Tìm hiểu chiến lược - chiến thuật thời Trần - Lê
macbupda:
Tìm hiểu chiến lược - chiến thuật thời Trần - Lê
Nhà xuất bản Quân đội nhân dân
Hà Nội - 1963
Tác giả: Phạm Ngọc Phụng
Người số hóa: macbupda
LỜI NÓI ĐẦU
Trong 1.000 năm lịch sử của nước ta gần đây, trước cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, dân tộc ta cũng đã tiến hành hai cuộc kháng chiến lâu dài, vô cùng gian khổ nhưng cực kỳ anh dũng:
- Thời Trần chống quân Nguyên.
- Thời Lê chống quân Minh.
Khi phân tích nguyên nhân chủ yếu, quyết định của thắng lợi, Hồ Chủ tịch đã dạy rằng: “Ngày xưa, quân thù ở bên cạnh nước ta và rất hùng mạnh, nước ta còn nhỏ, người ít, sức yếu, thế mà chỉ nhờ đoàn kết và hăng hái, tổ tiên ta đã thắng được quân giặc” (Hồ Chí Minh, Tuyển tập, Lời kêu gọi nhân dịp kỷ niệm lần thứ 4 ngày toàn quốc kháng chiến - tháng 12 năm 1950, trang 346). Thật vậy, để chiến thắng những lực lượng vô cùng hùng mạnh của phong kiến phương Bắc thời đó, nhân dân ta đã đoàn kết chặt chẽ, phấn đấu kiên quyết, do đó đã giành được toàn thắng. Đồng thời, cũng chính dựa vào sức mạnh vật chất và tinh thần trong nguồn vô tận của toàn dân đoàn kết, trong tính chất tiến bộ của chiến tranh chính nghĩa, mà tổ tiên ta đã đề ra đường lối chiến lược - chiến thuật đúng đắn, khiến cho lực lượng vũ trang của ta thời đó đã từ thắng lợi nhỏ tiến lên giành thắng lợi lớn, từ thắng lợi cục bộ tiến lên giành thắng lợi toàn bộ, tiêu diệt các đội quân hùng mạnh đương thời, giải phóng toàn bộ đất nước ta.
Ngày nay, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai Ngô đình Diệm đang tiến hành một cuộc chiến tranh xâm lược, chống nhân dân miền Nam Việt Nam, đồng thời âm mưu phát động chiến tranh xâm lược mới, ngăn trở công cuộc lao động hòa bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân miền Bắc nước ta. Quân đội ta ngày đêm luyện tập, nắm vững vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại để bảo vệ đất nước, đã và đang không ngừng học tập những kinh nghiệm vô cùng quý báu của cuộc kháng chiến lâu dài chống bọn thực dân Pháp và can thiệp Mỹ và tham khảo những kinh nghiệm tiên tiến của quân đội các nước anh em, đồng thời ôn lại những bài học quý báu của tổ tiên ta để lại, làm cho kho tàng lý luận quân sự của dân tộc ta càng thêm giàu có, phong phú.
Để hưởng ứng một cách nhiệt tình lời kêu gọi của Đảng, là ôn cũ biết mới và từ mới hiểu cũ, chúng tôi cố gắng sưu tầm và nghiên cứu lịch sử của hai cuộc kháng chiến lâu dài thơi Trần và thời Lê nhằm rút ra những bài học về chiến lược – chiến thuật mà quân đội ta thời đó đã vận dụng.
Cuốn sách này ghi lại những nhận xét của chúng tôi về đường lối chiến lược – chiến thuật đó. Do trình độ mọi mặt rất có hạn và do thiếu nhiều tài liệu để nghiên cứu, cho nên những nhận xét nêu lên còn rất nông cạn, thậm chí rất có thể có những sai lầm. Tuy vậy, chúng tôi vẫn mạnh dạn viết cuốn sách này với lòng chân thành học tập lịch sử và đóng góp phần nào vào công tác nghiên cứu lịch sử chiến tranh của nước ta.
Trong khi viết cuốn sách này, chủ quan chúng tôi có ý định:
- Nêu lên đặc điểm riêng của từng cuộc kháng chiến, đồng thời khái quát lại thành những bài học chung. Những nét chung về chiến lược - chiến thuật đó - chủ yếu là chiến thuật - cũng là những truyền thống vẻ vang của quân đội ta ngày nay.
- Vận dụng những hiểu biết mới ngày nay để nhận thức những vấn đề, những sự kiên của ngày xưa. Do đó thấy rằng sự phát triển về lý luận quân sự hiện đại của nước ta không những chỉ dựa trên cơ ở tổng kết những kinh nghiệm của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ gần đây, tham khảo lý luận quân sự tiên tiến của các nước anh em còn dựa cả vào những kinh nghiệm trong lịch sử chiến đấu trước đây của tổ tiên ta nữa.
Viết cuốn sách này, chúng tôi được sự giúp đỡ, cổ vũ của các đồng chí ở Nhà xuất bản Quân đội nhân dân và của các đồng chí Nguyễn lương Bích, Trần Hà, Nguyễn văn Dị và một số các đồng chí khác.
Nhân dịp này, xin chân thành cảm tạ các đồng chí.
Mong toàn thể các bạn đọc sẽ tích cực giúp đỡ bằng cách cho chúng tôi xin những ý kiến nhận xét.
PHẠM NGỌC PHỤNG
macbupda:
CHƯƠNG MỘT
CHIẾN LƯỢC - CHIẾN THUẬT CỦA QUÂN ĐỘI THỜI TRẦN
TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN LÂU DÀI
CHỐNG QUÂN XÂM LƯỢC NHÀ NGUYÊN
Năm 1225(*), sau khi lật đổ nhà Lý, Trần Cảnh lên ngôi vua, mở đầu triều đại nhà Trần.
Trong lịch sử nước ta, với sự thành lập triều đại nhà Trần, nhà nước phong kiến tập quyền được củng cố mạnh mẽ và phát triển cao độ. Cũng trong thời đại đó, dân tộc ta đã tiến hành một cuộc kháng chiến lâu dàu, gian khổ, trước sau ba lần, trong 31 năm để chiến thắng quân Nguyên hung bạo:
Lần thứ nhất, năm 1258.
Lần thứ hai, năm 1285.
Lần thứ ba, năm 1287.
Trước khi đi vào nghiên cứu những trận chiến đấu chống quân Nguyên, chúng ta hãy nghiên cứu đối tượng tác chiến và tình hình quân đội nhà Trần.
A – ĐỐI TƯỢNG TÁC CHIẾN CỦA QUÂN ĐỘI NHÀ TRẦN
Đối tượng tác chiến của ta dưới thời Trần là quân Nguyên vô cùng hung bạo.
Quân Nguyên là người Thát-đát (Tartares), sống trên các đồng cỏ thuộc nước Cộng hòa nhân dân Mông-cổ ngày nay, từ vùng thượng du sông Hắc-long đến vùng hồ Bai-can. Sau khi đã chinh phục được nhiều bộ lạc ở vùng thảo nguyên này; năm 1206, Thành Cát Tư Hãn (Gengis Khan) lên ngôi hoàng đế, bắt đầu những cuộc xâm lược đại quy mô. Từ Mông-cổ, họ tiến vào Tây-hạ, đánh sang Trung Á, vượt sông Ấn, tiến đến hạ du sông Ti-gơ-rơ (Tigre), xâm chiếm Đông Âu, đánh vào miền Nam nước Nga. Sau đó, con cháu của Thành Cát Tư Hãn xâm lược nước Nga, rồi tiến đánh các nước Đức, Hung, Ba-lan, cho mãi đến nước Ý và cả I-răng nữa. Đó là những cuộc viễn chinh sang phương Tây. Sau này, họ chuyển về phương Đông, đánh chiếm Trung-quốc, Cao-ly (Triều-tiên), đánh Giao-chỉ, Chiêm-thành, rồi vượt biển xuống phương Nam, đến tận Gia-va và các dảo khác của Nam-dương (In-đô-nê-xi-a). Họ đi đến đâu thắng đến đó, mặc dù đã vấp phải cuộc kháng chiến của nhân dân các nước mà họ xâm lược.
Họ tổ chức những đội kỵ binh hủng mạnh, thiện chiến, vừa cưỡi ngựa giỏi vừa bắn giỏi. Cung nỏ và lưỡi gươm của họ đã khiến cho hàng chục triệu người khiếp sợ. Tổ chức và kỷ luật của họ rất chặt chẽ. Họ có biệt tài về cưới ngựa, giỏi vận động, khí thế lại hùng dũng, xông pha. Những kỵ binh Thát-đát được trang bị cung nỏ, giáo, gươm và cuộn thừng. Khi vượt qua sông ngòi, những trang bị đó được đặt vào một cái bọc bằng da, buộc vào đuôi ngựa kéo nổi trên mặt nước. Sau khi chiếm được Trung-quốc, họ học được cách đúc và dùng một loạt súng châm ngòi của người Trung-uốc; cho nên ngoài cung nỏ, gươm đao, họ còn có hỏa khí trợ chiến, vì vậy mà sức chiến đấu của họ càng tăng lên rất nhiều. Trng chiến đấu, chỉ huy các cấp giám sát chặt chẽ và chỉ huy linh hoạt những chiến binh dưới quyền mình, duy trì một kỷ luật chiến đấu thật nghiêm khắc. Những binh đoàn hành động trên các hướng riêng biệt thường có quân số từ 20.000 đến 50.0000 người, đó là một con số rất lớn so với thời đại đó, nó cũng chứng minh tài cầm quân và dùng binh của họ.
Về mặt chiến lược - chiến thuật, quân Nguyên áp dụng lối tấn công chớp nhoáng, bất ngờ, vô cùng nguy hiểm. Họ giỏi giấu quân, giữ bí mật, đồng thời lại rất thạo trinh sát, do thám địch tình. Các cuộc hành binh được bảo đảm che chở rất chu đáo.
Để xâm chiếm một nước nào đó, sau khi đã nắm vững tình hình đối phương, họ tập trung quân đội đầy đủ, sẵn sàng hành động, rồi đưa thư dụ hàng hoặc mượn đường đi qua...; nếu bị cự tuyệt, thì lập tức đoàn kỵ binh thiện chiến, tinh nhuệ, giỏi cơ động của họ nhanh chóng tiến vào phá hủy thành trì, giết hại nhân dân một cách vô cùng tàn bạo.
Chiến thuật của họ là dùng ưu thế tuyệt đối, hành binh xuất quỷ nhập thần, tới không ai biết rút không ai hay, tấn công ồ ạt, dùng hỏa khí yểm hộ, dùng ngựa phi với tốc độ cao nhất, kết hợp giữa tấn công mãnh liệt ở chính diện với vu hồi bao vây, bắn phá, chém giết, đốt phá bừa bãi, gây nên những thiệt hại nặng nề cho đối phương. Nhiều khi, họ giả vờ thua chạy, dụ đối phương đuổi theo vào ổ phục kích của họ, để tiêu diệt gọn.
Trước khi xâm lược nước ta, quân đội nhà Nguyên đã từng bách chiến bách thắng, đã có rất nhiều kinh nghiệm tác chiến trên mọi chiến trường, mọi địa hình, đã từng chiến thắng quân đội các nước Âu – Á hùng mạnh nhất đường thời nên họ rất kiêu căng và chủ quan khinh địch.
Sau khi chiến thắng nhà Tống, quân Nguyên đang lúc sung sức nhất, quân đội của họ được phát triển mạnh mẽ vì được bổ sung bằng người Trung-quốc, được trang bị bằng những hỏa khí mới, cho nên càng hung hăng, nuôi mộng chinh phục nhiều nước khác trong phạm vi thống trị của nhà Nguyên.
Cuộc tiến đánh nước ta nằm trong đường lối xâm lược đó. Mục đích của họ là chiếm cứ nhằm thủ tiêu nền độc lập tự chủ của dân tộc ta, đặt một chế độ cai trị nô dịch hà khắc để vét người, vét của, dùng nước ta làm bàn đạp, làm kho bổ sung người, làm căn cứ hậu phương để tiến công các nước ở phương Nam. Muốn đạt mục đích đí, trước hết phải đánh tan quân đội ta, một quân đội đã từng được thử thách, rèn luyện trong nhiều cuộc chiến đấu chống bọn phong kiến hùng mạnh của phương Bắc, một quân đội kế thừa những truyền thống chiến thắng vẻ vang ở Bạch-đằng, chiến thắng vẻ vang quân Tống dưới thời Tiền Lê và nhà Lý.
Nhưng ba lần quân Nguyên xâm lược nước ta cũng là ba lần thất bại nhục nhã, báo hiệu sự suy vong của nhà Nguyên. Nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của vua tôi nhà Trần, đã đứng dậy vũ trang chống lại kẻ thù xâm lược, ghi lại những chiến công vô cùng vẻ vang của dân tộc ta.
(*) Tất cả những ngày, tháng, năm trong cuốn sách này chúng tôi tuy đã cố gắng chuyển từ âm lịch sang dương lịch nhưng vẫn có thể chưa được thật chính xác.
macbupda:
B – TỔ CHỨC QUÂN ĐỘI NHÀ TRẦN
Nhà Trần rất chú ý chăm lo việc tổ chức củng cố quân đội.
Về tổ chức, lực lượng quân đội nhà Trần gồm có cấm quân và quân các lộ, đó là quân chính quy do nhà nước tổ chức. Cấm quân có nhiệm vụ phòng giữ kinh đô, bảo vệ nhà vua và triều đình. Khi chiến tranh xảy ra, hoặc khi đàn áp nhân dân, cấm quân có thể được điều động đến các nơi cần thiết, phối hợp với quân đóng ở các địa phương. Lộ quân, tức là quân ở các lộ (Lộ: đơn vị hành chính dưới thời Trần. Theo “An-nam chí lược” thì dưới thời Trần, có 14 lộ) có nhiệm vụ phòng giữ các địa phương. Ở những địa điểm quan trọng, hiểm yếu, còn tổ chức những đội quân đặc biệt để phòng thủ.
Ngoài cấm quân và lộ quân, khi chuẩn bị chống quân Nguyên xâm lược lần thứ hai, nhà Trần còn hạ lệnh cho các vương hầu trong tôn thất chiêu mộ binh lính và sắm sửa binh khí. Những đội quân này đều đặt dưới quyền chỉ huy của nhà vua. Nhà sử học Phan huy Chú trong “Lịch triều hiến chương loại chí” chép rằng: “Nhân Tôn, năm 1284 quân Nguyên xâm lược. Vua sai các công hầu và tôn thất đến mộ binh và thống lĩnh binh của mình. Hưng Đạo Vương điều khiển quân các lộ Hải-đông (tức Yên-bang, nay là Quảng-yên), Vân-trà, Ba-điểm (hai nơi này thuộc Hải-dương ngày nay). Các đạo quân họp lại hết thảy. Bọn Hưng Vũ Vương và Hưng Trí Vương cũng đốc xuất 20 vạn quân các xứ Bàng-hà, Na-sầm (“Việt sử thông giám cương mục” chép là Nà-ngạn, sau là huyện Lục-ngạn, Bắc-giang), Trà-hương, Yên-sinh, Long-nhãn (nay là huyện Phương-nhãn, Bắc-giang) đến hội”.
Lịch triều hiến chương loại chí, tập IV, quyển XXXIX Binh chế chí, trang 5 ghi rằng:
Về biên chế, từ năm 1267 trở đi định ra quân ngũ, mỗi quân có ba mươi đô, mỗi đô có tám mươi người.
Trong quân đội có tổ chức bộ binh và kỵ binh. Thủy binh thời Trần đóng một vai trò rất quan trọng. Thủy binh tuyển trong dân thuyền chài, có tài bơi lội khá cao, đã làm nhiều người ngoại quốc phải khâm phục, chiến thuyền tổ chức thành các thủy đội.
Chiến thắng oanh liệt ở Vân-đồn (đảo Vân-hải ngày nay) và ở Bạch-đằng đều do thủy binh quyết định một phần lớn. Vân-đồn là một căn cứ hải quân rất quan trọng, có một đội quân đặc biệt đóng giữ, gọi là Bình hải quân.
Về chế độ tuyển mộ, nhà Trần áp dụng chính sách “ngụ binh ư nông”, nghĩa là lúc bình thì làm ruộng, lúc cần thì gọi nhập ngũ; thời bình tuyển theo yêu cầu, thời chiến thuyển theo số hộ khẩu, gọi tất cả đinh tráng ra lính. Phan huy Chú chép: “Trần Thái Tôn, năm 1239 chọn đinh tráng làm binh, định làm 3 bậc thượng, trung, hạ. Năm 1241, chọn người có sức khỏe, biết võ nghệ sung làm quân thượng đô túc vệ…
Thánh Tôn, năm 1261 tuyển đinh tráng các lộ làm binh, số còn thừa cho sung làm sắc dịch ở các sảnh viện cục và các đội tuyển phong ở các phủ lộ huyện”. (“Lịch triều chiến chương loại chí”, tập IV, Binh chế chí, trang 16). Chế độ tuyển binh này là một ưu điểm lớn thời đó: cho nên “Các quân cấm vệ và các lộ, đại ước không đầy 10 vạn, năm 1281, điều động được số quân nhiều như thế là vì trong lúc có việc cứ chiểu số lấy hết những đinh trạng”… (sách dẫn trên, trang 5) và “Đại để lúc vô sự thì phục binh ở nơi thuận tiện, khi có nạn thì hết sức chống cự. Thế là thời Trần nhân dân ai cũng là binh nên, mới phá được giặc dữ, làm cho thế nước được mạnh” (sách dẫn trên, trang 6).
Về trang bị có: cung nỏ, xe xung trận, mìn, thủy lôi, hỏa mù; các loại binh khí kỹ thuật để công thành như: móc sắt, câu liêm, cầu vượt hào, phao bơi cá nhân làm bằng da dê khung gỗ, cầu phao, các loại thang; các binh khí hòa công như: tên lửa, thạch lựu, xe khói lửa…
Quân đội nhà Trần có trình độ kỹ thuật chiến đấu khá cao. Việc luyện quân làm rất tích cực. Các chiến binh đều thông thạo sử dụng binh khí có trong tay: các đơn vị đều luyện tập ban đêm và trên các loại địa hình khác nhau, nhất là ở vùng sông ngòi. Trong những năm chuẩn bị kháng chiến, đã có những cuộc diễn tập lớn, như cuộc thao diễn thủy bộ năm 1283 và cuộc đại duyệt binh năm 1284.
Vấn đề kỷ luật cũng được chú ý nhiều. Trong quân lễ có nêu lên nhiều vấn đề về kỷ luật nghiêm minh; trong chiến đấu phải giữ vững đội ngũ, trong mọi tình huống yêu cầu phải có tinh thần yểm hộ, cứu ứng lẫn nhau, tướng phải có uy tín, thưởng phạt nhiêm minh, quân nghiêm hiệu lệnh…
Chỉ huy quân đội, từ cấp quân trở lên đều là người tôn thất họ Trần. Các chức quan võ quan có đô nguyên súy, phó nguyên súy, tiết độ sứ, phó tiết độ, đại tướng quân, phó tướng quân, cao hơn nữa là phiêu kỵ thượng tướng quân. Chỉ huy ở các địa phương có kinh lược, phòng ngự, sát thủ ngự.
Các tướng chỉ huy tôn thất đều phải qua học tập quân sự ở giảng võ đường. Trần quốc Tuấn đã soạn ra bộ “Binh thư yếu lược” để huấn luyện cho tướng sĩ. Học tập binh pháp là nhiệm vụ bắt buộc cho mọi tướng sĩ. Bộ “Binh thư yếu lược” này gồm 33 mục, là một bộ binh pháp rất có giá trị, nói nhiều về kinh nghiệm, những quy luật về tổ chức và thực hành các phương thức tác chiến trên các loại địa hình.
Trong cuộc hội quân lớn năm 1284 ở Vạn-kiếp để chuẩn bị chống quân Ngyên, có đến 20 vạn quân dưới quyền thống lĩnh của Trần quốc Tuấn. Đó là một quân đội có tổ chức chặt chẽ, có kỷ luật nghiêm minh và có sức chiến đấu mạnh mẽ, tuy số lượng không phải lớn lắm, nhất là so với quân Nguyên. Trần quốc Tuấn đã nói: “Quân số cốt phải tinh nhuệ, không cần nhiều, cứ xem như Bồ Kiên có hàng trăm vạn quân cũng không làm gì được” (Đại Việt sử ký toàn thư, quyển 5, trang 52a).
Cuộc kháng chiến chống quân Nguyên thắng lợi chủ yếu do ý chí chiến đấu chống ngoại xâm, bảo vệ đất nước của toàn dân, toàn quân, nhưng tổ chức quân đội mạnh mẽ thời Trần cũng đóng góp một phần rất quan trọng.
macbupda:
C – CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG QUÂN NGUYÊN
I. Chiến tranh lần thứ nhất
Năm 1952, Hốt Tất Liệt đem quân đánh chiếm nước Đại-lý (Vân-nam). Đến năm 1257, sau khi đã chiếm xong Đại-lý, quân Nguyên tiến đánh miền Nam Trung-quốc, theo ba đường khác nhau, nhằm mục đích tiêu diệt nhà Tống. Đạo quân chủ lực do Hốt Tất Liệt chỉ huy, vượt qua Trường-giang, đánh vào Ngạc-châu (Vũ-xương). Đạo quân thứ hai do Mông Kha chỉ huy đánh vào Tứ-xuyên). Đạo quân thứ ba do Ngột Lương Hợp Thái chỉ huy đi từ Vân-nam, đánh vào nước ta rồi quay lên phương Bắc đánh vào Ung-ninh – Quế-lâm, nhằm hội họp với chủ lực ở Ngạc-châu. Như vậy, cuộc tiến quân vào nước ta lần thứ nhất của Ngột Lương Hợp Thái nhằm tạo nên một gọng kìm lớp để bao vây và tấn công Nam Tống. Chiếm được nước ta, họ sẽ có một căn cứ hậu phương giàu có và thuận lợi, để cung cấp người, của, lương thực và tiến vào Nam Tống bằng con đường ngắn nhất.
Nhằm mục đích đó, mùa thu năm ấy, Ngột Lương Hợp Thái đem quân tập trung ở A-mân (A-mê, Khai-viễn, Vân-nam), phía bắc biên giới nườc ta, rồi sai sứ sang dụ vua Trần đầu hàng. Nhưng Trần Thái Tôn bắt giam sứ Nguyên, chuẩn bị kháng chiến. Tháng 9, vua Trần hạ lệnh cho các tướng lĩnh tập trung quân thủy bộ, đưa lên phòng ngự ở biên-giới, dưới quyền chỉ huy của Trần quốc Tuấn. Đồng thời ra lệnh cho nhân dân toàn quốc sắm sửa khí giới, quân nhu.
Thấy sứ giả không về, Ngột Lương Hợp Thái phái con là A Thuật đi dò xét tình hình cùng với tướng Triệt Triệt Đô, mỗi người đem 1.000 quân tiến xông sông Thao. Khi được tin quân ta chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, Ngột Lương Hợp Thái quyết định dùng toàn bộ lực lượng nhanh chóng tiến quân. Tiền vệ do Triệt Triệt Đô chỉ huy, hậu vệ do A Thuật cầm đầu. Ngột Lương Hợp Thái đi theo chủ lực.
Các cuộc chiến đấu bắt đầu.
Lúc đó về phía ta, Trần quốc Tuấn đã đóng quân ở biên giới. Ngày 12 tháng Chạp, quân nhà Trần dùng tượng binh dàn ra để nghênh chiến. Quân Nguyên liền dùng bộ binh cho tiện xạ bắn vào voi, voi sợ nên bỏ chạy, quân Trần bị thua trận phải rút lui. Ngày 13 tháng chạp, sau khi rút sang sông, Trần quốc Tuấn hạ lệnh phá cầu Phù-lỗ và chiếm lĩnh trận địa ở bên sông. Vua Trần cũng tự mình thống lĩnh đại quân đến chiến đấu.
Quân Nguyễn tiến đến bờ sông, thấy cầu đã bị phá, bèn chuẩn bị kế hoạch vượt sông và tấn công, kế hoạch vượt của chúng khá chu đáo, có mưu mẹo. Để chọn đoạn vượt sông, họ bắn tên xuống nước, chọn chỗ nông rồi cho kỵ binh lội qua, đội hình vượt sông chia thành ba đội.
Để triệt đường rút lui và nhằm mục đích bao vây bắt sống quân ta, kế hoạch của Ngột Lương Hợp Thái dự định: khi quân tiền vệ của Triệt Triệt Đô đã vượt sông xong sẽ không tấn công ngay, mà nhanh chóng đánh chiếm chiến thuyền của ta. Lúc đó, chủ lực đã vượt sông, quân ta ắt phải nghênh chiến; tiếp đó, hậu vệ của chúng vượt sông, bao vây quân ta. Chúng dự tính rằng, trước sức tấn công ồ ạt của chúng, quân ta vừa ít vừa thiếu kinh nghiệm, sẽ phải rút lui rời khỏi trận địa bằng thuyền. Nhưng thuyền đã bị Triệt Triệt Đô chiếm mất, quân ta sẽ rơi vào thế bị bao vây và cuối cùng sẽ bị chúng tiêu diệt.
Nhưng, sau khi quân của Triệt Triệt đô đã sang sông, chưa thực hiện được kế hoạch đó, đã bị quân của Trần quốc Tuấn lập tức nghênh chiến. Triệt Triệt Đô phải triển khai ngay kỵ binh đối phó lại và cuộc chiến đấu ác liệt xảy ra. Bộ binh của ta ngăn chặn tiền vệ của địch, đồng thời kỵ binh đã nhiều lần tiến hành phản xung phong rất anh dũng. Tuy vậy, do lực lượng ta yếu cho nên khi chủ lực của địch đã sang sông, để tránh bị bao vây vua Trần đã hạ lệnh rút lui. Trần quốc Tuấn rút về Sơn-tây và vua Trần rút về Thiên-mạc (Khoái-châu, Hưng-yên).
Nhân đà thắng lợi, quân Nguyên tiến thắng đến Thăng-long, lúc đó đã biến thành một thành phố không người. Nhân dân ta đã làm vườn không nhà trống, rời khỏi khu địch chiếm đóng, mang hết hoặc phá hủy lương thực không để lọt vào tay địch. Chiếm được thành phố không người này,quân Nguyên tức tối, bèn cho tàn phá kinh đô và cho chủ lực đóng ở Đông Bộ-đầu (nay là xã Bộ-đầu, huyện Thường-tín, tỉnh Hà-đông).
Quân Nguyên thông thường đánh đến đâu là cướp bóc lương thực đến đó. Nhưng từ biên giới tiến quân vào Thăng-long, lương thực của chúng mang theo đã cạn mà ở chung quanh kinh thành, trước kế tiêu thổ của nhân dân ta, chúng không thể tìm đâu ra lương thực để cung cấp cho một đạo quân lớn của chúng được. Hơn nữa, chúng lại luôn luôn bị tập kích, những toán quân lẻ đi cướp bóc luôn luôn bị chặn đánh và bị tiêu diệt. Nguy cơ thiếu lương thực đã rõ rệt, khiến cho tinh thần chiến đấu của quân Nguyên chóng sa sút. Trước tình hình đó, tướng Nguyên đã thấy rõ chúng đang lâm vào tình thế tiến thoái lưỡng nan nên đề nghị giảng hòa với nhà Trần.
Trần quốc Tuấn bị địch đang gặp nguy khốn và đã nao núng nhiều nên quyết định nắm thời cơ thuận lợi này tiến hành phản công. Vua Trần hạ lệnh tập trung toàn bộ lực lượng bao vây tiêu diệt địch tại vị trí đầu não của chúng là Đông Bộ-đầu.
Ngày 24 tháng giêng năm 19258, Trần quốc Tuấn chỉ huy quân đội dưới quyền mình đột kích vào Đông Bộ-đầu. Trong khi đó, vua Trần cử thủy binh ngược sông Hồng, đánh quặp vào vị rí địch. Trận tấn công đại quy mô đó có bộ, thủy phối hợp chặt chẽ, hình thành thế bao vây nhiều mặt, đánh vào vị trí mạnh nhất của địch đã làm lực lượng quân Nguyên bị tiêu diệt một phần lớn, buộc phải rút khỏi Đông Bộ-đầu và Thăng-long để chạy trốn thục mạng. Trên đường rút chạy ngược theo sông Thao, chúng lại bị quân ta và nhân dân các địa phương liên tục truy kích, tập kích; đến Quy-hóa (thuộc Phú-thọ), chủ trại Quy-hóa là Hà Bống (dân tộc Mường) đã chỉ huy dân binh địa phương anh dũng tập kích địch, gây cho chúng những thiệt hại nặng nề. Quân Nguyên rút thẳng một mạch về Vân-nam, dọc đường không kịp cướp phá giết chóc nên nhân dân đã gọi chúng là “giặc phật”.
Vua Trần và triều đình tiến vào Thăng-long giải phóng.
macbupda:
Cuộc tiến công xâm lược nước ta lần thứ nhất của quân Nguyễn đã bị hoàn toàn thất bại. Tuy nhiên chúng vẫn chưa chịu từ bỏ tham vọng xâm lược nước ta, trái lại tiếp tục chuẩn bị để phát động chiến tranh xâm lược mới.
Chúng đã có kinh nghiệm tác chiến với quân ta, một quân đội có tinh thần chiến đấu vô cùng anh dũng, vừa giỏi tấn công trên bộ, vừa thạo đánh trên sông; còn chúng thì có kinh nghiệm dùng kỵ binh và bộ binh đánh tượng binh của ta, có kinh nghiệm tác chiến và vận động trên địa hình chủ yếu là đồng bằng lầy lội nhiều sông ngòi.
Ngược lại, quân ta sau cuộc chiến thắng lần thứ nhất cũng thu được nhiều kinh nghiệm vô cùng quy báu về phòng ngự, tấn công, sử dụng binh chủng, phối hợp thủy bộ, phán xung phong, phối hợp giữa quân chính quy với dân binh, chiến thuật bao vây, vu hồi…
Trong cuộc chiến tranh này, Trần quốc Tuấn đã tỏ ra là một nhà chiến lược - chiến thuật có tài. Về mặt chỉ đạo chiến lược, Trần quốc Tuấn biết sức mình, sức địch nên kiên quyết bảo toàn lực lượng, du địch vào sâu, kéo kỵ binh của chúng vào một địa hình bất lợi – như đồng bừng Bắc-bộ để chiến đấu, triệt nguồn tiếp tế lương thực và biết khéo léo chọn thời cơ phản công, chọn mục tiêu chiến lược để tập trung lực lượng tiến hành đột kích kiên quyết. Về mặt chiến thuật, sau những thất bại đầu tiên ở biên giới vì thiếu kinh nghiệm, Trần quốc Tuấn đã tổ chức và chỉ huy rất tài tình quân đội rút ra khỏi chiến đấu không bị thiệt hại trên đoạn sông ở Phù-lỗ. Hành động chiến thuật có kế hoạch và có tổ chức ấy đã đưa chủ lực ta thoát khỏi nguy cơ bị tiêu diệt. Để thực hiện ý định rút lui có tổ chức trong điều kiện cuộc chiến đấu đang diễn ra ác liệt, Trần quốc Tuấn đã vận dụng khéo léo phương thức phòng ngự tích cực nhằm đánh quân tiền vệ, buộc địch phải chiến đấu ngay với quân ta, liên tục phản xung phong, hợp đồng mật thiết giữa bộ binh và kỵ binh ngăn chặn bước tiến của chúng, tranh thủ thời gian để trước khi chủ lực của địch bước vào chiến đấu thì ta đã đưa được chủ lực của ta ra ngoài vòng nguy hiểm, rồi chia thành nhiều đường để nhanh chóng, kín đáo lui quân. Trong trận tấn công Đông Bộ- đầu, Trần quốc Tuấn đã biết triệt để lợi dụng địa hình, vận dụng chiến thuật bao vây nhiều mặt và tấn công mãnh liệt.
Chúng ta nghiên cứu sâu thêm một bước về vấn đề chọn thời cơ phản công của của Trần quốc Tuấn. Một vấn đề được đặt ra: tấn công lần này quân Nguyên có ưu thế về lực lượng so với lực lượng quân đội ta không? Và, nếu như chúng có ưu thế lại không bị thiệt hại lớn trong quá trình tấn công từ biên giới đến Thăng-long – Đông Bộ-đầu, thì vì sao chúng phải đề nghị giảng hòa, và căn cứ vào đâu mà Trần quốc Tuấn hạ quyết tâm phản công? Những điều nói trên tuy sử không chép cụ thể, nhưng chúng ta có thể dựa vào kết cục của chiến tranh, dựa vào sự thật lịch sử lúc đó, có thể rút ra được những giải đáp cần thiết và đúng dắn. Chúng tôi cho rằng, để tiến hành chiến tranh xâm lược, dù là xâm lược một nước nhỏ yếu như nước ta, quân Nguyên không thể không tập trung lực lượng đến mức ưu thế, hoặc ít nhất cũng phải tương đương với quân ta. Ngột Lương Hợp Thái, tên tướng có trách nhiệm chỉ huy một trong số ba đạo quân tấn công vào Nam Tống, dù hắn phải để lực lượng lại phòng giữ Vân-nam, thì lực lượng đánh sang nước ta để rồi lại tiếp tục tấn công lên phía Nam Trung-quốc phải là lực lượng chủ lực của hắn và là một lực lượng rất lớn. Hơn nữa, trong cuộc kháng chiến lần thứ nhất này, vì nhà Trần chưa chuẩn bị được đầy đủ và chu đáo như khi chuẩn bị kháng chiến lần thứ hai và lần thứ ba, cho nên lực lượng quân sự của nhà Trần cũng chỉ có hạn. Vì vậy, có thể nói chắc chắn rằng quân Nguyên có ưu thế hơn so với quân ta. Chính nhờ có ưu thế đó nên trong những cuộc chiến đấu đầu tiên, chúng mới có thể tấn công ồ ạt, tiến quân nhanh chóng được. Tuy vậy, đây chưa phải là ưu thế tuyệt đối vì quân Nguyên lúc đó còn tập trung mọi cố gắng vào múc đích tấn công Nam Tống. So với Trung-quốc, nước ta là một chiến trường thứ yếu, cho nên quân Nguyên cần dành lực lượng lớn hơn cho cuộc tấn công diệt Tống. Cũng có thể quân Nguyên vốn là một quân đội quen chiến thắng, chiến thắng cả các nước lớn, các quân đội mạnh, nên rất chủ quan khinh ta: cho nên tuy có tập trung lực lượng ưu thế, nhưng chưa đến mức ưu thế tuyệt đối.
Chiếm xong Thăng-long, lực lượng của địch hầu như vẫn còn nguyên vẹn và lực lượng của ta cũng chưa có những sứt mẻ gì lớn.
Với lực lượng đó, quân Nguyên vẫn còn nhiều khả năng tiếp tục tấn công nữa, nhưng trên thực tế, chúng đã không thể thực hiện được. Nguyên nhân chủ yếu là do ý chí kháng chiến vững mạnh, cao độ của nhân dân và quân đội ta; đặc biệt ở đây nổi bật lên vai trò quyết định thắng lợi đó là nhân dân, nhất là nhân dân chung quanh Thăng-long và những nơi địch đi qua hoặc chiếm đóng, đã triệt để tiêu thổ, triệt đường tiếp tế lương thực và đứng dậy dúng cảm tiến hành chiến tranh du kích chống địch.
Quân Nguyên đã đứng trước một tình huống vô cùng bất lợi như sau: muốn tấn công hoặc chuyển sang phòng ngự đều phải giải quyết vấn đề lương thực. Đối với một đạo quân lớn phải coi đó là một vấn đề có tính chất quyết định để giữ vững sức chiến đấu; không giải quyết nổi vấn đề lương thực, lại luôn luôn bị tập kích cho nên việc tiếp tục tấn công, cũng như việc chuyển sang phòng ngự đều không thể thực hiện được.
Chính do đã thấy hình thái tiến thoái lưỡng nan đó, chính do đã thấy tình hình thiếu thốn lương thực một cách nghiêm trọng của địch ảnh hưởng lớn đến tinh thần chiến đấu của tướng soái và binh sĩ nhà Nguyên, đồng thời cũng đã thấy rõ ý chí kháng chiến không gì lay chuyển nổi, tình đoàn kết nhất trí giết giặc của quân đội và nhân dân bao gồm các dân tộc đa số cũng như thiểu số và nắm vững lực lượng quân sự hãy còn nguyên vẹn lại được bổ sung thêm, Trần quốc Tuấn đã kiên quyết hạ lệnh tập trung toàn bộ lực lượng tấn công vào vị trí đầu não của địch. Thời cơ phản công đó là rất chính xác và quyết tâm của Trần quốc Tuấn là dựa trên sự phân tích khoa học tình hình địch và ta. Chúng ta thấy rằng, về số lượng, tuy địch có mạnh, nhưng về chất lượng địch đã trở thành yếu. Ngược lại, quân đội ta về số lượng vẫn còn mạnh, nhưng về chất lượng càng mạnh gấp bội; nguồn gốc sức mạnh đó chính là ở nhân dân.
Cho nên, chỉ 12 ngày sau trận chiến đấu đầu tiên ở biên giới và 9 ngày sau khi quân Nguyên chiếm đóng Thăng-long, quân đội anh hùng của ta đã mở một cuộc đại phản công. Và cuộc đại phản công đó hoàn toàn thắng lợi, chấm dứt cuộc xâm lược lần thứ nhất của quân Nguyên.
Chiến thắng to lớn này đã cho vua tôi nhà Trần nhiều kinh nghiệm, kinh nghiệm lớn nhất mà nhà Trần thu được là tinh thần chiến đấu, tin thần đoàn kết toàn dân, toàn quân ta rất cao, ý chí chống xâm lược rất mạnh, là những nhân tố quyết định thắng lợi trong cuộc chiến tranh lần này.
Navigation
[0] Message Index
[#] Next page