Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Tư, 2024, 11:33:48 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: 21 năm viện trợ Mỹ ở Việt Nam  (Đọc 20012 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #10 vào lúc: 21 Tháng Năm, 2017, 08:27:46 pm »


        V. THỜI KỲ 1961-1964
         
        Ngày 16-9-1960, trong báo gửi về Washington, đại sứ Mỹ ở Sài Gòn E.Dubrow viết: “Nếu những tiến bộ hiện nay của cộng sản cứ tiếp diễn, thì có nghĩa là sẽ mất Việt Nam tự do vào tay cộng sản” (The Pentagon’ Papers, đã dẫn, P.115).
         
        Ngày 10-12-1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam được thành lập, đánh dấu một giai đoạn mới của cuộc kháng chiến.
         
        Kennedy lên làm Tổng thống từ tháng 1 năm 1960. Cả Tổng thống Mỹ lẫn Ngô Đình Diệm đều thấy khó hy vọng kết thúc sớm giai đoạn bình định. Phải quyết đấu một hiệp nữa. Muốn vậy, phải dùng sức mạnh hơn trước vượt bậc. Kennedy nói: “Việt Nam là nơi duy nhất trên thế giới mà chính quyền phải đương đầu với một chính cố gắng phát triển rất tốt của cộng sản nhằm lật đổ một chính phủ thân phương Tây. Đây là một sự thách thức không thể bỏ qua. Eisenhower đã phải chịu những hậu quả chính trị của Điện Biên Phủ và việc tống cổ những người phương Tây ra khỏi Việt Nam năm 1954. Ngày nay, tôi không thể cho phép thất bại như 1954 nữa” (Jr.Schlesinger. The Bitter Heritage Di sảncay đắng Ed.Andre Deutsch, London, 1966, p.311).
         
        Kennedy đã tập hợp những chuyên gia suất sắc thuộc nhiều lĩnh vực nghiên cứu một cách toàn diện về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, tâm lý, tham khảo kinh nghiệm chống du kích tại nhiều nơi trên thế giới, để hoạch định đường lối mới, quyết tâm giành thắng lợi trong cuộc thách thức này.
         
        Năm 1961, Mc.Namara cho ra đời bản “Đường lối và chiến thuật chống chiến tranh du kích ở Nam Việt Nam”.
         
        Cũng năm đó, đại tướng Maxwel Taylor cho ra đời chiến lược “phản ứng linh hoạt”, trong đó hoạch định ba mức độ phản ứng: chiến tranh đặc biệt, chiến tranh cục bộ, chiến tranh tổng lực.
         
        Cái mới của giai đoạn này không phải chỉ là một quả đấm thép lớn hơn, mà còn là một “bàn tay” mềm mại hơn (J.Schlesinger, đã dẫn P.317). Kèm theo chiến tranh đàn áp và tàn phá khốc liệt, Mỹ có hàng loạt kế hoạch “hòa bình” mới: “đội hòa bình”, “lương thực vì hòa bình”… Viện trợ kinh tế tăng lên. Chương trình “cải cách điền địa” được Mỹ thảovà buộc Diệm thi hành.
         
        Vào năm 1961, tướng De Gaulle, với kinh nghiệm của một người “từng trải” và của một nước “từng trải”, đã nói với Kennedy: “Đối với các ông, sự can thiệp trong khu vực đó sẽ là vướng vào một cái guồng máy không bao giờ kết thúc. Khi mà một dân tộc đã thức tỉnh, thì không một quyền lực bên ngoài nào, dù có phương tiện đến đâu, có khả năng đánh bại được họ. Rồi các ông sẽ thấy.
         
        Nếu các ông tìm thấy tại chỗ những chính phủ vì quyền lợi, bằng lòng tuân lệnh các ông, thì trái lại, nhân dân không chịu nghe theo, vả lại, họ cũng chẳng gọi các ông đến.
         
        Ý thức hệ mà các ông nêu ra cũng chẳng thay đổi được gì, các ông càng lao vào chống chủ nghĩa cộng sản ở đó thì những người cộng sản càng nổi bật lên là những chiến sĩ của độc lập dân tộc và càng được ủng hộ.
         
        Những người Pháp chúng tôi đã học được kinh nghiệm đó.
         
        Những người Mỹ các ông, ngày hôm qua, muốn chiếm lấy chỗ của chúng tôi ở Đông Dương. Ngày hôm nay, các ông lại muốn bắt chước chúng tôi nhen lên một cuộc chiến tranh mà chúng tôi đã chấm dứt. Tôi xin nói trước với các ông rằng: Mỗi bước, các ông sẽ ngập thêm vào cái vũng lầy quân sự và chính trị không có đáy, bất kể các ông có thể ném vào đó những tốn kém và chi tiêu đến thế nào” (Trích trong báo Thờimới, Liên Xô (Temps Nouveaux)) No42, 10-72). Nhưng Kennedy lại nghĩ: “Đó là nước Pháp. Đây là nước Mỹ” (J.Schlesinger, đã dẫn, P.370). Cái bi kịch của Mỹ lúc này vẫn là: nếu có kẻ nào sớm nhận thấy phải thay đổi chính sách, thì không vì thế mà đường lối của Mỹ thay đổi, chỉ bản thân kẻ đó bị thay đổi thôi.
         
        Để thực hiện chiến lược mới, viện trợ quân sự tăng vọt. Từ năm1961 trở đi, số viện trợ quân sự bắt đầu vượt viện trợ kinh tế: Năm1962, viện trợ tăng gấp đôi năm 1961. Đến năm 1964, lại tăng gấprưỡi năm 1962. Tính trung bình, viện trợ quân sự trực tiếp trong thờigian này tới 300 triệu đô la 1 năm.
         
        Năm 1960, quân số ngụy mới có 223.000. Đến đầu 1965 đã lên tới 571.200. Với tiền viện trợ, Diệm tăng cường hệ thống sỹ quan để củng cố bộ khung của quân đội. Số sỹ quan từ 12.513 năm 1960 lên 22.853năm 1964, chiếm 16% quân số (Đây chỉ kể số tướng tá và đại úy). Nếu xét tỷ lệ của số tân binh mới tuyển mới 1 năm trong quân đội, thì năm1957 chỉ có 2,9%, đến năm 1961 lên 23%, năm 1962 lên 19,6%, năm1964 lên 39%.
         
        Theo quan điểm của Kennedy, những biện pháp quân sự muốn thu được kết quả phải có sự phối hợp chặt chẽ của các biện pháp chính trịvà kinh tế. Viện trợ kinh tế vẫn được duy trì ở mức xấp xỉ 200 triệu đô la hàng năm. Trong thư gửi tướng Taylor ngày 13-10-1961, Kennedy viết: “Trong lúc phần quân sự của vấn đề có tầm quan trọng lớn lao, thì những yếu tố chính trị, xã hội và kinh tế cũng có tầm quan trọng không kém. Tôi mong được sự đánh giá và những ý kiến đề đạt của ông”.
         
        Viện trợ tạo cho Diệm những đòn bẩy kinh tế để bắt thêm lính và giữ vững quân ngũ. Hàng loạt chế độ lương, bổng, phụ cấp, đãi ngộ mới được ban hành: Lính quân dịch hàng tháng trước kia chỉ có 400đ sinh hoạt phí, tương đương khoảng 40kg gạo (giá trị trường). Từ 1962, lính quân dịch chỉ sau 4 tháng huấn luyện là có lương. Từ 1964 thì cứ vào lính là có lương ngay. Từ 1961, bảo an được hưởng lương ngang chủ lực. Dân vệ được phụ cấp. Thanh niên chiến đấu được trả lương. Lính đánh ở rừng núi được phụ cấp thêm 1000đ hàng tháng. Thời gian ở chiến trường được hưởng hệ số 2 khi tính thâm niên.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #11 vào lúc: 21 Tháng Năm, 2017, 08:28:13 pm »

         
        Để củng cố quân đội, Mỹ tăng cường thêm số cố vấn tới cấp tiểu đoàn. Tổng số cố vấn Mỹ năm 1962 lên tới 3.000. Những cố vấn này không chỉ nắm quân đội, mà còn len lỏi vào tất cả các ngành của bộ máy chính quyền, nhằm đảm bảo cho toàn bộ guồng máy được điều khiển thống nhất. Trong hồi ký của mình, tướng Taylor viết: “Chúng tôi đề nghị chính phủ Mỹ cung cấp cho chính phủ Diệm những quan chức cai trị người Mỹ để ghép vào bộ máy chính quyền của Diệm. Cách làm này khiến cho chúng ta cải tiến được màng lưới thu thập tình báo của chúng ta, bắt đầu từ cấp tỉnh, rồi sẽ len dần lên cao đến tổ chức tình báo Trung  ương” (M.Taylor. Hồi ký).
         
        Từ tháng 10-1961, Diệm tuyên bố “quốc gia đang đi vào một cuộc chiến tranh thực sự”. Chế độ cai trị thời chiến được áp dụng. Toàn miền Nam bước vào một thời kỳ càn quét, chà xát triền miên. Chỉ tính riêng số cuộc hành quân cỡ tiểu đoàn, năm 1960 là 149 cuộc, năm 1963 là 2.135 cuộc, năm 1964 là 2.596 cuộc.
         
        Dân bị dồn về đô thị, ven đường quốc lộ và nhất là vào các ấp chiến lược. Năm 1961, mới có 153 ấp chiến lược. Đến 1962, số ấp chiến lược lên tới 3.960, năm 1963 lên tới 7.500. Nông thôn sơ xác, tiêu điều. Đây là lúc bắt đầu lan tràn cái cảnh “ủi trắng và tro tàn”. Viện trợ Mỹ tăng gấp đôi. Nhưng máu chảy, đầu rơi nhiều lên gấp bao nhiêu lần.
         
        Tuy nhiên, Mỹ vẫn chẳng thu được thắng lợi nào đáng kể.
         
        Về quân sự, Mỹ vẫn bị thất bại liên tiếp. Các trận càn quét, tảo thanh đều bị bẻ gãy. Số quân tăng gấp đôi, viện trợ tăng gấp đôi, nhưng thương vong lại tăng gấp hơn 10 lần, đào ngũ, rã ngũ tăng gấp18 lần (Số thương vong của quân ngụy: năm 1960-5.432, 1961-9.000,1962-15.000, 1963-19.000, 1964-59.000. Số đào ngũ: năm 1960-4.000, 1961-17.000, 1962-31.000, 1963-41.000, 1964-72.000).
         
        Quốc sách “ấp chiến lược” cũng bị thất bại nặng. Đến 1964 quá nửa số ấp chiến lược đã bị phá. Tổng số ấp chiến lược từ 7.200 năm 1963, giảm xuống còn 3.300 năm 1964 và 2.200 năm 1965.
         
        Về kinh tế, tình hình cũng xấu không kém. Viện trợ có làm tăng thêm của cải, hàng hóa và lương bổng cho những tầng lớp gắn bó với Mỹ. Nhưng nền kinh tế Nam Việt Nam thì lại sa sút hơn trước. Ngân sách ngày càng thiếu hụt. Năm 1962, lạm phát 3,9 tỷ. Đến năm 1964, lạm phát thêm 16,4 tỷ. Năm 1960, miền Nam xuất cảng được 84,5 triệu đô la. Đến năm 1964, tỷ lệ đó tụt xuống còn 16%, đến 1965 còn 10%. Sản phẩm chủ yếu, tiêu biểu cho khả năng kinh tế Nam Việt Nam, là lúa gạo. Năm 1960, Nam Việt Nam còn xuất được 350 ngàn tấn, đến năm 1964 chỉ còn xuất được 48 ngàn tấn. Đó cũng là năm xuất cảng gạo cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa. Đến 1965, miền Nam phải nhập 129 ngàn tấn gạo. Các năm sau, con số này tăng lên. MiltonTylor, cố vấn Mỹ giúp Diệm về tài chính, đã nói: “Sau 6 năm được Mỹ viện trợ to lớn về kinh tế, Nam Việt Nam đã trở thành một kẻ ăn xin thường trực” (Bernard Fall. Les deux Vietnam (Hai nước Việt Nam)Fd.Payot, Paris 1967, P.333-334).
         
        Đến tháng 3 năm 1963 Kennedy đã nói gần giống như lời khuyên của De Gaulle trước đó: “Chúng ta hiện đang ở trong một đường hầm không lối thoát” (The Pentagon’ Papers, đã dẫn P.372).
       
        Khó khăn và bế tắc làm cho Mỹ-Diệm thêm bất hòa. Vấn đề thay thế Ngô Đình Diệm đã nẩy ra trong đầu óc các chính khách Mỹ và cả các tướng tá của Diệm.
         
        Trong giai đoạn mới, trước tình hình mới, tập đoàn Ngô Đình Diệm ngày càng tỏ ra bất lực, thậm chí, bất lợi đối với việc thực hiện khoạch của Mỹ.
         
        Diệm, tập đoàn Diệm, quan điểm của Diệm, thậm chí cả những cá tính đáng kể của Diệm, về căn bản, tiêu biểu cho một giai đoạn quá độ: giải quyết của những năm sau 1954.
         
        Từ sau 1954, qua cái lưới của cách mạng và kháng chiến, nhưng nhân vật trung thành với triều đình phong kiến không còn lý do tồn tại nữa. Lớp tướng tá trung thành với Pháp cũng mất chỗ đứng. Cái tạo nên bộ máy của Mỹ phải là những con người có một khoảng cách nhất định với chế độ chủ nghĩa thực dân cũ của Pháp, phải có cơ sở xã hội rộng hơn các quân hệ hoàng tộc hay làng Tây, hơn nữa, phải thoát ra khỏi cái nhãn quan hẹp hòi của xã hội thuộc địa và phong kiến về huyết thống, về đẳng cấp. Chỉ bằng cách đó mới có thể mở rộng chỗ dựa xã hội, để đương đầu với những lực lượng cách mạng đã lớn hơn trướcnhiều…
         
        Diệm và tập đoàn Diệm là thế hệ quá độ trong sự chuyển tiếp này.
         
        Diệm thân Mỹ. Diệm đã thu hút được tín nhiệm của các phần tử chống cách mạng, khi phần lớn các con bài thân Pháp đã mất hết tác dụng. Diệm có mở đường tiến thân cho một số sỹ quan, địa chủ, cường hào, tư sản, mà dưới thời Pháp chưa chen chân nổi vào các hàng ghế giành cho tầng lớp thượng lưu.
         
        Nhưng Diệm chỉ đi theo kịp những yêu cầu đó trong mấy năm đầu. Bước vào những năm 1960, trong giai đoạn mới, những yêu cầu mới, Diệm tỏ ra bất lực. Có những thế hệ mà lịch sử chỉ tạo ra để dùng trong vài năm thôi. Diệm không đủ sức đi xa hơn nữa.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #12 vào lúc: 22 Tháng Năm, 2017, 12:22:20 am »

         
        Đối với vấn đề ruộng đất và nông dân, Diệm tỏ ra quá hẹp hòi và thiển cận. Xuất thân là một quan lại phong kiến, Diệm khó có thể chấp nhận nổi việc tư sản hóa nông thôn, dù cho việc đó chỉ là để bắt lính. Diệm vẫn bo bo bảo vệ một cách mù quáng những quyền lợi đã quá lỗi thời của giai cấp địa chủ, là giai cấp đã bị đánh cho tả tơi, không còn chỗ đứng trong lòng dân nữa. Quy chế cải cách điền địa của Diệm vẫn cho phép địa chủ được sở hữu tới 100ha. Những ruộng đất của địa chủ mà cách mạng đã tịch thu để chia cho nông dân, nay bị đoạt lại. Người được cấp, nếu muốn tiếp tục hưởng, phải trả tiền chuộc cho địa chủ. Ý đồ của Diệm là: phải cứu lấy giai cấp địa chủ. Ý đồ của Mỹ là: phải giành lấy địa vị ở nông thôn. Mỹ thấy rõ hơn Diệm rằng lúc này địa chủ chỉ còn là một giai cấp đã mục nát, gồm một dúm người cổ lỗ, thế lực kinh tế đã suy yếu, thế lực chính trị và tinh thần thì còn thảm hại hơn. Đến lúc này mà chỉ dựa vào giai cấp đó để nắm nông thôn, thì sẽ mất tất. Mỹ hiểu rõ hơn Diệm rằng lúc này nông dân là sức mạnh quyết định ở nông thôn. Nếu muốn mở rộng quy mô chiến tranh hơn trước rất nhiều, bắt tới cả triệu lính trong một đất nước 17 triệu dân, mà có tới12 triệu nông dân (Dân số miền Nam 1966) thì không thể không chú ý đến nông dân. Để hạn chế bớt ảnh hưởng của cách mạng trong nôngthông, để nắm lấy một nguồn cung cấp lính, cung cấp nông sản và tiêu thụ hàng hóa, phải biến nông dân thành một tầng lớp khá giả, có điều sản, có cơ nghiệp, có nguồn sống. Đó là cái đích mà Mỹ nhằm trong chương trình cải cách điền địa.
         
        Diệm đã trở thành một trở ngại cho Mỹ.
         
        Đối với giai cấp tư sản, trong lĩnh vực thương nghiệp cũng vậy. Ta biết, giai cấp tư sản Việt Nam dưới thời Pháp là một giai cấp yếu đuối.Nếu dựa vào giai cấp này, Mỹ cũng chỉ có được một cơ sở rất ọp ẹp ở các đô thị. Nhưng khác với giai cấp địa chủ, giai cấp tư sản là giai cấp còn có thể dùng đô la để vực dậy được. Trong viện trợ Mỹ, cái ý đồ này có được tính đến. Số tư sản miền Nam và miền Bắc di cư đã được Mỹ bơm cho lớn lên bằng đô la.
         
        Buôn bán kinh doanh, đầu cơ, lập các nhà máy chế biến hàng viện trợ Mỹ, mở khách sạn, lập ngân hàng, bao thầy… tất cả đều tìm thấy ở viện trợ Mỹ một thứ phân bón màu mỡ để mọc lên các nhà triệu phú.
         
        Nhưng chính sách của Diệm thì khác hơn. Diệm muốn đóng khung phần lớn sự phát triển đó trong khuôn khổ họ hàng và vây cánh của mình. Anh, chị, em và tay chân Diệm đã độc quyền hàng loạt nguồn làm giàu. Viện trợ Mỹ không phát huy được cái hiệu quả như Mỹ mong muốn là mở rộng thật nhanh thế lực của giai cấp tư sản, làm chỗ dựa kinh tế và xã hội ở các đô thị.
         
        Trong việc xây dựng bộ máy quân đội và chính quyền, Mỹ cũng gặp một trở ngại tương tự. Để đương đầu với lực lượng cách mạng đã lớn hơn trước gấp bội, Mỹ cần có một chính quyền và một đội quân mạnh hơn rất nhiều. Mỹ muốn dung nạp thêm vào bộ máy này một loạt tay chân mới, có năng lực hơn, hợp với những điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội tình thần của giai đoạn mới. Mỹ sẵn sàng mở rộng cái két tiền và mở rộng hơn cái kho mề đay và quân hàm, để bằng cách đó, mở rộng chỗ dựa trong quân đội. Nhưng Diệm lại quá hẹp hòi. Diệm bo bo giữ cho họ hàng và vây cánh gần như tất cả những ghế quan trọng trong chính quyền, trong quân đội, trong các và các tỉnh. Điều đó đã gây bất mãn và phản ứng trong hàng ngũ tướng tá. Cuộc đảo chính hụt của Nguyễn Chánh Thi tháng 11 năm 1960, những vụ âm mưu ám sát Diệm liên tiếp, là những dấu hiệu làm Mỹ lo sợ.
         
        Từ 1960, Mỹ đã cảnh cáo Diệm nhiều lần, không có kết quả. Tháng1 năm 1962, Mỹ quyết định ngừng viện trợ một số khoản: cắt 3 triệu đô la viện trợ cho các lực lượng đặc biệt, đình chỉ chương trình viện trợ thương mại, bãi bỏ khoảng 25 vạn đô la nuôi quân cận vệ của Diệm… Mỹ coi đó là biện pháp quyết định để buộc Diệm thay đổi chính sách. Nhưng Diệm biết rằng cắt viện trợ thì cũng là Mỹ tự sát. Quả là chỉ vài tháng sau, Mỹ phải bãi bỏ biện pháp này. Mỹ hiểu rằng ngụy quyền chết tức là chính quyền sẽ về tay nhân dân.
         
        Sau nhiều lần đắn đo, bàn bạc, ngày 1 tháng 11 năm 1963 Mỹ buộc phải bố trí một cuộc đảo chính, thay ngựa giữa dòng. Diệm bị giết.
         
        Mặc dầu sau này có kẻ nào đó trong hàng ngũ Mỹ ngụy “lấy làm tiếc” về việc đó, mặc dầu, như chính Nixon nói, “đó là một trong những điểm đen tối nhất trong lịch sử ngoại giao Mỹ”, thì xét theo yêu cầu khách quan của tình hình, xét theo những lợi ích của Mỹ, việc thay ngựa giữa dòng đó là tất yếu.
         
        Sau khi lật đổ Diệm, Mỹ phải mất một thời gian dài lúng túng trongviệc tìm kiếm tay chân mới và ổn định cơ cấu chính quyền.
         
        Nhưng sự phát triển của tình hình lại không chờ đợi Mỹ. Trong lúc nội bộ lục đục, đảo chính liên tiếp, thì lực lượng cách mạng lớn mạnh vượt bậc. Những chiến thắng Bình Giã, Ba Gia, Đồng Xoài… đầu năm 1965 báo hiệu nguy cơ thất bại của nửa triệu quân lính đánh thuê.
         
        Tác giả của kế hoạch “phản ứng linh hoạt”, người đạo diễn chính của cuộc “chiến tranh đặc biệt”, tướng M.Taylor viết: “Thời kỳ 1965 là một thời kỳ rất khó khăn của chúng ta, bởi vì không những chúng ta phải lo lắng trước sức mạnh quân sự ngày càng tăng của Việt Cộng, mà còn phải luôn luôn lo lắng duy trì cho được sự ổn định chính trị. Để đối phó với mối đe dọa ngày càng tăng này, chúng ta buộc phải đề ra một chiến lược mới” (M.Taylor. Responsibility and Response. Harper and Row. NewYork, 1967. P25). Đó chính là sự thừa nhận thất bại của chiến tranh đặcbiệt.
         
        Không còn có cách nào khác nữa. Mỹ phải trực tiếp nhảy vào vòng chiến, nếu Mỹ chưa muốn để cho quân ngụy bị đè bẹp hoàn toàn.
         
        Tờ New York Times ngày 2-2-1974 bàn về sự tất yếu này: “Khi những người du kích miền Nam Việt Nam tự họ đã gần đi đến chỗ đánh bại được chế độ đó, thì Mỹ phải điều quân Mỹ và các phi đội trực thăng Mỹ  vào”.
         
        Lại một cuộc đọ sức mới nữa.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #13 vào lúc: 22 Tháng Năm, 2017, 12:38:15 am »

         
         VI. THỜI KỲ 1965-1969
         
        Mỹ chuyển từ “Chiến tranh đặc biệt” sang “Chiến tranh cục bộ”. Sự chuyển biến này, tự nó, đã là một thất bại.
         
        Tướng Taylor (từ 7-1964 trực tiếp làm đại sứ ở Sài Gòn) viết lại: “Chúng ta thấy rằng nhịp độ phát triển các lực lượng mặt đất của chúngta rõ ràng chưa đủ so với sự phát triển của Việt Cộng. Kết luận đó dẫn chúng ta đến một quyết định rất khó khăn, phải thảo luận lâu là: phải lấp lỗ hổng về quân số ở Nam Việt Nam bằng cách đưa lực lượng Mỹ vào. Tôi có thể đảm bảo với các bạn rằng chẳng có ai thích thú gì khi đề ra quyết định đó. Là một trong những cố vấn của Tổng thống, tôi đã miễn cưỡng nhiều nhất khi tham gia đưa ra đề nghị này, và tôi chắc rằng Tổng thống đã rất lấy làm tiếc khi phải đồng ý với quyết định đó” (M.Taylor. Responsibility and Response. Đã dẫn, tr.26).
         
        Tháng 8-1964, Mỹ bắt đầu cho máy bay, do phi công Mỹ lái, đánh phá các mục tiêu ở miền Bắc.
         
        Tháng 12-1964, Mỹ bắt đầu đưa quân vào miền Nam Việt Nam, coi đó là lực lượng chiến lược quyết định chiến trường. Nửa triệu quân ngụy trở thành đội quân giữ nhà. Quân Mỹ đánh là chính. Số quân Mỹ đưa vào ngày một tăng lên:
         
        Năm 1965-30.000
         
        Năm 1966-230.000
         
        Năm 1967-448.000
         
        Năm 1968-525.000
         
        Năm 1969-550.000
         
        Ta biết, tổng số quân Mỹ đóng tại các nước ngoài là khoảng 1,3triệu. Đưa tới gần ½ quân số đó vào một đất nước nhỏ bé, xa xôi này - đó là một điều chưa từng có trong lịch sử nước Mỹ. Nó chứng tỏ những cố gắng phi thường và quyết định to lớn của Mỹ để giành thắng lợi trong cuộc thách thức mà suy cho cùng do chính Mỹ đặt ra và làm cho gay cấn thêm.
         
         
        Phí tổn của Mỹ trong những năm chiến tranh cục bộ tăng vọt lên gấp mấy chục lần. Năm 1964 Mỹ chi phí hơn 600 triệu. Năm 1965 lên đến 4,6 tỷ. Năm 1966 lên 22 tỷ. Năm 1967 lên 26 tỷ. Năm 1968 lên 27 tỷ. Năm 1969 lên 29 tỷ. Vào những giai đoạn cao điểm của chiến tranh, như năm 1968, phí tổn mỗi ngày của Mỹ là 77 triệu đô la (TheoFulbright, thì mỗi ngày trung bình Mỹ chi phí 70 triệu đô la cho chiến tranh Việt Nam (UPI 31-1-1970). Theo tính toán của tướng Frank Bessen, trong thời kỳ chiến tranh cục bộ, tính trung bình mỗi giây tốn 500 đô la, 1 ngày tốn 38 triệu đô la). Riêng khoản đạn, mỗi ngày quân Mỹ bắn mất 16 triệu đô la (Los Angeles Times, USIS 6-8-1968).
         
        Theo tính toán của báo chí Mỹ, tổng số tiền Mỹ viện trợ kinh tế cho chính quyền Sài Gòn một năm chỉ bằng số tiền Mỹ bớt ra được nếu ngừng các hoạt động chiến tranh trong vòng 10 ngay, hoặc bớt chi phí của 1 sư đoàn Mỹ, hoặc bằng số tiền bom do riêng máy bay B52 ném xuống Việt Nam trong 1 năm (AP 8-9-1966, Newsweek 5-9-1967).
         
        Tuy trực tiếp tham chiến, Mỹ vẫn bắt chính quyền Sài Gòn làm hết khả năng của nó: ráo riết bắt thêm lính, đưa quân số lên 600.000, 700.000, rồi 900.000. Hàng loạt biện pháp mới được áp dụng. Tiêu chuẩn bắt lính ngày càng hạ thấp để vét sạch những người có thể vét được (Tiêu chuẩn bắt lính trong thời kỳ này như sau: Trước 1964 cao trên 1,5m nặng 42 kg, tuổi dưới 33. Từ 1965 cao trên 1,48 m nặng 37kg, tuổi dưới 33. Từ 1967 cao trên 1,45 m nặng 35 kg, không hạn định tuổi. Từ năm 1968, nam giới trên 15 tuổi là bị bắt lính. Từ 41 đến 50 tuổi cho vào địa phương quân).
         
        Kèm theo cưỡng bức, có mua chuộc. Hàng vạn sỹ quan được đề bạt và thăng cấp. Số sỹ quan từ đại úy trở lên, năm 1964 có 22.853, đến năm 1968 lên 54.443. Hàng hóa do “quân tiếp vụ” cung cấp tăng hơn trước hàng vạn lần. Lương và phụ cấp các khoản đều tăng, quần áo, đồ dùng, ăn uống… đều khấm khá hơn trước nhiều. Hàng vạn căn nhà được xây cho gia đình binh sĩ trong các trại gia binh. Chính quyền còn chi tiêu cho vô sứ thứ sinh hoạt giải trí trong quân đội để lôi cuốn thanh niên vào lính. Tháng 3-1965, Trần Thiện Khiêm (Thủ tướng ngụy) ký sắc lệnh cho lập các “phòng trà giải quyết sinh lý” trong quân đội. Bộ Quốc phòng bắt đầu phát hành những “tích kê chơi đĩ” để thưởng cho những binh sĩ có “chiến tích”.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #14 vào lúc: 23 Tháng Năm, 2017, 10:44:17 pm »

         
        Mỹ cũng đề ra và giúp Sài Gòn thực hiện hàng loạt dự án xây dựng các công trình phục vụ cho chiến tranh, đặc biệt là phục vụ quân đội: Mở mang các nhà máy điện và hệ thống cung cấp nước, xây dựng thêm đường sá, bến cảng, sân bay, xây các nhà máy quân dụng như dệt, làmgiầy, vải, đồ hộp, bánh mỳ, thực phẩm, xây hàng loạt khách sạn và cư xá mới, mở rộng các chương trình và các cơ sở dạy tiếng Anh v.v…
         
        Để Sài Gòn thực hiện nổi tất cả những biện pháp mới đó, Mỹ tăngviện trợ lên tới trên dưới 700 triệu đô la hàng năng, gấp đôi các nămtrước. Tuy nhiên, nếu so với số chi phí chiến tranh trực tiếp của Mỹ, thìviện trợ chỉ là một con số rất nhỏ bé, bằng khoảng 3%.
         
        Như vậy, ý nghĩa của việc viện trợ Mỹ lúc này có khác. Nó không cònlà số tiền trả giá cho cuộc chiến tranh của Mỹ. Mỹ đã trực tiếp thực hiệncuộc chiến tranh đó. Chính quyền và quân đội bản địa chỉ đóng vai tròtrợ giúp. Viện trợ lúc này là một khoản chi trả cho vai trò phụ giúp đóvà trong một chừng mực rất lớn, còn là để giữ sức cho cái xã hội đangphải chịu đựng một cuộc chiến tranh tàn khốc có quy mô và cường độchưa từng thấy.
         
        Trong thời kỳ này, sự có mặt của quân đội Mỹ, việc tăng cường việntrợ và tăng cường bộ máy chính quyền Sài Gòn… đã gây ra những biếnđộng to lớn trong đời sống xã hội nói chung và đời sống kinh tế nóiriêng.
         
        Với bom đạn, chất độc hóa học, mìn, dây thép gai, xe ủi… “viện trợMỹ” đã phá sạch hàng vạn làng, biến gần nửa triệu ha ruộng đồngthành đất hoan. Nông dân bị bật khỏi nông thông. Số ấp chiến lược đãgiảm xuống 2.200 vào năm 1965, lại tăng lên tới 58.000 vào năm1969.
         
        Ngoài số dân bị dồn vào ấp chiến lược, một số lớn dân cư nông thônđã chạy ra các đô thị. Riêng trong 3 năm 1965, 1966, 1967, đã có 2,2triệu người bỏ nông thôn ra thành thị (Chấn hưng kinh tế 2-4-1970). Tỷlệ dân số đô thị so với dân nông thôn từ 5 triệu trên 12 triệu năm 1966,tăng lên 8,9 triệu trên 19 triệu năm 1968. Như vậy, dân đô thị đãchiếm 50% dân số trong một nước mà nền nông nghiệp chưa đủ sứcnuôi nổi quá 10% dân số thoát ly nông nghiệp. Đó chính là hiện tượngbất thường, mà các tác giả Mỹ gọi là “đô thị hóa cưỡng bức”.
         
         
         
        Từ 1965, miền Nam bắt đầu phải nhập cảng gạo. Năm 1965, nhập129 ngàn tấn, đến 1968 nhập 765 ngàn tấn. Nhập cảng gạo cũng hoàntoàn do viện trợ Mỹ đài thọ.
         
        Ở các đô thị, những túi tiền đầy ắp của hơn một triệu quân nhân,những nguồn hàng quân nhu, đồ phế thải chiến tranh, những côngtrình phục vụ chiến tranh… đã tạo nên một sự “sầm uất” dị thường. Sự có mặt của quân đội viễn chinh làm cho hàng triệu người có “công ănviệc làm”, có thu nhập. Khách sạn, quán ăn, tiệm nhảy, cửa hàng giảikhát và các tiệm phục vụ khác mọc lên như nấm. Trong khi hàng triệungười tan cửa nát nhà, thất cơ lỡ vận, thì có hàng vạn kẻ phất to. Giaicấp tư sản ở miền Nam lớn lên nhanh chóng nhất từ thời kỳ này. Tất cảsức sống của nó, cùng với toàn bộ sự sầm uất của các đô thị, đều dựatrên một cơ sở: viện trợ Mỹ, bấu xén vào viện trợ đó và phân phối lạiviện trợ đó.
         
        Tuy nhiên, tình trạng bất thường đó không thể kéo quá dài. Như đãnói, số phí tổn gần 30 tỷ hàng năm và việc tung ra hơn nửa triệu quânMỹ là một sự dốc sức tối đa. Về chiến lược, đó chỉ có thể là một biệnpháp chớp nhoáng, hòng giành thắng lợi quyết định trong một thời gianngắn. Nếu biện pháp này kéo dài thì ngay sức Mỹ cũng không thể chịuđựng nổi. Nhưng cái kết quả mà Mỹ định đạt tới trong một năm-“đèbẹp hẳn lực lượng cách mạng”-thì sau 4 năm, chỉ càng mờ mịt hơn.Cuộc tiến công mùa Xuân năm 1968 của quân giải phóng trên tất cảcác mặt trận là sự trả lời bất ngờ đối với Mỹ: ngay khi Mỹ tăng cườngtới mức tối đa áp lực chiến tranh, thì đối phương vẫn vững bước trênthế tiến công.
         
        Đến năm 1969, sự cố gắng tối đa của Mỹ không thể kéo dài hơn.Tốn kém quá nhiều tiền của. Thương vong quá nhiều binh lính. Thiệthại quá nhiều vũ khí và phương tiện. Phong trào phản chiến trên thgiới và ngay tại Mỹ đã chống đối quyết liệt việc leo thang chiến tranh.Giới cầm quyền Mỹ cũng đã thấy chùn tay. Xét về mọi phương diệnquân sự, chính trị, xã hội, Mỹ thấy khó có thể tiếp tục nổi cái đà này.
         
         “Chiến tranh cục bộ” coi như thất bại. Phải tìm những giải phápkhác. Việc xuống thang chiến tranh là điều bắt buộc. Chính sách “ViệtNam hóa chiến tranh” ra đời trong hoàn cảnh đó.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #15 vào lúc: 23 Tháng Năm, 2017, 11:07:13 pm »

         
         VII. THỜI KỲ 1969-1975
         
        Chủ trương “Việt Nam hóa chiến tranh” gắn liền với một đường lối mới của Mỹ trên phạm vi thế giới, được mệnh danh là “học thuyết Nixon”. Thực chất của học thuyết này là: Tìm cách giảm bớt gánh nặng của Mỹ bằng cách buộc các quốc gia chư hầu phải “chia sẻ trách nhiệm”, Mỹ giúp đỡ bằng tiền và phương tiện, như một nhân tố kíchthích, để các nhà nước đó tự lực đảm đương dần nhiệm vụ bảo vệ “trật tự thế giới”.
         
        Chủ trương “Việt Nam hóa chiến tranh” là một bộ phận quan trọng, cũng là một cuộc thí nghiệm quan trọng nhất của “Học thuyết Nixon”.Song không nên hiểu đó chỉ là một sản phẩm thụ động của học thuyết này. Trong một chừng mực rất lớn, chính học thuyết Nixon là kết quả của chiến tranh Việt Nam, nó hình thành từ những thất bại và những khó khăn to lớn của Mỹ ở Việt Nam.
         
        Nội dung của “Việt Nam hóa chiến tranh” là: quân Mỹ sẽ rút dần, trao gánh nặng chiến tranh cho Sài Gòn. Mỹ sẽ giúp Sài Gòn bằng cách dùng không quân yểm trợ và tăng viện trợ để Sài Gòn tận lực tăng quân số, chống đỡ những khó khăn to lớn về kinh tế và ổn định phần nào đời sống xã hội.
         
        Viện trợ Mỹ tăng vọt lên gấp bội so với các giai đoạn trước. Năm1969 lên 1,7 tỷ, năm 1970 gần 2 tỷ, năm 1971 là 2,5 tỷ, năm 1972 là 3 tỷ và lên cao nhất vào năm 1973 là 3,38 tỷ. Đó là con số kỷ lục.Chưa bao giờ và cũng chưa ở nước nào viện trợ Mỹ đạt tới con số đó trong một năm.
         
        Tổng cộng, từ 1969 đến 1975, Mỹ viện trợ cho Sài Gòn 16 tỷ, trong đó 13 tỷ là viện trợ quân sự trực tiếp, 3 tỷ là viện trợ kinh tế, mà phần lớn cũng để trả lương cho lính.
         
        Với số viện trợ khổng lồ đó, chính quyền Sài Gòn đã xây dựng một đội quân đông chưa từng có. Cho đến ngày trước giải phóng, quân số này lên tới 1,1 triệu. Theo nhận định của Mỹ, đó là đội quân lớn nhất Đông Nam Á, thứ nhì ở châu Á, và thứ tư trên thế giới. Ngoài quân số này, còn có 12 vạn cảnh sát và phòng vệ dân sự, 3 vạn quân trong các đội bình định và “Phượng hoàng”. Ngoài ra, Sài Gòn tổ chức 4 triệu  “nhân dân tự vệ”, trong đó có 60 vạn người được vũ trang. Tính toàn bộ lực lượng vũ trang đánh thuê cho Mỹ, có tới gần 2 triệu. Gần 2 triệu trong một dân số 17 triệu! Đó quả là một tỷ lệ kỷ lục.
         
        Chính viện trợ Mỹ, đô la Mỹ đã giúp chính quyền Sài Gòn làm nổi các việc “phi thường” đó.
         
        Với đô la Mỹ, chính quyền đã đề ra hàng loạt biện pháp, cả cưỡng bức lẫn mua chuộc, để vét sạch thanh niên vào lính.
         
        Từ 1969, Thiệu bắt đầu thực hiện “đoàn ngũ hóa thiếu niên”, tức là đặt tất cả số thiếu niên dưới 15 tuổi vào kho dự bị để bắt lính.
         
        Từ 1970, “quân tiếp vụ” đảm nhiệm việc cung cấp nhu yếu phẩm cho cả gia đình binh sỹ. Thẻ mua hàng được cấp cho các cô nhi, quả phụ, cựu binh, phế binh. Đến năm 1972, đã cấp tới 1,3 triệu “sổ cấp dưỡng” cho các diện nói trên để mua hàng “quân tiếp vụ” rẻ bằng 1/3giá thị trường.
         
        Để thực hiện “hữu sản hóa quân sỹ”, Thiệu chỉ thị cho ngân hàng nhà nước cho sỹ quan và binh lính vay tiền làm vốn để buôn bán và kinh doanh. Mức vay nhiều ít tùy cấp bậc. Chính quyền còn bán rộng rãi cổ phần công ty cho quân đội kiếm lời. Bằng cách đó, gắn họ vào việc bảo vệ các cơ sở kinh tế. Từ 1971, Thiệu thực hiện chính sách cấp ruộng cho quân nhân: Tướng 130 ha, tá từ 5 đến 6 ha, úy từ 3 đến 4 ha, lính thường từ 1 đến 3 ha. Biện pháp này nằm trong chương trình cải cách điền địa, tốn bốn trăm triệu đô la, do Mỹ giúp phần lớn.
         
        Mỹ và Thiệu đã tạo ra cho tướng tá thêm những cơ hội làm giàu.Theo điều tra của Cục Địch vận, trong số sỹ quan từ cấp úy trở lên,68% có xe hơi riêng, 83% có biệt thự, 39% có tiện nghi sinh hoạt kiểu đại tư sản. Theo số liệu thống kê năm 1975 của Cục Địch vận, trong số 42.300 tư sản ở miền Nam, có tới 17.300 là sỹ quan.
         
        Từ năm 1965, Thiệu cho khẩn trương xây dựng các “làng quân đội”, để đưa gia đình binh lính tới gần các doanh trại, vừa để bảo vệ vùng ngoại vi, vừa để hạn chế việc đào ngũ. Đến 1970, Thiệu đã lập được 738 khu gia binh. Từ 1970, Nixon quyết định xây thêm 10 vạn căn nhà cho các khu gia đình mới (Đài Sài Gòn 16-7-1970).
       
        Thiệu mạnh tay dùng lương bổng và địa vị để mua chuộc sỹ quan, tức xương sống của quân đội. Từ 1970, chuẩn úy được coi là sỹ quan.Số sỹ quan được đề bạt nhanh và nhiều chưa từng thấy. Chỉ tính từ đại úy trở lên, năm 1968, có 54.443, năm 1972 lên tới 72.000, đến 1974 lên tới 97.000.
         
        Ở một số quân đoàn, Thiệu thi hành chế độ thăng thưởng cấp thời trong tác chiến: chỉ sau 8 giờ hành quân là đã công bố ngay ai được thăng cấp, ai được thưởng huân chương, ai được khen, được thưởng tiền, thưởng tích kê các loại… Khi có một sỹ quan được thăng chức, quân đội trích tiền quỹ để tổ chức “lễ tướí lớn”, chuốc rượu binh sỹ để kích thích tinh thần trong toàn quân.
         
        Lương cơ bản của bĩnh sỹ năm 1964 là 1.770 đồng, 1970 là 2.933 đồng, 1972 là 2.400 đồng, 1974 là 10.200.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #16 vào lúc: 24 Tháng Năm, 2017, 09:05:52 am »

         
        Để lôi kéo lính đào ngũ quay về, Thiệu quy định: lính đào ngũ sau một tháng quay về thì không bị kỷ luật và vẫn được hưởng lương của tháng vắng mặt. Đối với lính đóng ở miền núi, hạn định đó kéo dài gấp đôi, tức 2 tháng.
         
        Thiệu lập ra “Cục xã hội” để lo liệu tất cả mọi vấn đề có liên quan đến đời sống vật chất và tinh thần của binh lính và gia đình: tặng phẩm ghi công, trợ cấp túng thiếu (năm 1969 tới 103 triệu đồng Sài Gòn), cứu trợ thừa kế và mất tích (năm 1971 tốn 157 triệu), miễn học phí cho con “tử sĩ”, đảm nhận nuôi dạy con em binh lính trong hệ thống các “trường học văn hóa quân đội”, tăng cường cung cấp hàng “quân tiếpvụ”… Ở những chiến trường ác liệt, Thiệu còn tổ chức cho máy bay chở lính về nghỉ phép đúng hạn định hoặc đưa thân nhân đến tiền đồn thăm hỏi binh sĩ…
         
        Bằng tất cả những biện pháp kể trên, mà chỉ có tiền viện trợ Mỹ mới đài thọ nổi, Thiệu muốn làm cho phần lớn quân đội thấy đi lính như một nguồn sống khá giả. Theo số liệu điều tra năm 1972 của Cục Địch vận, có 31% gia đình binh lính lấy lương và bổng lộc của quân đội làm nguồn sống chính, 18% gia đình binh lính lấy đó làm nguồn sống quan trọng (40-50% chi tiêu). Nếu so ánh mức sống trước và sau khi đi lính, có 62% binh sĩ sau khi đi lính thấy đời sống khá hơn trước, 27% thấy đời sống bằng trước, 11 thấy đời sống kém trước (đây là những binh sĩ có nghề chuyên môn cao, có thu nhập cao khi làm nghề tự do).
         
        Ngoài bổng lộc, Thiệu còn áp dụng nhiều biện pháp khác nữa để hấp dẫn quân sĩ. Từ 1970 quân đội cho đưa gái mại dâm theo các chiến sĩ.Tại các lớp huấn luyện quân sự và chính trị, bên cạnh các căng tin, có nhà chứa (Qua cuộc điều tra 2.000 tù binh ở chiến dịch nam Lào chỉ thấy có một lính ngụy (14 tuổi) là chưa chơi đĩ. (Tài liệu Cục Địch vận. BQP)).
         
        Để vét thanh niên vào lính và gò họ vào quân ngũ, chỉ dùng màng lưới quân cảnh không đủ. Phải dùng bổng lộc. Hệ thống quân cảnh kết hợp với đô la Mỹ tạo thành hai cái lưới dày đặc, tung ra khắp miền Nam để vét thanh niên vào lính và ngăn chặn đào ngũ.
         
        Kết quả của những biện pháp kể trên là: Thiệu đã nâng được quân số lên đến mức “phi thường”. Chiến tranh vẫn diễn ra rất ác liệt. Số thương vong rất lớn. Nhưng số đào ngũ thì lại ít hơn tương đối, nhất là trong thời kỳ từ 1969 đến mùa xuân 1972. Do mua chuộc kết hợp với vây lùng, một phần khá lớn số quân đào rã ngũ lại trở lại quân đội. Tỷ lệ số quân trở lại trong tổng số quân đào rã ngũ như sau: 1968-38%,1969-65%, 1970-77%, 1971-62%, 1972-38%, 1973-41%, 1974-41%.
         
        Cùng với việc tăng quân số, Mỹ đã viện trợ cho Thiệu một lượng vũ khí lớn chưa từng thấy: 1.900.000 khẩu súng, 1.532 khẩu pháo, 56.000 xe cơ giới, 1.074 xe tăng và thiết giáp, 1.800 máy bay, trong đó có 600 trực thăng, 50.000 máy vô tuyến và 70.000 máy hữu tuyến. Đến thời kỳ này, sức trang bị của một sư ngụy đã bằng sức trang bị của một sư đoàn Mỹ. Cũng nhờ viện trợ Mỹ, lục quân và hải quân ngụy được Mỹ cho là “mạnh thứ tư trên thế giới”, không quân thì “đứng thứ mười trên thế giới”.
         
        Trong lĩnh vực kinh tế, Mỹ viện trợ cho Thiệu trên dưới 800 triệu đô la hàng năm. Như vậy là đã tăng hơn trong thời kỳ trước. Tuy nhiên, nếu so với mức tăng của viện trợ quân sự, thì viện trợ kinh tế tăng kém hơn. Thực ra, Mỹ không muốn gánh vác quá nhiều trong lĩnh vực này.Điều quan tâm số một của Mỹ là củng cố quân đội. Còn những khó khăn kinh tế (vật giá gia tăng, lạm phát, thất nghiệp, kinh tế đình đốn) thì Mỹ muốn Thiệu phải tự giải quyết lấy phần lớn.
         
        Chính vì thế cho nên trong thời kỳ “Việt Nam hóa”, về mặt quân sự thì quân số tăng lên, trang bị nhiều hơn, nhưng về mặt kinh tế thì tình hình ngày càng xấu đi.
         
        Từ năm 1969, khi Mỹ bắt đầu rút quân nhỏ giọt, và nhất là từ 1973,khi quân Mỹ đã rút hết, thì nền kinh tế trong vùng Thiệu kiểm soát đi vào một thời kỳ tiêu điều, rối loạn và khó khăn trầm trọng.
         
        Trong thời kỳ còn quân Mỹ chiếm đóng, hàng năm Mỹ đổi cho Thiệu từ 3 đến 4 trăm triệu đô la đó lấy bạc Sài Gòn để lính Mỹ chi tiêu. Thiệu dùng mấy trăm triệu đô la đó để có thể nhập cảng thêm. Ngân sách có thêm tiền. Thị trường có thêm hàng.
         
        Quân Mỹ rút đi, nửa triệu cái ví tiền cũng rút theo. Mất đi vài trăm triệu đô la ngoại tệ, đối với ngân sách Sài Gòn là một tổn thất khủngkhiếp. Để lấp vào lỗ hổng đó, Thiệu đặt ra nhiều thứ thuế. Mức thu thuế năm 1969 là 67 tỷ, năm 1970 là 100 tỷ, năm 1971 tỷ… Cùng với tăng thuế, Thiệu cho lạm phát với tốc độ “phi mã”. Rút cuộc, những khó khăn của chính quyền Thiệu lại trút lên đầu nhân dân.
         
        Cũng do ngoại tệ giảm sút nên hàng nhập cảng ít đi. Hàng loạt mặt hàng từ 1972 không thấy nhập vào nữa. Các kho hàng vơi dần. Hàng hóa ở các cửa hiệu đã bắt đầu thưa thớt.
         
        Tăng thuế, lạm phát và giảm bớt nhập khẩu - đó là ba cái lò xo đẩy vật giá tăng lên khủng khiếp. Chỉ trong vòng một năm -1973 - so với năm 1972 - giá gạo tăng 100%, giá đường tăng 6 lần, giá phân bón, sợi, xi măng… đều tăng từ 100 đến 200%.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #17 vào lúc: 25 Tháng Năm, 2017, 02:10:30 am »

         
        Do nhập cảng bị hạn chế, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu khan hiếm và tăng giá, một số xí nghiệp thu hẹp sản xuất, một số xí nghiệp đóng cửa. Nông dân cũng không mua nổi xăng dầu chạy máy. Giá phân bón tăng lên. Thuốc trừ sâu nhiều nơi không có mà mua. Trong năm 1973, sản xuất nông nghiệp giảm sút 20%. Quân Mỹ rút còn gây ra một hậu quả lớn nữa: hàng triệu người đã quen sống bằng những nghề phục vụ quân đội Mỹ, nay bỗng mất nguồn thu nhập. Hàng ngàn, hạng vạn khách sạn, tiệm ăn, tiệm nhảy, phòng trà, quán rượu, quán bia, tiệm may, nhà tắm hơi, tiệm cắt tóc, giặt là trong những năm trước đua nhau mọc lên để phục vụ và hốt bạc của quân đội Mỹ, nay vắng khách hẳn đi. Hàng chục vạn người phi sản xuất, nhưng vẫn có thu nhập dồi dào bằng những nghề làm đĩ, chạy tắc xi, đạp xích lô, đánh giầy, buôn đô la, buôn hàng căng tin Mỹ… nay bỗng “thất nghiệp”. Thời Mỹ chiếm đóng, ngoài số người đông đúc làm nghề tự do kể trên, các cơ quan Mỹ thuê tới 15 vạn công nhân chính thức, gồm viên chức, công nhân, kỹ thuật viên, phiên dịch, lái xe… Nếu kể cả gia đình họ, thì có tới 75 vạn người sống bằng lương do Mỹ trả (AP 10-7-1970). Mý rút đi, 75 vạn người này cũng mất thu nhập.
         
        Theo Bộ Kinh tế Sài Gòn, đến tháng 9-1973, miền Nam có tới 2 triệun gười “thất nghiệp”, mà 50% số này là ở Sài Gòn (Điện tín 27-9-1973).
         
        Thất nghiệp, thu nhập giảm sút, vật giá tăng, thuế tăng… làm sức mua giảm đi nghiêm trọng. Năm 1973, sức mua giảm 50%. Số người ăn xin năm 1973 bỗng tăng gấp đôi các năm trước. (Điện tín 10-10-1973).
         
        Năm 1964, khi định đưa quân Mỹ vào Nam Việt Nam, Johnson và Tylor đã nhiều lần đắn đo, ngần ngại, sợ những phản ứng quyết liệt trong xã hội Việt Nam, trong cả chính quyền và quân đội.
         
        Nhưng từ 1969, nhất là từ 1972, việc Mỹ rút quân lại gây ra nhiều nỗi hoang mang trong hàng ngũ chính quyền, quân đội và cả một bộ phận dân cư đô thị đã quen sống nhờ sự có mặt của quân đội Mỹ. Tờ Chấn hưng kinh tế viết: “Bớt một quân nhân ngoại quốc tức là bớt một người chi tiêu trên đất nước Việt, bớt ngoại tệ và bớt lợi tức cho những giới sống nhờ sự hiện diện của quân nhân ấy” (Chấn hưng kinh tế 29-1-1970).
         
        Đây cũng là một cách để đi tới chỗ thống trị một quốc gia: Đem lợi ích vật chất áp đặt lên trên sự nghi kỵ, tự trọng và ý thức về chủ quyền. Dùng những kích thích vật chất làm tê liệt những phản ứng chân chính. Đưa người ta từ chỗ sợ hãi và căm ghét tới chỗ quen dần, từ quen dần đến dễ chịu, từ dễ chịu đến nghiện ngập và do đó mà trở thành nô lệ.
         
        Cảnh khủng hoảng của xã hội miền Nam năm 1973 chính là biểu hiện của trạng thái nô lệ đó. Đó là hậu quả của sự nghiện ngập và nhiễm độc sau nhiều năm sống nhờ viện trợ. Một cảnh tượng u ám bao trùm lên đời sống các đô thị. Đâu đâu cũng thấy người ta nói đến khó khăn, ế ẩm, phá sản, thất nghiệp, thiếu thốn, thuế cao, giá đắt, hàng khan hiếm…
                   
         “Đi tới đâu cũng thấy bộ mặt như đưa đám. Làm sao đủ sống? Hầu hết mọi gia đình trong các thành thị miền Nam, trừ những kẻ giàu có, đang đặt cho mình và cho nhau câu hỏi đó… Và chẳng ai trả lời được” (Báo Điện tín 1-4-1974).
         
        Một ký giả Mỹ nhận xét: “Điều mà người Mỹ lo lắng nhất hiện nay có lẽ là sự tồn tại về mặt kinh tế của chế độ Thiệu… Từ tháng 1-1973 rõ ràng là không có lĩnh vực nào mà địa vị của Thiệu lại sa sút nhanh chóng như lĩnh vực kinh tế” (G.Kolko. Báo Thế giới ngoại giao, tháng 7-1973).
         
        Một ký giả Pháp nhận xét: “Khi nhìn vào tình hình miền Nam năm1973, những người bi quan nhất chưa phải là các chuyên gia quân sự,mà là các chuyên gia kinh tế. Những bát cơm của Sài Gòn đang vơi dần đi” (J.C.Pomonti-Sự cuồng nhiệt muốn làm người VN. Đã dẫn tr.21).
         
        Chính Cooper, cố vấn kinh tế của sứ quán Mỹ ở Sài Gòn cũng nhận xét rằng: Nền kinh tế miền Nam giống như đang ngồi trong bữa tiệc của Damocles, sợi tóc không biết sẽ đứt lúc nào” (Damocles là mộtnhân vật trong cổ tích Hy Lạp, được mời đến dự một bữa tiệc linh đình, nhưng trên đầu có thanh gươm treo bằng một sợi tóc, và khi nhìn thấy, anh ta thấy tiệc chỉ là một nơi hành quyết).
         
        Nếu đọc lại những tờ báo ở Sài Gòn năm 1973, ta thấy nhan nhản những lời rên la về những khó khăn kinh tế.
         
        Trong năm 1974 và đầu năm 1975, các khó khăn càng nghiêm trọng hơn. Viện trợ Mỹ giảm dần, xuống 1,5 tỷ, rồi 1,2 tỷ. Chính quyền Sài Gòn la ó, nằn nì. Nhưng Quốc hội Mỹ đã tỏ ra cứng tay hơn trước nhiều trong việc siết dần cái vòi viện trợ lại. Những lời tường trình của Tổng thống Mỹ cũng vô hiệu.
         
        Thái độ của Quốc hội Mỹ dường như là một điều gì mới mẻ. Thực ra, nó cũng được biểu quyết bởi lấy nhiều con người đã từng hò hét ủng hộ chiến tranh Việt Nam. Sau hơn 20 năm lao sâu vào vòng chiến, hơn 20 năm đổ của vào để giành thắng lợi, tốn kém đã quá nhiều, mà thất bại đã hiện ra ngày càng rõ trước mắt. Mệt mỏi, chán nản, đổ vỡ trong ý chí xâm lược, lảng tránh “trách nhiệm” - chính đó là bản chất của thái độ bàng quan của Quốc hội Mỹ lúc đó.
               
        Khi quân giải phóng đã tiến tới Xuân Lộc, Martin còn viết cho Thiệu một bức thư: “Nếu người Mỹ thấy Quân lực Việt Nam không những giữ vững được vị trí, mà còn thắng được một vài trận, thì sẽ góp phần đưa đến những khoản chuẩn chi mới, với số lượng đầy đủ”.
         
        Nhưng ngay một chiến thắng nhỏ bé cũng không có.
         
        Sợi tóc đã đứt. Nếu không có viện trợ Mỹ, thì nó đã đứt từ trước nữa rất nhiều.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #18 vào lúc: 26 Tháng Năm, 2017, 12:33:17 am »

           
        VIII. NHÌN LẠI QUÁ TRÌNH XÂM NHẬP CỦA MỸ VÀO MIỀN NAM VIỆT NAM
         
        Sau khi điểm qua các giai đoạn lịch sử cụ thể, có thể thấy được mộtsố đặc điểm trong quá trình xâm nhập của Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Nắm được các đặc điểm đó, sẽ hiểu rõ hơn về cơ cấu, về sự vận hànhvà những kết quả của viện trợ Mỹ, mà ta sẽ đi vào trong các chươngtrình sau.
         
        - Vào Việt Nam, Mỹ bị phản đối và đánh trả ngay từ đầu
         
        Vào Việt Nam, Mỹ gặp một tình thế khác hẳn ở nhiều nơi. Ở đây Mỹ không đóng nổi vài trò giúp đỡ cuộc giải phóng dân tộc, mà lại đóng vai trò giúp đỡ cho kẻ thù của cuộc giải phóng đó. Mỹ đến Việt Nam không có danh nghĩa chính đáng.
         
        Ngay cả một số những nhân vật trong chính quyền tay sai, chẳng qua vì lợi ích mà phải dựa vào Mỹ, còn trong thâm tâm, nhiều ngườicũng không ưa gì Mỹ. Cơ sở của Mỹ ở đây rất yếu.
         
        - Ở Việt Nam, Mỹ chỉ có được một chính quyền tay sai bản xứ kém cỏi và mục nát, chính quyền đó không còn chỗ dựa nào khác ngoài sức mạnh của Mỹ.
         
        Những lực lượng tiến bộ của xã hội đã đứng dưới lá cờ cách mạng. Phần còn lại mà Mỹ nắm được chỉ là những phần tử mục nát của xã hội. Từ Bảo Đại đến Ngô Đình Diệm, từ Nguyễn Khánh đến Nguyễn Văn Thiệu, đều không còn thế lực kinh tế, chính trị hay tinh thần.
         
        Chính vì vậy, trong trường Việt Nam, Mỹ không tốn công tốn của lắm để khống chế chính quyền tay sai. Nhưng cũng chính vì thế, Mỹ phảitốn rất nhiều công nhiều của để nhào nặn và chống đỡ cho nó khỏi sụp đổ.
         
        - Ở Việt Nam, Mỹ buộc phải dùng đến chiến tranh. Ban đầu, đó chỉ làcuộc chiến tranh đàn áp, do tay sai thực hiện, với sự giúp đỡ tiền, của.Việc đó không thành công. Mỹ đã trực tiếp đưa quân vào, mở rộngchiến tranh với quy mô to lớn. Theo những nguyên tắc của chủ nghĩathực dân mới, thì đây là hạ sách, nó chỉ dùng đến khi không còn cáchnào khác nữa.
         
         - Tất cả mọi hoạt động của Mỹ ở Việt Nam mới nằm trong khuôn khổ của giai đoạn bình định, chưa chuyển sang giai đoạn khai thác. Nếu kể từ ngày quân Pháp rút lui, cho đến 30-4-1975, lịch sử xâm nhập của Mỹ ở Việt Nam cũng đã tới 21 năm. Đó là một thời kỳ quá dài do với tốc độ xâm nhập của Mỹ ở các nước khác. Nhưng trong suốt 21 năm đó, Mỹ bị đánh liên tục, không lúc nào được ổn định, và chưa bao giờ hoàn thành được giai đoạn bình định. Chính vì vậy, ta thấy Mỹ tốn kém quá nhiều, nhưng lại chưa thu về được gì. Điều đó nằm ngoài ý kiến ban đầu.
         
        - Vì tất cả những đặc điểm kể trên nên ở Việt Nam, Mỹ đã phải sử dụng tới mức tối đa sức mạnh của tiền của. Trong toàn bộ lịch sử xâm nhập của Mỹ ở miền Nam, viện trợ đóng vai trò to lớn, là công cụ cơ bản để tiến hành chiến tranh, để mua chuộc tay sai, để ràng buộc dân chúng bằng lợi ích vật chất, để thay thế cho cái sức hấp dẫn của lương tâm và lẽ phải.
         
        Những thủ đoạn kinh tế phổ biến khác như bóc lột bằng cho vay, đầu tư, khai thác tài nguyên, trao đổi không ngang giá… thì ở Việt NamMỹ chưa tạo được điều kiện để thi hành với quy mô lớn.
         
        Chính vì vậy, khi nghiên cứu sự xâm nhập của Mỹ vào miền NamViệt Nam, về phương diện kinh tế, điều trước mắt và chủ yếu nhất là tìm hiểu viện trợ Mỹ, các hình thức của nó, cơ chế của nó, sự vận hànhcủa nó, tác dụng và ý nghĩ của nó trong đời sống xã hội miền Nam Việt Nam.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #19 vào lúc: 27 Tháng Năm, 2017, 08:18:04 pm »

       
Chương III

SỐ LƯỢNG VIỆN TRỢ - NHỮNG NHẬN XÉT SƠ BỘ
         
        Viện trợ Mỹ là gì, gồm những gì?
         
        Theo các tài liệu của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, số lượng viện trợ hàng năm gồm những của cải tính thành tiền mà Mỹ cấp cho chính phủ Sài Gòn. Số của cải này gồm hai khoản chính: viện trợ quân sự và viện trợ kinh tế.
         
        Nhưng nếu xem xét viện trợ Mỹ với tính chất như những thứ mà Mỹ đưa vào để chống đỡ cho các thế lực bản địa, nhằm dọn đường cho sự thống trị của Mỹ, thì cái gọi là viện trợ không chỉ bao gồm những thứ đó.
         
        Số của cải hàng trăm tỷ đô la mà Mỹ trực tiếp chi phí ở Nam Việt Nam, những hoạt động của hơn nửa triệu quân viễn chinh Mỹ và “đồngminh” do Mỹ đài thọ, số tiền hàng trăm triệu đô la do Mỹ đổi lấy bạcViệt Nam để chi tiêu, số hàng hóa mà các căng tin (P.X) bán ra cho quân Mỹ và được quân Mỹ tuồn ra thị trường… là những khoản không được liệt vào “Viện trợ Mỹ”. Các khoản này có nhiều năm còn lớn hơn cả những khoản gọi là “viện trợ”. Đó cũng là những của cải do Mỹ đưa vào miền Nam Việt Nam. Khi xem xét viện trợ Mỹ, cũng phải xem xét đến những khoản này.
         
        Cách quan niệm này đòi hỏi những cách tính toán khác và những sự sắp xếp khác. Đó là một khó khăn. Có những khoản chúng tôi có thể sắp xếp lại và tính toán lại. Nhưng có nhiều khoản không đủ số liệu để tính toán.
         
        Chẳng hạn, không thể nào tính được số của cải vốn thuộc khu vựcquân sự, do các hoạt động tham nhũng, ăn cắp, mà lọt ra thị trường và đi vào đời sống kinh tế của xã hội.
         
        Cũng chưa có đủ số liệu để tính số hàng hóa cung cấp trong nội bộ quân đội, như hàng “quân tiếp vụ” và hàng P.X, đã lọt ra thị trường là bao nhiêu, mặc dầu ai cũng thấy số hàng hóa này đóng vai trò rất quan trọng đối với tình hình cung cầu, giá cả và tiêu dùng ở miền Nam.
         
        Phần lớn nhất của viện trợ là vũ khí và tiền của để nuôi quân đội. Cho đến nay, chưa thể nào tính hết được số “viện trợ” đó đã tham gia vào đời sống kinh tế như thế nào. Có bao nhiêu ngàn tấn vỏ đạn đã lọt ra thị trường và từ đó đã kéo được bao nhiêu ngàn tấn dây đồng? Có bao nhiêu vạn tấn sắt thép phế thải chiến tranh đã cung cấp cho các nhà máy cán thép?
         
        Ngoài những khó khăn do thiếu số liệu, chúng tôi còn gặp khó khăn trong việc lựa chọn và sử dụng những số liệu đã có. Số liệu về “viện trợ” đều là số liệu do Mỹ và Chính phủ Sài Gòn công bố. Trong nhiều trường hợp, những con số này đã bị tính sai. Giá vũ khí thường được tính thấp một cách giả tạo, do đó, phần viện trợ quân sự nhỏ hơn thực tế. Viện trợ kinh tế thường được thổi phồng, một phần do những khoảnviện trợ quân sự gán sang, một phần do hàng viện trợ Mỹ được tính theo giá cao hơn giá trên thị trường quốc tế…
         
        Dưới đây, chúng tôi trình bày những số liệu đã có. Có những phần chưa đủ số liệu để tính toán, xin để chờ đợi những kết quả khai thác được sau này. Những số liệu được ghi ở đây, chắc còn có nhiều chỗ không đúng với sự thật, do đó, vẫn nên có một sự dè dặt nhất định khi xét đoán và phân tích.
         
        Trước khi đi vào phân tích các con số về các loại viện trợ, cũng cần lưu ý một điều nữa: sự giảm giá đô la trên thị trường quốc tế. Như vậy, ngay cả trong trường hợp những con số dưới đây là xác thực, thì nó cũng chỉ phản ánh được số lượng viện trợ tính ra đô la theo thời giá hoặc theo giá do Mỹ quy định, chứ không phản ánh thật chính xác khối lượng của cải thực tế mà viện trợ Mỹ đưa vào miền Nam Việt Nam.
         
        Nếu nhìn một cách khái quát về các khoản viện trợ Mỹ ở Nam Việt Nam, và cũng mới chỉ xét riêng về mặt số lượng, người ta có thể nhận thấy ngay đặc điểm sau đây:
         
        Thứ nhất, khối lượng viện trợ Mỹ cho miền Nam Việt Nam như vậy là rất lớn.
         
        Số chi phí trực tiếp của Mỹ cho chiến tranh Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh cục bộ lên tới 20 tỷ 1 năm, bằng 1/3 ngân sách quốc phòng Mỹ và bằng 1/10 tổng ngân sách Mỹ.
                   
        Riêng số viện trợ cho Sài Gòn trong 21 năm là 26 tỷ đô la. Đó là con số cao nhất của viện trợ Mỹ tại bất cứ nước nào khác trên thế giới kể từ sau đại chiến thế giới lần thứ II.
         
        Nếu chỉ xét riêng viện trợ kinh tế, thì tổng số cũng tới 12 tỷ đô la. Đó cũng là mức chưa nước nào trên thế giới nhận được.
         
        Ấn Độ, “thị trường lớn nhất của Mỹ” ở Đông Nam Á, trong 20 năm từ 1951 đến 1970, đã nhận được tổng số viện trợ Mỹ là 9,3 tỷ đô la. Trong 22 năm, từ 1945 đến 1967, Mỹ viện trợ cho Philippin 1.982,8 triệu đô la, cho Thái Lan 1.182,3 triệu đô la, cho Indonesia 983,8 triệu đô la.Tính trung bình, viện trợ Mỹ cho Nam Việt Nam thường chiếm khoảng một nửa tổng số viện trợ Mỹ cho toàn Đông Nam Á.
         
        Ở châu Phi, tính trong 25 năm, từ 1946 đến 1970, tổng số viện trợ Mỹ cho tất cả các nước Phi châu là 4,9 tỷ. Trong đó, năm cao nhất, năm1964, chỉ đạt tới 474 triệu. Tính trung bình thì mỗi năm viện trợ Mỹ cho toàn châu Phi chỉ vào khoảng hơn hai trăm triệu, bằng 1/5 mức trung bình một năm của Nam Việt Nam. Còn nếu xét riêng từng nước thì viện trợ Mỹ mỗi năm chỉ độ vài chục triệu đô la (Stewatt Smith. U.S,Neocolonialism in Africa. Progress Publishers, Moscow, 1974, P.79).
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM