sớm có tổ chức. Ngoài số tù nhân nằm điều trị, chủ sở Pêtrônali (Pétronah) còn quản lý kíp tù nhân phục vụ tại Nhà Thương (y tá, hộ lý bồi bếp tại sở); kíp vệ sinh quét đường và kíp đổ thùng cầu (tinette). Nhiều chiến sĩ Cô Tô sau khi giải toả vụ Côngplô được điều về Nhà Thương, trong đó có cả 2 cán bộ cán bộ của đại đội Ký Con là Lê Phú (Đại đội trưởng) và Nhâm Ngọc Bình (Trung đội trưởng) vừa được giảm án tử hình. Anh Phạm Giang Doanh được cử làm đại diện. Anh Trần Nhật Quang phụ trách phong trào bình dân học vụ. Anh Lê Phú chỉ đạo bếp ăn, nuôi dưỡng những người tù bệnh. Anh Nguyễn Văn Khang (Khang Đen) làm y tá, lo tìm kiếm thuốc men, trị bệnh.  Anh Nguyễn Kim Diễn, y tá phiên dịch ngoại trú làm nhiệm vụ tranh thủ viên bác sĩ người Pháp. 

        Cuối năm 1947, anh Nguyễn Kim Diễn với vai trò thư ký đã soạn thào điều lệ của tồ chức tù nhân khu (dưỡng đường (Nhà Thương), phỏng theo những nguyên tắc của Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và thừa kế mô hình tổ chức của tù nhân Khám Lớn. Ban chấp hành tù nhân khu đường đường gồm 5 người đã được bầu ra theo điều lệ. Anh Nguyễn Văn Hiền (Hiền già người Bình Định) là chủ tịch.

        Bản Chế là một sở quan trọng của nhà tù có nhiệm vụ quản lý các phương tiện giao thông, cung cấp nước ngọt, chế tạo công cụ lao động, sửa chữa máy móc các loại sản xuất đồ dùng mỹ nghệ. Tù nhân Bản Chế phần lớn xuất thân là những người thợ tham gia cách mạng.  Anh Nguyễn Văn Năm (Năm Mến) và anh Hai Nhị vốn là những người tù chính trị trước 1945, từng trải và thận trọng, biết cách đoàn kết, tập hợp anh em đã cùng với Nguyễn Văn Giỏi, Trần Văn Minh tổ chức nhóm nghiên cứu Mácxít ở Bản Chế.

        Ban chấp hành tù nhân khu Bản Chế gồm 5 người, được hình thành từ giữa năm 1947, đã tổ chức việc tăng gia cải thiện đời sống và xoá nạn mù chữ cho anh em.  Các anh Nguyễn Hoà Nhã, Vũ Đắc Bằng, Nguyễn Văn Huệ, Triệu Lý, Lý Tiến Vinh... đã góp phần tích cực vào các hoạt động văn nghệ, báo chí và bình dân học vụ trong thời gian sau đó. Tù nhân kháng chiến ở các Sở Tồn, Sở Củi - chuồng bò, Sở rẫy An Hải, các kíp cắt cỏ, thợ hồ, Nhà bếp, sở tẩy, lò vôi cũng cử ra đại diện trật tự rồi lần lượt bầu ra Ban chấp hành để bảo vệ quyền lợi của tù nhân.

        Chuyến lưu đày thứ 3 và các chuyến tiếp theo trong năm 1948, đã tăng cường cả số lượng và chất lượng của tù nhân kháng chiến. Đây là lớp tù nhân đã trưởng thành trong thời kỳ hoạt động và đấu tranh hết sức sôi nổi ở Khám Lớn - Sài Gòn sau “cách mạng khám đường”. Nhiều người đã tham gia Ban chấp hành tù nhân ở các khám, hoặc một số cương vị của Liên đoàn tù nhân Khám Lớn, từng dự các lớp huấn luyện chính trị, quân sự ngắn hạn do các anh Tưởng Dân Bảo, Phan Trọng Bình, Vũ Huy Xứng và Huỳnh Tấn Phát tổ chức.  Họ còn được bồi dưỡng những kinh nghiệm hoạt động bình dân học vụ, làm báo, văn nghệ từ thực tiễn trong tù. 

        Phong trào bình dân học vụ phát triển sôi nổi ở Côn Đảo trong những năm 1947-1948. Người học phần nhiều là tù thường phạm hoặc những người xuất thân là nông dân, dân nghèo thành thị, phu phen thất học mới tham gia kháng chiến. Người dạy có một số đã tham gia phong trào truyền bá quốc ngữ ở Khám Lớn. Các anh Trần Nhật Quang ở Nhà Thương, Phạm Gia, Nguyễn Ngọc Lân, Trần Đống ở Khám 1, anh Nguyễn Văn Mẹo ở Khám 3, Trần Văn Sứ, Nguyễn Văn Giỏi ở An Hải, Nguyễn Sáng, Lưu Văn Lê, Võ Văn Nguy ở Chỉ Tồn...  đã có nhiều đóng góp cho phong trào xoá nạn mù chữ của tù nhân Côn Đảo. Anh Trần Nhật Quang từng bị tra tấn đến mù một con mắt vẫn cặm cụi thức khuya dưới ngọn đèn tù mù chép những bài tập đọc, chính tả cho anh em.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #83 vào lúc: 06 Tháng Bảy, 2017, 09:00:34 pm »


        Ban chấp hành tù nhân ở mỗi khám đều có một ủy viên phụ trách bình dân học vụ để tổ chức và chỉ đạo phong trào. Các hoạt động văn nghệ, báo chí cũng góp phần tích cực cổ động tù nhân học tập. Tù nhân Sở Củi đã tổ chức đêm văn nghệ với ca cảnh Xoá nạn mù chữ, cổ động cho phong trào bằng những lời ca sinh động.  Đêm văn nghệ còn có màn đồng ca Đời sống mới và nhạc cảnh Bảo vệ thóc vàng, phản ánh sinh động của tù nhân hướng về các cuộc vận động lớn ở trong nước lúc đó.

        Sau đêm diễn, Giám đốc Bruylê đã ra lệnh bắt anh Phan Văn Đại cùng tốp diễn viên tra tấn 2 ngày ròng rã về tội “gây mất trật tự”. Toàn thể tù nhân khu Sở Củi đã phản đối hành động khủng bố đó.  Theo phương pháp i-tờ do hội truyền bá quốc ngữ đề xướng, công tác xoá nạn mù chữ ở Côn Đảo đã đem lại kết quả rất khả quan. Trong khoảng thời gian 3 tháng, người chưa biết chữ đã có thể đọc được, viết được. 

        Tùy điều kiện khổ sai ở mỗi sở mà anh em bố trí thời gian học cho thích hợp. An Hải, Sở Củi, Lò Vôi thường học buổi trưa. Nhà bếp, Chỉ Tồn, Bản Chế học buổi tối.  Tù tử hình phải còng chân thì bố trí thầy ngồi giữa, trò ngồi 2 bên. Khi muốn đổi thầy hay đổi trò thì phải chờ đến phiên đổi còng. Anh Gác, công nhân cao su ở miền Đông Nam Bộ nhờ được anh Lê Phú hướng dẫn tận tình trong mấy tháng ở Khám tử hình đã đọc thông, viết thạo và làm được cả 4 phép tính thông thường nữa. 

        Tên gác ngục Sa den có lần thấy tù nhân khám tử hình học văn hóa, y đã giễu cợt:

        - Các anh sắp chết rồi còn học làm gì?

        (Người tử tù) Nguyễn Đình Chính đã trả lời:

        - Nếu không chết thì sẽ thành người có ích. Còn nếu  chết thì chúng tôi cũng phải chết một cách có văn hoá. 

        Khám tử hình được thiết lập ngay từ cuối tháng 5-1946, lúc đầu ở Khám 3 Banh I, sau dời về Hầm xay lúa.  Trước sự đấu tranh của dư luận tiến bộ ở Đông Dương cũng như ở Pháp, bọn thực dân không dám bắn tất cả những tử tù mà chúng đã xử. Sau một thời gian nhất định, chúng giảm án một số người và y án một số khác.  56 tử tù ra chuyến đầu tiên ngày 27-5-1946 bị xử bắn tại Côn Đảo 10 người, trong đó có anh Bùi Hữu Khiêm, một người chỉ huy ở mặt trận Phú Nhuận. 3 tử tù đã chết vì bệnh tật, vài người bị đưa về hành quyết tại Sài Gòn, số còn lại được giảm án nhiều đợt, đến đầu năm 1947 thì hết. Hầm xay lúa lại “dành chỗ đón” những tử tù ra chuyến tiếp theo từ giữa năm 1947.

        Tháng 1947, khám tử hình có 17 tử tù. Hai anh Nguyễn Ngọc Sớm và Nguyễn Đình Thâu đã tổ chức cho anh em kỷ niệm sinh nhật Bác. Những tử tù bị còng chân, có độc bộ quần áo cộc trên người đã bàn đi tính lại với nhau, làm sao lập được bàn thờ Tổ quốc, có cờ, có ảnh Bác và có khẩu hiệu trang nghiêm. Hoàn cảnh bị giam giữ nghiêm ngặt chính là nơi thử thách tình cảm, nghị lực và trí sáng tạo của con người. Cờ được làm bằng giấy, từ hàng trăm mảnh giấy quấn thuốc lá nhỏ xíu dán lại. Nền cờ được quét bằng thuốc đỏ rồi kẻ ngôi sao 5 cánh bằng thuốc ký ninh vàng.

        Để có được lá cờ họ phải nhịn hút thuốc từ nhiều ngày để dành giấy, phải có người khai bệnh xin thuốc và nhịn suất cháo loãng để làm hồ dán. Họ đã dùng móng tay bấm lá bàng thành chữ, dùng gân lá ghép thành khẩu hiệu “Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm” treo lên tường. Khó nhất là việc vẽ hình Bác Hồ. Anh Nguyễn Văn Bẩy, một thanh niên khéo tay đã phác họa chân dung Bác theo trí tưởng tượng của 17 tử tù. Đó là hình một ông cụ dáng cao gầy, chòm râu dài, tóc bạc, trán cao, tai to, mắt sáng, gương mặt toát lên vẻ thông minh và nhân hậu. Bức họa không thật giống, nhưng lại thật đúng là hình ảnh Bác trong tim, trong óc những người tù thời ấy.

        Rạng sáng 19-5-1947, 17 tù tử hình đứng dậy làm lễ kỷ niệm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Anh Nguyễn Đình Thâu, nguyên là chi đội trưởng chi đội 13, Tư lệnh mật trận tiền tuyến Gò Vấp - Gia Định (miền Đông Nam Bộ) đã nói về tiểu sử sự nghiệp của Bác, sau đó mọi người quây quần kể góp những mẩu chuyện mà họ biết về đời hoạt động và đạo đức tác phong của Người. Mỗi đợt sinh hoạt chính trị như vậy, những người tử tù động viên nhau giữ vừng khí tiết cách mạng, xứng đáng là người lính Cụ Hồ, ngay cả khi đối diện trước cái chết.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #84 vào lúc: 06 Tháng Bảy, 2017, 09:00:55 pm »


        Anh Nguyễn Hoài Cơ, đội viên Ban công tác I, người tử tù số G - 130 đã nêu tấm gương đầy dũng khí.  Lần ấy đổi còng, biết mình sẽ ra đi, anh đã thức suốt đêm cùng bạn tử tù hát vang những bài ca cách mạng: Lên Đàng, Cùng nhau đi hùng binh, Tiến quân ca, Chiến sĩ Việt Nam... Mờ sáng hôm sau, khi gác ngục mở cứa, bọn lính Lê dương ập vào, anh siết chặt tay bạn tù, chào vĩnh biệt và ung dung ra trường bắn.

        Linh mục Nguyễn Văn Mầu kể lại, anh Cơ đã từ chối rửa tội. Anh chỉ vào tốp lính Lê dương và tên chánh án có mặt tại trường bắn mà nói với linh mục: Ông phải rửa tội cho những người này, chính họ mới có tội. Anh từ chối bịt mắt, nhìn thẳng vào họng súng kẻ thù và dõng dạc hô:

        - Hồ Chủ tịch muôn năm!

        - Việt Nam độc lập muôn năm!

        Giọng anh lúc ấy vẫn điềm đạm như ngày thường.  Linh mục Nguyễn Văn Mầu thường trầm trồ nói với tù nhân: “Người như ông Cơ anh hùng lắm”.

        Noi gương Nguyễn Hoài Cơ, những người tử tù đã biến cuộc hành hình của địch thành một cuộc biểu dương khí phách của người cách mạng. Anh Nguyễn Đình Chính, nguyên Trưởng ban Công tác I Sài Gòn - Gia Định bị địch gọi về xứ bắn tại Sài Gòn. Trước khi về anh còn gửi lại bài thơ tràn đầy lạc quan tặng các bạn tù:

        “Độc lập đến rồi các bạn ơi.
        Chung thân  Xử tử chỉ trò chơi.
        Giặc Tây sắp đến giờ tận số.
        Ta hát quân ca trở lại đời”.

        Khí phách anh hùng trước cái chết như Nguyễn Đình Chính, Nguyễn Hoài Cơ đã trở thành bất tử. Tù nhân kháng chiến Côn Đảo noi gương các anh về lòng tin tất thắng vào cách mạng và dũng khí trước kẻ thù, như lời tuyên bố đanh thép của Nguyễn Đình Chính trước toà án thực dân: “Tôi tin đến lúc chết, nước Việt Nam sẽ độc lập”. Tù Côn Đảo gọi Khám tử hình là Khám bất tử, gọi người tử tù là tù bất tử.

        Cuối năm 1947, tù nhân các khám đều chuẩn bị chương trình văn nghệ đón xuân Mậu Tý (1948). Ban kịch Sở rẫy An Hải dựng một vở kịch thơ của Phan Văn Đã; Ban kịch Nhà bếp trình diễn vở Công chúa ngủ trong rừng và kịch Hội sợ vợ do anh Lương Văn Thắng biên soạn và dàn dựng. Kỹ sư Lưu Văn Lê đạo diễn dựng vở Thầy thuốc bất đắc dĩ cho Ban kịch tù áo trắng. Anh Hoàng Hữu Kình làm ở Văn phòng Giám thị trướng đã khôn khéo đề nghị với Giám đốc tổ chức một “đêm kịch mừng xuân mới”. Bruylê đồng ý với điều kiện là chính y duyệt nội dung các vở diễn.

        Giáp Tết âm lịch, một phái đoàn của chính phủ bù nhìn Nam Kỳ do Trần Văn Ân, Bộ trưởng Thông tin cầm đầu ra thăm Côn Đảo. Cùng đi có Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Khắc Vệ và thứ trưởng nội vụ Lê Tấn Nầm. Ân đến thăm Bản Chế, Sở Củi, Trại tù binh Nhật, và các khám tù, gặp gỡ một số tù nhân thuộc các đảng phái quốc gia, sau đó đề nghị ân xá cho vài người (trong đó có cụ Võ Oanh). Nhân dịp ấy, Giám đốc Bruylê đã mời Ân xem đêm kịch tù nhân, mưu toan leo cao trong nấc thang danh vọng.

        Đêm diễn có vở kịch Trương giả học làm sang của Môlie, nhạc cảnh Công chúa ngú trong rừng, kịch vui Hội sợ vợ do Lương Văn Thắng biên soạn và song ca Tết độc lập do Nguyễn Sáng và anh Quang trình bày. Nhạc cảnh Công chúa ngủ trong rừng dựa theo truyện cổ dân gian Pháp biểu diễn thành công nhất, được khán giả trầm trồ khen ngợi.

        Anh Quang trong vai công chúa đã trình diễn điệu valse đẹp mắt theo nền nhạc bài Tiếng rừng do Nguyễn Ngọc Lân, Nguyễn Sáng và Lưu Phê đồng ca. Trang phục diễn viên lộng lẫy, ánh sáng hài hoà làm cho bọn Pháp hết sức thán phục. Vợ quan tư hải quân Mêniê nói rằng bà ta có cảm giác như đang ngồi trong một rạp hát của thành phố Paris bên Pháp. Tên gác dang Loadô tò mô đòi xem bằng được bộ y phục đúng mốt và đắt tiền của diễn viên. Hắn hết sức ngạc nhiên khi tận mắt thấy váy áo lộng lẫy bằng bao tải nhuộm, râu tóc bằng tơ gai tước ra, phấn son là thuốc đỏ, thuốc tím và ký anh vàng.

        Những tù nhân từng quằn quại dưới ngọn roi của hắn lại có vốn tri thức văn hoá và thẩm mỹ nghệ thuật không ngờ.  Những tù nhân làm văn nghệ không phải để mua vui cho chúng. Họ biết lợi dụng máu hám danh của Bruylê để giảm bớt phần nào sự đày ải của nhà tù, người tù kháng chiến thông qua hình thức nghệ thuật để cảm hoá kẻ thù và lúc cần thì trực diện tố cáo chúng. 

        Khi Trần Văn Ân lên giọng ca ngợi thành công cải thiện chế độ lao tù của Giám đốc đương nhiệm và ve vuốt tù nhân rằng: “Ở tù như thế này chẳng khác nào đi nghỉ mát”, thì một tù nhân đã bảo hắn: “Vậy thì xin mời Ông ra đấy mà nghỉ mát. Chúng tôi không ưa kiểu nghỉ mát này”.

        Mùa xuân năm ấy không chỉ đánh dấu bằng những thành công trong các hoạt động văn nghệ mà tù nhân Côn Đảo còn “được mùa” vượt ngục. Hàng chục cuộc vượt ngục đã liên tiếp nổ ra từ đầu mùa gió chướng năm ấy.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #85 vào lúc: 06 Tháng Bảy, 2017, 09:02:10 pm »


        Vượt ngục về kháng chiến

        Tháng 10-1946, ba tù nhân vượt ngục trên một.chiến thuyền nhỏ. Hai lính Pháp dùng chiếc thuyền 6 tay chèo đuổi theo. Lúc ấy nhà tù chưa có xuồng máy. Sau vài giờ chúng đuổi kịp tốp vượt ngục, nhưng rồi tất cả không trở về. Một con sóng lớn đã nhận chìm hai chiếc thuyền vào dòng xoáy của hải lưu. Tình cờ, một chiếc tàu chở dầu của Hoa Kỳ đã vớt được mấy người lính và tù nhân đang hấp hối. Họ được đưa cả về Thái Lan.

        Cũng trong mùa gió chướng năm ấy, ông già Huệ, người tù án lưu quê ở miền Tây Nam Bộ đã trốn lên núi đóng bè thân cây chuối rừng, một mình vượt biển, lênh đênh trên biển 16 ngày liền, nắng thiêu cháy da. Hết lương thực, cạn nước ngọt, ông phải rình bắt những con cá vô tình nhảy lên bè mà ăn sống cầm hơi. Khi sức tàn, lực kiệt thì sóng đẩy dạt vào bán đảo Mã Lai.  Những người du kích Mailaixia đã cứu ông. Ông ở lại chiến đấu trong đội quân du kích chống thực dân Anh và bị bắt trong một trận càn. Thực dân Anh trao trả ông cho chính quyền Pháp và ông bị đày trở lại Côn Đảo ít lâu sau ông lại vượt ngục rồi mất tích.

        Anh Mười Bù cùng một tốp thường phạm cũng đã thả bè vượt ngục vào cuối mùa gió chướng. Năm ấy gió chướng hết sớm, bè các anh bị trôi ra phía biển Đông. Hết nước ngọt và lương thực, cùng đường, người hấp hối sắp chết phải trở thành nguồn sống cho những người còn lại. Một chiếc tàu tuần dương hạm của nước Anh trên đường tới Xanhgapo đã vớt được những người sống sót và trao trả cho Pháp. Bị đày trở lại Côn Đảo, Mười Bù lại tiếp tục chuẩn bị vượt ngục.

        Ngày 31-1-1947, tàu chở hàng Goeland của Pháp đã vớt được 2 tù nhân vượt ngục trên một chiếc bè. Báo cáo số 774/P ngày 7-2-1948 của Giám đốc nhà tù cho biết, hai tù nhân này trên một hòn đảo nhỏ, ngắt lá rừng và bắt cá biển để ăn, chờ đến khi gió chướng thổi mạnh mới thả bè về đất.

        Mỗi mùa gió chướng, bọn gác ngục lại tăng cường các biện pháp chống vượt ngục. Ngoài bộ máy gác ngục Pháp, Việt giám sát chặt chẽ hàng ngày, nhà tù còn tổ chức một mạng lưới tù gian làm tay sai, ở lẫn lộn trong từng kíp tù để rình mò, phát hiện. ở mỗi bãi biển, Sở Rờsẹc bố trí hai nhân viên truy tầm tù trốn. Bọn này đã thông thạo từng loại gỗ nổi có thể đóng bè, từng vạt mây có thể làm thuyền, những địa điểm mà tù nhân trường kết bè, hạ thủy, phát hiện các âm mưu vượt ngục của tù nhân. Nhiều tù nhân bị phạt xiềng, phạt xà lim và đưa về những sở khổ sai nặng nhọc.

        Vượt ngục là cuộc chạy đua giữa tính mạng với tử thần. Nhưng không có hiểm nguy nào ngăn được ý chí vượt ngục của người tù, cho dù chết chìm dưới biển khơi hay vỡ thuyền, bị bắt lại. Xà lim, xiềng xích, kỷ luật của nhà tù chỉ nung nấu thêm khát vọng vượt ngục của họ mà thôi.

        Chuyến vượt ngục thành công sớm nhất của tù chính trị thời kỳ này là chuyến của hai anh Diễn và Phong. Hai anh đã cập bến an toàn vào vùng biển Bạc Liêu và ở lại công tác ngay tại Tỉnh đội Bạc Liêu.  Chuyến thứ hai do anh Nguyễn Ngọc Luật tổ chức vượt biển bằng thuyền ván. Nguyễn Ngọc Luật bị đày ra Côn Đảo ngày 5-8-1947, lọt được vào Sở Rờsẹc, canh bãi ông Đụng. Anh đã liên hệ với Tuấn, Dưỡng ở Sở Củi, móc nối được Khánh và Thương là dân đánh cá vùng Gò Quào (Rạch Giá). Các anh đã tháo được mấy tấm cánh cửa gỗ ở một căn nhà bỏ không phía Sở Tiêu và đóng thuyền ở bãi ông Đụng, ngay tại khu vực Nguyễn Ngọc Luật kiểm soát. Chập tối 15-11-1947 thuyền hạ thủy.  Chiếc thuyền gỗ nhỏ đưa 5 chiến sĩ cách mạng về vùng biển Rạch Giá sau 3 ngày đêm vượt biển.

        Chỉ ít ngày sau, Ba Rùm đã cùng 4 tù nhân sở Bản Chế cướp ghe vượt ngục ngay tại Cầu Tàu. Ba Rùm là cựu tù thường phạm ở đảo. Tháng 8-1945, anh được tù chính trì giải phóng đưa về đất liền rồi tham gia kháng chiến, bị bắt lại đầu năm 1946. Ra Côn Đảo lần thứ 2, anh đã tìm cách xin về Bản Chế và nuôi chí vượt đảo.  Mùa gió chướng năm ấy, một chiếc ghe câu ở Cấp (Vũng Tàu) trôi dạt vào Côn Đảo. Ba ngơ dân được gửi theo tàu của hải quân Pháp về trả cho chính quyền dịa phương, còn chiếc ghe tam bản chúng giao cho Sở Lưới. Rạng sáng một ngày cuối tháng 11-1947, Ba Rùm cùng Bảy Vượng, Tư Sỏi, Năm Bé và Võ Văn Xê đã cướp ghe về Cà Mau. Ba Rùm được phân công trở lại lực lượng võ trang Bình Xuyên, tham gia nhiều trận đánh trên sông Lòng Tàu.

        Nhóm tù nhân ở Sở rẫy An Hải và Sở Củi rủ nhau lên núi kết bè vượt đảo vào chiều 11-1-1948. Do tổ chức lộ liễu nên bị phát hiện ngay từ khi vừa trốn trại.  Nguyễn Sáng kịp lẻn về trước giờ điểm danh, còn mười mấy người đã trốn lên núi bị truy lùng gắt gao. Ông già Trị chém trọng thương một tên Rờsẹc truy đuổi. Bọn lính bủa vây, súng trường, tiểu liên nổ ra khắp rừng An Hải suốt đêm ấy. Chúng vây ráp cả tuần lễ, bắt lại từng người. Có người đói khát đã chết khô trong hang Núi Chúa, hàng tháng sau mới tìm thấy xác.

        Ngay trong đợt vây ráp và truy lùng ráo riết ấy, một chuyến vượt ngục duy nhất của tù áo trắng đã thành công vào ngày 14-1-1948. Trong lúc nhà tù tập trung lực lượng truy lùng trên núi và canh gác chặt chẽ bãi biển phía tây thì tốp tù áo trắng táo bạo xuống thuyền ở phía đông, ngay tại bãi Nhà Thờ, trước mũi dinh chúa đảo và nhân viên nhà tù. Nhờ sự chuẩn bị nỗ lực của anh em áo trắng, còn phải kể đến tài nghệ của “vua vượt ngục” Mười Bù cùng sự tham mưu và chỉ đạo của anh Năm Nghĩa ở Sở Củi nên chuyến vượt ngục này đã thành công.

        Năm Nghĩa (còn gọi Nghĩa Sứt, Nghĩa Cơm Cháy) là một chiến sĩ tham gia từ Nam Kỳ khởi nghĩa (1940). Anh ủng hộ và giúp đỡ chí tình cho nhiều cuộc vượt ngục của tù nhân. Chính Năm Nghĩa đã giới thiệu Mười Bù cùng 2 tù thường phạm có sức khỏe và kinh nghiệm vượt ngục cho nhóm tù áo trắng. Năm Nghĩa là người giữ mối liên hệ thường xuyên giữa Mười Bù và Phạm Gia, thơ ký kho bạc trong suốt quá trình chuẩn bị làm thuyền và góp nhiều ý kiến chỉ đạo.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #86 vào lúc: 07 Tháng Bảy, 2017, 04:11:08 am »


        Chuyến ấy đi bằng thuyền khung mây bọc vải. Trúc Quỳnh (bồi bếp) và Võ Xuân Phong (hợp tác xã tiêu thụ) lo mua sơn, vải. Hoàng Hữu Kình, Lê Huy Báu (Văn phòng Giám thị trưởng) thì nghiên cứu con nước thủy triều và quy luật bố phòng của địch. Phạm Gia (kho bạc) làm nhiệm vụ tiếp tế và liên hệ giữa các nhóm.

        Toàn bộ công việc làm thuyền do Mười Bù và 2 thường phạm đảm nhiệm. Tay lái thiện nghệ của “vua vượt ngục” Mười Bù đã đưa thuyền cập đúng mũi Cà Mau sau 2 ngày, 3 đêm trên biển. Mười Bù giác ngộ, trở thành một chiến sĩ can đảm trong lực lượng võ trang và hy sinh anh dũng trong cuộc kháng chiến ở miền Tây Nam Bộ.

        Chưa đầy một tháng sau, nhóm kéo cây do Lê Quỳnh Vân, Nguyễn Năng Tảo và Lâm Quang Xuân lại tổ chức vượt đảo bằng thuyền khung mây bọc vải.  Chuyến này có 4 tù thường phạm làm Rờsẹc cạnh bãi Cỏ Ống và 12 tù chính trị ở Sở kéo cây. Ngày 2-2-1948, các anh xuống thuyền ở bãi Cỏ Ống và cặp vào vùng biển thuộc huyện Giá Rai (Bạc Liêu) an toàn. 

        Ngày 2 tết Mậu Tý (11-2-1948), 7 tù chính trị ở Sở Bản Chế do Nguyễn Việt Hùng tổ chức đã cướp chiếc canô duy nhất ở Côn Đảo vượt ngục về Cà Mau. Nguyễn Việt Hùng còn có bí danh là Hùng Vịt tức Nguyễn Văn Thịnh, tức Mười Thái, nguyên là cán bộ công vận hoạt động ở Sài Gòn từ 1944. Bị đày ra Côn Đảo từ ngày 5-8-1947, Việt Hùng cùng một số tù trẻ có chí hướng vượt ngục tìm đến Năm Nghĩa ở Sở Củi học hỏi kinh nghiệm. Khi được làm thợ máy trên chiếc canh Poulo - Condore, anh đã chuẩn bị một kế hoạch cướp canô vượt đảo. 

        Mồng 2 tết năm ấy, có 2 tàu tuần tiễu của Pháp ghé Côn Đảo. Sau khi chở đám sĩ quan, thủy thủ Pháp lên bờ xem kịch và dự tiệc, Nguyễn Việt Hùng được lệnh chuẩn bị xăng nhớt và trực đêm để đón chúng về tàu.  Thừa dịp ấy anh đã đưa cả nhóm là Nguyễn Công Lý, Cù Trung Sơn, Nguyễn Văn Thước, cùng các anh Đệ, Miên, Niên xuống canô về đất liền. Chiều 4 tết, các anh cặp vào đúng mũi Cà Mau.

        Noi gương tù vượt ngục ở Sở Bản Chế, tù nhân Sở Lưới trên đường sang Hòn Tài bắt vích đã bắt trói chủ sở Machiơ (Mathieu) cùng một lính Pháp và một tù binh Nhật Bản (lái canh) vứt lên bãi cát rồi trở về đất liền.  Chuyến ấy do các anh Chánh, An, Đạt và một tù nhân nữa thực hiện.

        Giám đốc Brơylê tỏ ra hoang mang trước các cuộc vượt ngục liên tiếp xảy ra. Trong phúc trình số 93-C ngày 20-3-1948, y đã viện dẫn nhiều lý do khiến cho nhà tù bất lực trước các cuộc vượt ngục. Đó là tỷ lệ tù chính trị tăng lên một cách đáng kể, sự thiếu nhân viên quản tù, sự khủng hoảng tinh thần của những gác ngục Pháp, Việt và sự phá sản của Sở Truy tìm tù trốn.

        Bruylê cũng không giấu giếm rằng chính tình hình chính trị và quân sự (ở Đông Dương) đã ảnh hưởng sâu sắc đến nhà tù khiến cho các nhân viên coi ngục người Việt Nam hoài nghi, co mình lại, những giám thị Pháp chán nản và kém hiệu lực. Đáng ngại hơn cả là chính những nhân viên truy tìm tù trơn lại đồng lõa với tù vượt ngục. Y đã đề nghị thay thế Sở truy tầm bằng những trạm kiểm soát của lính Partisans người Lào hoặc Miên.

        Bruylê chưa kịp thay đổi gì thì cuộc vượt đảo thứ 2 của tù nhân Sở Lưới lại bồi tiếp cho hắn một đòn choáng váng. Cuộc vượt đảo này được tổ chức chặt chẽ, do anh Nguyễn Văn Chì, đội viên Ban công tác 4 thành phố Sài Gòn - Gia Định chỉ huy, có sự nội ứng của 2 giám thị Việt Nam là Nguyễn Văn Đang và Nguyễn Văn Ngọc.

        Tối 7-5-1948, 25 tù nhân Sở Lưới ra khơi đánh cá.  Hai gác dang Bare (Barère) và Nuộc (Muogues) cùng thầy chú Nguyễn Văn Đang với 3 tù nhân ngồi trên chiếc ghe máy mượn của Sở Hải Đăng và Hoa Tiêu, kéo theo một chiếc ghe chèo chở 27 tù nhân và thầy chú Nguyễn Văn Ngọc.

        Khoảng 21 giờ đêm, ghe ra đến gần Hòn Tre, giảm tốc độ chuẩn bị bủa lưới thì trên chiếc ghe đầu, giám thị Nguyễn Văn Đang một tù nhân kháng chiến đoạt cây tiểu liên của Nuộc. Nuộc chống cự và nhảy xuống biển hòng thoát thân nhưng hắn bị bắn chết. Trên ghe thứ 2, tù nhân cũng nhanh chóng làm chủ tình thế rồi chuyển qua ghe máy, mở hết tốc lực, nhằm hướng đất liền. 

        Ngày hôm sau (8-5-1948), không thấy thuyền Sở Lưới về, Bruylê mới vội vã tổ chức truy tìm, nhưng vô vọng. Tàu tuần tiễu và thủy phi cơ của hải quân Pháp được huy động vào cuộc truy tìm trên biển. Bọn Rờsẹc cùng binh lính, giám thị sục sạo khắp các bến bãi cũng không tìm được dấu vết gì. Giám đốc Côn Đảo điện báo cho Sở cảnh sát cộng hòa và Bộ nội vụ ngụy quyền, Công điện số 30/ATS ghi: “Trân trọng báo cáo, 25 phạm nhân vượt ngục nhân buổi đánh cá đêm 7 rạng 8-5-1948 trên một thuyền gắn máy. Hai giám thị người Âu và một người gác ngục Việt mất tích cùng với vũ khí. Dự đoán họ bị bắt làm con tin – stop. Đã truy tìm lập tức bằng thủy phi cơ, tàu tuần tiễu, ở biển và trên bộ, không có kết quả - stop. Ký tên: Bruylê.

        Công điện gửi đi vào lúc đoàn tù vượt ngục đã ung dung trên đất liến. Xuồng của họ cặp vào cửa biển Mỹ Thanh (nay thuộc tỉnh Hậu Giang). Họ bàn giao vũ khí, chiến lợi phẩm và tù binh cho chính quyền cách mạng.  Hai thầy chú Nguyễn Văn Đang và Nguyễn Văn Ngọc đã được tù nhân giác ngộ, tích cực nội ứng cho cuộc vượt ngục tình nguyện tham gia vào đội ngũ kháng chiến.  Ngọc sau hy sinh ở chiến trường miền Đông Nam Bộ.

        Gác dang Bare bị chính quyền cách mạng kết án tử hình vì có dự phần vào những tội ác đối với tù nhân trong cuộc đại khủng bố 1940-1945, thảm sát trên 3.000 người ở Côn Đảo; song những người tù vượt ngục đã xin tha chết cho y. Bare thật sự cảm động nói với vị đại diện của chính quyền kháng chiến: “Lẽ ra các ông ấy phải vứt tôi xuống biển mới xứng với tội lỗi của tôi. Tôi rất biết ơn Cụ Hồ đã giáo dục các chiến sĩ Việt Nam dũng cảm và nhân đạo”.

        Cuộc vượt ngục của tù nhân Sở Lưới lần này gây một tổn thất nặng nề cho nhà tù: Bruylê đã phải gọi là “tấn bi kịch thảm khốc”. Chiếc canô được bổ sung giao cho Sở Lưới đã bị một nhóm tù chính trị vượt ngục đoạt mất cách đó không lâu. Lần này, chiếc xuồng máy vừa mượn của Sở Hải Đăng và Hoa Tiêu để áp tải ghe đánh cá lại mất trắng. Hàng loạt cuộc vượt ngục nối. tiếp nhau trong mùa gió chướng này đã sớm kết thúc sự nghiệp coi tù của Bruylê.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #87 vào lúc: 07 Tháng Bảy, 2017, 04:11:44 am »


        Đêm kịch Bôlae

        Bruylê đang chờ đợi cơ hội để gỡ gạc lại uy tín sau một thời cai trị đày ắp các phúc trình về tù nhân vượt ngục. Giữa lúc ấy, Cao ủy Bôlae (Emile Bolaert) ghé Côn Đảo trước khi mãn nhiệm ở Đông Dương, trở về Pháp giữa mùa thu 1948. Bruylê quyết định ra mắt quan thày bằng vở kịch Thầy thuốc bất đắc dĩ (Le Médecin malgrélui) của Môlie mà y đã có dịp thưởng thức tài nghệ của các diễn viên tù. Bruylê vừa vuốt ve, vừa răn đe ban kịch: “Tôi biết các anh diễn kịch hay lắm. Phải diễn cho tốt và nghiêm chỉnh. Cuộc sống của các anh sau này tốt hay xấu đều phụ thuộc vào đêm diễn ấy”. 

        Ban kịch đã thảo luận khá gay gắt về việc diễn hay không diễn. Có người không muốn diễn vì sợ để lại tiếng xấu là tù kháng chiến diễn kịch mua vui cho Cao úy Pháp, làm nổi danh cho Giám đốc Bruylê, để cho hắn điều khiển theo ý muốn... Có người lại đề nghị là cứ nhận lời, nhưng không diễn mà nhân dịp giáp mặt Bôlae sẽ lên án chế độ thực dân xâm lược và chế độ nhà tù man rợ ở Côn Đảo. Sau cùng, họ thỏa thuận với nhau: diễn kịch và tố cáo.

        Biết đêm kịch này lành ít dữ nhiều, họ đã rút vở kịch lại còn một màn, chọn ít diễn viên để bớt phần tổn thất. Chỉ có 5 người, thuộc Ban kịch tù áo trắng: Lương Văn Thắng, Nguyễn Ngọc Lân (thư ký kho bạc), Trần Duy Giang (Văn phòng Giám đốc), Lưu Phè (Sở rẫy Giám đốc), Quang (hợp tác xã tiêu thụ).

        Bôlae không đặt chân lên Côn Đảo. Đoàn diễn viên tự hoá trang sau bữa cơm chiều rồi theo tốp lính áp tải xuống canh, ra chiếc tuần dương hạm đậu ngoài vịnh Côn Lôn. Dự “Đêm kịch Bôlae” có cả Đô đốc Tư lệnh Hải quân Pháp ở Viễn Đông Ba tê (Battet) theo tàu hộ tống và phóng viên hãng thông tấn A.F.P, phóng viên các tờ Sài Gòn Nhật Báo, Viễn Đông Nhật Báo cùng hàng trăm sĩ quan, thủy thủ vây quanh boong tàu. Vợ chồng Bruylê cùng vợ chồng quan tư hải quân Mêniê tại Côn Đảo cũng có mặt.

        Mở đầu đêm kịch, thay cho lời chào mừng, anh Lương Văn Thắng, một nạn nhân trong vụ Côngplô đã đọc bài diễn văn tố cáo chế độ nhà tù tàn bạo và nghiệt ngã. Anh khẳng định rằng tù kháng chiến là những người yêu nước, cầm súng bảo vệ nền độc lập của dân tộc mình, giống như những người Pháp Đờ Gôn chống phát xít Đức, không bao giờ là quân phiến loạn như bản án mà thực dân Pháp đã gán cho họ. Vậy mà bọn chúa ngục Côn Đảo đã đối xử với họ dã man hơn cả phát xít Đức đối với tù binh Pháp.

        Bôlae không chịu nổi, đứng dậy cắt ngang lời Lương Văn Thắng:

        - Các ông là những kẻ phiến loạn, đốt nhà, cướp của, giết người. Các ông không có quyền so sánh với những người Pháp yêu nước.

        Tình thế mở ra một cuộc đối thoại lý thú giữa người tù kháng chiến và Cao ủy Pháp. Lương Văn Thắng hỏi Bôlae:

        - Vậy xin hỏi ngài, hành động của một thiếu niên yêu nước Việt Nam ném lựu đạn vào quân Pháp có khác gì hành động tương tự của một thiếu niên Pháp đối với bọn phát xít Đức?

        Bôlae trơ trẽn trả lời:

        - Khác chứ. Bọn phát xít Đức xâm lược nước Pháp, còn nước Pháp có trách nhiệm bảo hộ và khai hoá cho đất nước này!

        Lương Văn Thắng bồi tiếp:

        - Báo chí Đức dưới thời Pêtanh cũng nói với nhân dân Pháp như thế!

        Bôlae cứng lưỡi, đỏ mặt tía tai, đập bàn đứng dậy.  Giám đốc Bruylê hầm hầm ra lệnh cho bọn lính áp tải còng tay đoàn diễn viên đưa vào cấm cố ngay đêm diễn khi họ còn nguyên cả y phục, phấn son. Hôm sau, hắn tuyên bố phạt mỗi người một tháng xà lim, còng chân, ăn cơm nhạt, uống nước lã.

        “Đêm kịch Bôlae” nổi tiếng không phải ở thành công của sân khấu nghệ thuật mà là dũng khí của người chiến sĩ, người nghệ sĩ trước kẻ thù. Bằng lòng can trường và lý lẽ đanh thép, người tù kháng chiến đã lột trần bộ mặt xâm lược và tàn bạo của thực dân Pháp. Họ đã buộc tên đầu sỏ thực dân ở Đông Dương phải đối thoại và đến khi đuối lý, hắn đã lộ rõ nhân cách thấp hèn vốn có của bọn thực dân xâm lược.

        Tốp diễn viên kịch tù, trừ Lương Văn Thắng đã đứng tuổi, còn lại đều rất trẻ. Họ mới giác ngộ từ những ngày đầu kháng chiến. Cách mạng tháng Tám 1945 đã nâng họ từ người nô lệ thành công dân một nước độc lập và chính họ đã đề cao chính nghĩa cho dân tộc Việt Nam. Họ đã biến sân khấu nhà tù thành diễn đàn đanh thép tố cáo cuộn chiến tranh xâm lược và tàn bạo của thực dân Pháp ở Việt Nam trước mặt tên đầu sỏ thực dân cùng hàng trăm sĩ quan, thủy binh, nhà báo, bất chấp mọi hình phạt.

        “Đêm kịch Bolae” đã đặt dấu chấm hết cho đoạn đời cai trị đầy tham vọng và thủ đoạn của Bruylê.  Cay đắng trước thất bại, Bruylê cấm tù nhân diễn kịch và hát ca, đóng cửa thư viện, bỏ chiếu phim. Y cấm tất cả tù áo xanh không được ra khỏi trại trong ngày nghỉ, ngày lễ. Y bắt tù áo trắng buổi tối phải vào ngủ trong Banh I, không còn bộ phận nào được ngủ ngoài banh như trước nữa. Y thiết lập chế độ cấm cố tại Khám 6, Banh I để giam riêng những người tù cứng đầu, bất trị. 

        Ông già Trị vừa mãn hạn xà lim sau cuộc vượt ngục thất bại là một trong những người đầu tiên vào cấm cố. Đoàn kịch sau một tháng bị phạt xà lim cũng về Khám 6.  Sự có mặt của những người tù vượt ngục và tốp “diễn viên kịch” đầu tiên trong Khám 6 cấm cố chính là bằng chứng thất bại thảm hại trong thời cai trị của Bruylê. Đó cũng là hình ảnh của sự bất lực và trả thù; là bộ mặt thật của chính sách biến nhà tù thành “Trung tâm giáo dục lại nhân phẩm” như trong phúc trình buổi đầu nhận chức của Bruylê..
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #88 vào lúc: 07 Tháng Bảy, 2017, 04:12:08 am »


        Thống nhất lực lượng, tiến tới cao trào

        Từ giữa năm 1948 tù nhân Côn Đảo đã hình thành tổ chức ở hầu hết các khám tù, sở tù. Trong dịp kỷ niệm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh (2-9) năm ấy, các anh Nguyễn Đình Thâu (Khám tử hình), Trịnh Xuân Hà (Sở rẫy Giám đốc), Lương Văn Thắng (thư ký kho bạc), Tư Ba Đào (Khám 3), Trương Anh Tuấn (Chỉ Tồn), Lê Ngọc Hương (Nhà bếp), Phan Văn Đại, Nguyễn Văn Mẹo (Khám 2), Lê Trung Khá (Khám 6), Nguyễn Văn Năm (Bản Chế)... đã liên hệ với nhau bàn việc bầu ra bàn lãnh đạo thống nhất của tù nhân Côn Đảo. 

        Anh Nguyễn Đình Thâu được giao nhiệm vụ dự thảo Điều lệ của Liên đoàn tù nhân để trình Hội nghị lâm thời của đại biểu tù nhân Côn Đảo. Trên cơ sở đó, tiến hành bầu Ban chấp hành liên đoàn tù nhân, cơ quan lãnh đạo cao nhất của tù nhân Côn Đảo. Vài tháng sau, bản Điều lệ dự thảo được các anh Trịnh Xuân Hà, Lê Ngọc Hương, Trương Anh Tuấn thảo luận cùng một vài tù nhân kháng chiến gần gũi.

        Hoàn cảnh nhà tù khi ấy không còn cho phép triệu tập Hội nghị lâm thời. Các anh Nguyễn Đình Thâu, Trịnh Xuân Hà, Lê Trung Khá, Tư Ba Đào, Phan Văn Đại đã nhân danh Hội nghị lâm thời tù nhân Côn Đảo để chỉ đạo việc bầu Ban chấp hành tù nhân ở các khu.

        Ở Khám 5 (Chỉ Tồn) Ban chấp hành tù nhân đã tự quản được trong công việc khổ sai. Anh em tù thuyết phục được Tám Nhỏ, người cầm đầu nhóm tù án tư pháp ở đây bỏ lệ nấu nướng, uống trà buổi tối để tham gia sinh hoạt, học tập với tù kháng chiến. Khám 5 có 3 tù nhân kháng chiến người Lào. Ban chấp hành đã bố trí cho họ chỗ nằm tốt, hướng dẫn việc trật tự vệ sinh và sinh hoạt, học tập theo quy định.

        Khám còn hình thành nhóm nghi lễ do các anh Lê Tam, Đỗ Văn Đích, Nguyễn Sáng và Hoàng Phúc làm nòng cốt, tổ chức chào cờ các buổi sáng, có hát Quốc ca, Lãnh tụ ca, Hồn tử sĩ. Được nhạc sĩ Lưu Hữu Phước hướng dẫn từ ngày đầu Cách mạng tháng Tám (1945), Nguyễn Sáng trở thành hạt nhân nòng cốt trong hoạt động âm nhạc của tù nhân Côn Đảo. Ca khúc Ngày giải phóng được anh sáng tác tại Khám 5 Banh I trong những ngày vận động thành lập Liên Đoàn đã củng cố niềm lạc quan cách mạng cho tù nhân Côn Đảo. .

        Ở hầu hết các khám, tù kháng chiến đã đoàn kết được với tù tư pháp (thường phạm). Một số tư pháp giác ngộ lợi ích chung của tù nhân và phục tùng sự lãnh đạo của tập thể đã được cử vào Ban chấp hành, được bầu làm chủ tịch hoặc đại diện. Riêng Sở Lưới, nhóm tù tư pháp do Tô Minh Nhật tức Mười Võ Sĩ cầm đầu vẫn gây khó khăn cho việc bầu ban chấp hành. Nhật ấm ức vì bị tù kháng chiến đánh đổ khi làm cặp rằng ở Khám Lớn Sài Gòn. Trước tình hình đó, Ban lãnh đạo Hội nghị lâm thời đã bố trí anh Phạm Trọng Hồng mãn hạn điều trị ở nhà thương được về làm ở kíp xe chỉ - vá lưới, góp phần xây dựng tổ chức tù nhân ở Sở Lưới.

        Phạm Trọng Hồng có biệt hiệu là Hồng Năm Căn, Hồng Võ Sĩ, nổi tiếng trong những trận đụng độ với tù tư pháp ở Khám Lớn Sài Gòn. Khi ở Sở rẫy An Hải (đầu 1948), anh đã có kinh nghiệm hoà giải với tù tư pháp, liên kết được với Bảy Lửa để xây dựng Ban chấp hành tù nhân ở đó. Về Sở Lưới, anh cùng Hà Triệu Quý xây dựng khối đoàn kết tù nhân, đồng thời tranh thủ được Tám Gáo là cặp rằng phó, Ba Đạt (dân anh chị, ở Tân Định), Ba Hạnh (dân anh chị ở Cầu Muối) và tổ chức hoà giải với Tô Minh Nhật. Ban chấp hành tù nhân Sở Lưới đã được bầu: Tô Minh Nhật là chủ tịch kiêm đại diện; Phạm Trọng Hồng là phó, phụ trách tổ chức nội bộ; Hà Triệu Quý là thư ký.

        Đoàn kết giữa tù kháng chiến và tù tư pháp là nhân tố quyết định thành công trong việc bầu ra Liên Đoàn tù nhân Côn Đảo. Tù kháng chiến đã cảm hoá tù tư pháp bằng nhiều cách. Nhưng quan trọng hơn cả là cảm hoá bằng chính đạo đức, nhân cách của người tù kháng chiến; cảm hoá bằng sức mạnh độc lập tự do của một dân tộc đang gan góc chống ngoại xâm. 

        Tư Ba Đào khi làm cặp rằng Khám 3 - Khám Lớn Sài Gòn đã được các đồng chí Vũ Huy Xứng và Phan Trọng Bình giác ngộ. Tư Ba Đào thường xuyên khuyên anh em tù tư pháp nên đoạn tuyệt với quá khứ của mình mà đoàn kết với tù kháng chiến để sau này ra tù, khỏi hổ thẹn với các bậc “Anh Lớn”.

        Trong những ngày vận động thành lập Liên Đoàn tù nhân, Tư Ba Đào ra lời kêu gọi các bạn tù tư pháp: “Các bạn hãy quên đi quá khứ giang hồ mã thượng của chúng ta, tích cực ủng hộ Liên đoàn, tiến tới Đại hội bầu ra một cơ quan lãnh đạo thống nhất trên toàn đảo”.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #89 vào lúc: 07 Tháng Bảy, 2017, 04:13:08 am »


        Đấu tranh chống khổ sai hà khắc

        Trong những ngày sôi nổi vận động thành lập Liên đoàn tù nhân Côn Đảo, Sở Củi đi đầu trong phong trào đấu tranh đòi hạ mức khổ sai. Sở Củi là nơi khai thác các loại củi để cung cấp cho nhu cầu toàn đảo: Củi cành cho bếp tù; củi chẻ nhỏ gia đình gác dang, thầy chú, binh lính; củi gộc để nung vôi, đốt gạch và củi gỗ lớn chạy máy phát điện, máy hơi nước, máy lu, xe lửa, đốt lò than. Banh Sở Củi nằm trên một ngọn đồi thấp dưới chân Núi Chúa. Cạnh đó là Sở rẫy - Chuồng Bò, nơi trồng rau, nuôi trâu bò, lợn, chim bồ câu. Có lúc Sở Củi và chuồng bò tháng một chủ sở.

        Đốn củi là một loại công việc khổ sai nặng nhọc và nguy hiểm. Tù nhân Sở Củi phải thức dậy từ mờ sáng, lót dạ một dùa1 cháo loãng rối trần trụi leo núi, luồn rừng kiếm củi. Nhiều người bị cây đè, rắn cắn, ngã xuống vực hoặc sốt rét, khổ sai đến kiệt sức. Tù nhân Sở Củi bị đòn như cơm bừa vì thiếu củi, vì xuống núi trễ giờ hay vì củi không đủ quy cách; nhưng họ được tương đối tự do trong giờ kiếm củi. Đó là cơ hội hiếm có để hội họp, thảo luận hoặc chuẩn bị vượt ngục. Khi tù nhân được tự do trong rừng, có sẵn dao, búa trong tay, ít khi bọn gác dang dám động tới. Chúng chỉ gây sự với họ tại cân nộp củi hoặc khi về banh.

        Tù Sở Củi vượt ngục nhiều, mà số “bất trị” cũng không ít nên bọn chúa ngục bố trí những tên gác ngục hung bạo trông coi sở này. Khi ấy, Bênarét (Bénarès) một gác dang khét tiếng hung ác làm chủ sở. Tên này hành củi về củi gỗ, leo núi thuộc từng lối mòn, hang ngách. Hắn thường sục sạo suốt ngày trên núi xem tù nhân làm cho đến chiều tà mới xuống bãi. Tay vung vẩy một khúc mây, hắn sẵn sàng vụt xuống bất cứ người nào thiếu củi hay củi xấu, chửi rủa tù nhân những câu tục tĩu bằng cả tiếng Pháp và tiếng Việt.

        Tháng 7-1948, Bênarét đã đánh đập tơi tả cả kíp tù từ sân củi về đến banh. Nhiều tù nhân uất ức định dùng búa đập vỡ đầu hắn trên núi rồi ném xác xuống vực nhưng Ban chấp hành tù nhân đã ngăn kịp thời tư tưởng manh động ấy. 

        Đầu tháng 11-1948, Ban chấp hành tù nhân khu Sở Củi phát động một đợt đấu tranh đòi hạ mức củi. Đại diện tù nhân đưa yêu sách cho chủ sở, trong lúc đó anh em tự động lãn công bằng cách làm ít củi, lấy củi không đủ quy cách, xuống núi trễ giờ với lý do là mức củi cao, đường xa, củi tốt ngày càng hiếm. Ban chấp hành phát động tinh thần xung phong, khuyến khích cá nhân dám chịu phạt, chịu đòn mà chưa bãi công đồng loạt để tránh địch khủng bố truy tìm tổ chức trong buổi đầu mới thành lập. 

        Trần Văn Tôn, một người tù tư pháp án 8 năm khổ sai (số tù C.11631) đã đi đầu trong cuộc lãn công đòi hạ mức củi. Không ngày nào anh chịu nộp đủ và cùng chịu đòn với anh em mỗi chiều trên sân củi. Ngày 7-11-1948, Mười Tôn lên núi từ sáng đến sẩm tối mới xuống, trên vai chỉ có một bó củi nhỏ. Bênarét đánh anh chết ngay tại sân củi. Cái chết đau thương của Mười Tôn đã châm ngòi, làm bùng lên lửa căm thù nung nấu trong lòng tù nhân bấy lâu nay.

        Ngay tối ấy, Sở Củi báo tin cho toàn thể tù nhân Côn Đảo biết. Ban chấp hành lâm thời Liên đoàn tù nhân Côn Đảo quyết định phát động một cuộc đấu tranh bằng hình thức đình công, tuyệt thực toàn đảo, để tang Mười Tôn, phản đối hành động giết người của bọn gác ngục Pháp. Hai ngày sau, các sở tù khổ sai đồng loạt đình công, không đi làm và bỏ ăn một ngày. Tù áo trắng cũng vào khám. Chiều hôm trước, anh em đã dán nhiều truyền đơn vào gốc cây trên các con đường quanh công sở để phản đối vụ giết Mười Tôn và tố cáo những tội ác của bọn giám thị nhà tù.

        Lần đầu tiên toàn thể tù nhân Côn Đảo đã đồng tâm nhất trí đấu tranh, không phân biệt là tù kháng chiến hay tư pháp, là tù áo xanh (khổ sai) hay áo trắng (thư ký, bồi bếp). Họ biểu thị nỗi đau thương và lòng căm thù bằng một sự im lặng sắt đá.

        Ngày hôm ấy toàn bộ các sinh hoạt trên đảo đều ngừng trệ. Lá bàng rụng đầy đường, nhà cầu của giám thị, công chức ngập phân không người quét dọn. Giám thị, binh lính, công chức, sĩ quan Pháp đều phải ăn đồ hộp hoặc chui vào bếp tự nấu. Mọi cơ chế sinh hoạt trên đảo đều dựa vào sức lao động khổ sai của tù nhân, đến lúc này trở nên bế tắc.

-------------------
        1. Chén ăn cơm bằng mảnh gáo dừa.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM