Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 11:01:45 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Tìm hiểu chiến lược - chiến thuật thời Trần - Lê  (Đọc 32200 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Moderator
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #30 vào lúc: 21 Tháng Năm, 2017, 03:59:44 pm »

III. 1426-1427: Phản công tiêu diệt chủ lực quân Minh

Sau 8 năm chiến đấu cực kỳ gian khổ nhưng vô cùng anh dũng, lực lượng kháng chiến không ngừng được phát triển lớn mạnh, lực lượng quân Minh không ngừng bị suy yếu, cô lập; cho đến cuối năm 1425, tình hình đã thay đổi về căn bản, so sánh tương quan lực lượng đã chuyển sang thế có lợi cho nghĩa quân, không lợi cho quân Minh. Lê Lợi và bộ tham mưu nghĩa quân quyết định kế hoạch tấn công quy mô lớn ra miền Bắc, nhằm mục đích bao vây chủ lực của quân Minh, tiêu diệt viện binh và bức chúng phải đầu hàng.

1. Tình hình chung của quân đội hai bên hồi giữa năm 1426

A – ĐỊCH

Ở miền Bắc do nhiều cuộc khởi nghĩa địa phương nổi lên, quân Minh đã phải bỏ rất nhiều vùng quan trọng ở thượng du và trung du quay về củng cố vùng đồng bằng, xây dựng một hệ thống đồn lũy, thành trì ở những nơi hiểm yếu như: Điêu-diêu (Gia-lâm), Thị-cầu (thuộc huyện Võ-giàng, Bắc-ninh), Xương-giang (ở xã Thọ-xương, huyện Bảo-lộc, Bắc-giang), Tam-giang (Việt-trì ngày nay), Chí-linh (huyện Chí-linh, Hải-dương), để giữ vững Đông-quan và kiểm soát các đường chiến lược thủy bộ quan trọng. Tổng quân số chiếm đóng, tính cả quân bị vây hãm trong các thành Nghệ-an, Diễn-châu và Tây-đô (không kể ngụy binh) là trên dưới 5 vạn.

Mục đích của địch là chuyển vào phòng ngự, củng cố Đông-quan và đồng bằng, chiếm giữ những nơi xung yếu và các điểm then chốt trong hệ thống đường xá, sông ngòi, chờ viện binh sang để mở cuộc tấn công lớn tiêu diệt nghĩa quân.

Trong khi đó, đi đôi với những thủ đoạn bịp bợm về chính trị, nhà Minh đã điều động viên binh gồm: bộ binh, kỵ binh, quân cung nỏ, tổng cộng chừng 5 vạn, chuẩn bị tiến vào nước ta, phối hợp với quân chiếm đóng thực hành phản công. Chỉ huy đạo viện binh này là tổng binh Vương Thông có Mã Anh làm tham tướng.

Kế hoạch là, tiến quân theo từng đợt từ hai khu vực tập kết ở Lưỡng-quảng và Vân-nam chia thành hai cánh để vượt biên giới; cánh chủ lực tiến theo đường Lạng-sơn, cánh phối hợp tiến theo đường Lào-cai về hội hợp ở Đông-quan.

B – TA

Nghĩa quân đã lớn mạnh, tổng quân số đã đạt đến 35 vạn; nắm đúng thời cơ địch đã suy yếu, tinh thần đang hoang mang, viện binh chưa kịp thới, Lê Lợi quyết định tiến quân ra Bắc.

Mục đích cuộc tiến quân nhằm:

- Chiếm các điểm xung yếu để chuẩn bị ngăn chặn viện binh nhà Minh từ biên giới tiến về Đông-đô.

- Chiếm vùng ven biển quan trọng ở Bắc-bộ, triệt đường rút lui của Phương Chính (lúc đó cố thủ ở thành Nghệ-an về Đông-đô.

- Vây hãm thành Đông-đô, hạ các thành lẻ, củng cố hậu phương.

Để thực hiện mục đích trên, kế hoạch của bộ tham mưu nghĩa quân là: đi đôi với việc tiếp tục bao vây thành Nghệ-an, tập trung hơn một vạn quân chia làm bốn đạo tiến ra Bắc:

- Đạo thứ nhất gồm 3.000 quân và 1 thớt voi, do các tướng Phạm văn Xảo, Lý Triển, Trịnh Khả và Đỗ Bí chỉ huy, men theo đường núi ra Thiên-quang (Nho-quan – Ninh-bình), tiến lên hướng tây-bắc tới các vùng Quốc-oai, Quảng-oai, Gia-hưng, Quy-hóa, Đà-giang để đánh viện binh địch từ Vân-nam sang.

- Đạo thứ hai gồm 2.000 quân và 1 thới voi, do các tướng Lưu nhân Chú, Bùi Bị, Lê Ninh chỉ huy tiến ra miền đông-nam chiếm Thiên-trường, Tân-hưng, Kiến-xương, đóng giữ những nơi hiểm yếu, chặn đường rút lui của Phương Chính về Đông-đô.

- Đạo tứ ba gồm 2.000 quân và 1 thớt voi do các tướng Lê Bôi, Lê vị Canh chỉ huy, từ Thanh-hóa tiến ra vùng đông-bắc, đánh chiếm các vùng Khoái-châu, Bắc-giang, Lạng-giang, đánh viện binh địch từ Lưỡng-quảng sang.

- Đạo thứ tư gồm trên 3.000 quân tinh nhuệ do các tướng Đinh Lễ, Nguyễn Xí, Lê Bì chỉ huy tiến thẳng ra Đông-đô, phô trương thanh thế, sẵn sàng tiếp ứng cho các mặt khác và chuẩn bị vây hãm Đông-đô.

Lê Lợi cùng chủ lực của nghĩa quân đóng đại bản doanh ở Nghệ-an.

Tháng 9 năm 1426 các đạo quân xuất phát, kỷ luật hành quân rất nghiêm minh, đi đến đâu cũng được nhân dân nhiệt tình giúp đỡ.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Moderator
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #31 vào lúc: 21 Tháng Năm, 2017, 04:00:18 pm »

2. Diễn biến chiến sự

Tháng 9 năm 1426, đạo thứ nhất đã tiến gần đến thành Đông-quan, nhưng đạo thứ tư có nhiệm vụ vây hãm Đông-quan chưa đến kịp, các đạo thứ hai và thứ ba vẫn hành quân theo kế hoạch.

A – TRẬN ĐẦU TIÊN: ĐÁNH TAN TẬP KÍCH CỦA ĐỊCH

Ở Đông-quan, địch thấy quân ta số lượng ít, lại mới từ xa đến, nên chúng tập trung gần hết toàn bộ quân trong thành do Trần Trí chỉ huy tập kích định tiêu diệt đạo quân thứ nhất của ta, nhưng quân ta rút đến Ninh-kiều, Ứng-thiện (thuộc Chương-đức, Hà-đông) quay lại phản kích, đánh lui cuộc tấn công của địch rồi chiếm nơi địa hình có lợi ở phía tây sông Ninh-giang; một cánh chừng 1.000 quân tiến lên đón đánh chặn viện binh, còn chủ lực tiếp tục truy kích đến tận làng Nhân-mục (tức làng Mọc ở phía nam Hà-nội), bắt sống tên đô ty Vi Lượng, tiêu diệt được một số khá lớn quân địch. Trần Trí rút về cố thủ trong thành Đông-quan. Sau đó quân ta rút về đóng ở khu vực sông Ninh-giang, làm đội dự bị cho cánh quân chặn viện.

Để tránh bị tiêu diệt trước khi viện binh đến, Trần Trí lệnh cho Lý An, Phương Chính tập trung quân từ thành Nghệ-an ra tăng cường phòng ngự cho Đông-quan.

Tháng 10 năm 1426 (ngày 17 tháng 9 năm Bính Ngọ), Phương Chính để một bộ phận ở lại thành Nghệ-an, còn chủ lực vượt biển về ứng cứu cho Đông-quan. Lê Lợi lệnh cho quân truy kích, nhưng vừa đến Thanh-hóa, bọn Phương Chính đã phóng thuyển ra biển lẩn chạy về Đông-đô.

Trước tình hình đó, Lê Lợi đã trực tiếp chỉ huy đại quân ta tiến ra Bắc, chỉ để lại một binh lực nhỏ bao vây Nghệ-an.

B – CHIẾN THẮNG OANH LIỆT Ở TỐT-ĐỘNG – CHÚC-ĐỘNG, TIÊU DIỆT VIỆN BINH CỦA VƯƠNG THÔNG

Cuối tháng 10, trên một vạn viện binh địch do đô ty Vương An Lão chỉ huy, theo đường Vân-nam tiến sang.

Tháng 10 (ngày 20 tháng 9 năm Bính Ngọ) đạo quân thứ nhất do Phạm văn Xảo chỉ huy đã chặn đánh địch ở cầu Xá-lộc thuộc Tam-giang, làm chúng bị thiệt hại nặng; Vương An Lão đưa tàn binh rút về cố thủ trong thành Tam-giang.

Đầu tháng 11, đại quân của Vương Thông tiến sang theo đường Lạng-sơn đánh lui các đội quân kiềm chế của ta, rồi kéo vào thành Đông-đô.

Vương Thông tập trung toàn bộ quân đội (ngày 6 tháng 10 năm Bính Ngọ), cả cũ lẫn mới, tổng cộng hơn 10 vạn quân, chia thành 3 đạo, mở rộng phạm vi chiếm đóng: chủ lực do Vương Thông chỉ huy đóng ở Cổ-sơ (một xã thuộc huyện Thạch-thất, Sơn-tây); đạo quân của Phương Chính đóng ở Sa-đôi (huyện Từ-liêm, Hà-đông), Sơn Thọ và Mã Kỳ đóng ở Thanh-oai (Hà-đông), hình thành một vòng đai kín đáo che chở vững chắc cho Đông-quan. Doanh trại của địch mọc lên san sát kéo dài đến vài mươi dặm, khí thế hùng mạnh “cờ xí rợp đồng, khí giới lóa trời”. Mục đích của chúng là sau khi đã đứng vững chân sẽ triển khai đánh một trận tiêu diệt nghĩa quân.

Đạo quân thứ nhất của ta dùng kế “điệu hổ ly sơn”, một mặt bố trí phục kích sẵn ở Cổ-lẫm (huyện Thanh-oai, Hà-đông), một mặt cho một toán quân đến doanh trại của Sơn Thọ - Mã Kỳ khiêu chiến. Mã Kỳ xuất quân đuổi theo, đến cầu Tam-la (giáp giới huyện Thanh-oai và Từ-liêm) nơi ruộng nước bùn lầy bị phục binh ta đánh cắt ngang đội hình và xung phong quyết liệt; địch bị sa lầy, chạy không kịp nên bị tiêu diệt rất nhiều, số còn lại phải rút chạy cũng bị quân ta truy kích đến cầu Nhân-mục, chém giết vô kể “xác địch chết nằm rải đến vài mươi dặm”, bắt sống trên 600 tên; sau đó, định quay lại đánh úp sau lưng doanh trại của Phương Chính, nhưng chúng đã rút chạy từ trước. Lợi dụng đêm tối, Mã Kỳ đã kéo quân về tập trung với quân của Vương Thông. Các vị trí Thanh-oai và Sa-đôi đã bị ta san phẳng.

Đạo quân thứ nhất đột kích vào Cổ-sơ (ngày 7 tháng 10 năm Bính Ngọ), một vị trí ngoại vi của Vương Thông, nhưng do địch có đề phòng, dùng mưu kế đã phản đột kích lại, voi của ta dẫm phải chông không tiến lên được và địch từ trong doanh trại ra phản xung phong; vì bị thiệt hại, đạo quân thứ nhất phải rút về đóng tại Cao-bộ (huyện Chương-mỹ, Hà-đông) chờ xin quân tiếp viện.

Đạo quân thứ tư được lệnh từ Thanh-đàm cấp hành quân đến tăng viện cho đạo quân thứ nhất ở Cao-bộ, cả hai đạo quân tập trung bố trí phục kích ở Tốt-động (hay Tuy-động, huyện Mỹ-lương, Hà-đông) và Chúc-động (tức Chúc-sơn, huyện Chương-mỹ, Hà-đông). Quân ta bắt được gián điệp của địch nên nắm được kế hoạch tấn công của Vương Thông như sau: một cánh quân từ khu tập kết Ninh-kiều đánh vu hồi về phía sau lưng, một cánh quân chủ lực sẽ vượt sông đánh vào chính diện, khi có pháo lệnh sẽ đồng thời tấn công tiêu diệt quân ta. Vương Thông phụ trách chỉ huy chung và trực tiếp chỉ huy chủ lực tấn công chính diện.

Các tướng lĩnh chỉ huy hai đạo quân của ta định kế hoạch tác chiến như sau: Sau khi đã bố trí sẵn sàng phục binh ở địa hình có lợi và tổ chức trận địa nghi binh, đến canh năm cho nổ pháo lệnh theo tín hiệu của quân Minh, địch nghe thấy pháo lệnh liền ồ ạt tấn công vào trận địa nghi binh của ta, khi chúng tiến đến Tốt-động và Chúc-động, phục binh của ta từ bốn mặt giáp công, đánh giết rất mãnh liệt; trời mưa đường lầy lội, địch chạy không kịp, do đó, kết quả ta tiêu diệt được gần năm vạn trong đó có tên thượng thư Trần Hạp và tên nội quân Lý Lượng, bắt sống được một vạn tên. Máu địch nhuốm đỏ dòng sông Ninh-giang, tên tướng Vương Thông bị thương nhưng đã cùng bọn tàn quân chạy thoát về Đông-quan. Quân ta truy kích rồi thừa thắng bao vây luôn thành Đông-quan.

Chiến thắng Tốt-động và Chúc-động là chiến thắng lớn nhất của nghĩa quân từ trước đến nay, đã tiêu diệt một bộ phận rất lớn chủ lực địch, khiến cho tương quan lực lượng lại thay đổi có lợi cho ta, đẩy địch vào thế bị động chiến lược và ta đã giành được thế chủ động trên toàn bộ chiến trường.

“Bình ngô đại cáo” đã ghi lại chiến thắng oanh liệt trên đây bằng những câu thơ:

“Trận Ninh-kiều, máu chảy thành sông, trôi tanh muôn dặm.
Trận Tốt-động thây phơi đầy nội, để thối nghìn thu”.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Moderator
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #32 vào lúc: 21 Tháng Năm, 2017, 04:00:52 pm »

C – TẤN CÔNG VÂY HÃM THÀNH ĐÔNG-QUAN, TIÊU DIỆT CÁC THÀNH LÚY THỨ YẾU CỦA ĐỊCH

Được tin thắng trận, Lê Lợi chỉ huy đại quân cùng với 20 thớt voi cấp hành quân ra Bắc, chuẩn bị giai đoạn quyết định tiêu diệt địch.

Lê Lợi đến Tây Phù – liệt ở Thanh-trì, Hà-đông (ngày 22 tháng 10 năm Bính Ngọ), mở hội nghị quân sự với các tướng lĩnh, định kế hoạch tấn công Đông-đô. Lúc đó, Vương Thông đang gấp rút tăng cường phòng ngự Đông-đô, chuẩn bị chống lại cuộc tấn công của quân ta và chờ viện binh.

Theo kế hoạch (ngày 23 tháng 10), Lê Lợi sử dụng lực lượng tấn công thành Đông-quan như sau:

- Thủy binh do tướng Trần nguyên Hãn và Bùi Bị chỉ huy gồm 100 chiến thuyền ngược dòng sông Đáy lên cửa sông Hát rồi xuôi dòng sông Hồng xuống Đông Bộ-đầu.

- Một cánh quân gồm trên 1 vạn bộ binh do tướng Đinh Lễ chỉ huy, bí mật tiến đến cầu Tây-dương.

- Chủ lực do Lê Lợi trực tiếp chỉ huy tiến đến phía Cửa Nam, ngoại thành Đại-la. Chỉ huy sở đặt tại Đông Phù-liệt.

Nửa đêm phát lệnh tấn công, quân ta từ bốn mặt đánh vào thành Đông-quan; địch bị đánh bất ngờ, nên vô cùng hoảng hốt; quân ta nhanh chóng đột phá tiền duyên, đốt phá hết các doanh trại ở ngoại vi; chỉ huy quân Minh ở đây là Phương Chính vội vã dời bỏ trận địa rút chạy vào thành; địch bị chết rất nhiều, quân ta tiến sát vào thành thu được trên một trăm chiến thuyền, nhiều khí giới và giải phóng được tất cả những người bị địch giam giữ.

Địch rút vào thành, tăng cường công sự, đắp thêm hào lũy liều chết cố thủ. Đồng thời, để có thời gian chờ quân tiếp viện, Vương Thông tìm kế hoãn binh đã lên tiếng xin giảng hòa.

Quân ta do chưa chuẩn bị để đánh vào thành lũy kiên cố, nên thắt chặt vòng vây và tranh thủ chuẩn bị nhất là về vũ khí công thành. Đến tháng 12 (tháng 1 năm 1427), Vương Thông một mặt phái người mang thư xin hòa sang trao cho ta nhưng mặt khác hắn vẫn phái người đi xin viện binh.

Trước tình hình đó, Lê Lợi quyết định tiếp tục tăng cường bao vây Đông-đô, đồng thời cho quân đi tấn công những thành lẻ, nhằm chôn chân chủ lực địch và triệt để cô lập thành Đông-quan, tạo điều kiện thuận lợi cho ta tập trung chủ lực tiêu diệt viện binh địch sau này.

Đến năm 1427, Lê Lợi rời đại bản doanh từ Đông Phù-liệt sang Bồ-đề (thôn Phù-hựu – Gia-lâm) đối diện với thành Đông-quan để tiện việc chỉ huy. Lầu quan sát của Lê Lợi được xây dựng cao ngang với tháp Bảo-thiên trên bờ sông Hồng. Vừa bao vây chặt chẽ, vừa tiến hành thương lượng với Vương Thông, đồng thời Lê Lợi cho quân đi tấn công những thành nhỏ và tích cực chuẩn bị mọi mặt để đánh những trận có tính chất quyết định.

Đông-quan bị bao vây chặt chẽ; Trịnh Khả đóng quân ở Cửa Đông, Đinh Lễ ở Cửa Nam; Lê Cực ở Cửa Tây và Lý Triện ở Cửa Bắc, hình thành tuyến bao vây thứ nhất. Phạm Vấn đóng quân ở phía Cửa Đông; Lê Sát, Lê Lý và Nguyễn Chính ở phía Cửa Nam; Bùi Bị, Lê Nguyễn ở phía Cửa Tây và Lê Văn An ở phía Cửa Bắc, hình thành tuyến bao vây thứ hai.

Trong 3 tháng đầu năm 1427, tình hình chiến sự diễn ra như sau:

Về địch: 3 lần tập kích quân ta:

- Ngày 7 tháng 2, Phương Chính tập kích quân ta ở Quả-động (huyện Từ-liêm, Hà-đông) bị đánh lui, nhưng bên ta các tướng Lý Triển bị tự trận và Đỗ Bí bị bắt.

- Ngày 8 tháng 3, Vương Thông chỉ huy một đạo quân tinh nhuệ bất ngờ tấn công vào doanh trại của ta ở Tây Phù-liệt. Lê Lợi cho 500 quân tiếp viện nên đã đánh lui và truy kích địch, đến Mỹ-động (ngoại thành Hà-nội) do thấy lực lượng truy kích của ta ít, địch liền chia thành hai cánh đánh kẹp lại, voi của ta bị sa lầy, các tướng Đinh Lễ bị tử trận và Nguyễn Xí bị bắt (sau trốn thoát được).

Về ta: bao vây, tấn công và dụ hàng các thành:

- Tháng 1, địch ở Nghệ-an và Diễn-châu xin hàng.

- Vây và bức hàng thành Điêu-diêu (Gia-lâm).

- Tháng 2, sau đợt tấn công của ta, địch ở thành Thị-cầu xin hàng.

- Tháng 3, Tam-giang là một thành quan trọng của địch trên đường tiếp viện từ Vân-nam sang, đang bị bao vây chặt lại được tin một số thành khác đã hàng, nên cũng xin hàng.

- Ngày 13 tháng 1, sau mấy ngày đêm bao vây, quân ta đã công kích thành Khau Ôn, một cứ điểm quan trọng trên đường Lạng-sơn – Đông-quan, địch bỏ thành chạy tán loạn.

- Trận bao vây và chiến đấu gay go quyết liệt nhất là ở thành Xương-giang, một cứ điểm trọng yếu bậc nhất của địch trên đường tiếp viện từ Lưỡng-quảng qua Mục-nam-quan đến Đông-quan nên rất kiên cố và do một lực lượng mạnh trên 2.000 quân chiếm giữ; những trận chiến đấu dai dẳng quyết liệt ở đây diễn ra trong 6 tháng bao vây, cả hai bên đều sáng tạo ra nhiều thủ đoạn chiến đấu để quyết chiến với nhau. Sau này do nhu cầu cấp thiết về chiến thuật, phải hạ bằng được thành Xương-giang trước khi viện binh địch đến, Lê Lợi đã tăng cường lực lượng tấn công, ra lệnh cho tướng sĩ vây thành phải anh dũng, quyết tâm. Quân ta lấy đất đắp thành cao điểm để đặt pháo bắn vào thành, địch liền xuất kích liều chết đánh chiếm cao điểm, rồi tập kích vào doanh trại quân ta. Quân ta lại đào đường hầm xuyên vào thành, địch liền đào hào thọc ngang chặn lại và dùng pháo bắn ngăn chặn quân ta; sau cùng quân ta bắc thang trèo lên chiếm cổng thành, rồi ồ ạt tấn công vào thành và ngày 8 tháng 9 đã hạ xong thành. Tiếp đó sau 10 ngày, viện binh của Liễu Thăng kéo đến biên giới, do đó càng thấy rõ việc hạ thành Xương-giang có nhiều giá trị lớn về chiến thuật.

Như vậy là, trừ những thành lớn như Đông-quan, Cổ-lộng, Chí-linh và Tây-đô mà Lê Lợi chỉ chủ trương bao vây, cô lập, chứ không công kích để hạ ngay, còn tất cả là một hậu phương rộng rãi của ta đã được giải phóng và nối liền với nhau. Nghĩa quân tranh thủ thời gian củng cố về mọi mặt, đồng thời vẫn tiếp tục tăng cường và phát triển lực lượng của quân đội.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Moderator
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #33 vào lúc: 21 Tháng Năm, 2017, 04:01:17 pm »

D – CHIẾN THẮNG CHI-LĂNG TIÊU DIỆT VIỆN BINH ĐỊCH

Đứng trước tình hình của một cuộc chiến tranh kéo dài rất không lợi và đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt của đạo quân Vương Thông đã rõ rệt, nhà Minh phải điều động đến một đạo quân tiếp viện mạnh; đó là cố gắng cao nhất và là cố gắng cuối cùng của địch có thể làm được; chúng đã điều động từ khắp các tỉnh của Trung-quốc từ Sơn-đông, Bắc-kinh, Tứ-xuyên đến Quý-châu, Lưỡng-quảng để họp lại thành một đội quân rất tinh nhuệ nhằm tiến hành một trận chiến đấu quyết liệt cuối cùng, tiêu diệt nghĩa quân Lam-sơn.

Tháng 1 năm 1427 viện binh địch chia thành hai đạo quân theo hai đường tiến sang nước ta:

- Đạo quân thứ nhất do Liễu Thăng làm tổng binh chỉ huy, tiến theo đường Quảng-tây sang.

- Đạo quân thứ hai do Mộc Thạnh làm tổng binh chỉ huy, tiến theo đường Vân-nam sang.

- Tháng 4 năm 1427 điều động thêm gần 5 vạn quân làm hậu vệ cho quân của Liễu Thăng.

Tổng cộng là 15 vạn quân, đó là mức cố gắng cao nhất dốc vào quyết chến. Nhưng, tuy vậy nhà Minh lúc đó đăng gặp những khó khăn lớn ở Trung-quốc, nên việc điều động quân bị chậm chạp, mãi đến ngày 18 tháng 9 đạo quân của Liễu Thăng gồm 10 vạn người và 2 vạn ngựa mới đến biên giới nước ta; đạo quân của Mộc Thạnh gồm 5 vạn người và 1 vạn ngựa mới tiến vào cửa ải Lê-hoa.

Khi được tin viện binh địch sắp sang, các tướng đề nghị Lê Lợi cho tấn công hạ gấp thành Đông-quan để triệt đường của địch đánh từ trong ra, sau sẽ dốc toàn bộ lực lượng đánh viện binh địch; nhưng Lê Lợi và bộ tham mưu của nghĩa quân không chấp nhận đề nghị đó, mà chủ trương tiếp tục vây thành, đồng thời tập trung lực lượng lên phía biên giới đánh viện binh.

Kế hoạch của Lê Lợi như sau:

- Tu sửa lại cửa ải Lê-hoa để chặn đường viện binh địch từ Vân-nam sang.

- Đắp lại thành Xương-giang cho kiên cố thêm làm khu then chốt trong hệ thống phòng ngự trên hướng chủ yếu.

- Ở những vùng quan trọng địch có thể tràn qua như Lạng-giang, Bắc-giang, Tam-đái, Tuyên-quang, Quy-hóa thì làm vườn không nhà trống (gọi là “thanh dã”) để cho chúng không cướp được lương thực, không có nơi trú ngụ và không bắt được người.

- Tăng cường canh phòng nghiêm mật vùng biên giới.

Đầu tháng 10, khi địch sắp đến biên giới, Lê Lợi hạ quyết tâm như sau;

- Cử 1 vạn quân tinh nhuệ và 5 thớt voi do các tướng Lê Sát, Lưu nhân Chú, Lê Linh, Đinh Liệt và Lệ Thụ chỉ huy, bố trí phục kích ở cửa ải Chi-lăng, tiếp sau tăng thêm 4 vạn quân do các tướng Lê Lý và Lê văn An chỉ huy đi tiếp ứng, có nhiệm vụ diệt một phần lực lượng quan trọng của Liễu Thăng.

- Cử 3 vạn quân do các tướng Phạm văn Xảo và Trịnh Khả chỉ huy tiến lên cửa ải Lê-hoa (phía Lào-cai) có nhiệm vụ cầm cự, ngăn chặn địch từ Vân-nam sang, không cho chúng thực hiện được hợp đồng với cánh quân từ hướng tấn công chủ yếu.

- Đội dự bị ở gần Đông-quan có nhiệm vụ tăng viện hoặc triệt đường rút lui của địch.

Tháng 10 năm 1427 (ngày 18 tháng 9 năm Đinh Vị), địch tiến đến biên giới.

Tướng Trần Lựu giữ cửa ải Pha-lũy (Nam-quan) tiến hành kiềm chế, tổ chức rút về cửa ải Ải-lưu. Từ đó lại tiếp tục rút về cửa ải Chi-lăng, nơi đây quân ta đã chiếm lĩnh địa hình rất hiểm yếu, tổ chức trận địa phục kích quy mô, có lập rào, xây lũy chu đáo trên đường tiến vào cửa ải.

Quân của Liễu Thăng ồ ạt tấn công, ỷ lại vào ưu thế sẵn có và do vừa chiếm được các cửa ải Pha-lũy, Ải-lưu khá dễ đàng, nên rất kiêu căng và càng chủ quan. Để làm tăng thêm tinh thần kiêu căng chủ quan của địch, Lê Lợi gửi thư cho địch đề nghị bãi binh, Liễu Thăng quả nhiên bị mắc mưu đã nhận định rằng lực lượng nghĩa quân non yếu chưa đánh đã chạy, do đó hạ lệnh tiếp tục tấn công ồ ạt, tự mình chỉ huy hơn 100 kỵ binh xông lên phía trước.

Ngày 20 tháng 9 năm Đinh Vị, địch tiến tới chân nũi Mã-yên (xã Mai-sảo, Ôn-châu, Lạng-sơn) lọt vào trận địa phục kích của ta. Liễu Thăng định vượt qua cầu, nhưng cầu bị hỏng, nên bị sa lầy. Tức thì các tướng Lê Sát, Lưu nhân Chú chỉ huy phục binh từ bốn mặt bao vây, tấn công rất mạnh, nên trong những phút đầu tiên đã tiêu diệt gọn được toán kỵ binh đi tiên phong của địch và tên tổng binh Liễu Thăng đã bị giết ngay trên sườn núi Mã-yên, quân ta chiến đấu rất dũng cảm, xung phong rất mãnh liệt và kết quả đã tiêu diệt được trên 1 vạn quân địch. Cuộc chiến đấu ác liệt đến đây còn tiếp tục.

Ngày 25 tháng 9 năm Đinh Vị, đạo quân của Lê Lý và Lê văn An đã đến hiệp đồng với phục binh tấn công mãnh liệt, giết được tên phó tổng binh Lương Minh của địch và đến ngày 28 tên binh bộ thượng thư Lý Khánh đến thế cùng đã tự tử.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Moderator
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #34 vào lúc: 21 Tháng Năm, 2017, 04:01:48 pm »

Thôi Tụ và Hoàng Phúc thu thập số tàn quân lại, chỉnh đốn đội ngũ, định tiến gấp vào thành Xương-giang (do chúng chưa biết là đã nằm trong tay quân ta). Quân ta lập tức truy kích đánh rất mạnh nên trong quá trình truy kích đã tiêu diệt được trên 2 vạn tên, bắt được rất nhiều lừa ngựa và thu được rất nhiều vũ khí, quân trang; quân của Thôi Tụ liều chết chạy về hướng thành Xương-giang, khi đến nơi mới biết thành này đã lọt vào tay quân ta, phải vội vàng đóng quân ở giữa đồng và đắp lũy tổ chức phòng ngự nhưng cũng bị quân của Lê Lý và Lê văn An đuổi theo ập đến bao vây. Địch đã tổ chức phòng ngự, nên Lê Lợi lệnh cho quân ta lập trại ở tả ngạn Xương-giang phải chuyển sang lâm thời phòng ngự, tích cực chuẩn bị tổng công kích. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, Thôi Tụ bắn pháo hiệu yêu cầu các thành Đông-quan và Chí-linh đến ứng cứu, nhưng quân địch trong hai thành này cũng đang nằm trong cái cảnh tương tự, nên không hề nhúc nhích.

Đầu tháng 11, Lê Lợi tung đội dự bị ra cùng với thủy binh và bộ binh đến khép chặt vòng vây, đòng thời dùng một bộ phận đi đóng giữ các cửa ải Chi-lăng, Mã-yên, Pha-lũy, Bàng-quan chặn đường rút lui của địch; do đó, Thôi Tụ quyết định chạy về thành Chí-linh đã bị chặn lại, địch ở vào tình thế hoang mang cực độ, lương thực thiếu thốn, tinh thần tướng sĩ bạc nhược, tiến không được mà thoái cũng cùng đường.

Sau khi đã điều động đầy dủ quân đội, mọi mặt đã chuẩn bị xong và nhất là nắm được tình hình trên đây của địch, Lê Lợi hạ lệnh tổng công kích. Quân ta từ các mặt với khi thế dũng mãnh nhất tề xông lên lao vào trận địa địch. Ngày 15 tháng 10 năm Đinh Vị, quân địch bị đại bại; các tướng Thôi Tụ, Hoàng Phúc cùng gần 3 vạn tên địch bắt sống, gần 5 vạn tên bị giết, số còn lại xin đầu hàng. Quân ta đã tiêu diệt toàn bộ quân địch, thu toàn bộ vũ khí, quân trang, quân dụng.

Chỉ không dầy một tháng (từ ngày 8 tháng 9 đến ngày 15 tháng 10 năm Đinh Vị) hai chiến thắng lớn ở Chi-lăng và Xương-giang đã đem lại kết quả tiêu diệt toàn bộ đạo quân chủ lực tinh nhuệ nhất của viện binh địch gồm trên 10 vạn tên do Liễu Thăng chỉ huy.

Cũng trong lúc đó, đạo quân viện thứ hai do Mộc Thạnh chỉ huy đã bắt đầu tiến cận quân ta trên cửa ải Lê-hoa. Mộc Thạnh tỏ ra rất thận trọng, cho tiến quân chậm chạp, cử các toán trinh sát đi do thám tình hình phòng ngự của ta và nghe ngóng tình hình tiến quân của Liễu Thăng. Nắm được đặc điểm đó của địch, Lê Lợi lệnh cho các tướng sĩ giữ Lê-hoa chưa nên giao chiến với địch, chỉ nên để một số phục kích cầm cự, chờ đợi thời cơ.

Sau khi đạo quân của Liễu Thăng đã hoàn toàn bị tiêu diệt, Lê Lợi cho bắt một số tên chỉ huy địch sai chúng đem bằng sắc, ấn tín của Liễu Thăng đưa đến trại của Mộc Thạnh, khiến tên này vô cùng khiếp sợ, lập tức hạ lệnh rút lui. Các tướng Phạm văn Xảo và Trịnh Khả nhằm đúng thời cơ đó chuyển sang tấn công, dùng lực lượng chủ yếu phục kích trên đường địch rút, cho một bộ phận đánh thắng vào địch. Mộc Thạnh đốc thúc quân chạy cho mau, nhưng đến Lãnh-thủy và Đan-xá (thuộc tỉnh Lào-cai) bị quân phục kích của ta phối hợp với quân truy kích đánh mạnh nên lại thu được thêm một thắng lợi to lớn nữa, địch bị giết trên 1 vạn và bị bắt sống trên 1.000 tên; ta thu được trên 1.000 ngựa và rất nhiều chiến lợi phẩm khác, tàn quân của Mộc Thạnh chạy thục mạng về Vân-nam, nhưng phần lớn bị tan rã ở dọc đường. Trong “Bình ngô đại cáo” ghi lại chiên thắng lớn ở Lãnh-thủy – Đan-xá, như sau:

“Máu chảy đầy đồng, Lãnh-câu no nước trôi ấp ức;
Thây chồng thành núi, Đan-xá kia cỏ nội thẫm hồng”.

Hai đạo quân viện của nhà Minh đã bị hoàn toàn tiêu diệt.

Thắng lợi ở Chi-lăng và Xương-giang là hai chiến thắng lớn nhất trong toàn bộ cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi đã đánh cho địch những đòn có tính chất quyết định buộc Vương Thông phải đầu hàng, làm cho ý chí chiến đấu bị rã rời và âm mưu xâm lược bị thất bại và cuối cùng buộc nhà Minh phải công nhận nền độc lập của nước ta.

Để tránh một cuộc chém giết có thể xảy ra lần nữa và do nắm được tình hình của nhà Minh, Lê Lợi đã chủ động viết thư cho Vương Thông để lập lại hòa bình và cho Vương Thông rút quân. Tuy vậy vòng vây chung quanh Đông-quan vẫn còn khắp chặt và vào khoảng tháng 12 Vương Thông còn liều chết đem quân ra đánh ta. Nhưng cuộc phản kích tuyệt vọng này đã bị đánh lui. Vương Thông ngã ngựa suýt bị bắt sống, quân ta lại củng cố trận địa, xây đắp công sự và chuẩn bị tổng tấn công.

Ngày 22 tháng 11 năm Đinh Vị, Vương Thông xin hàng và đề nghị Lê Lợi cho hắn rút đại quân về nước. Lê Lợi tuyên bố lệnh hòa nghị và giải vây, cho địch được phép tập trung ở Đông-đô để rút về Trung-quốc. Sau đó triều đình nhà Minh cũng ra lệnh bãi binh.

Từ ngày 12 đến ngày 17 tháng chạp năm Đinh Vị, 86.610 tên địch do tên bại tướng Vương Thông chỉ huy đã lần lượt theo các đường thủy bộ rút ra khỏi đất nước ta. Lê Lợi cử Nguyễn Trãi viết “Bình ngô đại cáo”, công bố cho toàn thể nhân dân biết rằng sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc đã hoàn toàn thắng lợi, mở ra một thời kỳ độc lập, thái bình mới:

“Xã tắc từ nay bền vững,
Sơn hà bởi đó đẹp tươi.
Một áng kiền khôn, bĩ rồi lại thái;
Đôi vầng nhật nguyệt, hối mà lại minh.
Để mở nền muôn thuở thái bình,
Để rửa nỗi nghìn thu hổ thẹn”
.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Moderator
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #35 vào lúc: 21 Tháng Năm, 2017, 04:03:20 pm »

D – NHỮNG BÀI HỌC CHỦ YẾU VỀ CHIẾN LƯỢC – CHIẾN THUẬT TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG QUÂN MINH

1. Vấn đề chiến lược

Cuộc khởi nghĩa Lam-sơn là giai đoạn đấu tranh cao nhất và cũng là giai đoạn cuối cùng của toàn bộ cuộc đấu tranh lâu dài nhưng rất vĩ đại của nhân dân ta trong 20 năm dưới quyền thống trị của nhà Minh.

Cuộc khởi nghĩa đó là một cuộc chiến tranh yêu nước để giải phóng dân tộc, được toàn thể nhân dân nhiệt liệt ủng hộ và hưởng ứng, là điều kiện căn bản quyết định thăng lợi cuối cùng của cuộc khởi nghĩa.

“Rút lại, thắng hung tàn bằng đại nghĩa;
Thay tàn bạo lấy chí nhân”.

Câu tổng kết đó trong “Bình ngô đại cáo” đã nói lên tính chất chính nghĩa, tính chất nhân dân và tính chất tất thắng của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.

Sức mạnh vô địch của cuộc khởi nghĩa là sự đoàn kết nhất trí trong nội bộ quân đội, giữa quân đội với nhân dân, giữa dân tộc nhiều người với các dân tộc ít người. sự đoàn kết nhất trí đó cũng chính là nguồn gốc sức mạnh của quân đội – là nguồn gốc của thắng lợi. Trong một bức thư gửi Vương Thông, Nguyễn Trãi đã lấy danh nghĩa của Lê Lợi viết rằng “Quân của tôi chỉ có vài chục vạn, nhưng hết thảy cùng một lòng”.

Khi phân tích những nguyên nhân thất bại của quân Minh, Nguyễn Trãi viết:

- Nay tính hộ các ông, xét có 6 điều phải thua:

- Nước lụt chảy tràn, tường cao đổ lở, lương cỏ thiếu thốn, ngựa chết quân ốm. Đó là điều phải thua thứ nhất.

- Xưa Đường Thái bắt Kiến Đức mà Thế Sung ra hàng. Nay những nơi quan ải hiểm yếu, đều có quân và voi đồn giữ, nếu viện binh đến, thế tất phải thua, viện binh đã thua, bọn các ông tất bị bắt. Đó là điều phải thua thứ hai.

- Ở nước các ông, quân mạnh, ngựa tốt nay đóng cả ở miền Bắc để phòng bị quân Nguyên, không rỗi nhìn đến miền Nam. Đó là điều phải thua thứ ba.

- Động dung can qua, hàng năm đánh dẹp, dân sống không vui, nhao nhao thất vọng. Đó là điều phải thua thứ tư.

- Gian thần chuyên chính, chúa yếu giữ ngôi, xương thịt hại nhau, gia đình sinh biến. Đó là điều phải thua thứ năm.

- Nay ta dấy nghĩa binh, trên dưới cùng lòng, anh hùng hết sức, quân sĩ càng luyện, khí giới càng tinh, vừa cày ruộng lại vừa đánh giặc; quân sĩ trong thành thì đều mỏi mệt khốn khổ, tự chuốc lấy bại vong. Đó là điều phải thua thứ sáu” (Quân trung từ mệnh tập, thư số XXXV: Lại thư dụ Vương Thông trang 49 – 50).

Tuy bức thư đó gửi cho Vương Thông giữa lúc quân ta đang bao vây chúng và trong giai đoạn phản công, nhưng nó cũng là bản tổng kết chung những nguyên nhân thất bại của quân xâm lược nhà Minh.

Trong cuộc khởi nghĩa này, những quy luật của chiến tranh giải phóng của một dân tộc nhỏ yếu bị ngoại bang hùng cường thống trị đã được thể hiện một cách rất rõ rệt. Nghĩa quân đã từ không đến có, từ yếu đến mạnh, để rồi dần dần đè bẹp được lực lượng của địch. Từ trên dưới 500 quân chiến đấu thời kỳ đầu cuộc khởi nghĩa, phải chống chọi với hàng chục vạn quân chính quy đang trên đà chiến thắng của quân Minh, nghĩa quân vừa đánh vừa lớn mạnh, càng đánh càng lớn mạnh, đã đi từ thắng lợi nhỏ đến thắng lợi lớn và cuối cùng đã phát triển thành một quân đội chính quy mạnh me với 35 vạn người, trong từng trận chiến đấu có đủ sức tiêu diệt hàng vạn, hàng chục vạn quân địch. Nếu không phải là một quân đội có tính chất nhân dân, không thể giành được những thắng lợi to lớn rực rỡ và oanh liệt như vậy được. Mặt khác, do được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân, nên Lê Lợi mới tiến hành được chiến thuật du kích, vận dụng có kết quả lối đánh phục kích, bao vây, thực hiện được tiêu thổ kháng chiến, dẫn cuộc chiến tranh lâu dài đến thắng lợi cuối cùng.

Sự lãnh đạo kiên quyết và tài tình của Bộ tham mưu nghĩa quân mà linh hồn là Lê Lợi và Nguyễn Trãi cũng là một yếu tố rất quan trọng quyết định thắng lợi của cuộc khởi nghĩa. Sự lãnh đạo đó đã thể hiện trong những tư tưởng chỉ đạo chiến lược – chiến thuật đúng đắn, phù hợp với quy luật của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.

Đường lối chiến lược của nghĩa quân là tiến hành một cuộc hiến tranh nhân dân lâu dài, đó là chiến lược căn bản và là quy luật phát triển khách quan của nghĩa quân. Để thực hiện phương châm chiến lược này, nghĩa quân đã dựa vào nhân dân để chiến đấu “vừa cày ruộng và đánh giặc” đặc biệt biết kết hợp khéo léo giữa tấn công và hòa hoãn, giữa hành động ngoại giao và hành động quân sự, giữa thế công về quân sự và thế công về chính trị và cuối cùng đã đuổi được quân địch ra khỏi bờ coi. Ánh lửa nhóm lên từ Lam-sơn đã đốt cháy toàn bộ quân xâm lược trên cả đất nước ta.

Bây giờ chúng ta nghiên cứu một số vấn đề chủ yếu về chiến lược trên cả đất nước ta trong cuộc kháng chiến chống quân Minh gồm:

- Vây quét và chống vây quét

- Xây dựng căn cứ địa

- Địch vận: một nhiệm vụ chiến lược

- Từ du kích chiến phát triển lên chính quy chiến

- Chọn phương hướng quyết chiến.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Moderator
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #36 vào lúc: 21 Tháng Năm, 2017, 04:04:03 pm »

1. Vây quét và chống vây quét

Một trong những đặc điểm của cuộc kháng chiến lâu dài lần này là cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi nổ ra trong điều kiện quân Minh đã xâm chiếm và thôn tính xong nước ta, một bộ máy thống trị tàn bạo đã được thiết lập và quân xâm lược đã rải ra chiếm đóng. Sự chênh lệnh về lực lượng giữa quân xâm lược chiếm đóng và nghĩa quân vô cùng to lớn, đến nỗi không thể dùng phép so sánh thông thường bừng tỷ lệ được nữa; so với con “voi” nhà Minh thì quân ta quả chỉ là một con “châu chấu”. Đặc điểm này nói lên một mặt cuộc kháng chiến của ta phải rất lâu dài và rất quyết liệt, mặt khác nghĩa quân không có con đường nào khác, ngoài con đường chiến tranh du kích.

Về thực tế, nghĩa quân Lam-sơn trong thời gian khá dài chỉ là một đội quân du kích và quân Minh không thể để một đội du kích như thế tồn tại và phát triển, cho nên chúng đã sử dụng binh lực đến tấn công tiêu diệt; ngược lại, nghĩa quân càng tồn tại và phát triển cho nên phải phòng ngự và kiên quyết đánh tan các cuộc tấn công của địch. Điều đó, sự thật đã chứng minh hết sức rõ ràng và đầy đủ.

Nghĩa quân vừa thành lập được một tuần lễ thì Mã Kỳ đã kéo quân tới vây quét. Chỉ riêng trong tháng 2 năm 1418 – địch đã 3 lần tấn công vào căn cứ, hòng vây quét tiêu diệt đội du kích nhỏ bé của nghĩa quân nhưng đều bị nghĩa quân phòng ngự đánh tan. Địch bị thất bại lần này, lại tổ chức vây quét lần khác, quy mô vây quét lần này nhỏ thì quy mô vây quét lần sau lại lớn hơn. Ngược lại, ta phòng ngự là thắng lợi, chống vây quét có thành công, song cũng có khi bị tổn thất, thậm chí có lúc bị tổn thất rất nặng, nhưng lực lượng vẫn bảo toàn được và vẫn phát triển lên. Nói chung, nghĩa quân đã thành công trong việc chống vây quét.

Hiện tượng vây quét và chống vây quét đó lặp đi lặp lại rong một thời gian dài, cho đến tháng 12 năm 1421 thì cuộc vây quét và chống vây quét đã đạt đến quy mô rất lớn: địch đã tập trung đến 10 vạn quân để bao vây nghĩa quân, nhưng nghĩa quân đã anh dũng phá tan. Cho đến khi địch không thể tiêu diệt nổi nghĩa quân trái lại còn bị nghĩa quân chống vây quét thắng lợi gây cho chúng nhiều thiệt hại, quân sĩ mệt mỏi, chán nản và sức chiến đấu bị suy yếu, trong khi đó nghĩa quân càng đánh càng thắng, càng hăng, tinh thần chiến đấu càng cao, đã tiêu diệt được nhiều địch để bảo tồn mình thì là lúc mà lực lượng so sánh giữa hai bên đã có những biến đổi quan trọng, hiện tượng địch vây quét và ta chống vây quét mới dần dần giảm đi và chấm dứt, dần dần đưa đến một sự biến đổi về chiến lược, tức là nghĩa quân chuyển sang tấn công, quân Minh chuyển sang phòng ngự; từ bị vây quét nghĩa quân chuyển sáng bao vây quân địch; từ đi vây quét, quân Minh chuyển sang bị bao vây. Cho nên, vây quét và chống vây quét là một quy luật trong chiến tranh giải phóng dân tộc, trong điều kiện nghĩa quân chỉ có những đội du kích nhỏ yếu phải chống với địch có quân đội chính quy hùng mạnh.

Nhờ nhận thức được quy luật nói trên, bộ tham mưu nghĩa quân đã đặt công tác chống vây quét là một trong những công tác trung tâm; do đó, thắng lợi to lớn của nghĩa quân trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến, trước nhất và chủ yếu nhất là thắng lợi của chống vây quét, đó là một thắng lợi có tinh chất chiến lược. Ngược lại chủ trương vây quét của quân Minh bị thất bại, đó là một hất bại có tính chất chiến lược.

Để đạt được những thắng lợi có tính chất chiến lược đó, bộ tham mưu nghĩa quân đã vận dụng những phương chậm cụ thể nào? Chúng ta nhận thấy rằng nghĩa quân đã không chủ trương cố thủ ở một căn cứ nào mà luôn luôn lưu động, di chuyển, đánh được thì đánh không đánh được thì rút, đó là một phương pháp phòng ngự tích cực, một phương pháp rất hiệu quả để thực hiện phương châm đánh lâu dài.

Nghĩa quân đã từ Lam-sơn rút về Lạc-thủy, rồi rút lên núi Chí-linh, xong lại rút về Lam-sơn và cuối cùng di chuyển hẳn vào Nghệ-an. Về mặt phương pháp tác chiến, để phá vây quét, nghĩa quân đã áp dụng phương pháp tấn công để phòng ngự, và dùng hành động tập kích. Khi còn thiếu kinh nghiệm hoặc khi bị bắt buộc, nghĩa quân thường bố trí phục kích ngay trong khu căn cứ của mình chờ địch tiến vào mới đánh; tất nhiên, trong nhiều lần, những trận phục kích như thế đã thắng lợi. Về sau, nghĩa quân đã thay đổi phương châm dùng tấn công để phòng ngự; hay nói một cách khác đã rút khỏi căn cứ của mình mà tập kích vào địch ngay khi chúng chưa tiến đến căn cứ. Phương châm phòng ngự rất tích cực đó, phương châm “phòng ngự thế công” đó đã mang lại nhiều thắng lợi quan trọng. Thí dụ: những trận tập kích vào đồn Nghệ-an, Quan-du, vào doanh trại của địa quân địch khi chúng tập trung 10 ạn quân tiến về Ba-lẫm, v.v. Một phương pháp nữa mà nghĩa quân đã áp dụng là phục kích địch ở ngoài căn cứ của mình; do đó, buộc địch phải bước vào chiến đấu sớm ở địa hình do mình lựa chọn, phát huy được yếu tố bất ngờ và giành được thế chủ động.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Moderator
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #37 vào lúc: 21 Tháng Năm, 2017, 04:04:43 pm »

2. Xây dựng căn cứ địa

Vấn đề xây dựng căn cứ địa có liên quan trực tiếp đến vấn đề vây quét và chống vây quét. Từ nhận thức “vây quét và chống vây quét” là một quy luật của chiến tranh du kích, các nhà lãnh đạo nghĩa quân đã nhận thức được tầm quan trọng và tính tất yếu của vấn đề xây dựng căn cứ địa làm căn cứ chiến lược, dựa vào đó mà chấp hành nhiệm vụ chiến lược đạt tới mục đích bảo toàn và phát triển lực lượng của nghĩa quân tiêu diệt quân Minh.

Do kinh nghiệm bản thân, bộ tham mưu nghĩa quân đã sớm nhận ra rằng những căn cứ đã xây dựng ở vùng thượng du Thanh-hóa và Lam-sơn đã không đáp ứng được nhu cầu của nhiệm vụ chiến lược. Lúc đầu, dựa vào địa thế hiểm trở của miền núi là chủ yếu, mặc dù ở đây được nhân dân địa phương thuộc dân tộc Mường hết sức giúp đỡ, nhưng địa bàn hoạt động hẹp, điều kiện kinh tế khó khăn, việc giải quyết vấn đề cung cấp lương thực, khí giới, quân nhu đã hạn chế việc phát triển lực lượng; cho nên nghĩa quân rút xuống đồng bằng ở vùng Lam-sơn, ở đây việc cung cấp lương thực vũ khí… có thể giải quyết được tốt, địa thế cũng hiểm trở, nhưng lại có một vấn đề khác đặt ra phải giải quyết: Thanh-hóa lúc đó còn là một khu vực mà lực lượng của địch mạnh, điều đó khiến cho căn cứ luôn luôn ở thế bị uy hiếp, nên việc vây quét của địch làm cho quân ta có thể được rèn luyện nhiều trong thực tế chiến đấu, thì mặt khác, do thế bị uy hiếp thường xuyên, trực tiếp đó, cộng với việc vây quét thường xuyên của địch cũng đồng thời làm cho việc giải quyết các vấn đề kinh tế để kháng chiến lâu dài sẽ bị ảnh hưởng nhiều, hạn chế đến việc phát triển lực lượng; cho nên, không phải ngẫu nhiên mà bộ tham mưu nghĩa quân lại quyết định chuyển hướng chiến lược xuống phía Nam, tiến quân vào Nghệ-an để xây dựng căn cứ địa. Trong hội nghị quan trọng ngày 20 tháng 10 năm 1424, nhà chiến lược tài giỏi Nguyễn Chích đã đưa ra kế hoạch mới, sau khi đã phân tích một cách rất chính xác như sau:

- Nghệ-an có vị trí chiến lược quan trọng. Chiếm được Nghệ-an sẽ cắt địch ra thành hai vùng, khiên cho chúng từ thế mạnh về bố trí chiến lược sẽ trở thành thế yếu.

- Nghệ-an đất rộng lại giàu, nhân dân có truyền thống chiến đâu anh dũng. Phải dựa vào nhân, tài, vật lực ở đây để phát triển lực lượng kháng chiến lâu dài.

- Địch ở vùng này yếu so với các nơi khác.

Sau khi phân tích như vậy, nhà anh hùng nông dân đó đã đến một đề nghị tối quan trọng, thể hiện rõ tầm mắt chiến lược nhìn xa thấy rộng: trước mắt, chuyển xuống phương Nam để xây dựng căn cứ địa, sau này sẽ từ đó tiến lên phương Bắc, giải phóng cả nước.

Bộ tham mưu nghĩa quân đã tỏ ra hết sức sáng suốt trong việc chấp nhận kế hoạch chiến lược đó. Và tình hình tiếp sau đã diễn ra đúng như dự đoán, chỉ trong một thời gian tương đối ngắn, cả một vùng rộng lớn đã được giải phóng, không những ở Nghệ-an mà cả Tân-bình và Thuận-hóa nữa, hàng triệu nhân dân được thoát khỏi ách thống trị của nhà Minh; lực lượng của nghĩa quân đã phát triển nhảy vọt từ vìa nghìn người trước đây đã tiến đến một đội quân khá hùng mạnh gồm hàng vạn người. Chính do biết kịp thời chuyển hướng chiến lược như vậy, cho nên cũng chỉ trong một thời gian tương đối ngắn ấy, nghĩa quân đã giành lại được thế chủ động chiến lược cục bộ, đưa chiến tranh cục bộ chuyển sang hình thái mới: địch từ tấn công đã lui về cố thủ trong hai thành cô lập (Diễn-châu, Nghệ-an), còn ta thì từ phòng ngự đã chuyển sang tấn công, bao vây địch.

Nghiên cứu vấn đề xây dựng căn cứ địa của nghĩa quân Lam-sơn, chúng ta có thể rút ra những bài học như sau:

- Điều kiện trước nhất và quyết định nhất để xây dựng căn cứ địa là phải được nhân dân đồng tình ủng hộ, đồng thời phải có một dân số tương ứng.

- Thứ hai, phải có địa thể hiểm yếu, có vị trí cơ động, quan trọng. Thành công của nghĩa quân đã chứng minh rằng, không những chỉ có thể xây dựng được căn cứ địa ở miền rừng núi mà còn hoàn toàn có thể xây dựng được căn cứ địa vững chắc, lớn mạnh cả ở miền đồng bằng.

- Thứ ba, phải có điều kiện kinh tế, nhân, tài, vật lực dồi dào là nguồn dự trữ vật chất cho cuộc kháng chiến lâu dài.

- Thứ tư, phải có điều kiện địch tình thuận lợi cho ta, nơi địch yếu, chính là nơi ta có thể phát triển lực lượng.

- Ngoài ra, còn cần thiết phải có một điều kiện căn bản nữa, đó là lực lượng vũ trang.

Thật vậy, nếu không có nghĩa quân thì dù cho Nghệ-an có đầy đủ những điều kiện trên cũng không thể nào trở thành căn cứ địa được; trong điều kiện của chiến tranh, sự tồn tại và phát triển của lực lượng vũ trang phải trở thành một điều kiện căn bản để xây dựng và mở rộng căn cứ địa; có lực lượng vũ trang vẫn chưa đủ mà lực lượng vũ trang ấy còn cần phải luôn luôn chiến thắng tức là không ngừng tiêu hao và tiêu diệt địch, đồng thời cũng không ngừng phát triển lực lượng mình, có như vậy căn cứ địa mới có thể được giữ vững và mở rộng.

Việc hạ thành Trà-long, chiến thắng địch ở Khả-lưu – Bồ-ải, ở Đỗ-gia – Diễn-châu, ở Tân-bình – Thuận-hóa đã hoàn thành được nhiệm vụ chiến lược lúc đó chính là nhờ đã tiêu diệt được một bộ phận quan trọng sinh lực địch, thu hẹp được phạm vi chiếm đóng của chúng, đồng thời phát triển được lực lượng của ta, mở rộng căn cứ địa, biến Nghệ-an – Tân-bình – Thuận-hóa thành một căn cứ hậu phương vững mạnh để chuyển sang giai đoạn chiến lược tiếp sau: tấn công ra Bắc, tiêu diệt chủ lực của địch.

Nghĩa quân đã thành công lớn trong vấn đề xây dựng căn cứ địa, nhờ có thành công lớn có tính chất quyết định về chiến lược đó nên đã tiến hành được cuộc chiến trnah lâu dài và quyết liệt chống quân Minh.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Moderator
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #38 vào lúc: 21 Tháng Năm, 2017, 04:06:14 pm »

3. Địch vận: một nhiệm vụ chiến lược

Một trong những quan điểm căn bản của nghĩa quân Lam-sơn làm cơ sở cho đường lối quân sự là “Bậc nhân giả lấy yếu trị mạnh, bậc nghĩa giả lấy ít địch nhiều”, và “Đánh vào lòng người”. Xuất phát từ quan điểm “lấy nhân nghĩa, đánh vào lòng người”, nghĩa quân đã đưa công tác vận động, thuyết phục quân địch lên thành một nhiệm vụ chiến lược. Tầm quan trọng của nhiệm vụ chiến lược đó đặt được ngang hàng với tất cả mọi nhiệm vụ chiến lược tối quan trọng khác. Đó cũng là một nét độc đáo về chiến lược trong lịch sử chống ngoại xâm của ta từ thời kỳ cận đại trở về trước. Nghĩa quân Lam-sơn đã đánh địch trên hai mặt: đánh tiêu diệt và làm tan rã tinh thần, hai mặt đó quan trọng như nhau, phối hợp mật thiết với nhau, bổ sung lẫn cho nhau và không tách rời nhau.

Công tác địch vận đã được tiến hành từ đầu đến cuối cuộc kháng chiến, từ lúc lực lượng ta còn nhỏ yếu đến khi đã lớn mạnh, lúc bình thường, cũng như khi chiến đấu. Cho nên công tác địch vận không phải là một thủ đoạn về sách lược hay một thủ đoạn trong tác chiến.

Trong di sản văn học mà Nguyễn Trãi để lại, những bức thư gửi cho các tướng lĩnh quân Minh trong “Quân Trung từ mệnh tập” là một tập tài liệu vô cùng quý giá về mọi mặt, biểu hiện một cách khá tập trung những tư tưởng chính trị, chiến lược và chiến thuật của Nguyễn Trãi – Lê Lợi và của nghĩa quân, đặc biệt nổi bật lên rất rõ nét tư tưởng chiến lược “đánh vào lòng người” của công tác địch vận. Nghiên cứu kỹ những bức thư đó, chúng ta có thể thấy rằng Nguyễn Trãi đã dùng ngòi bút tuyệt vời của mình để phục vụ đắc lực cho mục đích chính trị của của chiến tranh cũng như mục đích của chiến lược – chiến thuật, khiên cho quân ta thời đó đã giành được nhiều thắng lợi vô cùng to lớn, mà tốn rất ít xương máu. Nhà sử học Phan huy Chú đã đánh giá những bức thư đó có sức mạnh như 10 vạn quân; nó đã được thực tế chứng minh, đã thể hiện sức mạnh vô địch của chính nghĩa tất thắng và lòng tin tưởng không gì lay chuyển nổi của quân đội ta vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến; đồng thời nó còn là một mẫu mực trong việc diễn đạt những nội dung tư tưởng sâu sắc tràn đầy tính chiến đấu bằng một hình thức văn chương lành mạnh có sức hấp dẫn mãnh liệt và tình cảm thiết tha đi thẳng vào tim gan con người; nó còn có sức thuyết phục bằng lý trí trong những tình huống khác nhau theo những nhu cầu khác với những đối tượng khác nhau.

Trước nhất, qua ngòi bút sắc bén của Nguyễn Trãi đã mô tả ro nét tính chất chính nghĩa của cuộc chiến tranh giải phóng của nghĩa quân và nhân dân ta và tính chất phi nghĩa của cuộc chiến tranh xâm lược của quân Minh, nói lên những điều tất thắng của ta và tất bại của địch. Trong bức thư gửi Vương Thông, Nguyễn Trãi đã phân tích sâu sắc điều tất bại của quân Minh là một thí dụ điển hình. Trong bức thư gửi các tướng sĩ địch trong thành Bắc-giang, Nguyễn Trãi đã phân tích: “Các ngươi nếu cho là thành cao hào sâu, lương thực lại nhiều thì thử xem như các xứ Thanh-hóa, Nghệ-an, Diễn-châu, thành không phải là không cao, hào không phải là không sâu, lương thực không phải là không nhiều, quân không phải là không mạnh; lại như Thái đô đốc(*) thì chức cũng to, binh cũng giỏi, trí cũng sáng, mà còn theo thời thông biến để bảo toàn tính mạng cho mấy vạn con người. Thế mà các ngươi lại còn muốn cố chấp lời bàn suông, để mang tai vạ thực, há chẳng lầm lắm ư?” (Quân trung từ mệnh tập, thư số XXXI: Thư dụ thành Bắc-giang trang 43). Rồi Nguyễn Trái chỉ ra cho địch con đường thoát khỏi thua trận: “Các ngươi nếu biết kéo quân ra thành, cùng ta hòa hảo thân tình, thì ta coi các ngươi nghĩa như anh em ruột thịt, nào chỉ những bảo toàn tính mạng vợ con mà thôi đâu?”. Biết rằng địch lo cho số phận của chúng nếu đầu hàng quân ta, Nguyễn Trãi thuyết phục thêm bằng sách tuyên truyền chính sách của nghĩa quân đối với tù hàng binh: “Quân ta đã xét những việc đắc thất của cổ nhân như Bạch Khởi nước Tần, Hạng Vũ nước Sở, giết kẻ đầu hàng, trái lời đã ước, chúng ta quyết không làm như thế đâu”. Đồng thời, cũng nêu lên hậu quả tất yếu sẽ chờ đợi chúng, nếu ngoan cố chống cự: “Nếu không thế, tùy ý các ngươi. Trong khoảng sớm tối, sẽ khắc thấy nhau. Đến lúc bấy giờ hối cũng không kịp”. Vừa biết phân tích những điều tất bại của địch, vừa đi vào tình hình cụ thể từng nơi, từng lúc để vận động, thuyết phục lại vừa chỉ cho địch con đường thoát khỏi bế tắc, đem chính sách ra để thuyết phục, đem kết quả của việc thực hiện chính sách đó ở những nơi khác ra để chứng minh, với lời lẽ vừa ôn hòa vừa kiên quyết, công tác địch vận của nghĩa quân Lam-sơn đã đạt đến mức tài giỏi, toàn diện, có lý có tình, cụ thể và sâu sắc.

Nghĩa quân còn thấy trong quân Minh lúc đó có cả ngụy quân cho nên khi vận động thuyết phục, lý lẽ đưa ra cũng phải khác với quân Minh, chính sách vận dụng phải có những net riêng biệt. Trong bức thư gửi cho tướng sĩ ngụy quân ở thành Điêu-diêu, Nguyễn Trãi viết: “Trước nhân họ Hồ thất đức, giặc Ngô lăng loàn, các ngươi có người thì bị hãm trong chính quyền của địch, có người buộc phải làm quan với địch; đó là thế không đừng được, đâu phải do bản tâm các ngươi”… “Bọn các ngươi nếu biết rửa lòng đổi dạ, bỏ nghịch theo thuận; hoặc ở làm nội ứng, hoặc ra đầu hàng, thì không những rửa nỗi hổ thẹn ngày trước, mà còn được phần soi xét về sau. Ta không nói lời rồi lại ăn lời đâu. Nếu các ngươi còn tham tiếc ngụy chức, chống lại vương sư, thì khi thành bị hãm, tội ác các ngươi còn nặng hơn giặc Ngô đấy”.

Như trên đã trình bày, địch vận đã được đặt thành một nhiệm vụ chiến lược. Thành công về công tác địch vận của nghĩa quân vô cùng to lớn, đặc biệt là trong thời kỳ bộ tham mưu nghĩa quân quyết định hạ các thành lẻ để triệt để cô lập Đông-quan trước khi viện binh địch tiến sang ta. Lần lượt các thành nhỏ, lớn đã kéo quân ra hàng: Nghệ-an, Diễn-châu, Điêu-diêu, Thị-cầu, Tam-giang, cho đến cuối cùng thì gần 10 vạn quân còn lại của Vương Thông cũng ra hàng nốt. Trên bia Vĩnh-lăng, Nguyễn Trãi còn ghi lại chiến công vĩ đại của công tác “đánh vào lòng người” đại ý như sau: “Số quân giặc bị bắt và hàng ở các thành, gồm hơn 10 vạn tên, tất thảy đều thả cho về nước; đường thủy cấp cho 500 chiếc thuyền, đường bộ cấp lương thực và lừa ngựa. Nhà vua răm cấm quân sĩ không được mảy may đụng chạm đến chúng”.


(*) Thái đô đốc: Thái Phúc, tướng chỉ huy thành Nghệ-an đã đầu hàng nghĩa quân.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Moderator
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #39 vào lúc: 21 Tháng Năm, 2017, 04:07:16 pm »

4. Phát triển lên chính quy chiến

Nghĩa quân Lam-sơn ngay từ đầu nhóm lên ngọn lừa khảng chiến lâu dài và quyết liệt đã phải tiến hành một cuộc chiến tranh du kích để tồn tại và phát triển, trước tình hình so sánh tương quan lực lượng giữa nghĩa quân và quân Minh có sự chênh lệch quá lớn, trước tình hình địch đã chiếm đóng toàn bộ nước ta mà nghĩa quân chỉ có một căn cứ nhỏ bé, trước tình hình mà hình thức chiến tranh trong thời kỳ đầu là vây quét và chống vây quét thì chẳng những không đánh lâu dài không thể thắng lợi nổi mà không đánh du kích cũng không thể tồn tại được. Cho nên phải bắt đầu bằng du kích chiến, đó là một tất yếu lịch sử.

Nhưng quá trình của chiến tranh giải phóng, cũng tức là quá trình của sự chuyển biến lực lượng, nghĩa quân từ yếu đến mạnh, quân Minh từ mạnh đến yếu; là quá trình tích lũy những tiêu hao và tiêu diệt nhỏ về chiến đấu để đạt đến tiêu hao về chiến lược, tích lũy những tiêu diệt lớn để giải phóng toàn bộ đất nước. Xét về mặt này thì giải quyết kết cục của chiến tranh không thể chủ yếu dựa vào du kích chiến, mà chủ yếu phải dựa vào chính quy chiến. Đội du kích của nghĩa quân lúc đầu yếu cả về số lượng lẫn chất lượng, nhưng trải qua rèn luyện trong thực tế của chiến tranh lâu dài và ác liệt lại được sự giúp đỡ tận tình của nhân dân, nó đã nhanh chóng phát triển về số lượng và nâng cao về chất lượng, vì vậy không thể không xây dựng thành binh đoàn chính quy và tác chiến theo phương pháp chính quy chiến, đó cũng là một tất yếu lịch sử.

Toàn bộ cuộc kháng chiến chống quân Minh của nghĩa quân Lam-sơn đã chứng minh quá trình phát triển đó, đồng thời chứng minh cả quy luật đó của chiến tranhgiải phóng trong những điều kiện đặc biệt: chỉ có phát triển lên chính quy chiến, và chỉ có phát triển lên chính quy chiến mới có thể giải quyết được vận mệnh của chiến tranh.

Thiên tài của những nhà lãnh đạo nghĩa quân là đã vận dụng quy luật đó một cách tài tình và đã giải quyết thành công một vấn đề quan trọng nữa là nên dùng vận động chiến hay nên dùng trận địa chiến? Tất nhiên, ở thế kỷ 15, không những chỉ có trận địa chiến mà ngay đến vận động chiến và cả du kích chiến nữa không thể giống như trận địa chiến, vận động chiến và du kích chiến vận dụng trong những điều kiện mới mẻ ở thế kỷ 19 – 20 được.

Xét về các mặt binh khí, khí tài, kỹ thuật, kỹ năng chiến đấu của chiến binh, phương pháp tác chiến, quy mô tổ chức và thực hành chiến đấu, v.v. thì sự khác nhau giữa xưa và nay đều rất rõ ràng; nhưng tính chất của du kích chiến, vận động chiến và trận địa chiến thì xưa và nay vẫn là một.

Sự khác nhau căn bản của hình thức tác chiến giữa quân đội nhà Hồ và nhà Lê là ở chỗ nhà Hồ đã áo dụng trận địa chiến (phòng tuyến kiên cố, thành lũy) là chủ yếu, còn nghĩa quân Lam-sơn đã áp dụng vận động chiến là chủ yếu. Đó là không nói đến một sự khác nhau căn bản khác, tức là nhà Hồ không áp dụng du kích chiến. Cho nên, một trong những nguyên nhân thất bại của quân đội nhà Hồ là sự sai lầm trong việc vận dụng hình thức tác chiến lấy trận địa chiến là chủ yếu, một trong những nguyên nhân thành công của nghĩa quân Lam-sơn là sự vận dụng đúng đắn hình thức tác chiến lấy vận động chiến là chủ yếu.

Thực tế đã chứng minh rằng, từ các trận Khả-lưu, Bồ-ải đến trận tiêu diệt viện binh địch ở Chi-lăng, quy mô của vận động chiến đã được nâng cao rất nhiều và tính chất tiêu diệt chiến của nó đã xuất hiện rõ rệt.

Tuy vậy, trong khi dựa vào vận động chiến là chủ yếu, nghĩa quân hoàn toàn không cự tuyệt trận địa chiến kể cả trong tấn công cũng như trong phòng ngự. Tùy theo tình hình so sánh lực lượng từng nơi, từng lúc, tùy theo lối bố trí và cách hành binh của địch, tùy theo nhu cầu tác chiến, nghĩa quân còn đánh cả trận địa chiến, kể cả trận địa chiến quy mô lớn. Thí dụ: trận tấn công thành Xương-giiang, trận phòng ngự trên cửa ải Lê-hoa đã mang tính chất của trận địa chiến.

Hơn nữa, trong những điều kiện nhất định, vận động chiến đã chuyển hóa thành trận địa chiến, hoặc trái lại trận địa chiến thành vận động chiến. Như trận vận động truy kích 8 vạn quân của Thôi Tụ - Hoàng Phúc sau đó đã chuyển thành một trận tấn công có tính chất trận địa chiến. Nhưng, nhìn chung, nghĩa quân đã dựa vào vận động chiến là chủ yếu.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM