Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 10:42:53 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cuộc chiến tranh Đông Dương  (Đọc 85335 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #70 vào lúc: 18 Tháng Mười Hai, 2017, 12:09:02 pm »


Hồ Chí Minh biết việc mình làm khi chỉ định Nguyễn Bình vào miền Nam. Đảng thực sự của Việt Minh ở Bắc Kỳ với Bác Hồ, Tổng bộ Việt Minh và những đồng chí cộng sản cũ, quân đội đỏ, nắm giữ tất cả những người điều khiển chính trị. Nhưng chế độ này không được giới tư sản Nam Kỳ cách đây một nghìn năm trăm cây số chấp nhận. Ở Nam Kỳ, Việt Minh mới chỉ là "những người quốc gia". Vì vậy thay vì gửi và để lãnh đạo một người hoàn toàn, một người biện chứng đầy óc lạnh lùng, Hồ Chí Minh cử một người lãng mạn. Trong sáu năm Nguyễn Bình thực hiện nhiệm vụ của mình.

Từ năm 1945 đến 1948 là những năm vinh quang của ông. Ông là một anh hùng trong dân chúng, là người của mọi say mê. Ông hào phóng, độc đoán, tàn ác, không mệt mỏi, không thương xót. Ông bố trí tổng hành dinh ở cửa ngõ Sài Gòn, trong Đồng Tháp Mười, vùng đầm lầy trải rộng từ Chợ Lớn đến Căm-bốt. Ông thích làm việc lớn, bắt đầu tổ chức một đội quân bảo vệ cứng rắn, trang bị vũ khí tốt nhất và tận tuỵ với một mình ông. Ông có một đài phát kêu gọi kháng chiến. Ông lôi kéo vào con đường Việt Minh Nam Bộ - tự trị gần như hoàn toàn đối với Tổng bộ ở Bắc Kỳ quá xa. Chẳng bao lâu ông khống chế tổ chức này.

Trong mấy tuần lễ, Ban chỉ huy của ông trở thành rộng lớn, một thế giới cũng phức tạp như một ban tham mưu Pháp. Nhân viên, liên lạc viên, cán bộ chính trị lui tới không ngừng, những người đưa tin tức tới và đi truyền đạt mệnh lệnh. Các phái đoàn nối tiếp nhau đến gặp Ban chỉ huy. Nguyễn Bình vừa là sự say mê vừa là sự khiếp sợ.

Ban chỉ huy của Nguyễn Bình thường đóng trên đảo nhỏ, một trong những mảnh đất chỉ cao hơn mặt nước mấy phân. Xung quanh chỉ là cỏ, lau sậy, những cây sống dưới nước, thân rất lớn. Những cơ sở Việt Minh, nguỵ trang rất khéo, người Pháp chẳng thấy gì - chỉ là trống không và mùi hôi thối của đầm lầy.

Đồng Tháp Mười cạnh tranh bất hợp pháp với Sài Gòn. Đấy là đại bản doanh đỏ, vô hình, đứng lên chống lại thành phố tư bản rộng lớn, dựa vào sự nghiêm khắc và cuồng tín chống đồng bạc và lối sống hưởng thụ. Đấy là cơ sở cách mạng miền Nam, tương đương với khu "tứ giác" của miền Bắc. Đồng Tháp Mười là tứ giác bùn lầy, không như tứ giác rừng rậm. Nhưng ở đây cũng đầy trại lính, kho tàng, cơ xưởng, trường học, có mọi tổ chức của cuộc chiến tranh du kích quy mô lớn. Tất cả những cái đó di động, bằng tre tháo dỡ được dễ dàng chuyên trở trên thuyền đi từ đảo này sang đảo khác, luôn luôn cơ động. Những chuyến di chuyến nổi này lướt trên những mương rạch trước kia người Pháp cho đào để tiêu nước vùng đầm lầy. Bờ mương là những giải băng đệm cũng là những chỗ ở của Việt Minh.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #71 vào lúc: 18 Tháng Mười Hai, 2017, 12:09:50 pm »


Nguyễn Bình từ Đồng Tháp Mười của mình làm tất cả, bao giờ cũng nhiều hơn. Ông huy động cả một dân tộc, đàn ông, đàn bà, những người chưa đi theo các giáo phái hoặc người Pháp. Với những tư sản và trí thức, ông cho mang thư đến trong đó viết: "Các ông hãy đến với tôi trong cuộc Kháng chiến. Tôi không ở đảng nào, tôi ở trên các đảng. Tôi chiến đấu vì Tổ quốc". Với nông dân ông hứa cấp đất đai - để bắt đầu họ chia nhau những vùng đất của các điền chủ lớn và không xứng đáng. Ông kêu gọi những người "hạ lưu", đàn bà, người già và trẻ con. Vì mỗi người ai cũng có thể có ích, mỗi người làm một nhiệm vụ như do thám, đưa tin hoặc tiếp phẩm, bắn súng, ném lựu đạn. Nguyễn Bình hình thành những băng nhóm, các uỷ ban, các đường dây khắp nơi.

Ông khơi ngọn lửa tinh thần, nói với mọi người lời lẽ của chủ nghĩa anh hùng và say mê. Trong những điều ông nói bao giờ cũng có tinh thần yêu nước, đẹp đẽ và chân thành. Đấy là một tình yêu trọn vẹn buộc phải đi đến cùng. Nguyễn Bình tự mình tuyên bố điều đó: "Vì lợi ích nước nhà, người ta không được lùi bước trước bất cứ việc gì, càng thất bại càng đứng lên..."

Ông cũng sử dụng tâm lý tập thể, máy móc xây dựng tình cảm, dạy cho dân chúng nhiệt tình và căm thù. Hàng ngày trong Đồng Tháp Mười hoặc bí mật ở Sài Gòn, các xưởng in đưa ra hàng tấn truyền đơn, áp phích, báo chí. Trên hình ảnh nhiệt tình, những bồ câu hoà bình bay đến Hồ Chí Minh. Nhất là có nhiều hình ảnh về căm thù. Người Pháp hoặc kẻ phản bội khúm núm xin dân chúng chiến thắng gia ân. Họ bị hành quyết và cái chết của họ là một bức ảnh giáo dục mọi người.

Bằng mọi cách, vật chất hoặc tinh thần, Nguyễn Bình tổ chức thúc đẩy cuộc chiến tranh. Ngoài lực lượng quần chúng ông đã có khoảng sáu trung đoàn "chính quy". Ông chia Nam Kỳ thành ba vùng chiến tranh, mỗi vùng có một mục tiêu đặc biệt.

Miền Đông là cuộc chiến về cao su. Trên vùng "đất đỏ” rừng rậm lộn xộn được thay thế bằng những hàng cây cao su không dứt. Ở bìa rừng mênh mông của Đông Dương, những đồn điền lớn của thế giới là mồi ngon của Việt Minh. Họ bao vây những mảng của hệ thống tư bản ấy - vùng đất của các công ty quốc tế - nhưng không phải để phá huỷ mà để cùng hưởng lợi.

Miền Tây là cuộc chiến lúa gạo. Ngoài công quốc Hoà Hảo ở cửa sông Mékong trải rộng một vùng đất Việt Minh. Đấy là bán đảo Cà Mau, rừng sú vẹt ngập nước đầy sốt rét và rắn - nơi tập trung bùn lầy sông Mékong đổ vào theo địa hình tự nhiên. Trong vùng hoang vắng không người ở này, kháng chiến đã di cư hàng chục, hàng trăm nghìn dân quê đến làm ruộng. Đây là vựa lúa của họ.

Ở giữa, trong phức hệ Sài Gòn - Chợ Lớn - Đồng Tháp Mười, là cuộc chiến với chính đồng bạc Đông Dương. Cuộc chiến quan trọng nhất, Nguyễn Bình trực tiếp chỉ đạo.

Ông tổ chức một hệ thống hoàn chỉnh cho cuộc chiến tranh du kích, đủ cung cấp cho mình. Ông chi phí toàn bộ cho cuộc chiến tranh hoặc đúng hơn là những cuộc chiến tranh. Ông có các khoản thuế - chủ yếu về lúa gạo và vận chuyển lúa gạo - có pháp chế tài chính, có bộ trưởng tài chính của mình, một chế độ kế toán vô cùng chính xác. Không một người dân, chức sắc nào của Sài Gòn hay Nam Kỳ, dù đã trả thuế má cho người Pháp, chính quyền Việt Nam và giáo phái, cũng không dám từ chối sự đóng góp ông đòi hỏi.

Sài Gòn là "con bò sữa" của ông. Để sống Nguyễn Bình bám chặt vào sự thịnh vượng do chiến tranh đưa lại. Đội quân viễn chinh, đồng bạc Đông Dương có giá trị mười bảy phrăng. Để có lợi nhất ông tạo ra một cân bằng giữa hai sự cần thiết đối lập. Mức độ tốt nhất là khủng bố đủ cho mỗi người nộp tiền mà không thủ tiêu hoạt động kinh tế.

Ông gửi một phần công quỹ ra Bắc, giữ phần còn lại để mua vũ khí, đạn dược ở nước ngoài, nhất là ở Bangkok. Trong việc mua bán này, ông thiết lập những con đường hàng trăm cây số qua rừng núi Căm-bốt và bán đảo Cà Mau: đấy là những con đường mòn được bố trí từng chặng và bảo vệ chu đáo. Những con thuyền lớn, cả những tàu hàng bốc dỡ những hòm vật liệu lên bờ hoang vắng của vịnh Thái Lan và lại ra đi chở đầy lúa gạo. Những đoàn dân công mang gạo tới, trở về còng lưng dưới sức nặng những gói súng cối và lựu đạn. Hành trình những "người mang vác" đặt trước sự kiểm soát của một số quân lính của Lữ đoàn Hải ngoại (gọi như thế vì lữ đoàn được tạo thành từ những người tình nguyện Việt Nam ở nước ngoài). Thường cũng có một đoàn thuyền thay thế người vượt qua Nam Kỳ trên những con rạch khúc khuỷu trong đất liền hoặc trên đường phân giác những con kênh nước đen ngòm.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #72 vào lúc: 18 Tháng Mười Hai, 2017, 12:10:18 pm »


Điều Nguyễn Bình - người tổ chức cuộc chiến tranh du kích rộng lớn và tổng hoà này - đòi hỏi ở mình thật ghê gớm. Ông đi chiến đấu ở Sài Gòn không sợ hãi, hết sức mạo hiểm. Trong những cuộc di chuyển ông đi cùng đồng đội không nhận một ưu tiên gì. Không có thì giờ ngủ, có những cơn sốt ác tính. Bệnh tật làm người ông quắt lại, đôi mắt có quầng to ra trên khuôn mặt xương xẩu - nhưng ông không dừng bước. Phải chăng ông đã trở thành một người điên rồ?

Điều ông đòi hỏi ở quân lính cũng đáng sợ. Không hy vọng được sống sót, họ buộc phải hy sinh vì mệt mỏi hoặc vì chiến đấu. Nguyễn Bình không hề quan tâm đến mạng sống, ít hơn nhiều so với ông Giáp ở miền Bắc. Ngoài kia việc gì cũng đã được xác định. Tỷ lệ tối đa về thương vong đã được dự kiến trước. Khi đã đến mức đó lực lượng ông Giáp ngừng ngay lại, kể cả đang thắng lớn. Nguyễn Bình không bao giờ bỏ dở. Ông luôn thúc đẩy quân lính tiến lên cho đến lúc lính của ông bị dìm xuống vì họ chưa có vũ khí cần thiết, chưa đủ móc-chi-ê và ba-dô-ka.

Tuy vậy trong lúc những công trình Pháp ở Nam Kỳ đồ sộ như không thể chiếm được trừ bằng mưu kế Nguyễn Bình đã tấn công nhiều đợt từ cuối năm 1948. Do sử dụng "làn sóng người" với những hậu quả đáng sợ. Ông thích cái lãng mạn của nhiệm vụ mà quân lính lao vào súng đại liên, lớp này đến lớp khác công kích dữ dội một đồn bốt cho đến lúc những người chống đỡ chạy đi vì súng đỏ lên, bị nhấn chìm. Việt Minh của Nguyễn Bình nối tiếp nhau hét vang và ngã xuống. Họ xông lên qua những lớp xác đồng đội hị hạ gục trước đó. Cứ như vậy mỗi lần Nguyễn Bình quyết định hạ một bốt địch. Lúc ấy chẳng có gì đáng kể.

Thường cũng có thất bại và bị tàn sát. Nguyễn Bình cho xử lý những người sống sót, bị kết tội vì hèn nhát. Tính ông là vậy. Càng ngày ông càng bị ám ảnh vì nhiệm vụ to lớn của mình. Một lần ông nói: "Tôi những muốn có lòng thương xót nhưng không thể vì tôi yêu Tổ quốc tôi".

Dân chúng luôn yêu mến ông, coi ông hơn một người anh hùng, là một thánh sống.

Với cách dùng bạo lực, ông không tránh khỏi những sai lầm nghiêm trọng. Chính ông quyết định thanh toán các giáo phái. Ông ghê tởm họ như là hiện thân của những gì hạ thấp con người vì mê tín và ngu ngốc. Việc ám sát thánh sống của Hoà Hảo và việc ám sát hụt Bảy Viễn đẩy các giáo phái vào tay người Pháp. Nguyễn Bình là một người lý tưởng, tin vào sự tiến bộ của khoa học và lý luận. Vì lý tưởng chống những cái xấu xa về thể xác và tinh thần mà ông đổ bao nhiêu máu và vui thích làm việc đó.

Phái viên của Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp vào kết tội ông. Có người đã hét vào mặt ông tại trụ sở Ban chỉ huy: "Anh chỉ là một người vô chính phủ. Thay vì phân tích đúng đắn tình hình, anh chỉ tự tin vào mình. Với những sai lầm quá lớn anh đã phản lại chiến thắng của dân tộc."

Nguyễn Bình nhẫn nhục nhận những lời trách cứ. Ông hối lỗi, được giữ lại chức vụ chỉ huy. Những người cộng sản chờ đợi ở ông một nhiệm vụ cuối cùng. Đấy là giữ lại những người quốc gia trong công cuộc kháng chiến, biết rằng ông hành hạ họ và tự hành hạ mình.

Những năm cuối đời của mình Nguyễn Bình là bi kịch ghê gớm nhất đối với một con người. Không những ông chứng kiến sự đổ vỡ những công trình của mình mà ông còn là một công cụ có ý thức, chấp nhận vì tin tưởng vào một bổn phận cao cả và không tránh được.

Đôi khi người ta nói Nguyễn Bình là một người quốc gia giả, rằng ông là một người cộng sản nguỵ trang: Tôi thường nói chuyện với những người ra khỏi cuộc kháng chiến, những người đã bị ông đuổi đi. Họ không tin thế. Họ vẫn khen ngợi ông, là một người yêu nước trong một tình hình không lối thoát, người anh hùng bị dồn đến đường cùng, đao phủ của chính ông cũng như của bao nhiêu người khác. Đối với họ, ông hy sinh mọi tình cảm nhân đạo cho một ý tưởng - điều ông Giáp khắc sâu vào tâm trí ông, ông không bao giờ chối bỏ, phải theo đến cùng, một cách tiên nghiệm "lòng trung thực".
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #73 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2017, 02:01:40 pm »


Phép màu của sự thịnh vượng

Những cuộc chém giết ấy, những kinh hoàng ấy, dòng máu lan tràn trên các đấu trường ấy không đáng kể. Sự tàn ác được phủ bằng một sự thịnh vượng lớn lao, không ngờ được. Chưa bao giờ người ta lại sống sung sướng như thế ở Đông Dương, chưa bao giờ có nhiều người biết đến hạnh phúc như vậy.

Một ông thương gia một hôm hỏi tôi: "Ông nghĩ còn bao nhiêu năm làm ăn sung túc ở Đông Dương nữa? Miễn là những thù hận còn kéo dài!" Thực ra ý nghĩ ấy chất đầy mỗi đầu óc, không chỉ những nhà giàu có, quyền thế da trắng da vàng mà cả tầng lớp tiện dân, cu-li, dân quê. Bất kể các nạn nhân, có bao nhiêu người đương hưởng lợi!

Chính cuộc chiến tranh làm giàu mọi người, về nguồn gốc có những tỷ Chính phủ Pháp rót cho Đội quân viễn chinh để họ chiến thắng càng nhanh càng tốt - kết quả là tài trợ cho tất cả mọi người. Những tỷ bạc đổ xuống Đông Dưởng như một cơn mưa dồi dào. Việc sản xuất, công việc không còn đáng kể. Điều quan trọng là chi tiêu: buôn bán, vui chơi, nhập khẩu, vòng xoay tài chính, đầu cơ, buôn lậu. Trong nền kinh tế mới, giả tạo nhưng tuyệt vời, đồng bạc lăn qua, tất cả lúc nhúc hoạt động.

Phép màu của sự thịnh vượng đi đến đâu? Nó trải rộng đến người chết, cửa hàng Toby chuyên làm quan tài bọc kẽm, bảo đảm không rạn nứt cho phép đưa xác an toàn về Pháp mặc dù có "những phân huỷ nhiệt đới", công bố trên báo mỗi tháng làm lễ cầu kinh một lần cho linh hồn các khách hàng.

Số lượng người tự sát là chứng cứ trực tiếp của việc quản lý giỏi của Đại thế giới, cơ sở đánh bạc rộng lớn nhất trong thế giới. Toàn thể dân chúng Sài Gòn đến đấy, nó thu hút cả những đồng bạc nghèo nàn của những người cu-li đến tiền đút lót của các viên chức và tiền đầu cơ của các "nhà tỷ phú". Một trong những chủ sòng bạc tâm sự với tôi: "Bây giờ lớp bình dân cũng có khá tiền để thoả mãn nỗi đam mê của mình, trước kia họ quá khốn khổ về điều đó."

Chưa bao giờ gái gọi - lớp người màu mè của thú vui đắt tiền - tỏ ra "khó khăn” đến thế. Người ta biết rõ mức độ phẩm hạnh của họ là thước đo tốt nhất về tình hình kinh tế: thấp trong thời kỳ khủng hoảng, lên cao khi việc buôn bán phát triển ở Sài Gòn. Năm 1948 ở vũ trường cầu vồng các cô ra dáng những công chúa kiêu kỳ, đuổi thẳng những kẻ gạ gẫm thiếu tế nhị muốn chinh phục các cô bằng những xấp bạc và vật trang sức. Phải thêm vào đó lời cầu xin, thơ ca, những ngày hay những tuần chờ đợi. Mỗi cô có ít nhất hàng trăm áo dài lộng lẫy bằng lụa.

Ngược lại chưa bao giờ gái đĩ lại dễ thương đến thế. Họ nhiều lắm, vừa ra khỏi đồng ruộng, làm tình một cách rất đơn giản. Đối với họ như vậy ít nặng nhọc hơn cấy lúa! Thường là con gái chưa tới mười lăm tuổi. Họ cũng có lãi trong cuộc sống được nâng cao - không có chiến tranh họ không thể ra thành phố và tìm khách. Đối với họ khung cảnh có đáng khinh đến mức nào cũng không có gì là xuống cấp. Như họ thật ngây thơ.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #74 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2017, 02:03:02 pm »


Trại Trâu, một nhà chứa rộng bao la của quân đội xoay vần như một xưởng máy. Phía trong một bức tường đơn sơ, cách một dãy nhà kiểm dịch của những y tá bẩn và lơ là là một khu đất có rào bao quanh. Ở giữa, trên vạt sân rộng bằng đất nện bố trí những căn nhà tranh chụm vào nhau năm cái một. Ra khỏi nhà, những hàng trăm con gái da vàng nhào vào quân linh đủ mọi màu da. Trong cảnh lộn xộn, xô đẩy nhau, vừa làm những cử chỉ tục tĩu, các cô hét lên bằng tiếng Pháp những tiếng rác rưởi những từ độc nhất họ biết. Những đối tượng to béo của họ bập bẹ những lời Việt Nam khuyến khích. Những cô chèo kéo được cùng con mồi vào trong lều bỗng nhiên im lặng; những cô thất bại ôm nhau nén cười.

Cũng khác thường là Trại Trâu này ở ngay trên bờ đại lộ Galliéni nối liền Sài Gòn - Chợ Lớn. Thay vì giấu giếm người ta bày ra trước mặt toàn thành phố.

Một người "thông thái" giải thích cho tôi:

- Việt Minh xây dựng đạo đức trong một sự bí hiểm độc ác. Người Pháp có lý khi chống lại họ bằng khuyến khích truyền thống khác của Châu Á, hạnh phúc hưởng thụ, thoả mãn mọi "ảo tưởng sung sướng".

Lạ lùng là chính quyền thận trọng đối với thuốc phiện; bỏ công ty quốc doanh và đóng cửa cơ sở sản xuất của nhà nước ngay tại Sài Gòn. Nhưng ma tuý vào lậu và chưa bao giờ có nhiều người hút hít đến thế. Những con đường dân dã đầy những tụ điểm cho dân quê: họ ở trần, thân hình xương xẩu và khô đét nằm dài trên những tấm ván xếp chồng lên nhau như những xác chết đặt trong nhà mồ. Những người chạy xích lô vừa đạp vừa ăn xái thuốc làm họ mệt nhoài, lảo đảo. Ngược lại, người giàu có thiên đường mơ màng của họ, ở đó những đứa con lai nghiền thuốc thành viên nhỏ nướng trên ngọn đèn.

Ngoài việc đầy rẫy tệ nạn xã hội có mọi thứ thừa thãi. Những viên chức Việt Nam mua xe đạp và thuốc pê-ni-xê-lin. Các kho hàng ở Sài Gòn, Hải Phòng đầy ắp hàng hoá và được đưa đến luôn. Hải quan là một nghề sinh lợi. Khối lượng lớn hàng hoá ấy đổ xuống những con đường của du kích, cũng tắc nghẽn như những đại lộ ở Paris. Đi qua khắp các vùng, hàng hoá đến đủ các bên giao tranh tận từng làng xóm. Cuộc chiến xảy ra giữa những hàng hoá tồi. Khắp nơi những người bán rong ngồi xổm theo lối Phương Đông, bán sản phẩm của người Phương Tây. Ngay bên cạnh đồng ruộng người ta thấy bày ra mời chào những lọ nước hoa của đường phố, xà phòng hảo hạng, bưu ảnh, nước chanh màu hồng và những chiếc mũ thuộc địa. Để mua hàng, các bà già có một cử chỉ rất riêng. Vén chiếc áo dài, các bà lục tìm nhanh phía dưới, ngay trước bụng, chiếc túi dấu kín, rút ra những đồng bạc cáu bẩn, xếp chồng lên nhau và bắt đầu the thé mặc cả, nửa bi nửa hài.

Một bốt Pháp bố trí dù trong vùng quân đỏ, cũng là một mỏ vàng. Xung quanh bốt mọc lên như nấm những căn nhà tranh các vợ lẽ, những bà bán hàng "ăn qua loa", chủ quán rượu, các chỉ điểm, phiên dịch, bồi, bếp. Đó là một việc làm trong thịnh vượng, không hẳn là hoà bình. Ngay Việt Minh trong vùng, những người thường phục kích và chém giết, cũng đi chợ bên cạnh hàng rào - nhiệm vụ đầu tiên của một trưởng bốt là xây dựng một cung cấm. Nếu họ quá lộ mặt thì cử bà con, bạn bè đi thay. Mọi người đều là khách hàng của thương trường Pháp; và họ mua với tiền của người Pháp, trực tiếp hoặc gián tiếp đến với họ.

Súng tiểu liên sinh lợi. Nền độc lập cũng thế. Các chính quyền Việt Nam chỉ thoả mãn yêu cầu của Cao ủy Pháp bằng cách thương lượng. Mỗi lần như vậy phải thắng sự đắn đo, ngần ngại của họ, biết cách thuyết phục họ. Các bộ trưởng cao giọng về chủ nghĩa dân tộc, thao thao nói ghê tởm đánh nhau với Việt Minh, những người yêu nước Việt Nam lầm đường. Lúc đầu người Pháp kiên nhẫn trả lời rồi bực tức bảo họ có một kẻ thù chung, cộng sản: vì vậy chính quyền Sài Gòn phải tham gia nhiều hơn vào cuộc chiến tranh. Sau nhiều ngày lý giải, các ngài da vàng làm như buộc lòng chấp nhận để đổi lấy tiền: số tiền chính thức cho Nhà nước, số bổ sung kín đáo cho bản thân họ.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #75 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2017, 02:03:52 pm »


Vậy là có hai chính quyền - Cao ủy Pháp và Chính phủ Việt Nam - đủ loại ghế ngồi, cấp bậc kinh phí. Nhờ vào thuế hải quan và tài trợ của Pháp, các quỹ rất giàu. Mỗi nhân vật chính phủ chỉ định tất cả người thân, vô số bà con vào những vị trí béo bở. Một cuộc tranh chia kịch liệt. Các viên chức da vàng tỏ ra nghiêm khắc và quá tỉ mỉ. Với cách ấy họ khai thác luật lệ và những quy định tốt hơn, chữ ký của họ rất đắt. Đến những người lương ít trong bọn họ cũng sống thoải mái. Nếu họ tỏ ra yếu mềm trong việc gây khó khăn và hối lộ, các bà vợ phản ứng ghê gớm. Các bà kêu van họ bị mất mặt vì những kết quả ít ỏi; đồng nghiệp của họ khôn ngoan được tôn trọng hơn nhiều. Những ông chồng run rẩy càng làm tới; hơn những người khác, ở Việt Nam họ sợ vợ, những người chủ thực sự trong gia đình, do đó cũng là chủ công việc xã hội; những con người thanh mảnh ấy hơn hẳn đàn ông, có một nghị lực sắt và sự tham lam không gì thoả mãn được.

Qua mọi đường lạch ấy, cả những con đường khác, sự thịnh vượng trở nên vô tận. Càng lớn hơn khi các tỷ rót vào chiến tranh - mỗi ngày một tỷ - nguyên liệu thô cho mọi hoạt động - được tăng gấp đôi, có lẽ gấp ba bởi một hành động phù phép của cơ quan quản lý tài chính gọi là chuyển đổi. Đấy là việc cho phép gửi sang Pháp những đồng bạc thu được ở Đông Dương với mức hối đoái mười bảy phrăng trong lúc giá trị thực chỉ bảy hoặc tám. Công việc này được thực hiện trong một ngôi nhà bụi bặm và tồi tàn ở Sài Gòn, sở hối đoái, là trung tâm xứ Đông Dương, hơn cả Cao uỷ Pháp hoặc Bộ tổng tham mưu. Ở đây các viên chức dưới quyền với vài nét bút nhân đôi những món lãi, vốn tổng hợp, mọi tiền nong trôi nổi. Và chính Nhà nước Pháp trả món chênh lệch ấy.

Tiền lãi càng tăng khi những đồng phrăng nhận được rất nhiều ở chính quốc trở lại Đông Dương. Tiền xuất hiện lại ở Viễn Đông dưới nhiều dạng khác nhau - hàng hoá, vàng hoặc ngoại tệ. Việc chuyển lại ấy hợp pháp hay bất hợp pháp: trường hợp sau là việc “đổi chéo” béo bở. Nhưng dù bằng cách nào, mọi việc đều được thương lượng, mua bán, bảo đảm công khai hay bí mật, bằng đồng bạc có giá trị tám phrăng. Chỉ còn tiến hành một cuộc chuyển đổi mới. Việc đó kéo dài vô tận.

Dù sao giữa Đông Dương và nước Pháp vòng xoay liên tục tiền bạc, việc qua lại thường xuyên là dịch vụ mua bán tốt nhất thế giới, trung thực hay không lương thiện, về cơ bản mọi việc bị xáo trộn. Ranh giới giữa hợp pháp và bất hợp pháp thật vô địch! Không có những tiêu chuẩn chính thức để xác định cái gì hợp pháp và cái gì gian lận. Việc đó do những viên chức nhỏ sợ sệt và ham muốn, bất lực trước những lực lượng đồ sộ về tài chính và chính trị hiện hành. Họ quy định theo mức độ quan trọng của những yêu cầu, chỉ thị, theo may rủi.

Thực tế thì tất cả đứng vững. Khắp nơi là chất men xung quanh đồng bạc Đông Dương được nâng giá. Đối với toàn bộ Đông Dương là lợi dụng lợi thế bất ngờ kỳ lạ. Những người có vị trí cao làm một chính thức, những người khác “tự xoay xở”. Khác nhau chỉ có thế.

Không ai biết tên thanh tra tài chính ấn định tỷ lệ hối đoái đồng bạc Đông Dương là mười bảy phrăng. Con người này muốn khuyến khích những người Pháp ở Đông Dương và những người dân Đông Dương ủng hộ Pháp. Đây phải là một phần thưởng cho việc làm - kế cả quân sự - và cho lòng trung thành. Những đồng bạc ấy, phần bù thêm, việc chuyển đổi và mua bán tạo ra lớp người thường trực của cuộc chiến tranh Đông Dương, làm cho tất cả đứng vững - những quốc gia đồng minh, Đội quân viễn chinh, Bảo Đại và Việt Minh. Không có những việc ấy sẽ không còn thương mại, đường lối, bình định và cả cuộc chiến nữa. Hoặc ít nhất mọi thứ đã khác, đã thay đổi sâu sắc.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #76 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2017, 02:11:31 pm »


Sự liên minh của đồng bạc Đông Dương

Công cuộc bình định mà những người Pháp nỗ lực tiến hành thật chậm chạp! Thực tế tuy cố gắng nhưng họ không vội vã. Về lý thuyết họ biết mình đang lao vào một cuộc đua tốc độ nhưng thực ra họ không tin. Vì thế cuộc chiến tranh trở thành một sự hoạch định cơ chế được bố trí hoàn hảo đến mức nó tự tiếp tục vô tận như tất yếu thúc đẩy. Hơn hẳn một cuộc chiến tranh, đấy là một lối sống mới.

Dĩ nhiên người Pháp tạo dựng một liên minh “ủng hộ Pháp” chống lại Việt Minh, nhưng lại là liên minh của đồng bạc Đông Dương. Liên minh này tập hợp Đội quân viễn chinh và hàng trăm nghìn quân bổ sung, trung tâm Pháp - người da vàng làm nghề buôn bán và chuyển đổi do nhà băng Đông Dương chi phối cả thế giới chính trị với Cao uỷ, Chính phủ Việt Nam, những người hợp tác và những kẻ chờ thời của họ.

Đấy cũng lúc nhúc những căm thù và ẩn ý. Điều đó vẫn hầu như vững chắc do đồng bạc và mẫu số chung ấy cho phép mỗi người thỏa mãn lợi ích của mình. Nhưng trong hiện tình lợi lộc thường xuyên ấy không có gì biến chuyển, tiến bộ thực sự.

Bắt đầu từ Đội quân viễn chinh. Từ nay Đông Dương là một vùng chiến sự hoàn toàn, tài sản của một quân đội chuyên nghiệp. Gần khắp đất nước quân lính về phía Pháp là thực tế duy nhất. Vừa ra khỏi ngoại ô Sài Gòn, không còn nhà nước, chính quyền, luật pháp, lợi ích công cộng nữa - chỉ còn quyền lực của chiếc lon.

Đội quân viễn chinh bố trí một cách nặng nề, giữ lấy khắp nơi những gì thích hợp - một phần tư thành phố đẹp Sài Gòn bị trưng dụng cho các ban tham mưu, văn phòng, chỗ ở, nhà ăn tập thể. Trong những thị xã việc chiếm đóng còn rộng hơn. Sĩ quan, binh lính không bận tâm một vấn đề gì về cuộc sống. Tất cả đều được thu xếp, vật chất và tinh thần. Đầy đủ tiện nghi, sung mãn.

Cuộc chiến tranh Đông Dương là một chỗ ở thường xuyên. Biết bao chiến binh tình nguyện trở lại đấy lần thứ hai, thậm chí thứ ba! Đối với những người không tử trận, Đông Dương thuận lợi cho việc thăng cấp, chiến công, tuyên dương và cả kinh tế nữa. Đấy là cơn mưa khen thưởng. Nhà binh chúc tụng nhau, gắn huân chương dồi dào cho nhau. Mỗi tấm ngực là một nơi gắn huân chương. Cứ mỗi đợt hành quân, may mắn, hoặc bất hạnh, người ta “rung cây chuối” để rơi xuống vô số đồ chơi lúc lắc. Đến mức họ tiến hành những cuộc ra quân vô ích.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #77 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2017, 02:12:19 pm »


Vấn đề tiền nong dĩ nhiên cũng đáng kể. Lương ở nước Pháp khốn khổ, không như ở Đông Dương. Người lính biệt kích Bắc Phi để dành tiền mua một mảnh đất và cưới một cô vợ ở đất nước mình. Hạ sĩ quan Pháp đảm bảo cho gia đình bên chính quốc một cuộc sống đàng hoàng. Tôi biết một viên quản chiến đấu - không phải một viên quản hậu cần - để dành được năm triệu. Các “nhà bếp tập thể” là những kho tàng cho việc “bớt xén”. Bao nhiêu sĩ quan tích luỹ của hồi môn cho con gái họ! Trong quân đội này, bên cạnh những người khổ hạnh, tham vọng, bất lương cũng có những viên chức quân sự, những người bàn giấy của súng đạn. Họ đến chủ yếu để “kiếm xu”. Tích lũy được mấy đồng bạc với giá mạng sống mình cũng là một anh hùng!

Một thiếu tá trạc tứ tuần sống thoải mái, có một người vợ trẻ đẹp ở Pháp. Mỗi lần trở về chính quốc là một cuộc sống thời thượng trong hai tháng. Cuối thời hạn ấy, người vợ nói với chồng: “Chúng ta không còn tiền. Anh lại sang Đông Dương đi.”

Phép lạ của đồng bạc ban cho tất cả quân lính: họ thực hiện chuyển đổi một cách máy móc. Có những hiện tượng kỳ lạ. Hình như trong năm 1947 tổng số tiền chuyển đổi của quân đội vượt quá tổng số tiền lương.

Cuộc chiến tranh Đông Dương còn hơn một lý tưởng - là hoàn toàn thiên về quân sự. Để xứng đáng với truyền thống Quân đội Pháp, Đội quân viễn chinh không làm trái luật, từ chối những điều mới, những nhượng bộ. Khinh thường việc áp dụng theo người Việt những chiến thuật lạ lùng, chết người, họ áp dụng những bài đã học ở trường võ bị Saint -Cyr và trường Chiến tranh. Thà bị giết còn hơn xem quân địch quá quan trọng. Việt Minh bao giờ cũng chỉ được xem như một con mồi - con mồi khá nguy hiểm, đúng, để cuộc chiến là một môn “thể thao” thực sự cao quý. Đối với một sĩ quan có gì đẹp hơn là tiến lên trên đồng ruộng đi đầu hàng quân với bộ đồng phục, huy hiệu, gậy chỉ huy và chiếc mũ ca-lô? Lạnh lùng, vô cảm, ông ra lệnh qua đôi môi mỏng, và là bia bắn lừng lững trước những “quân bần tiện” ẩn nấp.

Đây là cuộc thập tự chinh của tầng lớp quý tộc: về phía người Pháp họ không có lính mới, không nhân dân. Vấn đề là thiết lập nền “văn minh” chinh chiến. Một số việc quan trọng, những việc khác thì không, đã được xếp đặt theo chú giải trong Kinh Thánh về danh dự, về sự tế nhị đáng ngạc nhiên trong một môi trường đơn sơ như vậy. Điều đáng kể trước hết là giọng nói, bước đi, phong cách.

Trong lớp người này kỷ luật chỉ là bề ngoài. Thực tế, mỗi người làm theo ý mình, chiến tranh, tiệc tùng, âm mưu hoặc chẳng làm gì. Đội quân viễn chinh về cơ bản đã là một tổ chức vô chính phủ rộng lớn.

Trong sự rời rạc ấy dần dần tạo ra mẫu người “chúa tể”. Đấy là loại tướng lính đánh thuê. Ông ta có thể làm tất cả. Ông uống champagne không biết mệt; tham gia cuộc chiến hoặc tiệc tùng đến sáu giờ sáng và dậy tỉnh táo lúc bảy giờ. Ông hiểu Einstein và bắn hạ người mình cách năm trăm mét. Cũng với sự phóng túng ấy ông tra tấn Việt Minh hoặc tha thứ cho họ. Sức lực của ông không tưởng được. Ông độ lượng hoặc tàn nhẫn. Ông đẹp người, quyến rũ, hiểu biết. Đấy vừa là một người, một siêu nhân và thậm chí một ông thánh.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #78 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2017, 02:12:53 pm »


Một số sĩ quan đẩy điều đó đi quá xa. Họ không chấp nhận nguy hiểm. Phải vượt qua, khinh thường, nhận mọi sự mạo hiểm - thế nhưng không bao giờ “bị đụng đến”. Bị một viên đạn vào mình hoặc bị kiết lỵ là hạ thấp mình. Một đại uý nói với tôi: “Tôi phạt binh lính bị thương. Đấy là một dấu hiệu hèn kém, phụ thuộc vào số phận”.

Một Chúa tể là một nhà đạo đức học khoảng bốn mươi tuổi. Cuộc chiến tranh thực sự của những người đội thiếu uý, trung uý không nói lên điều gì, nó không là triết lý. Nhưng mỗi người trong bọn họ là một ông vua trong địa hạt của mình. Ông ta có quyền cho sống, chết mà không ai hỏi đến. Thật ngây thơ. Một số ở cấp bậc thấp ấy đã bắt đầu hiểu cuộc chiến của những người da vàng. Nhưng cũng không phải là hiểu rõ.

Bên cạnh, những quân lính ra trận, những người không đánh nhau rất nhiều. Vì quân đội cũng xây dựng thành một chính quyền để tự quản lý mình. Các thành phố đầy ban tham mưu và văn phòng lúc nhúc hàng chục tướng tá. Thật khác thường khi một quân đội trong tình trạng đình trệ tăng thêm và mở rộng các cơ quan để rồi thích tranh cãi viển vông về quân sự. Các sĩ quan cao cấp ở đấy có mọi điều lợi. Họ bận tâm nhiều nhất là đưa ra những lý thuyết làm hài lòng tướng Carpentier, chỉ huy trưởng. Để làm điều đó họ làm méo mó các sự việc.

Kết quả là hình thành một môi trường khép kín - một phe nhóm. Ở đấy có một số lượng bất thường những người bất lực và ngu dốt. Tất cả lợi ích của họ nằm trong “bếp nội bộ”. Họ bận bịu nhiều về việc đó.

Đội quân viễn chinh vậy là một thế giới tin chắc ở mình, ổn định trong những việc nhỏ nhặt và nguyên tắc. Mỗi người làm cuộc chiến tranh theo ý mình, như cách họ muốn, trong các văn phòng, trên rừng núi hoặc đồng ruộng, cổ điển, thủ cựu hoặc thích đánh nhau, thậm chí phiêu lưu nữa. Điều chủ yếu là có một dạng “tinh thần” - người ta chém giết, bị chém giết, hành quyết hoặc bị hành quyết, không bao giờ thành vấn đề. Không ai tò mò và có những vấn đề đạo đức. Đấy là niềm tin vững chắc.

Tư cách trước hết là sự trong trắng chủng tộc. Vì thế quân đội của đồng bạc không bao giờ nói tới đồng bạc ấy. Nói cho đúng Đội quân viễn chinh dùng đồng bạc làm tường thành. Sĩ quan và binh lính khai thác nó nhưng rất ít so với những “người lợi dụng” thực sự, so với những người không đánh nhau nhưng nhờ nó mà thành tỷ phú!

Sau này tướng de Lattre kêu lên: “Phải nói rằng quân lính của tôi chết vì những kẻ buôn bán và đồng tiền bẩn thỉu của họ!” Sẽ tới một lúc Đội quân viễn chinh cảm thấy mình hy sinh vì con Bò Vàng! Năm 1949 chưa phải đã đến lúc ấy. Những người chiến đấu cho “cuộc chiến tranh thoải mái” từ xa nhìn thấy, không ghen tị, nguồn lợi lớn chảy vào nhà những ông “đại thương gia” và những nhà “chính trị lớn”.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #79 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2017, 02:13:50 pm »


Đông Dương không chỉ là vương quốc của quân đội. Xứ sở ấy cũng là một áp-phe kinh tế-tài chính khổng lồ. Chưa bao giờ các công ty tư bản chia những phần lớn đến thế cho cổ đông. Hình như ở Paris các chủ tịch hội đồng quản trị hoảng hốt với các nhân viên tại chỗ: Các anh làm thế nào mà lãi được bấy nhiêu tiền?” Những người này trả lời đơn giản: “Cũng chẳng biết. Người ta không làm khác được. Mọi người đều nằm trong guồng máy”.

Thực tế cánh buôn bán phát hiện ra một điều chủ yếu: sự mất trật tự đưa lại nhiều hơn trật tự và khai thác tốt hơn.

Trong các xí nghiệp lớn có một sự vực dậy. Trước tiên những công ty lớn suy sụp khi chắc chắn Đông Dương hoàn toàn thuộc địa đã chết vĩnh viễn, không hy vọng trở lại nữa. Nhưng những người kỳ cựu ấy nhanh chóng biến mất, lớp người trẻ thay thế với suy nghĩ hoàn toàn khác: chủ nghĩa thực dân chết cũng chẳng cần, miễn là chủ nghĩa tư bản còn lại.

Thế giới của tiền bạc thích nghi rất tốt với hoàn cảnh. Xứ Đông Dương mới - độc lập trong lòng Liên hiệp Pháp, một tình trạng vô chính phủ do một lớp thượng tầng kiến trúc tam tài che phủ - tự thể hiện “hay ho” hơn chế độ cũ nhiều.

Những “nhân viên trẻ” mới của sở Thuế quan và Nhà băng hiểu sự lộn xộn bừa bãi là béo bở về tài chính. Ở Châu Á có sự cân bằng luật pháp, thậm chí có một số dạng kỳ dị về sự ổn định: cây lúa mọc lên, hàng hóa chu chuyến, hàng nhiều triệu người tiếp tục sống, sản xuất, có những nhu cầu. Một đất nước trong máu lửa có thể là một thị trường rất tốt, hơn bất cứ lúc nào vì mức tiêu thụ tăng. Đấy là trường hợp Đông Dương trong chiến tranh. Để khai thác chỉ cần biết bắt đầu một cách thông minh.

Thế nhưng giữa những hoạt động sinh lợi cần thiết có một ốc đảo tĩnh lặng. Đấy là vùng trung lập và có tổ chức, một vùng hòa bình khoảng mấy chục cây số vuông, ở đó những đại gia thương lượng làm nhiệm vụ: nhận những giấy phép và những chuyển nhượng, xuất, nhất là nhập khẩu, mua, và chủ yếu bán, nhận vào xe hàng, nộp thuế, xếp vào kho, bố trí thế nào cho có lợi nhất. Mảnh đất nội địa ấy dành cho hòa bình, phương Tây, nước Pháp cho cho chủ nghĩa tư bản, dĩ nhiên là Sài Gòn - không phải toàn thành phố, chỉ là khu người Âu. Nhỏ thôi nhưng rất đủ. Vì mỗi lần hàng hóa được khách hàng da vàng trả tiền, ai còn quan tâm theo dõi đến chỗ hàng biến đi trong không gian bao la của Đông Dương không được kiểm soát? Hàng hóa đến chỗ đất trống chỉ còn dân quê, Việt Minh và binh lính. Dù sao thì dân Sài Gòn không bao giờ đến những vùng nguy hiểm, họ không rời thành phố của họ. Họ luôn ở xung quanh đường Catinat, là tù nhân của đồng bạc.

Ý muốn không trông thấy gì cũng thể hiện có hệ thống. Một thanh niên Pháp ngây thơ, làm việc ở sở Thuế quan nêu lên yêu cầu về đèn pin bỏ túi: chắc chắn do việc mua khối lượng lớn của quân đội Việt. Nhưng ông chủ bảo anh im đi và nói: "Việc đó không liên quan đến anh. Nếu muốn giữ chỗ làm, anh đừng như thế nữa. Anh chỉ phải lo toan về lời lãi của việc buôn bán”.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM