Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 11:41:37 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử nhà tù Côn Đảo 1862 - 1975  (Đọc 49457 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #60 vào lúc: 02 Tháng Bảy, 2017, 04:58:40 am »


        Kiên định tư tưởng, đấu tranh chống Tơrốtkít và chống phái thân Nhật

        Tháng 1-1944, Hồng quân Liên Xô quét sạch phát xít Đức ra khỏi Lêningrát sau 900 ngày chiến đấu anh dũng. Tháng 4-1944, Hồng quân lại thắng lớn ở Ucờraina và đuổi bọn phát xít đến tận biên giới. Việc tiêu diệt chủ nghĩa phát xít chỉ còn là vấn đề thời gian.  Theo đà chiến thắng của quân đội Đồng Minh, phái Pháp Đờ Gôn ở Côn Đảo hoạt động mạnh hơn. Họ thường kể cho anh em cộng sản nhiều tin tức về cuộc chiến tranh, cả những thắng lợi của Hồng quân Liên Xô và nghe anh em cộng sản phân tích tình hình. Đó là những dịp thuận lợi để anh em tuyên truyền chủ trương liên minh với các lực lượng dân chủ chống phát xít của những người cộng sản.

        Mùa hè năm 1944, thực dân Pháp đày 140 tù chính trị án nặng (trên 15 năm) ở Sơn La và Hỏa Lò (Hà Nội) ra Côn Đảo. Đây là chuyến tù cuối cùng bị đày ra Côn đảo trước Cách mạng tháng Tám (1945), trong đó có nhiều đồng chí lãnh đạo cấp Trung ương, Xứ ủy và tỉnh ủy.

        Theo đúng lệ, bọn gác dang đánh cả đoàn tù một trận phủ đầu ngay tại cầu tàu rồi đưa về Banh III cấm cố ở dãy khám 9-10-11-12. Đây là khu cấm cố biệt lập, có tường ngăn cách với hai dãy khám của Banh III, dành cho những người tù thuộc loại cực kỳ nguy hiểm. Tù nhân ở dãy khám này bị phạt theo chế độ cấm cố hầm, vì thế mà dãy khám còn có tên là hầm cấm cố Banh III. Chi ủy đoàn tù Sơn La, Hỏa Lò tiếp tục phát huy vai trò lãnh đạo trong khu cấm cố Banh III và liên lạc với Trung tâm lãnh đạo1.

        Qua bộ phận Nhà bếp, Trung tâm lãnh đạo đã gửi thực phẩm thuốc men cho đoàn tù Sơn La - Hỏa Lò và  Các đoàn tù mới ra đều tìm cách bắt liên lạc. báo cáo tình hình và xin ý kiến chỉ đạo, xem như Đảo uỷ.  thông báo tình hình trên đảo, phổ biến kinh nghiệm chống khủng bố và chỉ đạo phương châm đấu tranh.

        Chi ủy đoàn tù Sơn La - Hỏa Lò đã bố trí một số đồng chí ra khám bệnh ở nhà thương, báo cáo với Trung tâm lãnh đạo nội dung Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5-1941), Mười chính sách của Việt Minh, tình hình chuẩn bị võ trang giành chính quyền và 8 tháng đánh du kích ở Bắc Sơn - Võ Nhai (1941-1942). Chi ủy còn báo cáo tình hình nội bộ đoàn tù và xin ý kiến chỉ đạo. 

        Ngay từ khi còn ở Hỏa Lò (Hà Nội), trong lúc thảo luận về sách lược liên minh với phái Pháp Đờ Gôn đã có một vài đồng chí nêu ý kiến rút bỏ khẩu hiệu Độc lập trong cương lĩnh của Mặt trận Việt Minh và thay bằng khẩu hiệu Tự trị, tức là thừa nhận chủ quyền của Pháp ở Đông Dương. Mặc dù chi bộ đã kiên quyết đấu tranh bác bỏ nhưng các đồng chí này vẫn giữ ý kiến và tiếp tục nêu lại vấn đề này khi mới ra Côn Đảo.

        Cuộc thảo luận gây không khí căng thẳng, không lợi cho sự đoàn kết nhất trí. Chi ủy đã báo cáo với Trung tâm lãnh đạo và nhận được sự chỉ đạo kịp thời. Trung tâm lãnh đạo kết luận việc rút bỏ khẩu hiệu “độc lập” là hữu khuynh.  Cần phải tích cực phân hóa và tranh thủ phái Pháp Đờ Gôn để hình thành mặt trận chống phát xít, song trong lúc liên minh không được quên mục tiêu cơ bản của cách mạng là giải phóng dân tộc, giành độc lập, chủ quyền. 

        Nhờ sự chỉ đạo đúng đắn của Trung tâm lãnh đạo, vấn đề sách lược liên minh với phái Pháp Đờ Gôn đã được sáng tỏ. Chi bộ khu cấm cố Banh III được củng cố lại tăng cường sự đoàn kết nhất trí. Quá trình đấu tranh về quan điểm trong việc liên minh với phái Đờ Gôn đã làm cho những người cộng sản trong tù nhận thức một cách sâu sắc về bản chất thực dân và mưu đồ của bọn phàn động Pháp đối với thuộc địa Đông Dương. 

        Sau này, trong cuộc Cách mạng tháng Tám 1945, những người cộng sản Việt Nam đã chuẩn bị cả tinh thần và lực lượng, chống cuộc chiến tranh xâm lược trở lại của thực dân Pháp, ngay trong lúc chuẩn bị giành chính quyền từ tay Nhật.

        Tranh thủ thời gian trong cấm cố, chi bộ tổ chức tổng kết kinh nghiệm đấu tranh cách mạng, kinh nghiệm công vận, nông vận, thanh vận, phụ vận và biên soạn chương trình lý luận Mác-lênin huấn luyện cho anh em. Ít lâu sau, phần lớn anh em bị điều ra làm ở kíp xe chỉ, tước chỉ trong Banh III, một số bị điều ra các sở ngoài, một số đồng chí vẫn còn bị cấm cố. Chi bộ vân duy trì các lớp học, bố trí giảng viên theo từng kíp công việc để huấn luyện cho nhau. Tối về khám, Ban tuyên huấn khu cấm cố còn làm báo miệng đọc cho nhau nghe, gây không khí lạc quan tin tưởng.

-----------------------
        1. Trên đường đi đày Côn Đảo, chi bộ Sơn La và chi bộ Hỏa Lò đã sáp nhập lại, chi ủy có 5 người do đồng chí Quỳnh Tây (tức Ngô Ngọc Du) làm Bí thư. Lúc ấy Chi bộ đặc biệt là Trung tâm lãnh đạo ở Côn Đảo.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #61 vào lúc: 02 Tháng Bảy, 2017, 04:59:24 am »


        Trong đoàn tù Sơn La - Hỏa Lò có nhiều đồng chí đã tham gia làm báo bí mật và công khai của Đảng.  Anh em tập hợp hơn 20 người, mở lớp huấn luyện cán bộ làm báo. Lớp học không có thầy, anh em tự nghiên cứu xây dựng chương trình và thảo luận với nhau, trọng tâm là hai phần: Nghiên cứu học tập và Nghiệp vụ báo chí. Lớp học nghiên cứu tổng quát lịch sứ văn học thế giới chú ý phân tích đặc điểm văn hóa của các chế độ xã hội. Những nét lớn của lịch sử văn học Việt Nam cũng được nghiên cứu và thảo luận sôi nổi.

        Sau khi nghiên cứu kỹ phần văn họe, các học viên thảo luận về nghiệp vụ báo chí từ các thể loại, cách trình bày cho đến việc tổ chức in ấn, phát hành... Có người từng học ở Liên Xô về, có người là học trò trực tiếp của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, có người học ở trong các nhà tù, có người trường thành trong cuộc đấu tranh cách mạng; mỗi người góp vào một ý, vận dụng tất cả kinh nghiệm làm báo bí mật và công khai trong thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương (1936-1939) để xây dựng chương trình. Nhiều đồng chí dự lớp huấn luyện này đã trở thành những cây bút của báo Đảng sau Cách mạng tháng Tám (1945).

        Ở Banh III lúc ấy còn có 12 binh sĩ yêu nước tham gia cuộc khởi nghĩa Đô Lương (31-1-1941) do Đội Cung lãnh đạo. Ban lãnh đạo đã giao cho tổ chức cứu tế ở Banh III phải tìm mọi cách giúp đỡ và phân công một đảng viên trực tiếp giác ngộ chủ nghĩa cộng sản cho anh em. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Nhà tù Côn Đảo, những người bị giặc bắt trong ba cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (27-9-1940), Nam Kỳ (23-n-1940) và Đô Lương (31-1 1941) đã sát cánh bên nhau chống chế độ khủng bố dã man của thực dân Pháp.

        Banh III lúc ấy còn có một số tù người Khơme tham gia các phong trào chống Pháp của sư sãi Phnôm Pênh (Campuchia). Chi bộ khu cấm cố giáo dục cho cán bộ đảng viên tinh thần đoàn kết các dân tộc Đông Dương chống Pháp. Nhiều đồng chí được phân công gần gũi giúp đỡ anh em tù Khơme. Các đồng chí đã nhờ anh em dạy tiếng Khơme và dạy cho anh em tiếng Việt. Nhiều cuộc nói chuyện về đất nước, con người và phong trào cách mạng của hai dân tộc Việt Nam - Khơme đã tăng cường tình đoàn kết giữa những người tù trong khu cấm cố. Chi bộ giới thiệu về cương lĩnh Mặt trận Việt Minh và đường lối đoàn kết các dân tộc Đông Dương trong một Mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc của Đảng cộng sản Đông Dương cho anh em.

        Mặc dù phong tục tập quán và trình độ giác ngộ có khác nhau, những người tù Khơme trong khu cấm cố đều có thiện cảm với những người cộng sản Việt Nam. Sau khi Cách mạng tháng Tám (1945) thành công, những người tù Khơme đều được đưa về đất liền và được tạo điều kiện trở về quê quán. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Pátsuôn (Patchhoeun) đã được cử làm Chủ tịch ủy ban dân tộc giải phóng người Khơme ở Châu Đốc. Sau này làm việc cho Xihanúc, ông vẫn giữ mối thiện cảm với cách mạng Việt Nam.

        Ở Banh III lúc này còn có một số tù thuộc các đảng phái thân Nhật Bọn này ra sức ca tụng chủ nghĩa phát xít chống Liên Xô và tuyên truyền cho chính sách Đại Đông Á của Nhật. Chúng đe dọa bọn gác dang Pháp và đả kích những người cộng sản. Anh em cộng sản rất bất bình nhưng vẫn giữ thái độ ôn hòa với chúng. Một số tên quá khích như tên Bể, tên Thu chửi cộng sản suốt ngày. Một lần tên Thu xuyên tạc lá cờ đỏ sao vàng của Việt Minh một cách rất bỉ ổi, anh em kíp xe chỉ phẫn nộ đã đánh y một trận để cảnh cáo.

        Bọn Tờrốtkít hùa vào một phía với đám thân Nhật để xuyên tạc cộng sản. Đảng bộ Côn Đảo chủ trương cô lập bọn đầu sỏ, phân hóa những phần tử trung gian và lôi kéo giác ngộ những người ngộ nhận. Anh em cộng sản đã bố trí những đồng chí có trình độ kèm chặt những tên đầu sỏ để kiềm chế và và có thể bác bỏ ngay những luận điệu xuyên tạc của chúng. Tên Thu có lần viết thư cho chúa đảo tố cáo những người tù cộng sản có tổ chức bí mật, có quan hệ với bọn Pháp Đờ Gôn, có âm mưu vượt ngục và chỉ điểm những đồng chí tích cực. Anh em cảnh giác lấy được thư và giáo dục y. Một số quần chúng thân Nhật có chuyển biến, một vài người sau trở về tham gia kháng chiến. Một số nhân viên y tá ở Nhà thương Côn Đảo cũng được giác ngộ và giúp nhiều việc đắc lực cho Đảng bộ Côn Đảo, có người sau này trở thành đảng viên cộng sản.

        Những tin tức về cuộc chiến tranh và thắng lợi của Hồng quân Liên Xô làm cho bọn Pháp ở Côn Đảo hết sức lo lắng. Thỉnh thoảng chúa đảo Tít xe lại cho bọn lính hành quân, tập trận trên các đường phố xung quanh trại giam để tự trấn an tinh thần và đe dọa tù nhân. Đảng ủy Côn Đảo vẫn theo dõi sát tình hình và chỉ đạo hoạt động của các kíp tù, đấu tranh với những yêu sách thích hợp như đòi nới rộng chế độ nhà tù và hạn chế bóc lột khổ sai.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #62 vào lúc: 02 Tháng Bảy, 2017, 04:59:43 am »


        Kíp xe chỉ dứa trong Banh III đã đấu tranh dai dẳng trong gần một tháng trời bằng hình thức ngầm lãn công chống việc tăng định mức xe chỉ. Tên gác dang ôbênăng (Obénans) giám sát rất kỹ tù nhân làm việc suốt ngày vẫn không tăng được mét chỉ nào. Ôbênăng quyết định bắt tù nhân làm việc một ngày căng thẳng dưới sự kiểm soát chặt chẽ của chính hắn. Anh em vẫn lặng lẽ làm việc nhưng có cách làm cho xa quay mà chỉ không quấn. Cuối buổi chiều, mức chỉ vẫn y nguyên như cũ Ôbênăng bắt làm thêm một tiếng đồng hồ nữa mà kết quả cũng không nhích lên được chút nào. Tức điên người, hắn phạt cả kíp xe chỉ 7 ngày ăn cơm nhạt, uống nước lã, nhưng đành phải chấp nhận mức chỉ như cũ. 

        Kíp vận chuyển đá từ Núi Chúa về Cầu Tàu lãn công một buổi sáng và phẫn nộ phản đối tên gác dang Pháp đã thúc ép tù làm, để đá đè gãy chân một người tù. Trước sự đoàn kết nhất trí của tù nhân, tên gác dang hung ác cũng phải chùn bước.

        Chuyến tù Sơn La - Hỏa Lò ra đầu năm 1944 còn có 2 người bị bắt oan là cộng sản. Anh Mẫn một lần cùng gánh xiếc lên biểu diễn ở Đền Hùng (Phú Thọ), gặp ngày hội đông người, Việt Minh rải truyền đơn cách mạng. Mật thám Pháp nghi anh Mẫn lợi dụng gánh xiếc để rải truyền đơn nên bắt anh và khép vào tội “tuyên truyền cộng sản”. Không chịu được đòn, anh phải nhận bừa là cộng sản và khai người đứng đầu tổ chức là ông Khuê, một trạng sơ có tiếng trong vùng với hy vọng được ông cãi cho khỏi tội.

        Đến lượt ông Khuê cũng không chịu được đòn, đành phải nhận bừa là cộng sản. Thế rồi mỗi người lãnh một án chung thân khổ sai và bị đày ra Côn Đảo. Ngay từ thời bị giam ở Hỏa Lò, chi bộ Đảng trong tù đã hết sức giúp đỡ và giác ngộ ý thức cách mạng cho hai người. Ra Côn Đảo, chi bộ khu cấm cố Banh III phân công người kèm cặp và giúp đỡ. Mẫn “xiếc sớm được giác ngộ đã huấn luyện cho anh em Banh III làm một “gánh xiếc” với nhiều tiết mục và những động tác nghệ thuật điêu luyện. Sau Mẫn “xiếc” được kết nạp vào Đảng và tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp.

        Riêng trạng sư Khuê thì luôn miệng oán trách cộng sản, rằng vì cộng sản mà ông bị tù tội, mất nghiệp, mất gia tài. Đau khổ và không chịu nổi sự đày ải khắc nghiệt, ông lâm bệnh kiết lỵ, người quắt lại chỉ còn da bọc xương, khó qua khỏi. Nỗi oán hận của ông tăng lên gấp bội. Những người cộng sản đã huy động mọi khả năng tìm kiếm thuốc, cứu sống ông. Ông rất cảm phục và thôi không oán trách cộng sản nữa. Sau Cách mạng tháng Tám 1945), Đảng bộ Côn Đảo dã đưa ông về đất liền và sau đó Xứ ủy Nam Kỳ tạo điều kiện cho ông trở về quê quán.

        Tết âm lịch 1945, chi bộ khu cấm cố Banh III đã tổ chức một chương trình văn nghệ để bồi dường tinh thần lạc quan cách mạng. Tấu ông Táo về trời phê phán thói cẩu thả lười biếng, mất vệ sinh. Kịch vui một màn Bóc lột tố cáo chế độ thực dân và phong kiến bóc lột đến tận xương, tận tủy những người lao động. “Gánh xiếc” Banh III biểu diễn 28 tiết mục luyện tập công phu làm cho bọn gác dang hết sức ngạc nhiên, tưởng như “cả gánh xiếc bị bắt vào tù”.

        Đặc biệt là vở kịch thơ Chiến sĩ và Hằng Nga có tác dụng giáo dục sâu sắc. Vở kịch do đồng chí Vương Gia Hương biên soạn và trình diễn ở Hỏa Lò (Hà Nội) gồm 2 màn ca ngợi ý chí chiến đấu của người chiến sĩ cách mạng đã vượt qua mọi khó khăn gian khổ và cám dỗ để chiến đấu cho cho sự nghiệp giải phóng đất nước. 

        Ra Côn Đảo, đồng chí Nguyễn Văn Vịnh biên soạn thêm 2 màn nữa, đưa vở kịch đến một kết thúc hùng tráng. Người chiến sĩ chiến đấu và hy sinh, vợ chiến sĩ ở nhà nuôi con khôn lớn để tiếp tục cuộc chiến đấu. Chất thơ và nội dung tư tưởng vở kịch có sức cảm hóa sâu sắc đối với những chiến sĩ cách mạng đang bị tù đày, thôi thúc họ kiên trì, vững chí.

        Ở sở Bản Chế, anh em tù cộng sản cũng tổ chức diễn kịch của Môlie và Coóchây. Một số anh em Quốc dân đảng đã từng tham gia đóng kịch ở Banh II trong những năm trước có kinh nghiệm làm mũ áo, râu tóc đúng mốt, mấy người thường phạm bị tù vì làm bạc giả cũng hăng hái tham gia trang trí, vẽ phông màn. Anh em tập kịch bằng tiếng Pháp và tổ chức diễn công khai để tranh thủ bọn gác dang. Tên quan tư Tít xe rất thích xem kịch. Tít xe bắt thợ mộc làm sân khấu ngay tại dinh, bắt tù nhân diễn đêm kịch đầu tiên cho riêng hắn và người thân xem rồi đêm sau mới cho diễn công khai ở Bản Chế.

        Nghe tin tù nhân diễn kịch Tây, bọn gác dang và lính Pháp kéo cả vợ con đến xem chật bãi. Họ trầm trồ thán phục sự hiểu biết sâu sắc về nghệ thuật của những người tù cộng sản, họ ngạc nhiên không thể hiểu được vì sao mà trên hòn đảo tù này, những nạn nhân của nước Pháp thực dân lại có thể thưởng thức và truyền bá những giá trị của nền văn hóa Pháp. Nghệ thuật đã thức tỉnh nhân cách con người văn hóa trong những người gác ngục. Gác ngục Pháp bớt hung ác hơn và đề nghị tù chính thức tiếp tục diễn kịch.

        Đầu năm 1945 anh em dựng vở kịch tiếng Việt Tội của ai  tố cáo chế độ cũ chà đạp lên hạnh phúc con người. Vở kịch đã gây ấn tượng tốt cho số ma tà và công chức người Việt. Nhân dịp đó, anh em vận động cho một số đồng chí lãnh đạo trong cấm cố ra Bản Chế. 
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #63 vào lúc: 02 Tháng Bảy, 2017, 05:00:46 am »


        Giải phóng Nhà tù Côn Đảo lần thứ nhất (1945)

        Từ năm 1942 bọn Nhật đã đổ quân lên Côn Đảo nhưng ít lâu sau chúng rút về. Ngày 6-2-1945, tàu chiến Nhật đã đổ lên đảo một toán lính khoảng 20 tên và đóng lại, bất chấp sự phản đối của lính Pháp. Lính Nhật chiếm ngay đài vô tuyến điện (T.S.F), tước hết rađiô của những nhân viên Pháp, khống chế khu nhà ở của chúa đảo và sĩ quan Pháp.

        Tên sĩ quan Nhật hằng ngày ra vào dinh Tham biện, trại lính Pháp và các trại giam tù chính trị để điều tra tình hình. Bọn Pháp hoang mang, lo sợ. Chúa đảo Tít xe ra lệnh cấm cố tất cả tù nhân thân Nhật đang làm khổ sai ở các nơi trên đảo vào Banh III. Những tên tù thân Nhật đầu sỏ lồng lộn trong Banh III, chúng đe dọa và luôn miệng chửi rủa bọn gác ngục Pháp.

        Đảng ủy Côn Đảo nhận định mâu thuẫn giữa Pháp và Nhật đã đến mức quyết liệt, sắp bùng nổ và có thể xuất hiện tình thế cách mạng. Đảng ủy đã chỉ thị cho tất cả đảng viên phải hết sức tỉnh táo, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống phức tạp có thể xảy ra. Anh em ở các banh phải cảnh giác cao đó với bọn tù nhân Nhật, cất giấu kỹ sách báo tài liệu và giữ vững nguyên tắc hoạt động bí mật.

        Đảng ủy còn chỉ thị cho tất cả các cơ sở Đảng phải tích cực chuẩn bị vượt ngục, đưa cán bộ về đất liền tăng cường lực lượng cho Đảng ta đón thời cơ lãnh đạo võ trang khởi nghĩa giành chính quyền. Nhiều chuyến vượt ngục được chuẩn bị ngay trong tháng 2-1945. Các cơ sở ở Bản Chế và Nhà Đèn đã cung cấp cưa, đinh, dây đồng, sơn, dầu hắc, vải bạt... Một số đồng chí ở các sở tù ngoài được lệnh chọn địa điểm, hạ gỗ, đóng thuyền, đảng ủy khẩn trương bố trí cho một số đồng chí có năng lực lãnh đạo chuẩn bị vượt ngục. Đồng chí Phạm Hùng sau nhiều năm bị cấm cố cũng được anh em vận động đưa ra làm ở Bán Chế.

        Đêm 9-3-1945, Nhật làm đảo chính, hất cẳng Pháp để trừ hậu họa và độc chiếm Đông Dương. Hội nghị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng ngay trong đêm ấy tại làng Đình Bảng (Bắc Ninh) đã ra chỉ thị Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta. Bản chỉ thị là một cương lĩnh hành động nhằm gấp rút chuẩn bị mọi mặt tiến tới tổng khởi nghĩa.

        Rạng sáng ngày 10-3-1945, hai tàu chiến Nhật đã đổ thêm một trung đội lính lên Côn Đảo. Không đầy một giờ sau, toàn bộ đại đội bộ binh thuộc địa và mấy chục gác dang Pháp bị tước hết vũ khí. Quản đốc Tít xe và tên sĩ quan chỉ huy đơn vị lính Pháp bị bắt giải về Sài Gòn sau đó mấy ngày. Lính Pháp cũng bị bắt giam, công chức Pháp bị quản thúc tại nhà, còn bộ máy trị tù vẫn được sử dụng dưới quyền chỉ huy của Lê Văn Trà, một công chức thân Nhật.

        Bọn gác ngục người Việt (ma tà) được trọng dụng, được trang bị súng ngắn thay cho súng trường. Bọn tù thân Nhật được ra khỏi trại giam, nhảy vào làm thư ký, công chức các công sở trên đảo. Nhiều tên cũng mang súng ngắn vào sục sạo các trại giam, soi mói bọn gác ngục và rình mò tù cộng sản. Bọn thân Nhật chia nhau giám sát tất cả gác dang Pháp, nhất là phái Pháp Đờ Gôn. Chúng đã lôi Tút tu, Lăngtali và nhiều tên gác dang trước đây hung ác ra đánh đập, trả thù. Bọn gác dang Pháp bị thất thế, lo sợ, bi quan và thờ ơ trong việc coi tù. 

        Được sự giáo dục của Đảng bộ Nhà tù Côn Đảo, những người tù cộng sản đã tỏ thái độ đúng mực với gác dang Pháp. Anh em đã giải thích cho họ đường lối của Mặt trận Việt Minh là chống thực dân, chống phát xít và tay sai để giành độc lập dân tộc, giống như cuộc đấu tranh của nhân dân Pháp chống phát xít Đức, giải thích cho họ hiểu về chủ trương liên minh giữa những người cộng sản và những người Pháp dân chủ chống phát xít ở Pháp cũng như ở Đông Dương.

        Anh em còn khẳng định thắng lợi tất yếu của Liên Xô và các lực lượng dân chủ, tiến bộ chống phát xít đang tới gần và chỉ cho gác dang Pháp cách đối phó với bọn thân Nhật. Cơrítsơchiani, một gác dang đã từng gây nhiều tội ác đã cảm phục mà nói với những người tù cộng sản rằng:

        - Có trái tim như các anh thì không cảnh ngộ nào làm cho đau khổ được.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #64 vào lúc: 02 Tháng Bảy, 2017, 05:01:18 am »


        Tút tu, một gác dang trước đây khét tiếng hung ác cũng bộc lộ thái độ thiện cảm với tù cộng sản:

        - Trước đây tôi ghét cộng sản, bây giờ tôi mới thấy người cộng sản đứng đắn, không thù oán cá nhân. 

        Bọn thân Nhật không để cho tù cộng sản được yên. Sục sạo mãi không tìm thấy chứng cớ gì, chúng mạo thư chửi phát xít Nhật và ca tụng Liên Xô đem nộp cho quan Nhật, nói là bắt được tài liệu của cộng sản, nhưng quan thầy chúng đang rầu rĩ vì những thất bại liên tiếp của quân đội Nhật trên các chiến trường nên không có phản ứng gì. Chúng lại tiếp tục bày mưu bắt tù cộng sản ra chào cờ Nhật nhằm hạ uy thế của của những người tù cộng sản và khủng bố những người chống đối. Anh em cộng sản hết sức phẫn nộ và kiên quyết chống, nếu chúng bắt chào cờ Nhật.

        Bọn Nhật đang lo lắng cho số phận của chúng trên ác chiến trường nên không để ý gì đến hành động của đám tay chân. Vẫn không chịu từ bỏ ý đồ đen tối, bọn thân Nhật xoay sang lập danh sách những người tù cộng sản mà chúng liệt vào loại “nguy hiểm, đề nghị bọn Nhật thủ tiêu, nhưng rốt cuốc vẫn không thành.

        Qua tin tức của những gác dang Pháp thuộc phái Đờ Gôn và những công chức tiến bộ ở Sở dây thép và Sở dây thép gió, anh em tù cộng sản nắm được tin tức về phong trào kháng Nhật của ta ở Cao - Bắc - Lạng. Nhận định tình hình cách mạng đang đứng trước thời cơ lớn, Đảng ủy Côn Đảo chỉ thị cho các cơ sở Đảng gấp rút tổ chức vượt ngục trở về hoạt động. Các công việc đóng thuyền, tích trữ lương thực, thực phẩm, thuốc men...  được tiến hành rất khẩn trương.

        Giữa tháng 4 năm 1945, Đảng ủy bố trí cho các đồng chí Tôn Đức Thắng, Phạm Hùng về tham gia lãnh đạo cướp chính quyền, cùng đi có Lang Kiều, Cẩm Tài, Văn Viên. Toustou, Chủ sở Rờsẹc lờ đi nhưng tên Quản Liễn dã cho quân vây bắt lại để tâng công với quân Nhật. Toustou không đánh, không phạt, chỉ bắt phơi nắng chiếu lệ rồi cho về khám.

        Nghe tin tù cộng sản vượt ngục, bọn thân Nhật lồng lộn lên. Nhiều gác dang Pháp mà chúng nghi ngờ cũng bị đánh đập dã man. Từ đó bọn thân Nhật càng tăng cường theo dõi cả gác dang Pháp và tù cộng sản. 

        Vòng vây của Đồng Minh ngày càng siết chặt Đông Dương, thỉnh thoảng lại có một chiếc tàu Nhật thất trận dạt vào Côn Đảo. Máy bay Đồng Minh nhiều lần sà xuống nhằm các tàu Nhật bắn phá. Máy bay Mỹ đã bắn hỏng Hải Đăng - Côn Đảo, bắn phá cả Sở Lưới, Bản Chế, Nhà Đèn, làm chết một số tù nhân. Máy bay Mỹ còn rải truyền đơn vận động việc cứu giúp các nhân viên phi hành của Đồng Minh khi bị nạn và giúp đờ khi quân Đồng Minh đổ bộ lên.

        Đảng ủy Côn Đảo ra một chỉ thị phân tích tình bình và xác định nhiệm vụ cho cán bộ, đảng viên. Chỉ thị đã nhận định: ở Đông Âu, Hồng quân Liên Xô đang tiêu diệt phát xít Hít le tận sào huyệt của chúng; ở mặt trận phương Đông, quân Đồng Minh đang thắng Nhật và có thể nhảy vào Đông Dương. Bọn Pháp Đờ Gôn sẽ theo gót chúng mà trở lại đặt ách đô hộ. Vì thế những người cộng sản phải hết sức cảnh giác, không những với bọn Pháp Đờ Gôn mà với cả quân Anh - Mỹ; chỉ có dựa vào nhân dân mới có thể giành được thắng lợi chân chính; phải quyết tâm vượt ngục trở về để chớp lấy thời cơ giành chính quyền... Bản chỉ thị được phổ biến đến các cơ sở Đảng trên toàn đảo.

        Trước thất bại không thể tránh khỏi, bọn Nhật tổ chức “Lễ trao trả độc lập” giả hiệu tại sân banh (bãi đá bóng) Côn Đảo. Bọn thân Nhật dựng khán đài quay mặt về phía đông, kẻ khẩu hiệu và hô hào rùm beng. Trước mật gần 2.000 chính trị phạm, Lê Văn Trà đọc đạo dụ của chính phủ Trần Trọng Kim, tuyên bố phóng thích tất cả tù chính trị. Đạo dụ có đoạn viết: “Các chính trị phạm kể từ ngày này được chính phủ Việt Nam (tức chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim) trả lợi quyền tự do và coi như mọi người dân khác trong nước”. 

        Nhưng mỉa mai thay, sau cuộc mít tinh, chúng lại xua ngay tù vào trong banh, sập cứa lại và cho bọn gác ngục tiếp tục canh giữ. Chỉ có 150 tù thân Nhật được phóng thích sau đó vài tháng.

        Theo sự chỉ đạo của Đảng ủy Côn Đảo, tù nhân Banh II, Banh III đã đấu tranh đòi được ra ngoài làm, đòi được mở cửa banh và trả lại tự do cho tù chính trị.  Sau nhiều lần đấu tranh với lý lẽ đanh thép, Lê Văn Trà phải nhượng bộ một bước, cho phần lớn tù nhân ra ngoài làm và mở cửa trại giam từ 6 giờ sáng đến 21 giờ. 
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #65 vào lúc: 02 Tháng Bảy, 2017, 05:07:20 am »


        Sau khi tiêu diệt hoàn toàn phát xít Đức, ngày 8-8-1945, Liên Xô tuyên chiến với phát xít Nhật và nhanh chóng đánh bại đạo quân Quan Đông gồm hơn một triệu quân tinh nhuệ nhất của Nhật. Ngày 15-8-1945, phát xít Đức chính thức đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng Minh không điều kiện. Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân cả nước nhất tề đứng lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

        Bọn Nhật ở Côn Đảo cho tàu chở súng đạn ra biển đổ. Chúng phá trạm vô tuyến điện, đập phá tất cả rađiô, không cho ai nghe tin tức nữa. Chuyến tàu ngày 25-8-1945 chở những tên lính Nhật cuối cùng và số tù thân Nhật về đất (trên chuyến tàu ấy còn có 5 đảng viên cộng sản được trả lại tự do). Binh lính và gác dang Pháp cũng được đưa về Sài Gòn để giao lại cho Đồng Minh. Côn Đảo hết Nhật, hết Tây, chỉ còn lại khoảng ba ngàn tù nhân do Lê Văn Trà cùng bọn ma tà cai quản. Một đơn vị linh bảo an được phái ra đảo làm nhiệm vụ giữ trật tự trị an.

        Một số binh lính bảo an vốn là những quần chúng yêu nước. Người sĩ quan chỉ huy đơn vị bảo an lại là cơ sở của Xứ ủy Nam Kỳ, được Xứ ủy bố trí ra Côn Đảo để liên lạc và hỗ trợ anh em tù chính trị. Nhờ đó Đảng ủy Côn Đảo nắm chắc tình hình Đức - Nhật bại trận, Đảng ta phát động tổng khởi nghĩa và đã giành chính quyền ở hầu hết các tỉnh từ Bắc chí Nam.

        Được biết Xứ ủy Nam kỳ sẽ ra đón tù chính trị ở Côn Đảo về, Đảng ủy Côn Đảo chủ trương đoàn kết các lực lượng tù chính trị trên đảo giành chính quyền bằng phương pháp hòa bình, đồng thời nắm chắc lực lượng bảo an làm hậu thuẫn, khi cần sẽ sử dụng làm áp lực tước vũ khí của bọn gác ngục. 

        Đảng ủy phân công người đi các banh và các sở tù phổ biến chủ trương cho các cơ sở Đảng. Hầu hết anh em tù chính trị đều nhất trí với chủ trương của Đảng ủy, nhưng có một số đồng chí trẻ ở Banh III cứ yêu cầu bạo động cướp chính quyền, nhất là khi nghe tin bọn Pháp đã nhảy dù xuống nhiều nơi ở Đông Dương thì anh em càng thôi thúc đòi giành chính quyền ngay và tổ chức vượt biển về đánh Pháp.

        Đảng ủy cứ người giải thích cho anh em Banh III rằng cách mạng trong nước đã thành công, nhất định Đảng và Chính phủ sẽ đưa tàu ra đón tù chính trị; mỗi một đảng viên còn sống đến hôm nay đều là vốn quý của Đảng mà Đảng bộ Côn Đảo có trách nhiệm phải bảo vệ bằng được, vì vậy cần tránh nôn nóng để khỏi đổ máu vô ích. Ý kiến của Đảng ủy được chấp hành một cách nghiêm túc, nhưng một số đồng chí vẫn ấm ức đến ứa nước mắt.

        Thực hiện chủ trương giành chính quyền bằng phương pháp hòa bình, Trung tâm lãnh đạo đã cử một đoàn đại biểu đến gặp Quản đốc Lê Văn Trà yêu cầu:

        - Mở cửa trại giam suốt đêm ngày. Tù nhân được tự do đi lại.

        - Bãi bỏ hết sự kiểm soát của ma tà.

        - Trao trả chính quyền trên đảo cho tù chính trị vì chính quyền trong đất đã về tay Việt Minh. 

        Lấy lý do là chưa có lệnh của Chính phủ, Trà không chịu bàn giao chính quyền. Tuy nhiên trước áp lực của tù chính trị, hắn buộc phải đồng ý cho tù nhân tự do đi lại ban ngày, ban đêm vẫn phải vào khám, khóa cửa lại; đồng ý tổ chức chính quyền liên hiệp trên đảo, có sự tham gia của tù chính trị; đồng ý tổ chức sửa chữa vô tuyến điện, sưa rađiô để nghe tin tức; sửa canh để đưa đoàn đại biểu về đất liền xin ý kiến của Chính phủ. 

        Sau mấy phiên họp bàn giữa Quản đốc Lê Văn Trà và đại diện tù chính trị, việc cử đại biểu tham gia bầu cử chính quyền liên hiệp được ấn định một cách rất chênh lệch: Quản đốc là một đại biểu; công chức 3 người một đại biểu; giám thị 5 người một đại biểu; còn tù chính trị thì 50 người một đại biểu; tù thường không được tham gia.

        Đảng ủy tăng cường công tác tuyên truyền việc giành chính quyền của Việt Minh ở trong nước và vạch mặt bọn bù nhìn thân Nhật. Nhiều công chức có cảm tình đã bỏ phiếu cho đại biểu tù cộng sản, nhiều ma tà đã từng bị bọn thân Nhật hành hạ cũng bỏ phiếu cho tù cộng sản, vì vậy những người cộng sản đã thắng phiếu.  Hội đồng liên hiệp quốc dân Côn Đảo ra đời với phần lớn là tù cộng sản.

        Bị lép vế và trơ trẽn trong cuộc bầu cử, Lê Văn Trà và bọn tay sai rút súng đe dọa những người cộng sản, định xóa bỏ kết quả cuộc bầu cử. Tình thế hết sức căng thẳng, nhưng lực lượng bảo an yêu nước đã được bố trí án ngữ tất cả cứa ra vào và cứa sổ phòng bầu cử. Theo hiệu lệnh của đồng chí Phạm Hùng, Bí thư Đảng ủy, anh em đồng loạt lên đạn và chĩa súng vào Lê Văn Trà cùng đồng bọn.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #66 vào lúc: 03 Tháng Bảy, 2017, 04:55:39 am »


        Tình thế được xoay chuyển hẳn, đã đến lúc không thể cưỡng lại nữa, Lê Văn Trà đành hạ súng nộp cho những người cộng sản. Bọn tay chân cũng ngoan ngoãn làn theo hắn. Chính quyền thực tế ở trên đảo đã thuộc về những người cộng sản. Lê Văn Trà vẫn được sử dụng để điều hành công việc hành chính dưới sự chỉ đạo của Đảng ủy Côn Đảo. Đồng chí Lã Vĩnh Lợi, thành viên trong Hội đồng được cử làm đại diện của tù chính trị trực tiếp làm việc với Lê Văn Trà để giải quyết mọi việc. 

        Đảng ủy quyết định tổ chức lực lượng vũ trang để củng cố thực lực của cách mạng và chiến đấu bảo vệ đảo trong tình huống quân Pháp đổ bộ xâm lược trở lại. Đoàn phòng thủ Côn Đảo ra đời vào những ngày cuối tháng Tám 1945 với khoảng 300 đội viên, do đồng chí phạm Hùng, Bí thư Đảo ủy trực tiếp phụ trách. Ban chỉ huy còn có các đồng chí Phan Trọng Tuệ, Quỳnh Tây (Ngô Ngọc Du), Văn Viên và Thành Ngọc Quản. Vũ khí lúc đầu có vài chục khẩu súng lục tước được của Lê Văn Trà và hơn chục khẩu súng trường “mượn” của anh em bảo an. Anh em công xưởng (Bản Chế) ngày đêm rèn giáo mác, mã tấu để trang bị cho Đoàn phòng thủ. Một số đồng chí đã từng là du kích Bắc Sơn được cử ra huấn luyện quân sự. Anh em bảo an cũng giúp việc huấn luyện. Hàng ngày Đoàn phòng thu luyện tập, đi lại rầm rập trên các khu phố. Khí thế cách mạng bừng bừng, xua tan bầu không khí ảm đạm bao trùm Côn Đảo trong hơn 80 năm qua.

        Đồng chí Tôn Đức Thắng cùng với một số anh em thợ giỏi đi làm việc suốt đêm ngày, quyết tâm sửa bằng được chiếc rađiô để nghe tin tức và sửa chiếc canh để liên lạc với đất liền. Tổ thợ máy chế tạo nhiều phụ tùng thay thế, trong vòng một tuần đã đại tu xong chiếc canô bị hư hỏng nặng.

        Một buổi sáng đẹp trời, Côn Đảo bừng lên một tin vui: chiếc rađiô đã được sửa xong. Hàng chục mái đầu tù hồi hộp chụm quanh chiếc rađiô đang thu sóng điện. Tất cả lặng đi khi bắt gặp làn sóng điện một đài nước ngoài đang phát lại nội dung bản Tuyên ngôn độc lập mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình ngày 2-9-1945 và công bố danh sách Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

        Tiếng nói của một dân tộc đã thực sự giành được tự do, độc lập như một luồng điện lan truyền trong những người tù Côn Đảo. Những giọt nước mắt nóng bỏng tuôn trào trên gò má sạm nắng của người thợ máy Tôn Đức Thắng.

        Đảng ủy Côn Đảo tổ chức ngay một cuộc mít tinh chào lá cờ đỏ sao vàng, mừng nước nhà độc lập, sau đó chia thành nhiều đoàn tuần hành biểu dương lực lượng trên các ngả đường Côn Đáo. Lời thề bảo vệ độc lập tự do đã khắc sâu trong lòng các chiến sĩ Côn Đảo.

        Tình huống thực dân Pháp quay trở lại đặt nền thống trị đã được dự kiến với quyết tám chiến đấu đến cùng. Có lần một máy bay B.26 của Pháp sà xuống rất thấp phía mé biển Côn Đảo, lập tức hàng trăm chiến sĩ mang gậy gộc, giáo mác ào ào xông ra chuẩn bị chiến đấu đánh quân đổ bộ với lời thề: “Thà chết, quyết không chịu ở tù lần nữa!”

        Đảng ủy chỉ đạo tổ chức các đoàn thể quần chúng như Thanh niên cứu quốc, phụ nữ cứu quốc nhằm giáo dục vận động số công chức, gác ngục và gia đình họ theo đường lối của Mặt trận Việt Minh. Một số em thiếu nhi, con của những công chức tiến bộ đã được Đảng ủy sớm chú ý giáo dục lòng yêu nước, giáo dục thái độ đúng đắn với tù chính trì và tổ chức các em vào Thiếu thi cứu quốc. 

        Đảng ủy chủ trương dẩy mạnh công tác tuyên truyền và huấn luyện nhằm đào tạo gấp một đội ngũ cán bộ cho Đảng. Ban tuyên huấn Đảo ủy biên soạn chương trình Việt Minh, chương trình quân sự và chính trị cơ bản huấn luyện cho anh em. Rút kinh nghiệm sau nhiều năm đào tạo và hoạt động, Đảng ủy đã chú trọng đào tạo những cán bộ vừa có lý luận, vừa có năng lực hoạt động thực tiễn, biết cách tổ chức và vận động quần chúng. Đó là một bước tiến trong việc huấn luyện và đào tạo cán bộ trong tù.

        Đồng chí Lê Văn Lương, Đảo ủy viên được phân công trực tiếp chỉ đạo xuất bản tờ báo Độc Lập để góp phần phổ biến đường lối chính sách của Đảng ta và của Mặt trận Việt Minh. Ban biên tập có các đồng chí Nguyễn Xuân Hoàng, Trịnh Đình Trọng, Nguyễn Văn Vịnh, Nguyễn Mạnh Hoan, Sư Thiện Chiếu... Báo in thạch được khoảng 20 bản. Vì không có giấy khổ lớn nên phải in trên nhiều trang giấy học trò, khổ nhỏ như cuốn tạp chí; trang đầu in hai chữ Độc lập thật to, tiếp theo là bài xã luận nhan đề: Kiên quyết bảo vệ Độc lập - Tự do của Tổ quốc.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #67 vào lúc: 03 Tháng Bảy, 2017, 04:56:36 am »


        Rước chính trị phạm về đất liền

        Ngay sau khi giành được chính quyền ở Sài Gòn, Xứ ủy Nam Kỳ triệu tập cuộc họp ngay trong đêm 25-8-1945 để bàn việc tổ chức chính quyền cách mạng. Quyết định đầu tiên của Xứ ủy là phải lập tức giải phóng Nhà tù Côn Đảo và tổ chức đón các chiến sĩ cách mạng ở Côn Đảo trở về. Hai đồng chí Đào Duy Kỳ và Nguyễn Công Trung vừa ở Côn Đảo về trong chuyến tàu ngày 25-8-1945 được giao nhiệm vụ này. Một ủy ban ủng hộ chính trị phạm được thành lập tại trụ sở báo Dân Chúng. 

        Bọn Pháp ở Sài Gòn đã câu kết với bọn Nhật đang đóng quân chờ giải giáp phá hoại việc tìm kiếm tàu thuyền. Chúng xui bọn Nhật tịch thu mất chiếc tàu Đờ Lanétxăng (De Lanessan) mà anh em công nhân Cảng Sài Gòn đã kéo về sửa chữa để đón tù chính trị. Được sự chỉ đạo trực tiếp của ủy ban hành chánh Nam Bộ và sự giúp đỡ tận tình của chính quyền cách mạng tỉnh Gò Công, ủy ban ủng hộ chính trị phạm đã huy động được chiếc tàu Phú Quốc cùng 32 chiếc ghe bầu chuyên đi biển.  Đồng chí Chủ tịch ủy ban hành chánh Nam Bộ Trần Văn Giàu còn ký quyết định huy động 2 chiếc tàu kéo để nhanh chóng đưa đoàn ghe về địa điểm tập kết. Anh em công nhân Cảng Sài Gòn đã làm việc đêm ngày, tu sửa thật tốt con tàu Phú Quốc để sớm ra đón tù chính trị.

        Ngày 12-9-1945, hai chiếc tàu kéo rời bến đưa đoàn ghe từ Vàm Láng (Gò Công) về tập kết tại cửa biển Đại Ngãi (Sóc Trăng), nơi thuận gió để giong buồm ra Côn Đảo. Anh Lý Văn Chương, một quần chúng cảm tình, ủy viên ủy ban ủng hộ chính trị phạm được cử phụ trách đoàn ghe. Đồng chí Tương Dân Bảo là đặc phái viên của ủy ban hành chánh Nam bộ ra rước anh em tù chính trị đi trên tàu Phú Quốc. Biết tin có đoàn ghe đi rước chính trị phạm, ủy ban hành chánh tỉnh Mỹ Tho và ủy ban hành chánh huyện Trà Ôn (Cần Thơ) đã mua trên 10 tấn gạo và thực phẩm gửi ra tiếp tế cho các đồng chí ở Côn Đảo.

        Được sự hướng dẫn của đồng bào đánh cá vùng này, 5 giờ sáng ngày 16-9-1945, đoàn ghe nhổ neo, căng buồm ra Côn Đảo. Gần trưa, một cơn giông lớn ập đến, sóng gió dữ dội đánh tan đội hình đoàn ghe, có chiếc lạc đến tận cù lao Nam Sa, có chiếc dạt về Cồn Nốc. Anh em thủy thủ phải hạ buồm, lựa theo con sóng mà lái. Một thủy thủ bị cánh buồm gạt phăng xuống biển, sóng cuốn đi mất tích. Trận giông lớn làm lạc mất 7 chiếc ghe và làm các thủy thủ đều say sóng mệt lả nhưng 25 chiếc ghe còn lại đều quyết tâm ra Côn Đảo. 19 giờ ngày 16-9-1945, hai chiếc ghe đi đầu đã cập bãi Cỏ Ống - Côn Đảo. Tàu Phú Quốc cũng đến Cỏ Ống trong đêm ấy. Một số ghe bị dạt về Cồn Nốc nhờ đồng bào cư dân ở đây giúp đỡ đã sửa lại neo buồm và tiếp tục trở ra Côn Đảo trong những ngày sau đó.

        Thấy tàu lạ, tổ quan sát ở Cỏ Ống lập tức cử người băng rừng về Côn Đảo báo cáo ngay trong đêm. Đoàn phòng thủ Côn Lôn được lệnh triển khai lực lượng chiến đấu. Suốt đêm hôm ấy Ban chỉ huy lo bố trí lực lượng theo phương án đánh quân đổ bộ trên 3 tuyến phòng thủ.  Trong khi đó, tổ quan sát ở Cỏ Ống cử một số chiến sĩ dùng thuyền thúng áp sát tàu để điều tra mới biết là tàu của Chính phủ ra đón tù chính trị.

        Tổ quan sát cứ người về ngay Côn Đảo báo cáo lúc rạng sáng ngày 17-9-1945. Đồng chí Tôn Đức Thắng cùng cùng đồng chí Lã Vĩnh Lợi được Đảo ủy cử sang Cỏ Ống đưa đoàn tàu thuyền và phái đoàn của Chính phủ về cầu tàu trong tiếng hò reo vang dậy. Cờ, khẩu hiệu và người chen nhau chật cầu tàu Côn Đảo. Cuộc mít tinh diễn ra ngay tại chỗ, nhiệt liệt chào mừng đoàn đại biểu của Chính phủ. Đồng chí Tưởng Dân Bảo gặp lại những người bạn tù năm xưa, ôm nhau mừng đến rơi nước mắt. 

        Buổi chiều ngày 17-9-1945, cuộc mít tinh chính thức được tổ chức trọng thể tại sân banh Côn Đảo. Lễ đài được dựng trang nghiêm hướng về phương Bắc. Đồng chí Tưởng Dân Bảo đọc quyết định của ủy ban hành chánh Nam Bộ về việc đón chính trị phạm Côn Đảo và tuyên bố: Từ giờ phút này, Côn Đảo là một mảnh đất hoàn toàn tự do và độc lập. Tham tá Lê Văn Trà nộp ấn tín của nhà ngục Côn Đảo lên vị đại diện của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Một loạt súng nổ vang cùng những tiếng hò reo như sấm rền trên Côn Đảo giải phóng.

        Các đại biểu của Đảo ủy, của Đoàn phòng thủ Côn Lôn, đại diện Thanh niên cứu quốc và Thiếu thi cứu quốc Côn Đảo đã phát biểu trong cuộc mít tinh. Trên 2.000 người dự mít tinh và chia thành nhiều đoàn tuần hành qua cát ngả đường và hò vang các khấu hiệu cách mạng. Những đảng viên người Hoa và những người tù chính trị Campuchia cũng hân hoan hát những bài ca bằng tiếng Trung Hoa và tiếng Thơm.

        Trong giây phút thiêng liêng của tự do và độc lập, mọi người đều ngậm ngùi tưởng nhớ đến hàng ngàn người con ưu tú đã hy sinh trong những năm tháng khủng bố ác liệt của kẻ thù. Anh em tù chính trị chia nhau đi viếng mộ và tạc bia cho các đồng chí của mình.  Lối chôn tù vô nhân đạo của bọn chúa ngục làm cho việc tìm mộ từng người rất khó khăn. Gió cát đã xóa đi dấu vết riêng biệt của từng ngôi mộ. Hàng ngàn nấm mộ chỉ còn là những mô cát nhấp nhô. Nhiều gò cát bị mưa gió làm xói lở để lộ ra từng mảng xương trắng xám. Đoàn đại biểu của Chính phủ cùng với các thủy thủ đã kính cẩn đặt vòng hoa trên mộ nhà chí sĩ yêu nước Nguyễn An Ninh và mộ đồng chí Lê Hồng Phong. Không ai cầm được nước mắt khi đứng trước hàng ngàn nấm mồ vô danh của nhiều thế hệ, giữa một vùng cát vàng, xương trắng mênh mông.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #68 vào lúc: 03 Tháng Bảy, 2017, 04:56:57 am »


        Được tin Chính phủ ra sắc lệnh xây dựng Quỹ độc lập và tổ chức Tuần lễ vàng (4-9-1945), Đảo ủy đã thành lập Ban vận động quyên góp tiền và vàng đóng góp cho nước nhà. Các đoàn thể Thanh nên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc cũng tích cực tuyên truyền vận động.  Nhiều công chức, ma tà vừa được trở thành công dân của một nước độc lập đã tháo cả nhẫn vàng, dây chuyền ra đóng góp cho cách mạng. Chỉ trong mấy ngày, Ban vận đóng đã thu được một số tiền và vàng trị giá 2.000 đồng (tiền Đông Dương) đem về góp cho Chính phủ. 

        Đảo ủy lập danh sách toàn bộ tù chính trị để đưa về đất liền. Những người tù chính trị người Trung Quốc, Campuchia, Lào, Thái Lan cùng một số tù tường phạm và công chức đã giác ngộ cũng được bố trí đưa về đất liền. Đảo ủy còn lập một danh sách những đảng viên trung kiên, đã được thử thách trong tù để giới thiệu với Đảng. Anh em thủy thủ tích cực tu sửa thuyền buồm cho chắc chắn.

        Rạng sáng 23-9-1945, tàu Phú Quốc cùng 25 chiếc ghe bầu đá nhổ neo đưa 1.800 tù chính trị trở về đất liền. Chiếc canô mà anh em tù chính trị đã chữa lại được mang tên Giải phóng, do chính tay người thợ máy Tôn Đức Thắng lái đưa một số đồng chí trong Ban lãnh đạo trở về. Đảo ủy phân công một đồng chí ở lại lãnh đạo những anh em tù còn chờ chuyến tàu sau.  Tháng 9 biển thường nổi giông, đoàn ghe lại bị một trận sóng to gió lớn giữa biển như để thử thách cả đoàn thủy thủ và đoàn tù chính thức trên đường trở về. Chiếc canh Giải phóng bị đánh văng mất một thùng dầu.

        Toàn bộ danh sách Đảo ủy bố trí đưa về khoảng 2.300 người. Tàu Phú Quốc chỉ chở được hơn 400, môi ghe chở được từ 40 đến 60 người, chiếc canh chở 13 người. Còn lại khoảng 500 người, tàu Phú Quốc phải ra chuyến nứa mới chở hết.  và làm vỡ chiếc la bàn mà đồng chí Tôn Đức Thắng tự chế. Sóng lớn nhồi lắc làm nước cặn trong đáy thùng dầu nổi lên, khiến máy bị chết nhiều lần. Tổ thợ máy vừa lái canh vừa thay nhau xả cặn nước trong máy và chăm sóc các đồng chí say sóng ói mứa. Từ khi vỡ la bàn, đồng chí Tôn Đức Thắng không rời tay lái, nhằm bướng gió mà cắt sóng trở về phía đất liền.

        Chiều 23-9-1945, tàu Phú Quốc và những chuyến ghe đầu tiên đã cập bến Đại Ngãi (Sóc Trăng) trong sự tiếp đón nồng nhiệt của Đảng bộ và nhân dân địa phương. Chiếc canô Giải phóng sau nhiều lần trục trặc trên biển đã được đồng chí Tôn Đức Thắng điều khiển chạy vào cửa biển Mỹ Thanh. Bác Tôn là người cầm lái vĩ đại không phải chỉ trên chiếc canh này mà trong suốt 15 năm trong ngục Côn Đảo. Bên cạnh Bác là hai chàng trai trẻ Lê Văn Lương - Phạm Hùng đầu đội án ghém, gan góc và thông minh khiến cả dám gác ngục Tây - ma tà đều kính nể, nhưng với đồng chí mình thì rát đỗi thân thương. Lê Văn Lương nắm chặt tay Phạm Hùng, ngắm nhìn gió biển lướt trên mái tóc bạc bồng bềnh của Bác Tôn trong bình minh của Tự do - Độc lập. 

        Đồng bào ở các cửa biển được chính quyền cách mạng thông báo trước đã căng cờ, khẩu hiệu đón tù chính trị từ nhiều ngày. Canh còn cách bờ hơn một cây số, ghe xuồng ở trong đất đã lao ra vây quanh đón anh em tù chính trị. Nhiều đồng chí lả đi trên tay đồng bào. Các bà má và các chị phụ nữ không ai cầm được nước mắt.

        Đêm hôm ấy được tin từ Sài Gòn báo về, bọn Pháp phản động đã nổ súng đánh phiếm Sài Gòn, mở đầu cuộc xâm lược lần thứ hai. Đồng chí Phạm Hùng và một số đồng chí trong Đảo ủy vội lên xe về ngay Sóc Trăng để gặp Xứ ủy nhận nhiệm vụ. Đồng chí Tôn Đức Thắng cùng hai người thợ máy là Nguyễn Hùng Minh và Nguyễn Hồng Phước cũng lên canô về Cần Thơ ngay trong đêm.

        Theo đề nghị của Đảo ủy Côn Đảo, những đồng chí ở Nam Bộ được bố trí trở về quê và được Xứ ủy giới thiệu với chính quyền địa phương để tham gia công tác. Hàng trăm đồng chí quê ở miền Bắc dều tình nguyện ở lại tham gia cuộc kháng chiến theo lời kêu gọi của Xứ ủy và ủy ban hành chánh Nam Bộ.

        Đồng chí Tôn Đức Thắng cũng nhận nhiệm vụ ngay, không kịp ghé thăm người vợ yêu quý và hai người con gái lúc ấy đang ở cách Cần Thơ chỉ vài chục cây số. Mười bảy năm ở tù, từng ngày từng giờ đấu tranh chống lại cùm xiềng và đày ải đồng chí hiểu hơn hết giá trị của độc lập, tự do, cần phải bảo vệ bằng “tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải” của mình, như lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập.

        Tàu Phú Quốc trở ra đảo một chuyến nữa đón ngay các đồng chí còn ở lại Côn Đảo. Do tình hình trong đất đang phức tạp, những người tù thường phạm chưa được đón về, nhưng họ được coi như những công dân tự do giống như những người công chức, ma tà trên hòn đảo này. Đồng chí Nguyễn Văn Cừ, đại diện của Việt Minh ra lần này hướng dẫn những người tù thường phạm và công chức, ma tà còn ở lại tổ chức chính quyền trên đảo.  lviặc dầu chính quyền mới còn nhiều hạn chế, ủy ban hành chánh Côn Đảo đã được bầu ra theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu thay thế cho bộ máy trị tù của thực dân Pháp trước đây.

        Gần 2.000 tù chính trị ở Côn Đảo trở về đã tăng cường một lượng cán bộ lãnh đạo rất to lớn cho Đảng ta.  Hàng trăm đồng chí được cử vào cương vị lãnh đạo chủ chốt của Xứ ủy, Khu ủy, Tỉnh ủy, ủy ban hành chánh kháng chiến các cấp và trong lực lượng vũ trang trong hí”ng ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp ở sam Bộ. Cũng chính những người tù này không đầy 9 năm sau đã cùng với quân và dân ta làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ chấn động dịa cầu, đóng chiếc đinh cuối cùng vào cỗ quan tài chủ nghĩa thực dân cũ của Pháp ở Đông Dương.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #69 vào lúc: 03 Tháng Bảy, 2017, 04:58:18 am »

     
Chương bốn

CÔN ĐẢO TRONG BUỔI ĐẦU CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1945 - 1946)

        Tự do và thử thách

        Sau khi đưa toàn bộ tù chính trị và tù thường phạm đã giác ngộ về tham gia kháng chiến, kể cả những người quốc tịch Lào, Khơme, Thái Lan, và Trung Quốc, đặc phái viên của Chính phủ, Đảo ủy đã sắp xếp cho gần một ngàn tù thường phạm ở lại được sinh hoạt tự do, dưới sự quản lý hành chính của Lê Văn Trà.

        Bên cạnh đó, có Hội đồng tù nhân giống như hình thức chính quyền liên hiệp trước đó, nhưng có khác một điểm căn bản là hội đồng này gồm toàn tù thường phạm.  Bộ máy hành chính ở đảo được giữ lại những cơ quan cần thiết, và được tổ chức lại theo mô hình của một chính quyền Việt Minh. Các đoàn thể Thanh mến cứu quốc Phụ nữ cứu quốc, Thiếu nhi cứu quốc vẫn được duy trì. Cờ đỏ sao vàng được treo trên các trụ sở và cơ quan.

        Những người tù thường phạm ở lại đều được tự do, được đi lại tìm kiếm công việc làm ăn như mọi công dân khác. Một số tù nhân có tay nghề và sức khoẻ được chọn vào kíp đánh cá ở Sở Lưới và phục vụ tại Nhà Đèn, còn phần lớn thì làm ruộng làm rẫy để giải quyết lương thực, thực phẩm. Những người trước đây quen ở Sở rẫy nào thường tìm về sở cũ để trồng tỉa. Họ hưởng một phần lớn hoa màu và đóng góp một phần hoa lợi vào việc duy trì bộ máy hành chính.

        Số gác ngục quốc tịch Pháp còn ở đảo và số thủy thủ người đáo Madagascar bị đắm tàu được tập trung tại Banh III. Trường tiểu học vẫn mở cửa. Con em của các công chức và gác ngục tới trường khai giảng một năm học mới, nhưng chương trình chưa có gì thay đổi. Các công chức vẫn tới nhiệm sở. Một số tư thương ở đất liền theo thuyền đánh cá đem hàng ra đảo buôn bán. 

        Đằng sau vẻ yên tĩnh bề ngoài, người dân Côn Đảo vân nơm nớp lo âu vì những tin tức tái chiếm của thực dân Pháp; vì thiếu liên lạc và tiếp tế từ đất liền; vì nguy cơ không thể tự túc được khi kho lương thực dự trữ đã sắp cạn, v.v... Chế độ cai trị tàn bạo của thực dân Pháp đã để lại hố ngăn cách quá sâu, khó lấp cho bằng giữa những viên gác ngục thô bạo trước đây và những tội nhân thường phạm đã bị lưu manh hoá. Cả hai nhóm người này đều chẳng ai muốn ở lại đây nữa, nhất là tháng 10-1945, một tàu chiến Pháp chạy qua nã đại bác vào Côn Đảo, đạn rơi trúng Banh III làm chết mấy thủy thủ người Madagascar thì nỗi lo sợ và tâm trạng đó lại càng tăng lên gấp bội.

        Trung tuần tháng 12-1945, ủy ban hành chính lâm thời Nam Bộ lại cử phái đoàn Văn Cừ ra Côn Đảo lần thứ hai, với nhiệm vụ thu gom vũ khí và đưa một số máy móc ở Bản Chế về trang bị cho xưởng quân giới Nam Bộ. Trưởng đoàn Văn Cừ đã chấn chỉnh lại bộ máy chính quyền trên đảo, kêu gọi những công nhân là thường án trước đây yên lòng ở lại làm ăn, chờ khi có điều kiện, thì Chính phủ sẽ đưa thuyền ra đón. Trong lúc chờ đợi, nếu ai tự chuẩn bị được phương tiện thì Chính phủ không cấm việc trở về quê quán.

        Trước sự chứng kiến của phái đoàn Văn Cừ, Lê Văn Trà tổ chức một cuộc bầu cử dân chủ trên đảo vào ngày 11-12-1945. Sáu đại biểu của giới công chức, giám thị cũ và sáu đại biểu của tù thường phạm cũ đã được bầu vào chính quyền mới. Ngày 15-12-1945, ủy ban hành chính mới - do Trương Văn Thoại (tức Sơn Vương) làm chủ tịch đã ra mắt dân đảo. Lê Văn Trà và số lính bảo an theo phái đoàn Văn Cừ về đất liền.

        Trương Văn Thoại người gốc Gò Công, thân sinh là điền chủ Trương Đình Cung. Thoại được học hành, sáng tác được vài truyện ngắn, in thành tập sách nhỏ hoặc đăng tải trên báo chí hàng ngày, trong đó có truyện Chén cơm lạt được độc giả chú ý, nhưng rồi cuộc sống xô đẩy Thoại vào con đường giang hồ, trở thành tướng ướp nổi danh ở chợ Cầu ông Lãnh.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM