Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Ba, 2024, 06:22:40 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân-1968‎  (Đọc 31140 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #40 vào lúc: 05 Tháng Ba, 2017, 05:04:12 am »


VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG VŨ TRANG ĐỊA PHƯƠNG SÀI GÒN - GIA ĐỊNH TRONG MẬU THÂN 1968

Thiếu tướng PHAN TRUNG KIÊN           
Ủy viên Trung ương Đảng - Tư lệnh QK7       

        Trong tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân toàn miền Nam dịp Tết Mậu Thân 1968, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy ở Sài Gòn - Gia Định có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi đây là “thủ phử” của chế độ phản động Việt Nam cộng hòa - tay sai đế quốc Mỹ, là trung tâm đầu não điều hành bộ máy chiến tranh xâm lược của Mỹ - ngụy; là trung tâm quyết chiến chiến lược của ta, có tính chất quyết định số phận của ngụy quyền Sài Gòn, tạo ra bước ngoặt quyết định trong toàn bộ cuộc chiến tranh.

        Đánh vào trung tâm đầu não quân địch tại Sài Gòn - Chợ lớn - Gia Định là điều cực kỳ khó khăn, phức tạp, nhưng trong thời cơ lịch sử, với nỗ lực, cố gắng cao độ, cộng với những yếu tố thuận lợi về thế và lực chung, lực lượng vũ trang thành phố đã hoàn thành xuất sắc, góp phần làm nên những chiến công lịch sử Tết Mậu Thân. Trong quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của các lực lượng vũ trang nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định thì đây là thời điểm thử thách cao nhất; cũng là vũ trang nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn - thời cơ lực lượng Gia Định biểu lộ sức mạnh, ý chí và sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất của Đảng bộ, quân và dân địa phương.

        I. TỔ CHỨC CHIẾN TRƯỜNG VÀ XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG, CHUẨN BỊ ĐÓN THỜI CƠ CHIẾN LƯỢC LỚN.

        Sau khi quân và dân miền Nam đánh bại chiến dịch phản công mùa khô của Mỹ (1966 -1967) làm phá sản chiến lược 2 gọng kìm: tìm diệt và bình định của chúng, tình thế đã mở ra triển vọng to lớn trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, đánh bại một bước rất cơ bản cuộc “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ. Trước tình hình đó, cơ quan chỉ đạo chiến lược đã có nhiều cuộc họp quan trọng, nhằm đưa sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ tiếp tục tiến lên. Tháng 1 năm 1968, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 14 đã thông qua nghị quyết Hội nghị Bộ Chính trị tháng 12 năm 1967 về việc “chuyển cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam sang một thời kỳ mới - thời kỳ giành tháng lợi quyết định... Nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của ta là động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đơa cuộc chiến tranh cách mạng lên một bước phát triển cao hơn bằng phương pháp tổng công kích - tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định”.

        Quán triệt và căn cứ vào ý định và phương hướng chiến lược của Bộ Chính trị, ngay từ tháng 10 năm 1967, Trung ương Cục miền Nam và Bộ chỉ huy Miền đã chỉ đạo quân và dân trên các chiến trường, đặc biệt là mặt trận Sài Gòn - Gia Định ra sức chuẩn bị mọi mặt cho “Tết Mậu Thân” 1968.  Tháng 10 năm 1967, Khu ủy Sài Gòn - Gia Định tổ chức hội nghị mở rộng để tiếp thu Nghị quyết của Bộ Chính trị và Trung ương Cục, đề ra kế hoạch, mục tiêu tổng tiến công và nổi dậy. Trước mắt phải tổ chức lại chiến trường, khẩn trương xây dựng và phát triển thực lực cách mạng, thực hiện 2 nhiệm vụ lớn:

        Đánh chiếm các căn cứ đầu não của địch tại Sài Gòn. Phát động quần chúng nổi dậy khởi nghĩa, giành chính quyền; đồng thời cùng với lực lượng của phân khu và của Miền tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận quân ngụy, đánh đổ ngụy quyền các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân. Do tính chất đặc biệt quan trọng của Sài Gòn - Gia Định trong tổng công kích - tổng khởi nghĩa, ngày 25 tháng 10 năm 1967, Trung ương Cục quyết định giải thể Quân khu Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, tổ chức lại chiến trường miền Đông theo yêu cầu nhiệm vụ mới; tổ chức Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định thành khu trọng điểm do Trung ương Cục trực tiếp chỉ đạo, gồm các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt, Trần Văn Trà.

        Trên cơ sở 5 cánh trước đây, Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định và một phần của các tỉnh lân cận hình thành 5 phân khu, đồng thời là 5 mũi tiến công vào nội đô gồm:

        •  Phân khu 1, hướng Tây Bắc.

        •  Phân khu 2 và 3, hướng Tây và Tây Nam.

        •  Phân khu 4, hướng Đông Bắc.

        •  Phân khu 5, hướng Bắc.

        Và 1 phân khu nội thành là Phân khu 6 phụ trách lực lượng biệt động, Thành đoàn, Công vận, Hoa vận, Phụ vận và các cơ sở đảng ở các “lõm” chính trị địa phương.  Trên các hướng của 5 phân khu, Bộ chỉ huy Miền tăng cường một số trung đoàn, tiểu đoàn bộ binh và hỏa lực, trợ chiến của Miền và một số đơn vị địa phương. Trung ương Cục thành lập 2 cơ quan: tiền phương Bắc và tiền phương Nam theo sát chỉ đạo Mặt trận Sài Gòn - Gia Định.

        Công tác hậu cần do Miền đảm nhiệm, kết hợp với hậu cần tại chỗ của các phân khu, đơn vị, địa phương, trước ngày N của chiến dịch, đã vận chuyển xuống vùng trung tuyến, vùng ven một khối lượng lớn gạo, thực phẩm, vũ khí phục vụ cho các đơn vị chiến đấu. Riêng lực lượng biệt động đã chuẩn bị được gần 400 cơ sở, trong đó có nhiều điểm trú, ém quân và hầm chứa vũ khí chu đáo. Các địa phương ờ vùng trung tuyến đã huy động hàng chục vạn ngày công vận tải hậu cần ra tuyến trước. Chỉ riêng xã An Tịnh, huyện Tràng Bàng đã có 5.000 dân công tham gia phục vụ chiến dịch. Tính đến hạ tuần tháng 12 năm 1967, công tác chuẩn bị trên các hướng cơ bản đã xong. Tuy nhiên vì thời gian câu thúc nên đã bộc lộ những nhược điểm khó khắc phục. Do yêu cầu bí mật cao, hầu hết các đơn vị chưa được học tập, thực luyện phương châm, phương thức, kỹ thuật, chiến thuật tác chiến trong thành phố. Công tác hợp đồng giữa các đơn vị, các phân khu, nhất là hiệp đồng về thời gian, về hành động, về thông tin liên lạc... còn giản đơn trước yêu cầu, nhiệm vụ đề ra rất lớn. Lực lượng nổi dậy cũng chưa được liên kết, chuẩn bị kế hoạch chặt chẽ, chu đáo.  Mặc dù bị thất bại trong 2 cuộc phản công chiến lược mùa khô, Mỹ vẫn tiếp tục tăng quân, chuẩn bị mở cuộc phản công mùa khô lần thứ 3 (1967-1968). Nhưng lần này vừa mới ra quân, chúng đã phải đối phó với các chiến dịch lớn của ta. Đến cuối tháng 1 năm 1968, phát hiện quân chủ lực của ta ở vùng trung tuyến, Mỹ vội vã hủy bỏ cuộc hành quân “Hòn đá vàng” ở Tây Ninh, chuyển về phòng ngự xung quanh Sài Gòn.

        Nhằm gia tăng các biện pháp phòng thủ nội đô, địch tổ chức các tuyến bảo vệ chia thành nhiều tầng, nấc rất phức tạp Cho đến những ngày trước Tết Mậu Thân, số quân bảo vệ Sài Gòn có tới 60 tiểu đoàn Mỹ, ngụy; ngoài ra còn 20 vạn biệt động quân, bảo an, dân vệ, cảnh sát dã chiến, hàng vạn khóa sinh và nhiều đơn vị cơ giới, binh chủng.  Như vậy, nhìn vào tương quan lực lượng ở Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định địch chiếm ưu thế hoàn toàn về binh hỏa lực và phương tiện chiến tranh, hệ thống bố phòng dày đặc và nghiêm ngặt.

        Trước tình hình còn nhiều khó khăn và nhiệm vụ được giao hết sức nặng nề, các đơn vị lực lượng vũ trang thành phố vẫn tràn đầy khí thế, quyết tâm, coi đây là niềm vinh dự, tự hào được trực tiếp chiến đấu giải phóng Sài Gòn, giải phóng quê hương, thống nhất đất nước nên sẵn sàng xả thân hy sinh vì thắng lợi cao nhất của cách mạng. Ba thứ quân của thành phố phối hợp chặt chẽ với các đơn vị bạn và lực lượng nổi dây từ ngoại thành đến nội đô, đều ở tư thế sẵn sàng tiến công vào hang ổ kẻ thù.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #41 vào lúc: 05 Tháng Ba, 2017, 05:07:49 am »


        II. HOÀN THÀNH NHIỆM VỤ CÔNG KÍCH VÀ MŨI NHỌN TRONG TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY. 

        Đêm 30 rạng 31 tháng 1 năm 1968 (tức đêm 1 rạng 2 Tết Mậu Thân), các đơn vị mũi nhọn và biệt động từ 2 đến 3 giờ sáng đã đồng loạt nổ súng tiến công nhiều mục tiêu ở nội ngoại thành Sài Gòn.

        Lực lượng biệt động do đột nhập bằng đường hợp pháp và ém quân sẵn . trong thành phố nên ngay từ phút đầu đã đánh vào các mục tiêu đầu não như: dinh Độc Lập, Đại sứ quán Mỹ, Đài phát thanh, Bộ Tổng tham mưu, Bộ tư lệnh Hải quân... các trận đánh tại đây diễn ra vô cùng quyết liệt.  Địch huy động cả xe tăng, thiết giáp, máy bay, chất độc hóa học... đánh giải tỏa trong nhiều giờ. Mặc dù không có lực lượng tiếp ứng như trong kế hoạch hợp đồng, nhưng các đội biệt động đã chiến đấu cực kỳ anh dũng, người trước ngã, người sau xông lên, thậm chí hy sinh đến người cuối cùng.

        Tại Đại sứ quán Mỹ, Đội biệt động 11 đánh chiếm được đến tầng 3, diệt nhiều tên Mỹ, ngụy, -phá hủy một số phòng; 16/17 chiến sĩ hy sinh, 1 bị bắt.

        Tại Đài phát thanh, Đội biệt động 4 đánh chiếm được tầng 1, phòng kỹ thuật phát thanh, giữ trận địa đến 6 giờ sáng, phá hủy đài, diệt gần 100 tên địch, ban cháy 2 xe tăng và 1 xe GMC; 10/11 chiến sĩ hy sinh.

        Tại Bộ tư lệnh Hải quân, Đội biệt động 3 đánh chiếm được gần 3 giờ đồng hồ, diệt nhiều tên; 12/14 chiến sĩ hy sinh .

        Tại dinh Độc Lập, Đội biệt động 5 bất ngờ đánh chiếm được cổng phụ và trụ lại đánh phản kích đến ngày mùng Hai Tết, diệt 2 xe Jép và nhiều tên địch. Cuộc chiến không cân sức, 8 chiến sĩ biệt động hy sinh.

        Tại Bộ Tổng tham mưu ngụy, cụm biệt động (6-7-9) gồm 27 tay súng đánh chiếm cổng số 6, trụ lại đánh phản kích đến ngày mùng Ba Tết. Hầu hết bị thương, hy sinh. Một số đội biệt động phụ trách các mục tiêu khác do bị trở ngại trên đường hành quân nên không thực hiện được kế hoạch.

        Nhìn chung, lực lượng biệt động đã hoàn thành xuất sắc đòn đánh phủ đầu các cơ quan trọng yếu của Mỹ - ngụy, làm rung động nội đô và choáng váng giới lãnh đạo Nhà trắng và Lầu năm góc, nhất là trận tấn công vào Đại sứ quán Mỹ - nơi được coi là bất khả xâm phạm. Các tiểu đoàn mũi nhọn của các phân khu phải xuất phát hành quân xa và vượt qua hệ thống đồn bốt dày đặc, nhưng đã chấp hành mệnh lệnh nghiêm, kịp vào thành phố phối . hợp với lực lượng biệt động tấn công địch. Ở Bộ Tổng tham mưu ngụy, Tiểu đoàn 2 Gò Môn Phân khu 1 đột nhập vào cổng số 4, chiếm trường Sinh ngữ và kho đạn, “chia lửa” cho cụm Biệt động (6-7-9) ở cổng số 5 và 6. Ở hướng Tây Bắc, Tiểu đoàn Quyết Thắng (PKI) đánh chiếm được 2 căn cứ quan trọng là Cổ Loa, Phù Đổng, giữ trận địa được 2 ngày; sau đó chuyển về khu ngã năm Bình Hoà và ngã ba Cây Thị sát tòa thị chính và Bộ chỉ huy tiểu khu Gia Định, phát động quần chúng ngồi dậy và trụ lại chiến đấu nhiều ngày.

        Ở hướng Nam, Tiểu đoàn 6 Bình Tân (PK2) thọc sâu theo trục lộ Trần Quốc Toản (nay là đường 3/2), đánh lướt qua nhiều doanh trại của địch ở Quận 5, Quận 10, Quận 11 đến khu vực Sư Vạn Hạnh, Vườn Lài, cư xá Hỏa Xa... Trong ngày mùng Hai Tết đã tổ chức cuộc mít tinh hàng trăm quần chúng tại ngã bảy Lý Thái Tổ. Lực lượng vũ trang và nhân dân làm chủ khu vực từ Quận 5 sang Quận 10 suốt cả tuần lễ; sau đó địch dùng bom pháo đánh phá có tính chất hủy diệt để chiếm lại.

        Các tiểu đoàn của Phân khu 3 chia thành 2 cánh đánh chiếm các mục tiêu ở Quận 7, một phần các Quận 6 và 8; chiếm cầu số 3, các kho gạo bến Bình Đông, phía bắc cầu Nhị Thiên Đường; một mũi thọc sâu lên đường Hậu Giang, Tháp Mười, Dương Công Trừng, chợ Thiếc... cùng với cánh Hoa vận phát động quần chúng giành quyền làm chủ ở nhiều khu vực.

        Ở hướng Bắc, Tiểu đoàn 3 Dĩ An (PK5) ngay từ đầu đã chiếm được khu vực ngã tư Hàng Xanh - cầu Rạch Sưn; được nhân dân hỗ trợ, đơn vị đã bám trụ chiến đấu suốt 2 ngày đêm.

        Tiểu đoàn 4 Thủ Đức (PK4) chiếm được cù lao Bình Quới Tây, trụ lại đánh phản kích nhiều ngày. Ở phía Đông Nam, hỗ trợ cho lực lượng địa phương, đoàn đặc công Rừng Sác đánh chiếm đồn Phú Hứa (Nhơn Trạch), Lý Nhơn (Cần Giờ) và 6 ấp chiến lược khác. Đội 5 đột nhập cảng Nhà Bè, đánh chìm tàu Tu-rít trọng tải 10.000 tấn...
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #42 vào lúc: 05 Tháng Ba, 2017, 09:02:20 pm »


        Nhìn chung, trên các hướng lực lượng vũ trang tiến công, khí thế cách mạng của quần chúng rất sôi nổi, tạo mọi điều kiện cho các đơn vị hoàn thành nhiệm vụ. Nhân dân dẫn đường, tiếp tế, tải thương, nuôi giấu thương binh, treo cờ Mặt trận, làm vật chướng ngại trên đường phố, tích cực gọi loa, tuyên truyền binh địch vận làm rã hàng ngũ quân địch.  Nhiều nơi quần chúng phối hợp tác chiến với bộ đội. Nhiều gia đình động viên con em gia nhập Quân giải phóng...  Cùng với các mũi tiến công của các đơn vị tập trung, lực lượng dân quân du kích chiến đấu với quy mô cấp tiểu đội, trung đội, đại đội, kết hợp với bộ đội địa phương và phân khu tấn công vào thị trấn, quận ly, chi khu... tiêu hao, tiêu diệt bộ binh, chiến xa, máy bay bằng súng trường, mìn trái... Số địch do dân quân, du kích tiêu diệt chiếm tỷ lệ 1/5 tổng số địch bị diệt của 3 thứ quân.

        Lực lượng dân quân du kích cũng đã tổ chức hàng ngàn cuộc võ trang tuyên truyền ở vùng ven, vùng sâu, vùng yếu, các khu ấp chiến lược, phá rã một mảng lớn cơ sở tề ngụy, diệt nhiều tề điệp, cảnh sát, bình định, ác ôn, huy động hàng chục vạn lượt người .tham gia phục vụ chiến dịch, vận động hàng chục vạn gia đình binh sĩ, làm rã ngũ hàng ngàn bảo an, dân vệ … Do xây dựng được lực lượng nội tuyến nên ta đã tránh được nhiều tổn thất trong và sau chiến đấu.  Đêm 17 tháng 2, ta mở cao điểm 2 của đợt 1. Các đơn vị của cấp trên và thành phố pháo kích sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ tư lệnh MACV, Tổng nha Cảnh sát, Đài ra-đa Phú Lâm, gây cho địch nhiều thương vong, phá hủy nhiều máy bay; tấn công sở chỉ huy, chiếm tiểu đoàn 3 dù ở Tân Thới Hiệp (Hóc Môn), đột kích vào kho xăng Vũng Bèo; đánh Tiểu đoàn 30 biệt động quân ở Phú Lâm và Lữ đoàn 3 sư đoàn 25 Mỹ ở Vĩnh Lộc (Bình Chánh), phá sập cầu Gò Dưa, cầu Giồng Ông Tố, cầu kinh Thanh Đa...  Mặc dù bị tiêu hao quân số và vũ khí trong đợt 1 Tết Mậu Thân và chiến đấu liên tục trong thời gian “đệm” giữa 2 đợt chưa kịp củng cố, nhưng các đơn vị lực lượng vũ trang thành phố vẫn tưng bừng khí thế bước vào đợt chiến đấu mới trong điều kiện yếu tố bí mật, bất ngờ không còn.

        Đợt 2 tổng tiến công và nổi dậy tại Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định mở màn từ đêm 4 rạng ngày 5 tháng 5 năm 1968.  Các đơn vị pháo binh bân cấp tập vào sân bay Tân Sơn Nhất, Đại sứ quán Mỹ, dinh Độc Lập, Tân Cảng, Bộ tư lệnh Hải quân, Tổng nha Cảnh sát... sau đó các tiểu đoàn mũi nhọn nhanh chóng thọc sâu đánh chiếm các mục tiêu quy định.

        Tiểu đoàn 267 (PK 2) chiếm được khu vực Minh Phụng, đường 46, nghĩa trang Bình Thới. Tiểu đoàn 1 Phú Lợi (PK4) đánh cầu Phan Thanh Giản, phát triển chiếm đoạn cuối đường Tự Đức (Quận I), làm chủ khu vực Thị Nghè, phân khu 5 tấn công cầu Bình Lợi.

        Ở nội đô, các đội vũ trang tuyên truyền tự vệ, biệt động đoàn thể xuất hiện. Ở vùng chợ Thiếc, đường Cao Đạt, phía bắc cầu chữ Y, đánh chiếm tòa hành chính Quận 5. Ở khu vực cầu Ông Lãnh, cầu Kho, chợ Năng Xi, nam đường Trần Hưng Đạo, Quận 2, khu Bàn Cờ - Quận 3, khu xóm Chiếu - Quận 4... địch phản ứng quyết liệt. Các đội võ trang tuyên truyền đã đánh lui nhiều đợt cảnh sát dã chiến quận 5 đến giải tỏa hành chính khu chợ Thiếc và Cao Đạt. Anh chị em chiến đấu rất dũng cảm, nhưng vì lực lượng quá ít, nên phần lớn bị địch bật và hy sinh.

        Những ngày tiếp theo, ta mở thêm mặt trận ngã tư Bảy Hiền, cầu chữ Y, Tân Thới Hiệp. Tại cầu chữ Y trận chiến kéo dài đến ngày 11/5, địch bị tổn thất nặng, nhưng ta không vượt được cầu để phát triển vào thành phố. Tại Tân Thới Hiệp, địch điều quân dù đến phản kích, có xe tăng và phi pháo yểm trợ. Trận đánh kéo dài đến trưa ngày 11 tháng 5 mới kết thúc. Gần 1 tiểu đoàn địch bị tiêu diệt, nhưng Trung đoàn 16 phối thuộc Phân khu 1 bị thương vong lớn.

        Trong lúc mặt trận Minh Phụng - Đường 46 - Thị Nghè - Tự Đức do ta chiếm giữ chiến sự diễn ra sôi động, các đơn vị của thành phố phân tán nhỏ giành giật với địch từng ngôi nhà, góc phố để cùng phối hợp cho đến hết ngày 7 tháng 5.

        Với lực lượng được tiếp ứng từ phía sau, ta tiếp tục đánh bồi, đánh nhồi địch. Ngày 25 tháng 5 năm 1968, Mặt trận Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định mở cao điểm 2 của đợt 2 xuân hè Mậu Thân, chủ yếu ở 2 hướng Bắc và Tây thành phố. Ở hướng Bắc Trung đoàn Đồng Nai của Phân khu 5 và Tiểu đoàn Quyết Thắng 2 của Phân khu 1 phối hợp tiến công tỉnh lỵ Gia Định. Trung đoàn Đồng Nai chiếm được khu vực ngã năm Bình Hòa, Cây Quéo. Tiểu đoàn Quyết Thắng 2 đột kích mạnh đánh chiếm cầu Hang, cầu Băng Ki, xóm Cây Thị, xóm Thơm, xóm Gà, Sở Rác, một phần đường Phan Thanh Giản (nay là Điện Biên Phủ), nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, liên tục chiến đấu chống địch phản kích, làm chủ 18 ngày đêm trong thành Gia Định. Hướng Tây, lực lượng chính của Tiểu đoàn 6 Bình Tân có sự phối hợp của một số đơn vị và lực lượng võ trang đoàn thể, đánh địch ở cư xá Phú Lâm A, cầu Tre, đường Hậu Giang, phát triển sâu vào làm chủ khu vực Chợ Lớn cũ, Chợ Lớn mới, có mũi tiến công đến đường Nguyễn Văn Thoại, chợ An Đông... Cuộc chiến đấu quyết liệt kéo dài đến ngày 7 tháng 6 mới kết thúc.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #43 vào lúc: 05 Tháng Ba, 2017, 09:03:14 pm »


        Điểm qua một số diễn biến chính trong 2 đợt tiến công và nổi dậy tại địa bàn Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định ta thấy nổi rõ lên thế mạnh và vai trò, vị trí của lực lượng vũ trang địa phương (lực lượng tại chỗ) trong cuộc tiến công chiến lược có tầm quan trọng đặc biệt đối với cục diện chiến trường miền Nam và cả nước. .

        Một là, qua 2 cuộc đọ sức với giặc Mỹ, quân và dân Sài Gòn - Chớ Lớn - Gia Định được thử thách ở mức độ cao, khẳng định lòng tin đánh tháng Mỹ trong mọi tình huống.  Tứ đó đã xây dựng được thế trận chiến tranh nhân dân hoàn chỉnh với diện rộng và có chiều sâu, thiết lập được hệ thống hành lang huyết mạch giao liên, bàn đạp, cơ sở, trên nhiều hướng từ vùng căn cứ vào vùng ven và tận nội thành. Đây là thế mạnh cơ bản, không có một lực lượng nào khác thay thế được.

        Do vậy, trước khi bướt vào cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, với nhiệm vụ rất khẩn trương và nặng nề, do yêu cầu bí mật tuyệt đối không được phổ biến trước, các thứ quân của thành phố vẫn triển khai tốt mọi mặt, nắm vững thời cơ, xây dựng quyết tâm cao, chiến đấu anh dũng, lập công xuất sắc hoàn thành vượt mức nhiệm vụ được giao.

        Hai là: Do là lực lượng tại chỗ, thông thạo địa hình, nắm chắc địch và quy luật hoạt động của chúng, các mục tiêu đã được điều nghiên và các cơ sư đã chuẩn bị trước, nên lúc nào cũng sẵn sàng tác chiến, bảo đảm bí mật, bất ngờ và thắng lợi. Đặc biệt là lực lượng biệt động đã đột nhập vào thành - phố bằng con đường hợp pháp không có một trường hợp nào bị lộ, trong đó Đội 11 nhận nhiệm vụ đánh Đại sứ quán Mỹ chỉ nhận lệnh trước 2 ngày, vẫn khắc phục khó khăn. Tổ chức được lực lượng và đưa vũ khí vào điểm tập kết, kịp thời xuất phát đánh chiếm mục tiêu đúng giờ quy định của trên.

        Trong quá trình chiến đấu quyết liệt, mặc dù lực lượng quá chênh lệch, không có lực lượng tiếp ứng, các đơn vị của thành phố vẫn linh hoạt, sáng tạo, chủ động duy trì cuộc chiến đấu, gây rối loạn trong nội thành, đồng thời căng kéo địch khắp nơi, làm cho chúng luôn phải bị động đối phó, bỏ trống một số khu vực. Các đơn vị mũi nhọn như Tiểu đoàn Quyết Thắng, Tiểu đoàn Bình Tân trụ lại chiến đấu được dài ngày trong nội đô là nhờ linh hoạt dựa vào dân trong các khu phố và xóm lao động.

        Khả năng và hiệu quả chiến đấu của lực lượng vũ trang thành phố được trên đánh giá rất cao trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân. Đặc biệt là khả năng đột phá, thọc sâu, đánh hiểm của các đơn vị mũi nhọn và các đội biệt động, quân số ít, lối đánh đơn giản, nhưng độ chính xác cao, diệt được nhiều sinh lực cao cấp của Mỹ - ngụy, gây chấn động trên phạm vi rộng lớn. Đây là một thế mạnh rất đặc thù của lực lượng vũ trang Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định.

        Ba là: Trong quá trình chiến đấu đã kết hợp tốt 3 mũi giáp công: vũ trang, chính trị, binh vận, đồng thời kết hợp tốt giữa tiến công và nổi dậy - nổi dậy và tiến công giành quyền làm chủ của nhân dân, diệt ác phá kìm, phá lỏng, phá rã bộ máy kìm kẹp của định ở cơ sở và làm tan rã hàng ngũ quân địch. Đây là phương châm chiến lược, là phương thức xuyên suốt trong quá trình đấu tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã được phát huy một cách nhuần nhuyễn, toàn diện và mạnh mẽ trong tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân, cũng như sau này cho đến kết thúc cuộc chiến tranh. Lực lượng vũ trang tại chỗ đa vận dụng thành công “2 chân, 3 mũi”, tạo được sức mạnh tổng hợp, góp phần làm nên chiến thắng Mậu Thân lịch sử tại Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định.

        Đối với lực lượng vũ trang thành phố, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã khép lại sau đợt 2.  Trong ý nghĩa chung của thắng lợi mang tính chiến lược, các lực lượng vũ trang Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã khẳng định vai trò và sức mạnh trên địa bàn đặc trưng là trung tâm đầu não của Mỹ - ngụy. Trình độ nghệ thuật tác chiến của 3 thứ quân có bước phát triển nhảy vọt, mở ra những khả năng mới. Qua đó khẳng định những chủ trương sáng suốt, kịp thời, tính đúng đắn, sáng tạo, độc đáo của nghệ thuật quân sự Việt Nam, nghệ thuật chỉ đạo, điều hành chiến tranh nhân dân và chỉ đạo tác chiến của Đảng ta trên địa bàn đô thị, và làm nổi rõ vai trò, vị trí quan trọng của lực lượng tại chỗ.

        Với chiến thắng Xuân Mậu Thân, quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã góp phần quan trọng và xứng đáng vào thắng lợi chung của miền Nam và cả nước, mở ra một thời kỳ mới, một cục diện mới, tạo ra một bước ngoặt mới của cuộc chiến tranh, đánh dấu sự thất bại của chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chấm dứt ném bom miền Bắc không điều kiện và chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán ở Hội nghị Pa-ri, từng bước đi đến chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Đây là bước ngoặt lịch sử, đưa cuộc chiến đấu đầy hy sinh gian khổ của nhân dân ta đi tới thắng lợi hoàn toàn trong mùa xuân 1975.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #44 vào lúc: 05 Tháng Ba, 2017, 09:06:04 pm »

       
CHIẾN DỊCH ĐƯỜNG 9 - KHE SANH TRONG CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY TẾT MẬU THÂN NĂM 1968

Thiếu tướng HOÀNG ĐAN        

        Thực hiện chủ trương đánh cho Mỹ cút, mùa xuân năm 1968, bắt đầu từ ngày Tết, ta chủ trương tiến công đồng loạt vào hầu hết các thành phố, thị xã trên toàn miền Nam. Để kéo quân Mỹ ra xa các thành phố, thị xã và làm chúng lầm tưởng mùa xuân 1968 ta vẫn lấy tiến công địch ở rừng núi là chính, ta mở Chiến dịch đường 9 - Khe Sanh, trong đó lấy khu vực Khe Sanh làm khu vực tác chiến chủ yếu.

        Trong 2 mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 Mỹ thực hiện chiến lược “chiến tranh cục bộ” mà biện pháp chủ yếu là “tìm diệt” chủ lực ta. Mỹ thường nhanh chóng tập trung lực lượng để tiến công, khi phát hiện lực lượng ta. Để tiêu diệt nhiều địch, ít thương vong, ta thường tạo bất ngờ đánh một số trận. Khi địch tập trung lực lượng đối phó, ta nhanh chóng chuyển sang khu vực khác, nơi chúng có nhiều sư hở. Nay với nhiệm vụ kéo địch ra ngoài, giam chân địch một thời gian dài trên địa bàn rừng núi, bộ đội trên mặt trận Khe Sanh phải trụ lại và tác chiến dài ngày với chúng. Như vậy, chúng ta phải giải quyết cả tinh thần và phương pháp tác chiến để đánh được dài ngày trong điều kiện địch có hỏa lực mạnh, có sức cơ động cao.  Trải qua 6 tháng bám trụ và liên tục tiến công địch, ta đax kéo được các đơn vị cơ động mạnh, bao gồm toàn bộ sư đoàn kỵ binh bay, hầu hết lực lượng dự bị của thủy quân lực chiến, đánh cho chúng thiệt hại nặng, tạo điều kiện thuận lợi cho quân ta tiến công vào thành phố, thị xã. Tiến công đánh bại liên tục các lực lượng giải tỏa cho quân chiếm đóng, ta còn buộc địch rút chạy khỏi Khe Sanh, một địa bàn chiến lược quan trọng đối với địch trong việc ngăn chặn lực lượng ta từ miền Bắc vào chi viện cho miền Nam. Nhiều hãng tin, nhiều nhà quân sự phương Tây đã xem việc rút chạy khỏi Khe Sanh là một thất bại về chiến lược đối với Mỹ. Tướng Pháp Rơ-nê-cô-nhi ngày 27-1-1968 đã nói: “Khe Sanh đã trở thành một nơi tượng trưng, nếu người ta bỏ Khe Sanh tức là người ta thừa nhận thất bại”.  Báo Nước Pháp buổi chiều ngày 29-6-1968 viết: “Trong khi rút bỏ Khe Sanh, quân Mỹ muốn cứu vãn Sài Gòn... Như vậy, một lần nữa quyền chủ động lại về tay Việt Cộng. Họ đã buộc quân Mỹ phải thay đổi chiến lược để đối phó với những sức ép mới”. Đài phát thanh BBC ngày 30-6-1968 nói: việc rút lui Khe Sanh không phải đơn giản bỏ rơi một yếu điểm, mà là bỏ rơi một ảo tưởng và một chính sách. Tất cả nỗ lực của Hoa Kỳ dựng lên đã tan ra tro như những pháo đài xi măng cốt sắt ở Khe Sanh”. Hãng tin ASP ngày 27-6-1968 viết: “Việc quân Mỹ rút khỏi Khe Sanh” là một thất bại đối với Mỹ. Các qân chức cao cấp của Mỹ ở Hoa Thịnh Đốn và Sài Gòn đã từng nói phải bảo vệ căn cứ này bằng bất cứ giá nào, thậm chí nhiều người phát ngôn của lính thủy đánh bộ còn nói: “Nếu chúng ta rút khỏi Khe Sanh thì liệu chúng ta dừng lại ở đâu? Trên biển Nam Hải chắc?”.

        Có thể kết luận, với chiến công đánh đồng loạt nhiều thành phố và thị xã, cùng với chiến công đánh bại địch ở Khe Sanh, ta đã làm thất bại chiến lược “tìm diệt của Mỹ, buộc chúng phải chuyển sang chiến lược “quét và giữ” phải từng bước xuống thang, từng bước rút quân về nước. Chiến trường Khe Sanh thực sự là một nơi thử thách tinh thần và nghệ thuật tác chiến của quân đội hai bên. Trước hết, tôi muốn nói về tinh thần chiến đấu. Bên phía quân đội ta, chúng ta có thể nói, khắp nơi, phía trước cũng như phía sau các đơn vị chiến đấu cũng như các đơn vị phục vụ đều thể hiện tinh thần chiến đấu rất cao. Nếu không có tinh thần chiến đấu cao không thể đánh thắng được quân Mỹ ở Khe Sanh, nơi tập trung một số lượng bom đạn chưa từng có trên mỗi mét vuông.

        Có thể kể một gương chiến đấu dũng cảm trong trăm ngàn gương khác:

        Cách căn cứ Tà Cơn 800m có cao điểm 71. Bố trí hỏa lực ở đây có thể bắn trúng bất kỳ tên địch nào cơ động trên mặt đất, có thể bắn trúng bất kỳ loại phi cơ nào cất và hạ cánh ở sân bay Tà Cơn. Quân địch xem đây là một “cái gai” phải nhổ cho bằng được. Ngày này qua ngày khác, chúng đã trút xuống đây không biết bao nhiêu bom đạn, làm sụt lở hàng mấy mét trên đỉnh cao điểm. Anh em đã nói đùa nên gọi đây là cao điểm 69 vì thực tế chiều cao đã bớt đi 2m so với lúc đầu. Tất nhiên, chúng ta cũng chịu tổn thất ở đây cả người và vũ khí. Tôi thực sự khâm phục và xúc cuộng khi gặp một trung đội súng máy 12,7mm lên thay đơn  vị bạn mất sức chiến đấu. Họ cười nói với tôi: “Thủ trưởng em có gì ăn được cho anh em thêm, lần này chắc chắn anh em không trở về nữa đâu”. Họ biết lên đỉnh cao điểm 71 chắc chắn khó tránh khỏi thương vong, nhưng vẫn vui  vẻ làm nhiệm vụ. Cũng thời gian đó phía quân Mỹ thì sao?  Hấng tin Roi-tơ ngày 17-3-1968 dẫn lời viên đại úy Hoàng Phổ, một chỉ huy của tiểu đoàn biệt động Nam Việt Nam nói: “Nếu lính chúng tôi ở lại Khe Sanh nữa thì họ sẽ mất hết tinh thần và tuyệt vọng. Tuần trước hai người lính của tôi không chịu được gian khổ đã tự bắn vào mình, rồi nói là bị địch bắn”. Báo Anh Tin hàng ngày, ra ngày 11-2-1968 viết:  Quân đội Mỹ đã bị xơi no đòn, kinh hoàng và mất hết tinh thần, luôn lo ngại rằng đối phương có thể đánh bất kỳ lúc nào. Một trung sĩ nói: “Ôi thượng đế! Chúng con còn phải chịu đựng tình trạng này bao lâu nữa”. Về nghệ thuật tác chiến, chúng ta bằng nhiều phương pháp khác nhau, đã tiêu diệt một số cứ điểm ở Khe Sanh như quận ly Hướng Hóa, các cứ điểm khơ vực Tà Mây, cụm cứ điểm Làng Vây. Sau đó’ chúng ta vào vây hãm căn cứ Mỹ ở Tà Cơn, gây cho chúng nguy khốn, buộc Mỹ phải đưa quân lên giải tỏa. Song chẳng những chúng không giải tỏa được cho bọn chiếm đóng mà còn bị đánh cho tả tơi.  Cuối cùng bọn địch ở Tà Cơn cũng phải rút chạy. Trước đây các tướng Mỹ đã từng nói: “Quân đối phương chỉ giỏi lẩn trốn, nếu họ chịu trực tiếp đánh nhau với “ chúng tôi, chúng tôi sẽ tiêu diệt họ”. Nhưng ở Khe Sanh thì sao? Quân Mỹ không phải đi đâu tìm diệt cả. Không phải một vài đơn vị nhỏ, hàng mấy vạn quân ta có đủ các ‘ binh chủng bộ binh, xe tăng, pháo binh, pháo phòng không trực tiếp đánh nhau với quân Mỹ suốt 6 tháng trên một chiến trường không rộng. Chỉ có quân ta tìm diệt quân Mỹ, còn quân Mỹ, cả quân chiếm đóng và quân ứng viện đều phải rút khỏi Khe Sanh để tránh bị ta tiêu diệt. Rõ ràng ở đây quân đội ta đã đánh bại các biện pháp tác chiến của Mỹ. Cũng như quân đội Pháp trước đây, quân Mỹ chịu thua ta khi chúng có số lượng quân lớn nhất, nhưng đã bị chúng ta đánh bại các biện pháp tác chiến.

        Kỷ niệm 30 năm chiến thắng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968), tôi viết những dòng này trước hết để thay một nén hương, tưởng niệm các đồng đội đã hy sinh, để nói với những gia đình có người thân không trở về sau chiến tranh, rằng người thân của họ đã hy sinh vì độc lập của dân tộc, vì hạnh phúc cua nhân dân. Thế hệ chúng ta cũng như các thế hệ mai sau đời đời biết ơn các anh hùng hệt sĩ, chỉ làm những gì vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #45 vào lúc: 05 Tháng Ba, 2017, 09:12:13 pm »


LỰC LƯỢNG VŨ TRANG THỪA THIÊN-HUẾ TRONG TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY TẾT MẬU THÂN 1968

Đại tá NGUYỄN VĂN GIÁO                         
Quyền chỉ huy trưởng BCHQS Tỉnh Thừa Thiên – Huế       

        Chiến công Xuân Mậu Thân tiến công và làm chủ thành phố Huế 25 ngày đêm của quân và dân Thừa Thiên - Huế được cả nước và bè bạn khắp nơi cổ vũ động viên, Đảng, Nhà nước biểu dương khen ngợi và tặng quân dân Thừa Thiên - Huế 8 chữ vàng: “Tấn công, Nổi dậy, Anh dũng, Kiên cường” .

        Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy ở Huế, với phương thức tiến công về quân sự và nổi dậy của quần chúng cách mạng giành chính quyền, các lực lượng vũ trang và nhân dân Thừa Thiên-huế đã cống hiến hết sức mình để giành thắng lợi. Trong đó, mũi tiến công quân sự diễn ra vô cùng quyết liệt trong suốt cả quá trình chuẩn bị, tiến công và sau tiến công.

        Bước vào năm 1968, để phát huy thằng lợi to lớn trong nl’ìa khô, song song với Mặt trận đường 9, Quân khu Thừa Thiên - tuế mở mặt trận đô thị đánh vào trung tâm đầu não của Mỹ - ngụy.

        Giữa lúc các Đoàn 5 thuộc Huế, Đoàn 4 Phú Lộc và Đoàn 6 Phong - Quảng đang khẩn trương chuẩn bị thực hiện kế hoạch tiến công và nổi dậy của Quân khu thì ngày 19-11-1967, Khu ủy và Quân khu nhận được chỉ thị của Bộ Chính trị và mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng về cuộc Tổng công kích - tổng khởi nghĩa trên toàn miền Nam. Đối với chiến trường Thửa Thiên - Huế, Trung ương chỉ rõ: chiến trường Thừa Thiên - Huế là một trong hai chiến trường trọng điểm của toàn Miền. Hướng đường 9 do chủ lực Bộ có nhiệm vụ thu hút, phân tán lực lượng cơ động chiến lược của địch, tạo điều kiện thuận lợi cho toàn Miền. Thừa Thiên - Huế phải tiến cộng và nổi dậy đồng loạt đánh chiếm thành phố Huế và các thị xã, thị trấn, đánh tiêu diệt và làm tan rã ngụy quân, ngụy quyền, giải phóng nông thôn, thiết lập chính quyền cách mạng, tiêu diệt và tiêu hao nhiều quân Mỹ, bao vây cô lập chúng, làm cho “chúng không ứng cứu được quân ngụy, sẵn sàng đánh địch phản kích, đánh cho chúng bị tổn thất nặng, giữ vững chính quyền cách mạng, tạo điều kiện tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn”.

        Với tinh thần hết sức khẩn trương, ngày 3-12-1967, Thường vụ. Khu ủy họp để bàn triển khai thực hiện chỉ thị, mệnh lệnh của Trung ương và xác định tư tưởng chỉ đạo là: động viên toàn Đảng bộ, toàn dân, toàn quân tập trung sức lực và trí tuệ, khẩn trương đẩy mạnh chuẩn bị về mọi mặt, bảo đảm chấp hành triệt để chỉ thị và mệnh lệnh của cấp trên. Quyết tâm cửa Khu ủy và Quân khu là:

        * Tập trung lực lượng chủ yếu của Quân khu cùng với lực lượng của các đoàn, các huyện, phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng. vũ trang, chinh trị, bí mật, bất ngờ tiến công trúng các mục tiêu, nổi dậy chiến đấu, phục vụ chiến đấu, lập chính quyền cách mạng.

        * Tiêu diệt tiêu hao nặng quân Mỹ và chơ hầu, đẩy mạnh binh địch vận trong ngụy quân, ngụy quyền, đánh bại ý chí xâm lược và chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ trên chiến trường Thừa Thiên - Huế, bảo vệ và phát huy sức mạnh chính quyền cách mạng.

        *  Tập trung trọng điểm là Huế, đánh vào trung tâm đầu não của ngụy quân, ngụy quyền, căn cứ quân sự lớn của Mỹ, cắt đứt giao thông Đà Nẵng - Huế - Quảng Trị, mở mặt trận đánh giao thông Phúc Lộc (mặt trận 4), ở Quảng Trị (mặt trặn 7) tạo điều kiện cho mặt trận Huế (mặt trận 5) phát triển tiến công, nổi dậy.

        *  Chia mặt trận Huế làm hai cánh: Bắc sông Hương và Nam sông Hương. Cánh Bắc là hướng chính, điểm tiến công khởi nghĩa chủ yếu của mặt trận lúc đầu. Cánh Nam là điểm tiến công khởi nghĩa quan trọng, đồng thời là hướng chủ yếu đánh địch phản kích. Thành thị là trọng điểm nhưng nông thôn phải đồng thời khởi nghĩa sức mạnh tiến công nổi dậy. Về thời gian của chiến dịch: Thực hiện mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng, sẽ tiến hành tổng tiến công và nổi dậy vào  Tết Mậu thân (31-l-1968). Trong 7 ngày đêm bảo đảm hoàn thành các mục tiêu cơ bản, tập trung chủ yếu vào 2 ngày 3 Quyết tâm cửa Khu ủy và Quân khu là:

        *  Tập trung lực lượng chủ yếu của Quân khu cùng với lực lượng của các đoàn, các huyện, phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng. vũ trang, chinh trị, bí mật, bất ngờ tiến công trúng các mục tiêu, nổi dậy chiến đấu, phục vụ chiến đấu, lập chính quyền cách mạng.

        *  Tiêu diệt tiêu hao nặng quân Mỹ và chư hầu, đẩy mạnh binh địch vận trong ngụy quân, ngụy quyền, đánh bại ý chí xâm lược và chiến lược l’ehiến tranh cục bộ” của Mỹ trên chiến trường Thừa Thiên - Huế, bảo vệ và phát huy sức mạnh chính quyền cách mạng.

        *  Tập trung trọng điểm là Huế, đánh vào trung tâm đầu não của ngụy quân, ngụy quyền, căn cứ quân sự lớn của Mỹ, cắt đứt giao thông Đà Nẵng - Huế - Quảng Trị, mở mặt trận đánh giao thông Phúc Lộc (mặt trận 4), ở Quảng Trị (mặt trặn 7) tạo điều kiện cho mặt trận Huế (mặt trận 5) phát triển tiến công, nổi dậy.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #46 vào lúc: 05 Tháng Ba, 2017, 09:16:23 pm »


        *  Chia mặt trận Huế làm hai cánh: Bậc sông Hương và Nam sông Hương. Cánh Bắc là hướng chính, điểm tiến công khởi nghĩa chủ yếu của mặt trận lúc đầu. Cánh Nam là điểm tiến công khởi nghĩa quan trọng, đồng thời là hướng chủ yếu đánh địch phản kích.  Thành thị là trọng điểm nhưng nông thôn phải đồng thời khởi nghĩa sức mạnh tiến công nổi dậy.  Về thời gian của chiến dịch: Thực hiện mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng, sẽ tiến hành tổng tiến công và nổi dậy vào Tết Mậu thân (31-l-1968). Trong 7 ngày đêm bảo đảm hoàn thành các mục tiêu cơ bản, tập trung chủ yếu vào 2 ngày 3 Thành đội chỉ huy trực tiếp gồm thoảng 1.000 quân. Ngoài ra còn có nhiều đội công tác vũ trang hoạt động trên các khu vực nhỏ. Tất cả các lực lượng này đều được xây dựng và huấn luyện tử tháng 10-1967. Sức khỏe bộ đội trước đây giảm sút do thiếu ăn nay được tăng cường, tiêu chuẩn bữa ăn được nâng lên. Công tác chính trị, tư tưởng được phát động mạnh mẽ ở tất cả các đơn vị trên tinh thần: “Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua” và “ Tiến lên toàn thắng ắt về ta!”. Một loạt hoạt động quân sự được mở tử 6-1 đến 27-1 nhằm giữ chân, nghi binh đánh lạc hướng địch. Các đơn vị Đoàn 5: tập trung diệt ác trừ gian làm trong sạch địa bàn.  Bộ đội địa phương và du kích các huyện ngoại thành (Phú Vang, Hương Thủy, Hương Trà) chặn đánh 2 cuộc càn của 4 tiểu đoàn ngụy lên vùng núi Hươhg Trà, diệt 300 tên địch, buộc chúng phải rút lui, bảo vệ được căn cứ đang chuẩn bị cho chiến dịch Xuân 1968. Ở mặt trận 6, bộ đội và du kích đánh địch ở ấp Mỹ Xuân, Thủ Lễ, phá đường An Lỗ - Sịa.  Tại mặt trận 4, các đơn vị bộ binh, đặc công, công binh, hỏa lực tập trung tiến công vị trí cầu Hai, đồn An Bằng, đồn Nước Ngọt diệt 400 tên địch. Du kích các xã tiến công các căn cứ địch trên dọc tuyến quốc lộ 1A, phá 20 ki-lô-mét thuộc đoạn Hải Vân-Huế.

        Đội hoạt động quân sự trên địa bàn Thừa Thiên thực hiện được việc đánh phá, cắt giao thông địch, góp phần vào việc chuẩn bị hành lang, địa bàn cho cuộc hành quân của các đơn vị chủ lực và tiếp cận các mục tiêu theo kế hoạch tiến công.

        Cuộc hành quân của 11 tiểu đoàn tập trung hướng chính vào mặt trận Huế bắt đầu từ chiều 30-I-1968, gồm 8 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn đặc công. Các đội vũ trang biệt động, các đội công tác trên nhiều hướng, nhiều mũi cũng vượt qua vòng vây dày đặc của địch tiến vào mục tiêu. 2 giờ 33 phút ngày 31-1-1968, pháo binh của ta đồng loạt nã vào những căn cứ lớn của địch làm hiệu lệnh mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy lịch sử. Trung đoàn 6, Trung đoàn 9, Đoàn 5, các đội đặc công, biệt động, trinh sát vũ trang, các đại đội bộ đội địa phương, các đội công tác, du kích, tự vệ nội, ngoại thành đồng loạt tiến đánh các mục tiêu.

        Ở cánh Bắc: Đại đội 1 đặc công và Đại đội 2 bộ binh thuộc Trung đoàn 6 tiến công Sở chỉ huy Sư đoàn 1 ngụy ở Mang Cá. Đại đội 2 (Tiểu đoàn 2 đặc công) và Đại đội 2 (Tiểu đoàn l Trung đoàn 6) ba lần đánh chiếm sân bay Tây Lộc, tiêu hao nặng 2 tiểu đoàn địch ra phản kích. Cùng lúc Đại đội 14 đặc công và Đại đội 3 (Tiểu đoàn 2, trung đoàn 6) tiến công vào khu Đại Nội diệt đơn vị Hắc Báo. Đại đội 3 (Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 6) tiến chiếm Cột cờ Thành nội.  9 giờ 31-1-1968, chiến sĩ Trung đoàn 6 Nguyễn Văn Tuyên đã cắm cờ lên đỉnh cột cờ Phú Văn Lâu. Đồng thời một số đơn vị Trung đoàn 6 đánh chiếm các mục tiêu vòng ngoài như cầu Bạch Hổ, Kim Long, Kẻ Vạn, Văn Thánh, tiêu diệt và tiêu hao 2 tiểu đoàn địch, đánh chiếm cầu An Hòa, làng An Hòa, 5 lần đánh bại Tiểu đoàn 7 ngụy phản kích, diệt 5 xe M-113 và nhiều tên địch buộc chúng tháo chạy vế hướng Bao Vinh để vào Mang Cá.

        Tiểu đoàn 116 (Trung đoàn 9) tiến đánh vùng La Chứ, Quê Chữ, An Lưu, Bổn Trì, Bổn Phổ, diệt 1 đại đội ngụy. Bộ đội ta cùng với các đội biệt động dẫn đường đánh chiếm cửa Hương, cửa Thượng Tứ, cửa Đông Ba và khu phố Đông Ba.  Lực lượng Tiểu đoàn 10 (Đoàn 5) và đội biệt động từ hướng Phú Vang hành quân đánh chiếm khu Gia Hội.

        Ở cánh Nam: Tiểu đoàn 1 đặc công (Đoàn  tiến công Trung đoàn 7 thiết giáp ngụy ở Tam Thai, diệt 350 tên địch, phá hủy 35 xe thiết giáp và xe tăng.

        Tiểu đoàn 4 bộ binh (Đoàn 5) đánh chiếm cầu Kho Rèn diệt sở chỉ hay canh sát dã chiến, chiếm khu vực Ngã 6, đánh chiếm Đài phát thanh Huế.

        Các đại đội của Tiểu đoàn 815 bộ binh tiến công tiêu diệt gọn đại đội Nam Triều Tiên tại khu Tàu Lăng, đánh chiếm Phước Quả, Ty sắc tộc, Tòa tỉnh trưởng, phá nhà lao Thừa Phủ (giải phóng 2.000 cán bộ, chiến sĩ bị địch bắt), nhà lao Thẩm Vấn (giải phóng 107 người). Đại đội 1 thuộc Tiểu đoàn 1 đặc công (Đoàn 5) đánh chiếm tiểu khu Thừa Thiên, khách sạn Thuận Hóa, Hương Giang và đánh vào An Cựu diệt 2 đoàn bình định.

        Tiểu đoàn 10 (Đoàn 5) đánh Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 3 ngụy) ở Đổng Di và Tiểu đoàn 4 (Trung đoàn 3 ngụy) ở Tam Đông.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #47 vào lúc: 06 Tháng Ba, 2017, 09:36:33 am »


        Ngày 31-1 và đêm 1-2-1968, lực lượng ta đã cơ bản chiếm được thành phố, ngăn chặn không cho địch chi viện cho Huế. Tuy vậy do ta chưa dứt điểm được vị trí địch ở Mang Cá nên sau này địch gây cho ta nhiều khó khăn. Từ ngày 2 đến 7-2-1968, bộ đội ta liên tiếp đánh địch phản kích, hỗ trợ nhân dân nổi dậy, giành quyền làm chủ, tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu.

        Ở các huyện ngoại thành Huế, bộ đội địa phương và dân quân du kích đánh địch, hỗ trợ quần chúng nổi dậy, phát triển lực lượng.

        Tại mặt trận 4 (Phú Lộc), các đơn vị đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đánh cắt giao thông, mở vùng giải phóng. Ở mặt trận 6 (Phong Quảng), bộ đội địa phương và dân quân du kích đánh chiếm nhiều căn cứ địch, bao vây quận ly Phong Điền, tiến công địch ở vùng Thanh Lương, hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy.

        Đội tự vệ khu Gia Hội được thành lập trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã hăng hái, dũng cảm chiến đấu, bắn cháy nhiều tàu chiến địch trên sông Hương. Tiểu đội 11 cô gái Hương Thủy đã gan dạ bám trục đường chợ Cống - Vân Dương phối hợp với Tiểu đoàn 10 đánh địch phản kích, diệt hàng trăm Mỹ-ngụy, bắn cháy 5 xe tăng. Từ ngày 8-2-1968, địch bắt đầu phản kích dữ dội. Chúng huy động lực lượng tổng dự bị từ Sài Gòn và vùng I chiến thuật ra, rút một số quân ở Đường 9 vào tiến hành phản kích, giải vây cho Huế, nâng tổng số địch tại mặt trận Huế lên 23 tiểu đoàn (trong đó có 15 tiểu đoàn Mỹ). Cuộc chiến đấu diễn ra hết sức ác liệt, ta và địch giành nhau từng căn nhà, từng góc phố. Bất chấp địch đông hơn ta nhiều lần và có hỏa lực rất mạnh, quân và dân thành phố Huế vẫn kiên cường đánh địch phản kích. Có ngày ta diệt hơn 1.000 tên địch, bắn rơi, bắn cháy và phá hủy hàng chục máy bay và xe tăng.

        Do so sánh lực lượng quá chênh lệnh, Bộ chỉ huy mặt trận quyết định cho lực lượng rút khỏi thành phố từ 25-2-1968...

        Sau 25 ngày đêm chiến đấu và làm chủ thành phố Huế, quân và dân ta đã diệt, bắt sống, bức hàng hơn 25.000 tên địch, bắn rơi và phá hủy 255 máy bay, bản cháy 41 tàu chiến, phá hủy 533 xe quân sự và nhiều kho đạn lớn của địch.

        Quân dân ta đã đánh mạnh, đánh trúng vào cơ quan đầu não Mỹ-ngụy, đập nát hệ thống chính quyền ngụy từ thôn đến tỉnh. Ta đã giải phóng gần 10.000 dân, 20 xã, 271 thôn; thành lập chính quyền ở 200 thôn; chính quyền quận, huyện, xã, phường; chính quyền cách mạng tỉnh Thừa Thiên-huế. Lực lượng vũ trang ba thứ quân trưởng thành nhanh chóng cả về tổ chức, chỉ huy, cả về kỹ thuật, chiến thuật, đặc biệt là đánh trong thành phố. Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết, địch tập trung lực lượng phản kích quyết liệt, chúng mở nhiều cuộc hành quân giải tỏa ra hậu cứ của ta. Cuộc chiến đấu chống địch phản kích ác liệt diễn ra trên cả 3 vùng chiến lược.  Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn do sự ngăn chặn của địch, như tháng 5-1968, Tiểu đoàn 10 bị bao vây ở Vĩnh Thái (Phú Vang) phải mở đường máu đưa 500 cán bộ, chiến sĩ thoát vòng vây lên căn cứ, bộ đội thiếu ăn, đau yếu, sức khỏe giảm sút nhưng các lực lượng vũ trang trên chiến trường Thừa Thiên - Huế đã chấp hành nghiêm túc kế hoạch tiến công đợt 2, phối hợp với Sài Gòn. Trong tháng 5 và tháng 6 đã đánh hàng trăm trận càn quét của các đơn vị kỵ binh bay ở Phong Điền - Quảng Điền, đánh vào 66 mục tiêu, căn cứ, quận ly như: ấp 5, Động Toàn, Phú Thứ, Đồng Lâm, Mang Cá cật giao thông Thuận An - Huế, Huế - Đà Nẵng. Ở miền núi, bộ đội ta đánh bại cuộc hành quân lớn của địch, buộc lòng rút khỏi A Lưới.

        Trong 3 tháng 4, 5 và 6 năm 1968 quân dân Thừa Thiên - Huế và làm bị thương gần 2.500 tên địch (trong đó diệt 25 đại đội Mỹ - ngụy), bắn rơi và phá hủy 72 máy bay, 30 xe quân sự, 33 khẩu pháo địch.  Mùa mưa 1968, trước tình hình khó khăn ở chiến trường và do yêu cầu củng cố lực lượng, phần lớn các đơn vị chủ lực Quân khu ra hậu phương củng cố. Một số đơn vị như Tiểu đoàn 10, Tiểu đoàn 4 bộ binh; Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn 2 đặc công; Tiểu đoàn 323 pháo binh, Tiểu đoàn trinh sát, các đội biệt động vẫn bền bỉ, chịu đựng gian khổ, ác liệt, kiên trì bám trụ giữ địa bàn, giữ thế, tạo thế mới để tiến công địch, khôi phục phong trào.

        Hội nghị Khu- ủy Trị - Thiên tháng 11 năm 1968 đã đánh giá cao thành tích trên của các đơn vị vũ trang: Suốt trong thời gian đánh Huế đã chiến đấu hết sức dũng cảm, ngoan cường và sáng tạo, đã lập được nhiều chiến công anh dũng; được nhân dân hết lòng ca ngợi và yêu mến. Tiếp theo đó lại liên tục chiến đấu với địch, chịu đựng nhiều gian khổ, thiếu thốn, vẫn giữ ứng lực lượng, phát huy truyền thống nâng cao trình độ chiến đấu, đã đánh được nhiều trận nhỏ, vừa đánh một số trận tốt, gây cho địch nhiều tổn thất nặng
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #48 vào lúc: 06 Tháng Ba, 2017, 09:45:54 am »


TIẾN CÔNG ĐỒNG LOẠT, NỔI DẬY LIÊN TỤC Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

Đại tá TRƯƠNG MINH HOẠCH       

        Xuân Mậu Thân 1968, cùng với toàn miền Nam, quân dân đồng bằng sông Cửu Long đã tiến hành cuộc Tổng tiến công và nồi dậy đồng loạt, đều khắp ở các thành phố, thị xã. Trước khi bước vào cuộc Tổng tiến công, theo sự chỉ đạo của Trung ương cục và Bộ tư lệnh Miền, quân dân đồng bằng sông Cửu Long (gồm Khu 9 và Khu Cool khẩn trương chuẩn bị mọi mặt. Mỗi quân khu đều xác định trọng điểm tiến công. Ở Khu 9, trọng điểm 1 là thành phố Cần Thơ, trọng điểm 2 là thị xã Vĩnh Long. Ở Khu 8 trọng điểm 1 làm thành phố Mỹ Tho, trọng điểm 2 là thị xã Bến Tre. Tại các trọng điểm đều thành lập Ban chỉ đạo khởi nghĩa. Việc chuẩn bị tổng tiến công và nổi dậy được tiến hành khẩn trương, nhưng ngày ln được. giữ bí mật tuyệt đối, ngay cấp quân khu cũng không biết trước. Vì vậy, một số đơn vị, địa phương chưa kịp hoàn thành công tác chuẩn bị, đạn pháo chưa chuyển đủ để đánh vào thành phố, có đơn vị còn ở xa mục tiêu... Thế nhưng khi có lệnh tổng tiến công, các cấp, các ngành, các đơn vị đều nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh với quyết tâm cao, với khí thế “thời cơ ngàn năm có một”.

        Tại trọng điểm 1 của Khu 9, thành phố Cần Thơ - trung tâm chính trị, quân sự, kinh tế của miền Tây Nam Bộ, có nhiều mục tiêu quan trọng như: Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 - vùng 4 chiến thuật ngụy, Tòa lãnh sự Mỹ, cư xá tình báo  Mỹ, sân bay Trà Nóc, sân bay Lộ Tẻ, khu hậu cần kỹ thuật của vùng 4 và nhiều mục tiêu khác... Đúng 03 giờ sáng ngày 1 2-1968, các đơn vị ta đồng loạt nổ súng tiến công cán mục tiêu trong thành phố theo quy định. Sau khi pháo bắn chế áp mãnh liệt vào Sở chí huy Quân đoàn 4 - vùng 4 chiến thuật và sân bay Lộ Tẻ, Đội biệt động Cần Thơ tiêu diệt đơn vị cảnh sát dã chiến ở Đầu Sấu, mở đường cho Tiểu đoàn Tây Ô nhanh chóng tiêu diệt lực lượng địch trên đường tiến công, làm chủ trục giao thông tử Đầu Sấu đến ngả tư đường Tự Đức (nay là đường Lý Tự Trọng); tiến công lãnh sự Mỹ và cơ quan tình báo Mỹ trên đường Hùng Vương, tiếp tục phát triển đến bến xe mới. Tiểu đoàn 307 đánh chiếm khu vực Đài phát thanh, khu hậu cần và Trung tâm nhập ngũ vùng 4 chiến thuật.

        Ở hướng bắc thành phố, Tiểu đoàn 303 và đặc công đánh vào sân bay Lộ Tẻ. Đại đội 3 (Tiểu đoàn 303) vượt qua khu thông tin, bộ phận còn lại của tiểu đoàn không qua được, bị xe M113 địch chia cắt. Không được tiếp ứng, Đại đội 3 bị tổn thất nặng. Đến sáng, Tiểu đoàn 303 rút ra bám trụ phía sau phi trường, từ cầu Tham Tướng đến cầu Rạch Ngỗng.  Tiểu đoàn 309 do nhận lệnh trễ nên ngày đầu chưa tham gia tiến công cỏn đang làm công tác vũ trang tuyên truyền ở Phụng Hiệp. Ngày hôm sau tiểu đoàn mới cấp tốc hành quân lên Cần Thơ, cùng các đơn vị bạn đánh vào khu vực cầu Tham Tướng, khu văn hóa, làm chủ khu vực này 1 ngày 2 đêm.

        Từ sáng ngày 1-2, địch phản kích quyết liệt bắn phá bừa bãi, máy bay ném bom ngay trong nội thành để chặn bước phát triển của ta. Các đơn vị ta bám trụ tại chỗ đánh địch phản kích quyết liệt. Ngày 3-2, địch cho 1 tiểu đoàn dù (quân dự bị chiến lược) đến phản kích bị các đơn vị ta đánh thiệt hại nặng. Đến ngày 4-2-1968 do tình hình khó khăn và thương vong cao, các đơn vị ta lần lượt rút ra vùng ven lộ Vòng Cung. Từ đây các đơn vị liên tục đánh địch phản kích.  Sáng ngày 6-2-1968, ta đánh thiệt hại nặng Tiểu đoàn 42 và 44 biệt động quân. Đêm đến tập kích Tiểu đoàn 2 (Sư đoàn 21 ngụy) và một đại đội bảo an. Ngày 11-2-1968, ta tiếp tục chặn đánh Tiểu đoàn  thủy quân lục chiến tại rạch Rau Răm và Tiểu đoàn 7 thủy quân lục chiến tại rạch Bà Chủ Kiểu, Khoán Châu, diệt nhiều quân địch. Cũng tử vùng ven lộ Vòng Cung, 01 giờ đêm ngày 18-2, một bộ phận đặc công và Tiểu đoàn 307 bí mật tiến công sân bay Lộ Tẻ, diệt 1 đại đội bảo an, phá hủy 29 máy bay, 1 kho đạn. Đến 8 giờ sáng cùng ngày, bộ đội ta rút ra ngoài, địch cho Tiểu đoàn 42 biệt động quân đuổi theo đến rạch Rau Răm. Tiểu đoàn 307 nổ súng đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn này, buộc chúng phải rút chạy. 09 giờ, Tiểu đoàn 3 (Lữ đoàn 2, Sư đoàn 9 Mỹ) bật đầu hành quân phản kích. Các đơn vì tại lộ Vòng Cung chặn đánh quyết liệt, diệt hàng trăm tên, bắn rơi 2 máy bay, bẻ gãy cuộc hành quân phản kích của quân Mỹ. Đây là trận diệt bộ binh Mỹ đầu tiên ở Cần Thơ.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #49 vào lúc: 06 Tháng Ba, 2017, 09:46:22 am »


        Sáng ngày 20-2, một tiểu đoàn bộ binh khác cũng thuộc Lữ đoàn 2 (Sư đoàn 9 bộ binh Mỹ) dùng tàu rút khỏi rạch Rau Răm, rồi quay lại đánh vào đội hình ta. Ta tổ chức các bộ phận nhỏ chặn đánh, buộc địch phải co cụm tại Ngã Bát.  Đêm ta bí mật tiếp cận, tập kích cụm quân Mỹ ở đây, diệt gọn 1 đại đội.

        Tiếp theo, trong tháng 3-1968, các đơn vị của quân khu, tỉnh và thành phố tiếp tục bám trụ lộ Vòng Cung đánh địch phản kích. Nổi nhất là trận đánh 2 tiểu đoàn bộ binh của Sư đoàn 21 ngụy ngay tại rạch Rau Răm, diệt 76 tên, làm bị thương 109 tên. Đồng thời sử dụng pháo cối nhiều lần bắn vào các căn cứ quân sự trong thành phố, gây cho địch nhiều thiệt hại.

        Như vậy, tại trọng điểm 1 thành phố Cần Thơ, quân và dân ta đã 60 ngày đêm kiên trì bám trụ vùng ven lộ Vòng Cung liên tục đánh Mỹ, diệt ngụy. Suốt thời gian tiến công và bám trụ đánh địch phản kích ta diệt 1.540 tên địch, làm bị thương 1.409 tên, bân rơi và phá hủy 129 máy bay, phá hủy 8 pháo, bắn cháy 3 xe M113. Về ta, các đơn vị cũng bị tổn thất lớn.

        Phối hợp với tiến công quân sự, lực lượng chính trị của quần chúng nổi dậy tiến công, binh vận, bao vây đồn bốt, phá ấp chiến lược, dẫn đường, tiếp tế và cất giấu, nuôi dưỡng điều trị thương binh... Các huyện phía sau huy động hàng ngàn thanh niên bổ sung cho các đơn vị chủ lực khu, tỉnh, bảo đảm liên tục chiến đầu.

        Tại trọng điểm 2 của Khu 9 - thị xã Vĩnh Long, đúng 01 giờ đêm 1 - 2, từ hướng nam, Tiểu đoàn 306 đột nhập thị xã, đồng loạt nổ súng. Ta nhanh chóng chiếm căn cứ bảo an, ty cảnh sát, khu trung tâm thông tin Hoa Lư. Cùng lúc, Tiểu đoàn 1 của tỉnh đột nhập sân bay, phá hủy trên 60 máy bay trực thăng, chiếm đại bộ phận sân bay. Tiểu đoàn 308 vượt sông gặp khó khăn. Bộ phận đi đầu gồm 50 chiến sĩ vào được thị xã, bị địch bao vây, cô lập nên thương vong lớn.  Đến 5 giờ sáng 1 - 2, Tiểu đoàn 306 đã chiếm được một phần ba thị xả Vĩnh Long. Địch ở thị xã tập trung lực lượng phản kích quyết liệt. Các đơn vị ta giữ vững quyết tâm, củng cố trận địa đã chiếm, phòng ngự ứng chắc, đánh địch phản kích.

        Trong hai ngày 2 và 3 - 2, ta vẫn làm chủ và tiếp tục tiến công. Tiểu đoàn 306 tổ chức đánh lấn từng khu vực, chiếm được tòa hành chính tỉnh, làm chủ hai phần ba thị xã.  ở hướng tây, Tiểu đoàn 1 bộ đội tinh rút ra vùng ven, tiếp tục bao vây khống chế sân bay, làm chủ bến phà Mỹ Thuận, chặn quân viện ở hướng Sa Đéc. Tiểu đoàn 308 phòng ngự theo tuyến sông, bao vây thị xã, đánh quân phản kích.

        Sang ngày 4 - 2, địch đưa nhiều xe thiết giáp và trực thăng phun lửa, vừa phản kích vừa đốt nhà, hủy diệt các khu phố ta chiếm, hòng đẩy lực lượng ta ra khỏi thị xã. Tiểu đoàn 306 bám công sự đánh bại các đợt phản kích quyết liệt của địch, đồng thời cùng với nhân dân và lực lượng thị xã dập lửa, bảo vệ tài sản của đồng bào, băng bó cứu chữa nhân dân bị thương. Lúc này phía sau đã kịp thời bổ sung cho Tiểu đoàn 806 trên 500 quân, phần lớn là bộ đội địa phương và du kích tình nguyện. Ngày 5 - 2, ta chiếm phần lớn thị xã, địch chỉ còn lại dinh tỉnh trưởng. Tên tỉnh trưởng Vĩnh Long hoảng sợ xuống tàu chạy ra giữa sông Tiền, dùng điện thoại liên lạc với vùng 4 chiến thuật xin cứu viện.

        Trước nguy cơ thị xã Vĩnh Long thất thủ, ngày 6-2, quân liỹ dùng pháo hạm, không quân và trực thăng vũ trang dành phá ác liệt vào nội ô và vùng ven thị xã, hòng tiêu diệt lực lượng ta. Sau đó địch dùng 40 trực thăng đổ 2 tiểu đoàn của Lữ đoàn 2 (Sư đoàn 9 bộ binh Mỹ) xuống phía sau lộ Cầu vồng, từ Quặn Mới đến căn cứ 80, cùng quân ngụy hình thành 2 mũi bao vây quân ta trong thị xã. Tiểu đoàn 306 tập trung đánh bộ binh Mỹ đang bịt hành lang vào thị xã 23 giờ cùng ngày, tiểu đoàn tập kích một cụm quân Mỹ ở hướng nam cầu Cá Trê, gây cho địch nhiều thiệt hại.  Trước tình hình địch tăng cường lực lượng phản kích, Mỹ trực tiếp can thiệp, giải tỏa cho ngụy, và qua 6 ngày đêm chiến đấu, thương vong của ta khá lớn - nếu giữ quyết tâm đánh chiếm toàn bộ thị xã như kế hoạch cũ sẽ không có lợi, Ban chỉ huy Mặt trận quyết định cho toàn bộ lực lượng ta rút ra vùng ven, gài thế đánh viện, bao vây thị xã,  giải phóng nông thôn.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM