Trong hơn một thập kể trở lại đây, quả là viện trợ Mỹ cũng đã có nhiều thay đổi-thay đổi về định hướng, thay đổi về quy chế, thay đổi vềcơ cấu, thay đổi về các điều kiện viện trợ. Cuộc chiến tranh Việt Nam làmột trong những nguyên nhân quan tọng dẫn đến những thay đổi đó.
Từ sau Việt Nam, nước Mỹ rất ngại dính líu trực tiếp vào các xung đột chính trị ở các khu vực trên thế giới. Vì:
- Chiến tranh Việt Nam để lại cho Mỹ những vết thương nặng nề và những sự nhức nhối lâu dài, mà nền kinh tế Mỹ cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của những vết thương đó. Quyền uy kinh tế của Mỹ yếu đi-xéttheo sức thao túng của nó trên trường quốc tế. Lạm phát, thâm thủng ngân sách, thâm thủng ngoại thương… là những di chứng của các vết thương không còn có thể “vung tay quá trán”. Viện trợ Mỹ được tính toán sít sao hơn, và ít phiêu lưu hơn.
- Viện trợ Mỹ chuyển sang những con đường an toàn hơn: Cho vay có mục đích và có điều kiện. Đầu tư song phương, đa phương và gián tiếp.Thu hồi vốn và lãi thông qua cách kéo giá cả. Thay những áp lực quân sự bằng nhiều loại áp lực kinh tế. Thay áp lực trực tiếp bằng áp lực gián tiếp thông qua các tổ chức quốc tế (trong đó phải kể đến sự tác động của Mỹ qua Quỹ tiền tệ quốc tế, qua Ngân hàng thế giới, qua chế độ cấm vận và bao vây kinh tế, qua quy chế tối huệ quốc. Đối với Việt Nam, thái độ này của Mỹ cũng thể hiện rất rõ: từ chỗ dùng viện trợ tối đa và ào ạt, để khuất phục đất nước này, tới chỗ bao vây mọi loại viện trợ, cũng để khuất phục và trả thù đất nước này.
Từ kế hoạch Marshall đến kế hoạch Brady (công bố tháng 3-1989),đã có hơn 40 năm trôi qua. Xem qua quy chế, các lời tuyên bố, các điềukhoản và phương hướng mà hai vị Bộ trưởng này đưa ra, thấy đã có khá nhiều điều khác nhau. Làm sao không khác nhau được, vì nước Mỹ hôm nay và nước Mỹ trước đây 40 năm cũng đã khác nhau. Sự phát triển của thế giới, những cuộc đụng độ với phong trào cách mạng thế giới, trong đó Việt Nam là cuộc đụng độ lớn nhất và ảnh hưởng mạnh nhất, đã đưa tới sự thay đổi đó.
Người ta thấy dường như kế hoạch Brady khiêm tốn hơn, nhún nhường hơn, có chiếu cố đến các quốc gia nợ nần và nghèo khổ hơn…
Nhưng cái gì đưa đến cảnh nợ nần và nghèo khổ đó? Và tại sao những nước được viện trợ lại càng mắc nợ nhiều hơn? Tại sao các nước đi “giúp đỡ” lại càng có nhiều của cải để “giúp đỡ” hơn, và thông qua “giúp đỡ” lại càng kiếm được nhiều của cải hơn nữa?
Tưởng cũng không cần làm nhiều chứng lý, chỉ cần đi vào những consố. Báo cáo gần đây nhất của Ngân hàng thế giới về diễn biến số công nợ của các nước trên thế giới như sau (triệu USD) (Rapport sur ledéveloppement dân le monde. Banque Mondiale Washington D.C. p230-231):
Những nước đi vay thì như vậy. Còn các nước cho vay thì càng cho vay, càng viện trợ nhiều lại càng giàu hơn lên. Ở đây chỉ nói riêng trường hợp nước Mỹ. Cũng theo báo cáo kể trên của Ngân hàng thế giới, từ năm 1965 đến năm 1988, số tiền viện trợ của Chính phủ Mỹ đã tăng lên gấp 3 lần, nhưng tỷ lệ của nó trong tổng sản phẩm quốc dân lại giảm đi hơn 50%.
Đến hôm nay, chuyện cũ đã lùi xa hơn một thập kỷ. Lịch sử đã sangtrang. Quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ cũng đã và đang đổi khác. Trước đây, chúng ta phải chống trả quyết liệt. Đó là điều chúng ta không muốn nhưng đã buộc phải làm.
Ngày nay, điều ta muốn đã bắt đầu có thể làm được-hòa bình xâydựng, bình thường hóa quan hệ với các quốc gia, trong đó có Mỹ.
Đối với viện trợ Mỹ, thì đây không chỉ đơn giản là sự bình thường hóa, mà còn là trách nhiệm đối với những hậu quả mà Mỹ đã để lại cho Việt Nam. Sự viện trợ đó, tất nhiên phải khác trước ở một điều kiện cơ bản: không phải để thực hiện chiến tranh và bình định, mà chính là để khôi phục và hàn gắn những vết thương lâu dài của chiến tranh.
“Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng”.
Trước đây, khi tiến hànhchiến tranh, ta đã học và có được 2 cái “biết” đó. Và ta đã thắng.
Ngày nay, cả 2 cái biết đó vẫn đều rất cần. Chính những cái thất bạicủa Mỹ trước đây cũng đã cho Mỹ một bài học. Không biết người và không chịu biết người.
Hiểu Mỹ, hiểu viện trợ Mỹ sẽ giúp chúng ta giáp mặt với nó chủ động hơn, vững vàng hơn…
Tháng 12-1990
HẾT