Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Ba, 2024, 12:47:55 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân-1968‎  (Đọc 31132 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #30 vào lúc: 03 Tháng Ba, 2017, 02:24:55 pm »


        Cuộc đụng độ nếu xảy ra là quân cách mạng và quân Mỹ chạm mặt, đọ sức trực tiếp - bài toán không còn ẩn số nữa.  Về phong trào chính trị nội thành Sài Gòn, hai năm đó tiến những bước dài. Đảng bắt đầu chủ động dấy lên các đợt tiến công mang tính chất quần chúng quanh các khẩu hiệu trọng yếu: hòa bình, dân chủ, đời sống, giữ gìn văn hóa dân tộc. Mỹ đổ quân ồ ạt vào miền Nam, mâu thuẫn dân tộc cùng nhiều loại mâu thuẫn khác giữa đông đảo quần chúng vùng tạm phiếm với bọn xâm lược thêm gay gắt, mặt nạ lừa bịp bằng chủ nghĩa thực dân kiểu mới của Mỹ từ từ rơi, Mỹ lần lượt hiện hình là kẻ cướp và bọn đầu cơ chính trị hiện hình là bọn bán nước, sự mơ hồ mức nào đó trước đây của quần chúng tan biến dần, cộng thêm sự bất mãn của tầng lớp trí thức và tơ sản thành thị trước các hoạt động lấn át của các công ty độc quyền Mỹ, mâu thuẫn giữa sĩ quan Sài Gòn với bọn chỉ huy Mỹ bây giờ không còn che đậy nữa, mâu thuẫn giữa bọn tay sai với nhau - phe quân nhân và phe dân sự, phe tham chính và phe chầu rìa, đảng phái này và đảng phái khác, nhóm cơ hội trong Công giáo. . . Quân Mỹ và chư hầu ồ ạt đổ bộ lên đất nước ta kéo theo nhiều tệ nạn về văn hóa, đảo lộn nền luân lý lâu đời của nhân dân ta. Bấy giờ phổ biến câu vè: “nhất sư, nhì Mỹ, tam đĩ, tứ tướng” bốn hạng được ưu đãi nhất. Đảng bắt đầu giành được quyền lãnh đạo qua tổ chức và cơ sở các trung tâm hàng đầu: Tổng hội sinh viên, Tổng hội học sinh, các trường học, một số nghiệp đoàn và xí nghiệp, các đoàn thể trí thức và giới Phật giáo các xóm lao động, thâm nhập trong quân đội và cảnh sát địch. Cách mạng ảnh hưởng đến cả một số nhân vật trong Quốc hội, sử dụng được một số báo chí công khai. Giới đạo Thiên Chúa cũng có một phân hóa nhất định, xuất hiện một số linh mục tiến bộ, nhọn lập trường dân tộc, tán thành Mặt trận Dân tộc giải phóng. Khí thế phong trào công khai khá mạnh: Lực lượng bảo vệ văn hóa dân tộc, Hội bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi phụ nữ, Tổng hội sinh viên, Tổng hội học sinh, Phong trào dân tộc tự quyết, Lực lượng quốc gia tiến bộ, Tổng liên đoàn lao động, Liên hiệp các nghiệp đoàn tự do, Nghiệp đoàn ký giả, Hội liên hiệp văn hóa nghệ thuật, Hội ái hữu nghệ sĩ, Nghiệp đoàn giáo học, Liên đoàn viên chức, các hội đoàn Phật tử... Ảnh hưởng của ta trong giới báo chí cũng khá mạnh, một số do ta hướng dẫn hoàn toàn như Hồn Trẻ, tác động mức độ nhơ Dân chủ mới, Đất Tổ, không kể báo chí nửa hợp pháp xuất bản như rừng ở khắp các cơ sở.

        Vào lúc này “sự kiện Đà Lạt” xảy ra, cơ sở của ta đã huy động một lực lượng quần chúng lớn tiến hành một kiểu giành chính quyền ở thành phố này, cùng song song tồn tại với địch trong nhiều tuần lễ. Đấy là công trình chỉ đạo phối hợp giữa Khu ủy Sài Gòn và Khu ủy Khu 6. Hiện thực ấy hé ra một khả năng mới mà Khu ủy Sài Gòn nghiêm túc nghiên cứu.

        Đầu năm 1967, ý định tổng công kích - tổng khởi nghĩa lại đượm gợi lên. Tháng 5-1967, theo chỉ thị của Bộ Chính trị, Trung ương Cục bắt tay vào việc hoàn chỉnh kế hoạch hành động.

        Một mất mát bất ngờ: anh Nguyễn Chí Thanh, sau một thời gian ra Hà Nội làm việc với Bộ Chính trị sửa soạn vào Nam, đột ngột qua đời. Bộ Chính trị lập tức cử anh Phạm Hùng vào thay và sau đó bổ sung thêm anh Hoàng Văn Thái, và khi nổ súng, thêm anh Lê Đức Thọ. Tháng 7-1967, Hội nghị Khu ủy Sài Gòn - Gia Định họp mở rộng, đồng chí Võ Văn Kiệt, Bí thơ Khu ủy và là Ủy viên Trung ương Cục thông báo ý định của Bộ Chính trị và Trung ương Cục. Tôi vừa từ nội thành ra, bắt tay nghiên cứu chủ trương của Đảng. Tháng 8, Thường vụ Khu ủy gặp Thường vụ Trung ương Cục và Quân ủy Miền - bấy giờ, đồng chí Phạm Hùng làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Linh và Hoàng Văn Thái, Phan Văn Đáng, Phó Bí thư. Khu ủy giao tôi dự thảo kế hoạch hoạt động nội thành, kết hợp các mũi và các cánh, sau khi Thường vụ Khu ủy bổ sung, tôi phải bảo vệ kế hoạch ấy trước Trung ương Cục và Quân ủy Miền. Bản kế hoạch được thông qua. Tư tưởng chủ đạo của kế hoạch là dựa vào lực lượng biệt động, các tiểu đoàn mũi nhọn, lực lượng du kích và vũ trang nhân dân, lực lượng chính trị quần chúng tạo cú bất ngờ giữa thủ đô định rồi cung lực lượng chủ lực chiếm lĩnh các trọng điểm của thành phố.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #31 vào lúc: 03 Tháng Ba, 2017, 10:17:50 pm »


        Vào thời điểm đó, chúng tôi gặp một khó khăn rất lớn: đợt khủng bố lớn của địch đánh vào Đảng bộ nội thành - một số đồng chí Khu ủy viên bị bắt như anh Trần Văn Kiều, chị Lê Thị Riêng và một số cán bộ cốt cán khác, một mảng tổ chức quần chúng bị thiệt hại nặng do tên. Ba Trà, Bảy “Nhỏ”, Ca Vĩnh Phối phản (Ba Trà là ủy viên Đảng ủy Trí vận, Bảy Nhỏ là Thường vụ phân khu ủy Dĩ An - thị xã Gia Định, Ca Vĩnh Phối là phân khu ủy viên Thủ Đức – Thị Nghè). Lực lượng bảo vệ văn hóa dân tộc, Hội bảo vệ nhân phẩm và một số tổ chức khác bị địch giải tán, những người cầm đầu bị bắt. Tuy nhiên, lực lượng chủ lực của phong trào quần chúng là thanh niên và công đoàn thì bảo tồn được. Lực lượng biệt động và du kích vũ trang không chuyên  thoát khỏi cuộc khủng bố. Nghĩa là các điều kiện chủ yêu ở nội thành còn nguyên vẹn.

        Tháng 10, Khu ủy mở hội nghị cán bộ trên đầu nguồn Sông Vàm Cỏ Đông. Tôi chủ trì cuộc hội nghị đó. Hội nghị nghiên cứu chủ trương của Bộ Chính trị Trung ương Cục, kế hoạch của Khu ủy. Hầu như không có một ý kiến phản bác. Tất cả đều tập trung nghe và suy ngẫm phần việc của mình.

        Sau đó, một loạt hội nghị do Trung ương Cục triệu tập bàn biện pháp hợp đồng giữa các cánh, các đội, các khu vực.  Lực lượng chủ lực các khu, kể cả Tây Nam Bộ và một số tiểu đoàn miền Bắc vượt Trường Sơn vừa đặt chân đến Nam Bộ, được điều về chiến trường trọng điểm. Tổ chức chỉ huy chiến trường cũng được bố trí. Thành lập khu trọng điểm do đồng chí Nguyễn Văn Linh làm Bí Thư Đảng ủy tiền phương tức Sài Gòn và phụ cận) do đồng chí Trần Văn Trà và đồng chí Mai Chí Thọ phụ trách Tiền  phương Bắc, đồng chí Võ Văn Kiệt và tôi phụ trách Tiền phương Nam. Bộ tư lệnh Tiền phương Bắc (còn gọi là Tiền phương I), phụ trách quân chủ lực hướng bắc, tây bắc, và đông thành phố, bao gồm Phân khu 1, 4, 5 và một phần Phân khu 2 (tức Củ Chi, Hoè Môn, Dĩ An, Gò Vấp, Lái Thêu, Thủ Đức một phần Bình Tân) mục tiêu là khu Quán Tri, Sân bay Tân Sơn Nhất, các căn cứ quân sự Gia Định, Bộ Tổng tham mưu, đồng thời phụ trách các tiểu đoàn chiếm lĩnh nối tiếp biệt động nội thành.

        Bộ tư lệnh Tiền phương Nam (còn gọi là Tiền phương II) phụ trách các đơn vị chủ lực hướng nam và một phần tây nam, toàn bộ lực lượng biệt động và quần chúng vũ trang, phụ trách nội thành (từ Quận 1 đến Quận 8, trừ Quận 9), điều khiển Phân khu 3 (Nhà Bè và Bình Chánh), một phần Phân khu 2, tỉnh Long An (trừ huyện Đức Hòa), dùng biệt động đánh các mục tiêu Đại sứ quán Mỹ, dinh Độc Lập, Bộ Tổng tham mưu, Đài phát thanh, Bộ tư lệnh Hải quân, kho xăng Nhà Bè, Tổng nha Cảnh sát, dùng lực lượng chủ lực đánh chiếm nửa sân bay Tân Sơn Nhất, phát động quần chúng chiếm các xóm lao động, chờ đón quân chủ lực vào thành .

        Đầu năm dương lịch 1968, Bộ tư lệnh Tiền phương Nam chuyển xuống Bố Bà Tây (Rừng Nhúm) và Bộ tư lệnh Tiền phương Bắc chuyển xuống Củ Chi. Chúng tôi tiếp tục hoàn thành những chi tiết cuối cùng trước khi nổ súng. Đồng chí Trần Văn Trà hỏa tốc ra Hà Nội báo cáo và trở về mang ý kiến cuối cùng của Bộ Chính trị trước ngày nổ súng không bao lâu. Chỉ đạo của Bộ Chính trị và đồng chí Lê Duẩn có một ý kiến quan trọng mà nhất thời chúng tôi chưa hiểu hết ý nghĩa: tổng công kính - tổng khởi nghĩa là một quá trình.  Bộ Chính trị quyết định nổ súng đêm mùng Hai, rạng mùng Ba Tết.

        Với chúng tôi, ngày giờ đó khá cập rập và có phần mâu thuẫn với dự kiến của chúng tôi: chúng tôi dự kiến đêm Bốn rạng mồng Năm sẽ có một cuộc tập hợp quần chúng lớn ở vườn Tao Đàn, gọi là tết Quang Trung”, tập họp hàng vạn người.

        Cũng vào thời điểm ấy, một biến cố xảy ra: chuyện đổi lịch, lùi Tết Nguyên Đán trước một ngày. Do đó, Huế và Khu 5 nổ súng trước chúng tôi.

        Đảng ủy Tiền phương Nam tập kết ở Ba Thu và khi nhận được quyết định ngày N giờ G - trưa hai mươi chín Tết, lập tức hành quân.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #32 vào lúc: 03 Tháng Ba, 2017, 10:19:40 pm »


        Biệt động nổ súng đúng giờ vào các mục tiêu: dinh Độc Lập, Đại sứ quán Mỹ, Bộ Tổng tham mưu, Đài phát thanh, sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ tư lệnh Hải quân. Riêng mục tiêu Tổng nha Cảnh sát, kho xăng Nhà Bè, không thực hiện được. Lực lượng ta chiếm một nửa phía nam sân bay Tân Sơn Nhất. Các tiểu đoàn do Bộ tư lệnh Tiền phương Nam phụ trách cùng các lực lượng bán vũ trang - gồm cán bộ, công nhân viên các cơ quan Khu ủy và Trung ương Cục lọt sâu vào nội thành, kết hợp với lực lượng quần chúng, làm chủ một vùng rộng đến tận khu ngã sáu Chợ Lớn, Cầu Muối, Chợ Thiếc. Nhưng lực lượng chính quy không thọc vào được thành phố nên cuối cùng, chúng tôi phải rút. Sau đợt Một, đến tháng Năm, ta thực hiện đợt Hai. Lần này, biệt động không còn đủ sức đánh các mục tiêu, nhưng cửa ngõ tây nam vẫn mở, quân ta thọc sâu vào tận đường Tổng Đốc Phương. So với đợt Một, đợt Hai quân chủ lực tiến sâu hơn: Chiếm ngã tơ Hàng Xanh, bắc đường Chi Lăng giữa thị xã Gia Định.

        Trong cả hai đợt, chiến trường trọng điểm được sự phối  hợp vô giá của các địa phương: quân ta tiến công hầu hết tỉnh ly, quận lỵ khắp miền Nam.

        Về thực tế, tháng 6-1968, đợt tổng công kích - tổng khởi nghĩa coi như xong sứ mạng lịch sử của nó.

        Tôi không định ghi chép tỉ mỉ hai đợt Mậu Thân mà chỉ muốn nhấc vài mốc mà tôi cho là quan trọng. Giá trị của hai đợt Mậu Thân, ngày nay không phải bàn cãi nữa. Ơ đây, chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân, dân ta đạt đến đỉnh cực cao, hàng vạn người xả thân cho sự nghiệp lớn, hàng nghìn người bị địch bắt và trải qua nhiều năm tháng cực kỳ gian khổ trong nhà giam mà kẻ thù quyết bức hại cả tinh thần lẫn thể xác, nhiều đồng chí đã hy sinh, nhiều người mang thương tật. Quần chúng nội thành đứng lên hành động dĩ nhiên trong điều kiện chiến tranh ác liệt, kẻ thù ném born ngay sào huyệt chúng, thì không thể dùng khái niệm khởi nghĩa thông thường để hiểu thái độ cửa quần chúng. Hiệu quả của hai đợt như thế nào, trên một bình diện rộng cả trong và ngoài nước, chúng ta đã biết. Đúng như đồng chí Lê Duẩn nói, Mậu Thân đã ném vào tình hình thành trì những quả bom dữ dội và cái gì diễn ra sau đó - Mỹ xuống thang, ngồi đàm phán, rút quân - là thành quả tất yếu của một biến động vào cỡ bước ngoặt. Trong cuộc chiến ở Nam Việt Nam, không có cú đánh nào choáng váng nước Mỹ bằng Mậu Thân, chúng ta rút ra nhận xét ấy không một phút cường điệu. Chính thực binh Mỹ chạm trán với chúng ta - chạm trán với một hình thái chiến tranh mà Mỹ chưa từng biết, không có tiền lệ, không được đưa vào giáo trình các trường và Viện nghiên cứu khoa học quân sự.

        Hết sức rõ ràng, lực lượng so sánh thực tế chưa cho phép chúng ta dứt điểm với đợt tiến công Mậu Thân: Mỹ còn mạnh. Nhưng, Mậu Thân đã làm cho Mỹ thấy rằng ở Việt Nam, Mỹ không thể mơ ước chiến thắng quân sự. ý chí của chúng suy sụp. Đó là cống hiến đặc sắc của Mậu Thân. Mặc dù sau Mậu Thân, Mỹ tiếp tục một thời gian nữa chính sách tăng quân, tăng khí tài chiến tranh, mở rộng chiến sự đến tận Cam-pu-chia, đẩy mạnh ném bom miền Bắc Việt Nam, phong tỏa các cảng, v.v... nhưng chính Mậu Thân đã đốt cháy tham vọng nhiều năm của Mỹ và toàn bộ cố gắng của chúng chi là hy vọng mỏng manh để hạn chế mức thua như sĩ diện của một cường quốc buộc chúng phải vớt vát. Tất nhiên, phải chờ các chiến dịch, các cuộc tiến công chiến lược tiếp sau, chờ “Điện Biên Phủ trên không”, chờ dư luận Mỹ thành phong trào phản chiến và Mỹ bị cô lập nặng nề trên trường quốc tế - nhưng về chiến lược, Mỹ hiểu phải thoát khỏi đường hầm trước khi không còn lối thoát.  Với nhận thức trên, hoàn toàn không có vấn đề gì để nghi vấn về sự cần thiết của các đợt Mậu Thân là một dấu mốc không thay thế nổi.

        Muốn đánh giá chính xác ý nghĩa cùng hiệu quả chính trị lớn lao của cuộc Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa Mậu Thân 1968 đối với toàn bộ quá trình kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, cần trước hết đặt nó trong một hiện thực lịch sử xác định và trong ý định lãnh đạo của Đảng ta.

        Có lẽ cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ là bài toán phức tạp và gay gắt nhất không những Đảng mà cả dân tộc ta phải xử lý từ khi đất nước cầm vũ khí giữ bờ cõi và giành lại chủ quyền suốt nhiều ngàn năm tồn tại.  Dĩ nhiên, mỗi sự nghiệp kháng chiến quá khứ đều có những khó khăn riêng và do đó khi giành được thắng lợi thì thắng lợi ấy luôn luôn đáng tự hào. Các triều đại phong kiến chúng ta kể từ Tây Sơn trở về trước chống cường địch phương Bắc với lực lượng so sánh ta bao giờ cũng kém hơn, xét quân số binh chủng và đôi khi cả trang bị bộ binh thông thường, song ta và định đều ở trong một trình độ sản xuất xấp xỉ nhau.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #33 vào lúc: 03 Tháng Ba, 2017, 10:22:11 pm »


        Cuộc kháng chiến chống Pháp, nhất là chống Mỹ, tình hình khác hẳn, kẻ thù là nước công nghiệp tư bản phát triển vào bậc nhất thế giới, vượt trội hơn chúng ta về các phương tiện vật chất kỹ thuật quân sự và phục vụ cho quân sự có phương tiện chúng ở ưu thế tuyệt đối. Đó là một sự thực. Vả lại, xét đến mức mà chúng ta cũng chỉ mới đề cập phần sự thực của vân đề . Cuộc kháng chiến chống Mỹ mang tính chất khác hẳn các cuộc kháng chiến trước đó, cũng không hoàn toàn giống tính chất cuộc kháng chiến chống Pháp.

        Mỹ không nhằm dập tắt một phong trào giải phóng dân tộc mà nhằm bóp chết một hình thái xã hội, một chế độ chính trị trong hệ thống thế giới mới đang hình thành mà Việt Nam là thành viên, với sức cổ vũ mang giá trị quyết tâm. Bởi vậy, hoàn toàn đúng đắn khi chúng ta nói rằng chiến thắng đế quốc Mỹ là một chiến công lớn nhất của dân tộc ta từ ngày lập quốc bởi vì chúng ta nhận thức sự kiện ở góc độ mang tính giai cấp, dân tộc và xu thế của nó. Nước Nga từng đánh bại Na-pô-lê-ông năm 1812 song rõ ràng, không thể nào đánh đồng chiến công Bô-rô-đi-nô với cuộc công Béclin, đánh sụp chủ nghĩa phát xít Hít-le năm 1945. Muốn thắng Mỹ, ngoài lỏng dũng cảm, tính kiên trì, sự giúp đỡ của bạn bè, còn đòi hỏi phải có trí tuệ, nhất là trí tuệ ở đây là loại trí tuệ khá độc đáo, chưa có tiền lệ để ta suy ngẫm: Cuộc chiến tranh Triều Tiên 1951-1953 diễn ra ngay trong lúc chúng ta còn đánh Pháp. Chúng ta đều biết trên bán đảo Triều Tiên thực binh Mỹ và quân chí nguyện Trung Quốc trực tiếp chạm trán, chiến tranh có lúc đến tận cảng Phú Sơn, cực nam bán đảo và có lúc đến tận bờ sông áp Lục, sát biên giới Trung Quốc. Đàm phán Bàn Môn Điếm rối Giơ-ne-vơ chấm dứt xung đột với cái kết quả rõ rệt nhất là đường giới tuyến 38 phân hai phần đất nước Triều Tiên dời xuống phía Nam được 10 cây số.

        Tiền lệ như thế không thể không khiến bộ não của cách mạng Việt Nam phải tính toán trước đi, ngay liền sau khi vừa ký Hiệp định Giơ-ne-vơ. Tác phẩm Đề cương cách mạng miền Nam của đồng chí Lê Duẩn là những dự kiến phác thảo và cuộc “đồng Khởi” 1959-1960 ở Nam Bộ, cung cấp cho Đảng những cơ sở để làm phong phú thêm lý luận và thực tiễn của chiến lược đánh và thắng Mỹ bằng kiểu cách Việt Nam.

        Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 - không xét ý định ban đầu và không xét về những mặt va vấp trong chỉ đạo thực hiện mà chỉ xét về cái đáng xét nhất là hiệu quả cuối cùng - là một công đoạn cực kỳ quan trọng trong chiến lược đánh và thắng Mỹ của Đảng ta, một sự tiến tới  “vừa mang tính chất đột xuất vừa biểu thị tính quy luật của một tư tưởng”, đến lúc đó, đã hình thành tương đối hoàn chỉnh.  Trọng điểm của Mậu Thân là Sài Gòn. Đây là nơi xung yếu nhất của Mỹ - ngụy. Trong mệnh lệnh của Bộ Chính trị, phổ biến bằng miệng, mục tiêu của cuộc tiến công và nổi dậy Sài Gòn được nghiên cứu kỹ, vạch đi vạch lại nhiều lần và cuối cùng, chỉ 5 tháng trước khi hành động, kế hoạch mới được thông qua, sau này còn tiếp tục bổ sung thêm chi tiết.  Để giành thắng lợi ở Sài Gòn, Bộ Chính trị và Trung ương Cục tổ chức hắn một khu trọng điểm gom nội thành Sài Gòn, năm phân khu xung quanh mà mỗi phân khu nối dài với một, hai tỉnh, như Phân khu 1 gồm cả bắc Gia Định, tây bắc Long An, tỉnh Tây Ninh; Phân khu 2 gồm phần còn lại của Long An và Mỹ Tho; Phân khu 3 gồm Nhà Bè, Cần Giuộc và vùng Rừng Sác; Phân khu 4 gồm Thủ Đức và cả tỉnh Biên Hòa; Phân khu 5 gồm Dĩ An và cả tỉnh Bình Dương (nay là Sông Bé).

        Tất nhiên, muốn hiểu chính xác Mậu Thân thì không thể xét diễn biến của nó như một chiến dịch đơn thuần quân sự. Trong mệnh lệnh Bộ Chính trị nhấn mạnh hai điểm mà ta phải giành cho kỳ được bất cứ với giá nào là Đại sứ quán Mỹ và dinh Độc Lập, tiêu biểu cho quyền uy của Mỹ và chinh quyền Sài Gòn ở miền Nam. Ta có thể nói rằng hai đợt Mậu Thân, nhất là đợt Một, đã làm choáng váng kẻ thù. Còn một quan niệm cần tranh luận: ở Sài Gòn, trong Mậu Thân, có nổi dậy của quán chúng không? Theo chúng tôi, phải trao đổi chung quanh hai chữ “nổi dậy”. Kinh nghiệm lịch sử ở ta và nhiều nước, quần chúng nổi dậy là một hiện tượng không bao giờ lặp lại, không theo một mẫu nào cả. Cách mạng tháng Mười Nga, thợ thuyền và binh lính kết hợp, trong một tình thế cách mạng cụ thể, lật đổ Chính phủ lâm thời tư sản và trận tiến công lớn tập trung ở Cung điện Mùa Đông với mức xô xát quyết liệt ngắn ngủi và với số thương vong nhỏ - nhỏ so vai một cuộc cách mạng lớn. Trước Cách mạng tháng Mười Nga, Công xã Pa-ri diễn ra một hình thức nổi dậy giành chính quyền của quần chúng lao động và sau đó, biến thành cuộc chiến đấu bảo vệ thành quả cách mạng bằng lực lượng dân chúng vũ trang và chướng ngại vật trên đường phố.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #34 vào lúc: 04 Tháng Ba, 2017, 03:19:03 pm »


        Cách mạng tháng Tám ở Hà Nội bùng lên trong cao trào quần chúng giữa lúc kẻ thù suy sụp mà hoạt động vũ trang chỉ đóng vai trò xung kích hỗ trợ. Tình hình ở Sài Gòn năm 1945 cũng na ná như vậy.  Năm 1959-1960, nông thôn Nam Bộ “đồng khởi” - quần chúng diệt tề, trừ gian, thiết lập chính quyền cách mạng. Mậu Thân, chúng ta Tổng tiến công và nổi dậy. Nói cách khác, quần chúng nổi dậy trong điều kiện chiến tranh lên đến đỉnh cao. Một phóng viên của một tờ báo Mỹ hỏi tôi vài tuần lễ trước đây: Tại sao trong Mậu Thân, Sài Gòn không có đình công, bãi chợ, bãi khóa và biểu tình? Tôi trả lời: công xưởng, hiệu buôn, chợ không hoạt động, trường học nghỉ, dù không phải ngày Tết, giữa bom đạn xối xả, các hình thức ấy không cần chủ trương tự khắc cũng diễn ra; còn biểu tình, quần chúng kéo ra đường để làm gì và sẽ đạt hiệu quả gì? Nổi dậy trong trường hợp chiến tranh phải thể hiện trọng hình thức riêng, giành chính quyền ở các xóm lao động, giải tán chính quyền, kiểm soát đường phố, truy lùng bọn mật thám chỉ điểm, giữ an ninh trật tự, tổ chức quần chúng, dẫn đường, tiếp tế cho bộ đội, tải vũ khí, tải thương và săn sóc thương binh, vận động quân đội Sài Gòn về với cách mạng hoặc hạ vũ khí... mặc dù mỗi khu vực không đều, song cả thành phố đã xuất hiện không khí khác thường đó .

        Ta hiểu một trong những thất vọng lớn của Mỹ không chỉ vì quân biệt động và lực lượng vũ trang của ta thọc được vào thành phố, đánh các điểm đầu não xung yếu của chúng  mà còn vì chúng thấy thái độ đồng tình của quần chúng, thấp nhất cũng là rời bỏ khu vực chiến sự kéo vào khu trung tâm, tạo nên cảnh hoảng loạn. Ngay bọn phản động cũng không tổ chức nổi một cuộc phản biểu tình.  Ta hiểu quan niệm “nổi dậy” trong một hiện thực như vậy, theo tôi, là cách hiểu khoa học, không lấy bất cứ mô hình nào làm chuẩn.

        Tôi muốn giới thiệu thêm một khía cạnh không kém quan trọng, là đặc thù của Mậu Thân ở Sài Gòn: cả hai đợt không hề xảy ra một sự việc đáng tiếc nào trong mối liên hệ giữa quân cách mạng, lực lượng cách mạng với quần chúng bình thường, ngay với công chức, binh sĩ địch và gia đình họ. Sau Mậu Thân, ở SàI Gòn, bọn bồi bút chịu không nặn ra nổi một phóng sự, một quyển tiểu thuyết bôi bác Mậu Thân, bởi không không tìm được tư liệu. Về mặt này, kỷ luật Quân giải phóng và lực lượng cách mạng được tôn trọng rất nghiêm chỉnh.

        Chúng ta nhớ, sau hai mươi tám ngày rưỡi chính quyền Việt Minh làm chủ thành phố từ 25-8 đến 23-9-1945, Sài Gòn liên tục sống dưới chế độ thống trị của Pháp rồi Mỹ. Mậu Thân là lấy đâu ngần ấy thời gian, cách mạng công khai xuất hiện với con người “bằng xương bằng thịt”, xuất hiện ồ ạt, xuất hiện trong tư thế chiến đấu, thế mà lại được quần chúng đón tiếp, ít nhất cũng không với thái độ thù địch. Đó là nét nổi bật của Sài Gòn.

        Nét nổi bật đó đã một lần nữa bao trùm thành phố ngày 30 tháng 4 năm 1975; quân ta chỉ đánh mạnh ở vùng ngoài, thọc sâu nhanh không để kẻ địch co cụm, nhân dân đứng hẳn về phía cách mạng. Chắc Xuân Mậu Thân đã chuẩn bị  một phần tư tưởng cho đông đảo quần chúng Sài Gòn đón ngày 30 tháng 4, đón mùa Xuân đại thắng.

        Mậu Thân không phải không có những vấn đề cần đánh giá cho rõ. Cái tên “Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa” thiếu chính xác. Sau này, nó được điều chỉnh lại là “Tổng tiến công và nổi dậy”, lúc đầu việc bố trí kế hoạch tiến công còn máy móc, khiến lực lượng biệt động và lực lượng vũ trang tại chỗ không được các đơn vị mũi nhọn yểm trợ - phần lớn các tiểu đoàn yểm trợ do Bộ tư lệnh Tiền phương Bắc phụ trách . Trục hành tiến nặng theo hướng Bắc - nơi địch rất dày nhiều lớp phòng thủ, trong khi phía Nam chúng sơ khoáng.

        Lẽ ra, với đợt Một, Mậu Thân đã hoàn thành trách nhiệm và liền sau đó nếu giữ vùng ven thì tình hình sẽ thuận cho ta, ít nhất, đỡ tổn thất. Có thể đây là cái sai nghiêm trọng nhất của Mậu Thân. Tuy vậy, Mậu Thân vẫn là một cuộc tiến công chiến lược mà lòng dũng cảm, óc sáng tạo, nghệ thuật chọn thời cơ, mục tiêu của chiến sĩ, chỉ huy, lãnh đạo đạt trình độ cao, cung cấp cho đời sau những bài học quý giá.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #35 vào lúc: 04 Tháng Ba, 2017, 03:21:15 pm »

     
GHI NHỚ VỀ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH VÀ TRIỂN KHAI THỰC HIỆN ĐÒN TIẾN CÔNG CHIẾN LƯỢC MẬU THÂN 1968

Thượng tướng LÊ NGỌC HIỀN        

        Trong lịch sử kháng chiến thống Mỹ, cứu nước, đòn tiến công chiến lược “Tết Mậu Thân” 1968 là một sự kiện trọng đại Sự kiện lịch sử này, từ nhiều năm qua, đã thu hút sự chú ý tìm hiểu, lý giải cua các tác giả trong nước cũng như nước ngoài, đặc biệt là ở Mỹ. Đối với chúng ta, đây vẫn là một chủ đề cần phải được tiếp tục đi sâu nghiên cứu để rút ra những bài học lịch sử cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay cũng như mai sau. Với ý nghĩ đó, tôi ghi lại ở đây một số điểm chủ yếu liên quan đến quá trình xây dựng kế hoạch cũng như việc triển khai thực hiện đòn tiến công chiến lược Mậu Thân 1968.

        I. HÌNH THÀNH Ý ĐỊNH VÀ KẾ HOẠCH  TÁC CHIẾN CHIẾN LƯỢC.

        1.  Hình thành ý định:


        Trước khi có Nghị quyết Bộ Chính trị, tháng 6-1967, quân và dân ta đã trảỉ qua hơn 2 năm trực tiếp đương đầu với quân viễn chinh Mỹ. Trong cuộc chiến đấu đó, vận dụng phương châm chiến lược và phương thức tác chiến chiến lược của Trung ương Đảng, tư tưởng chỉ đạo của ta vẫn nhất quán như sau: trên cơ sở phát huy mạnh mẽ phong trào quần chúng nổi dậy đánh giặc, ta tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh du kích rộng khắp trên cả ba vùng, các chiến trường từ Trị Thiên đến cực Tây Nam Bộ. Đồng thời, nỗ lực phấn đấu đánh những đòn tác chiến tập trung của chủ lực, nâng mức tiêu diệt địch từ các đơn vị chiến đấu, chiến thuật (như đại đội, tiểu đoàn) tiến tới diệt các đơn vị cấp chiến dịch, chiến lược (lữ đoàn, sư đoàn quán Mỹ; trung đoàn, sư đoàn quân ngụy), đánh bại gọng kìm “tìm diệt” của quân Mỹ; phối hợp tích cực với đòn tiến công - nổi dậy ở vùng nông thôn, thành phố, đánh bại gọng kìm “bình định” do quân ngụy đảm nhiệm theo sự phân công của Mỹ.  Cần ghi nhớ rằng, trong tư tưởng chỉ đạo chiến lược của ta, đòn tác chiến tập trung tiêu diệt lớn quân Mỹ - ngụy có tác dụng “thối động” toàn chiến trường, góp phần tích cực vào việc giành thắng lợi quyết định, đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù. Theo như cách đánh truyền thống của quân đội ta từ kháng chiến thống Pháp tới khi ta trực tiếp đánh quân viễn chinh Mỹ, những đòn đánh như thế của bộ đội chủ lực thường diễn ra ở vùng rừng núi.  Ngay như Nghị quyết Bộ Chính trì Trung ương Đảng tháng 6-1967 và chỉ thị của Quân ủy trung ương cũng đã tiếp tục đề ra mục tiêu phấn đấu là: đã diệt được tiểu đoàn Mỹ phải phấn đấu diệt cho thật gọn, tiến lên diệt trung đoàn lữ đoàn Mỹ cũng phải thật gọn.  Đã diệt gọn được chiến đoàn dã chiến ngụy phải phấn đấu diệt gọn trung đoàn, sư đoàn ngụy.

        Nhìn lại quá trình hơn hai năm trực tiếp đánh quân Mỹ, ta thấy rõ tuy bộ đội ta đã tiêu hao, tiêu diệt rất nhiều quân địch, nhưng diệt gọn từng đại đội, tiểu đoàn quân Mỹ bao gồm phải bắt tù binh, thu vũ khí, làm chủ trận địa... thì ta còn gặp nhiều khó khăn. Tình hình đó có khác so với những năm kháng chiến chống Pháp, tuy đối tượng tác chiến của bộ đội ta lúc đó cũng có nhiều đơn vị là lính âu Phi tinh nhuệ.

        Mặc dù Bộ Tổng tham mưu đã cử cán bộ trực tiếp chỉ đạo thí điểm cách đánh nhằm tiêu diệt gọn đơn vị quân Mỹ song cũng thấy điều kiện để khắc phục không phải dễ dàng. Chính vì thế, khi chuẩn bị bắt tay làm kế hoạch chiến lược thời gian tới, Bộ Tổng tham mưu suy nghĩ rằng, nếu ta cứ đi lên bằng cách thức như cũ thì khó có thể tạo nên chuyển biến chiến lược trên chiến trường...

        Bước sang tháng 7, tháng 8-1967, việc bắt tay xây dựng kế hoạch tác chiến chiến lược cho năm 1968 càng trở nên gấp gáp. Khi chuẩn bị xây dựng kế hoạch, đồng chí Tổng Tham mưu trưởng có chỉ thị gợi ý cho “Tổ kế hoạch” Cục Tác chiến, Bộ Tổng tham mưu: “Phải thay đổi cách đánh tạo cho được đòn tiến công, có ý nghĩa chiến lược. Nếu cứ làm kế hoạch tác chiến theo cách đánh trước đây, kiểu “xuân thu nhị kỳ” thì chưa biết lúc nào ta mới đánh bại được địch”.  Trong khi “Tổ kế hoạch” còn đang suy nghĩ, tìm tòi song vẫn chưa nghĩ ra thì chính số đồng chí lãnh đạo chủ chốt Bộ Chính trị (đồng chí Lê Duẩn...) và Quân ủy trung ương đã trao đổi, đề xuất giải pháp mới. Hai tư duy chỉ đạo vừa sáng tạo, vừa táo bạo đã kết thành ý định quyết tâm chiến lược là đột ngột chuyển hướng tiến công chiến lược chủ yếu của ta từ rừng núi, nông thôn đánh thẳng vào sào huyệt, đầu não hiểm yếu nhất của địch là các thành phố, căn cứ trung tâm. Tuy các thành phố là nơi địch mạnh song chúng lại rất chủ quan, so hở. Đánh thẳng vào đó, ta sẽ tạo được bất ngờ lớn về chiến lược, giành thắng lợi lớn... Sự bất ngờ này ngay cả với phần đông cán bộ của ta. Vì quả thực, cho dù trong những năm trước đây, ta đã tổ chức, cài cắm nhiều đội du kích mật, các đội biệt động, các tổ đặc công, pháo cối tinh nhuệ, các tiểu đoàn mũi nhọn bám trụ vùng ven hoặc trong nội đô một số thành phố... nhưng ngay cả “Tổ kế hoạch cũng chưa hề nghĩ tới việc chuyển hướng tiến công chiến lược chủ yếu vào các thành phố, trung tâm đầu não của địch trên toàn miền trong giai đoạn này, khi chiến tranh đang phát triển lên đỉnh cao, chưa phải là lúc kết thúc, ta có điều kiện giành toàn thắng.

        Theo phương hướng chiến lược mới, “Tổ kế hoạch” lập tức bắt tay ngay vào việc xây dựng kế hoạch tác chiến chiến lược. Trong suốt quá trình này, Bộ Tổng tham mưu đã liên tục trao đổi trực tiếp với các Bộ tư lệnh chiến trường chủ yếu về khả năng hành động của bộ đội ta khi đánh vào thành phố và khả năng nổi dậy của quần chúng cũng như khả năng binh biến của ngụy quân, ngụy quyền...  Chung quy lại, câu trả lời của các đồng chí đại diện Bộ tư lệnh các chiến trường chủ yếu là: bộ đội ta đủ khả năng đánh được vào thành phố. Tuy nhiên, việc có trụ lại và giữ được hay không còn tùy theo phản ứng của địch; việc quần chúng có nổi dậy và binh lính nguỵ có làm binh biến hay không... thì đề nghị cấp trên hỏi ý kiến cấp ủy(...). Một điều chắc chắn là, quần chúng vùng ven và trong nội thành sẽ ủng hộ bộ đội!
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #36 vào lúc: 04 Tháng Ba, 2017, 03:22:53 pm »


        2. Về kế hoạch tác chiến chiến lược.

        Trải qua một quá trình chuẩn bị, đến tháng 10-1967, tại cuộc họp Bộ Chính trị - Quân ủy trung ương, đồng chí Tổng tham mưu trưởng đã trình bày báo cáo về kế hoạch tác chiến chiến lược sau khi đã được Quân ủy trung ương đồng ý. Trong bản báo cáo này, khi đề cập tới vấn đề đánh giá tình hình, điều cốt lõi nhất chính là nhận định: cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ đã được đẩy tới đỉnh cao nhất, cả ta và định đều đang nỗ lực tìm mọi phương thức có hiệu lực nhất để “hạ thủ’ đối phương. Trước tình hình đó, mục đích, ý định của ta mà bản báo cáo đề cập là: Chuyển hướng tiến công chiến lược chủ yếu từ rừng núi, nông thôn bất ngờ đánh thẳng vào các trung tâm đầu não của Mỹ - ngụy là các thành phố; hiệp đồng, phối hợp các lực lượng tiến công địch theo ngày, giờ quy định thống nhất trên toàn chiến trường; đòn tiến công quân sự đi trước một bướt kích nổ phong trào nổi dậy của quần chúng và binh biến trong ngụy quân, ngụy quyền nhằm:

        * Làm đảo lộn thế bố trí chiến lược của địch và cục diện toàn chiến trường, làm rung động mạnh đến nước Mỹ...

        * Tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ; diệt, làm tan rã bộ phận quan trọng sinh lực ngụy, đặc biệt là bọn đầu sỏ Mỹ, ngụy.

        Hướng tiến công chiến lược chủ yếu là các thành phố, trung tâm đầu não của Mỹ - ngụy, trọng điểm là Sài Gòn - Gia Định, Huế, Đà Nẵng; hướng phối hợp chiến lược đặc biệt quan trọng là mở chiến dịch lớn ở đường 9 - Khe Sanh nhằm diệt bộ phận quan trọng sinh lực Mỹ, căng kéo và kìm chân địch trên mặt trận này hỗ trợ cho hướng tiến công chiến lược chủ yếu, đồng thời nghi binh thu hút địch. Để thực hiện ý định chiến lược trên đây, bản báo cáo chỉ ra các bước thực hiện, các đợt hoạt động; dự kiến mức độ giành thắng lợi cũng như dự kiến việc xử lý các tình huống. Theo đó, đến tháng 11 năm 1967, ta sẽ mở đợt cao điểm tiến công địch như thường lệ để trực tiếp tạo thế, tạo lực; nghi binh, thu hút, đánh lạc hướng sự chú ý của địch.  Đó là đợt Đông. Đến Xuân Mậu Thân mới là đợt cao điểm quyết định. Trong đợt này, sẽ bất ngờ chuyển hướng tiến công chiến lược chủ yếu đánh vào các trung tâm đầu não, các thành phố lớn, các căn cứ thị xã, thị trấn, quận lỵ trên toàn Miền. Dự kiến mức độ giành thắng lợi bản báo cáo đề ra ba mức. Mức cao nhất: cả ở Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng đều có tiến công và nổi dậy mạnh mẽ, có binh biến của ngụy quân, ngụy quyền đều giành thắng lợi rất to lớn. Mức trung bình: chỉ có tiến công và nổi dậy ở Huế, Đà Nẵng hoặc ở một trong hai thành phố này. Mức bình thường: bộ đội ta đánh được vào hầu hết các mục tiêu đã đề ra nhưng lại phải rút ra ngay, không khuếch trương, mở rộng được thắng lợi chúng ra giành được. Trong trường hợp thứ ba này, ta dự kiến sẽ rút bộ đội ra để củng cố, để một bộ phận ở lại đánh du kích, đánh thường xuyên, duy trì phong trào và thế đứng chân ở vùng ven các đô thị. Ngoài 3 khả năng trên đây, bản báo cáo còn dự kiến tới khả năng địch bị thất bại lớn, có thể liều lĩnh đổ quân ra nam hoặc cả bắc Quân khu 4 hòng giành lại quyền chủ động chiến trường. Về phối hợp hành động và thời gian, lấy Tết Mậu Thân làm mốc nổ súng tiến công đồng loạt cho hướng tiến công chiến lược chủ yếu. Ngày, giờ cụ thể, Bộ Chính trị ủy quyền cho một số đồng chí chủ chốt nghiên cứu quyết định và ra lệnh cho các chiến trường.

        Các vấn đề nêu ra trên đây trống bản báo cáo của Bộ Tổng tham mưu đã được Hội nghị Bộ Chính trị - Quân ủy trung ương (tháng l0-1967) thảo luận kỹ lưỡng và thông qua, làm cơ sở để “các đồng chí bên quân sự” lo triển khai thực hiện cho kỹ. Đó là kết luận của đồng chí Trường Chinh chủ trì cuộc họp sau 5 ngày làm việc. Hội nghị lưu ý phải tuyệt đối giữ bí mật bản kế hoạch này, phải có kế hoạch nghi binh chiến lược, Bộ Chính trị còn phải tiếp tục suy nghĩ để bàn tiếp các vấn đề liên quan tới tổng khởi nghĩa, lập mặt trận thứ hai, lập chính phủ liên hiệp lâm thời, mở cuộc tiến công ngoại giao, chuẩn bị một số mặt công tác về tiếp quản trong trường hợp ta thắng lớn. Đến tháng 12 năm 1967, Bộ Chính trị họp tiếp và ra Nghị quyết về tổng công kích - tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân. Nghị quyết tháng 12 năm 1967 của Bộ Chính trị đã được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 1 năm 1968 thông qua. Lúc bấy giờ, tôi không còn ở Hà Nội mà đã vào chiến trường.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #37 vào lúc: 04 Tháng Ba, 2017, 03:24:41 pm »


        II TRIỂN KHAI THỰC HIỆN KẾ HOẠCH TÁC CHIẾN CHIẾN LƯỢC

        1. Về ngày, giờ nổ súng.


        Theo kế hoạch, 0 giờ đêm giao thừa Tết Mậu Thân là mốc thời gian quy định cho các đơn vị, các địa phương trên hướng chiến lược chủ yếu nổ súng tiến công đánh vào các trung tâm đầu não, các thành phố, thị xã, thị trấn, các căn cứ quân sự lớn, sân bay, quân cảng, kho tàng... quận lỵ trên toàn miền Nam. Trên thực tế, giữa các chiến trường, từ Khu 5 ra Trị - Thiên và Nam Bộ, thời điểm nổ súng có sự chênh lệch, cách nhau 24 tiếng đồng hồ. Mặc dù vậy, những yếu tố bất ngờ về chiến lược ta vẫn đạt được. Về việc phối hợp hiệp đồng với Mặt trận đường 9: Kế hoạch đề ra là phải mở Chiến dịch đường 9 - Khe Sanh trước 10 đến 15 ngày. Thực hiện kế hoạch đó, Chiến dịch đường 9 - Khe Sanh đã được mở vào ngày 20-1-1968 tức trước tết Mậu Thân mười ngày. Trước Chiến dịch đường 9 - Khe Sanh khoảng mười ngày, chiến dịch Nậm Bạc (mở ngày 12-l-1968) cũng đã triển khai, diệt và làm tan rã ngụy Lào ở khu vực Bắc Lào.

        2.Về tổ chức thực hiện các đợt tiến công.

        Như đã trình bày ở trên, kế hoạch tác chiến chiến lược mà Hội nghị Bộ Chính trị - Quân ủy trung ương thông qua hồi tháng 10-1967 dự định đợt Đông (từ tháng 11 năm 1967)  là đợt vẫn đánh theo hướng lấy tiến công tiêu diệt địch ở khu vực rừng núi là chủ yếu nhằm phối hợp với đồng bằng, thành phố phá kế hoạch bình định của địch; nghi binh, làm lạc hướng sự chú ý của chúng, tạo thêm điều kiện cho các mặt chuẩn bị của ta. Tiếp đó, đúng đêm Giao thừa Xuân Mậu Thân 1968, ta sẽ đồng loạt nổ súng tiến công vào các thành phố, trung tâm đầu não địch trên toàn Miền. Đây là đợt tiến công cao điểm chủ yếu của ta. . Trên thực tế, cuộc tiến công đã diễn ra thành 3 đợt từ khi tiếng súng mở màn đêm giao thừa bắt đầu:

        * Đợt 1: bắt đầu đêm 29 rạng ngày 30 tháng 1 năm 1968.

        * Đợt 2: bắt đầu đêm 5 tháng 5 năm 1968. 

        * Đợt 3: bắt đầu đêm 17 tháng 8 năm 1968.

        Như chúng ta đã biết, ngay sau thắng lợi đợt 1, ngày 31-3-1968, Tổng thống Mỹ Giôn-xơh đã thừa nhận thất bại, buộc phải công khai tuyên bố:

        * Ngừng ném bom miền Bác từ vĩ tuyến 20 trở ra.

        * Cơ đại diện đến bàn thương lượng.

        * “Phi Mỹ hóa” chiến tranh, rút dần quân Mỹ.

        * Không ra ứng cử Tổng thống Mỹ nhiêm kỳ mới.

        Đến sau đợt 3, ngày 30-10-1968, Giôn-xơn đã phải tuyên bố chấm dứt ném bom miền Bắc Việt Nam.

        Tôi điểm qua diễn biến thực tế của “Tết Mậu Thân” 1968 là để làm cơ sở cho việc ghi nhớ về một số vấn đề có liên quan tới sự chỉ đạo chiến lược trong suốt quá trình này.  Một là, tại sao Bộ Chính trị, Quân ủy trung ương và Bộ.  Tổng tham mưu chấp nhận tiến công đợt 2 và đợt 3? Có đợt 4, đợt 5 vào đầu năm 1969 trên thực tế hay không?  Hai là, đến lúc nào ta mới chủ trương chuyển hướng tiến công chiến lược chủ yếu từ các thành phố về nông thôn, rừng núi .

        Về vấn đề thứ nhất, Bộ Tổng, Quân ủy trơng ương và Bộ Chính trị chấp nhận đợt 2 là theo đề nghị có “căn cứ, cân nhắc thận trọng” của Trung ương Cục, Quân ủy Miền.  Cuối tháng 3 năm 1968, sau khi đã sơ bộ kiểm điểm đợt 1 tiến công vào Sài Gòn, Trung ương Cục - Quân ủy Miền đã cử đại diện (đồng chí Lê Trọng Tấn) ra Hà Nội trực tiếp báo cáo và đề nghị cho phép đánh đợt 2 vào Sài Gòn vì 2 lý do:

        * Yếu tố bất ngờ vẫn còn, mặc dù địch đã có về phòng giữ nội thành và vùng ven nhưng chúng vẫn còn nhiều sơ hở.

        * Chủ lực ta vẫn còn sung sức vì đợt 1 ta mới sử dụng bộ phận đặc công, số đội biệt động, du kích mật và quần chúng.

        Các tiểu đoàn mũi nhọn, các trung đoàn khu vực, các sư đoàn chủ lực cơ động chưa kịp thời gian phối hợp hiệp đồng tiến công địch, nên sức đột kích trong đợt 1 vẫn còn bị hạn chế. Nếu khắc phục được khuyết điểm này thì sức đột kích trong đợt 2 sẽ mạnh hơn nhiều và sẽ là một bất ngờ mới đối với địch.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #38 vào lúc: 05 Tháng Ba, 2017, 04:54:18 am »


        Sau khi chấp nhận đề nghị mở tiếp đợt 2 vào Sài Gòn, Bộ Tổng tham mưu đã chỉ thị cho các chiến trường, các thành phố khác trên toàn miền Nam thống nhất đồng loạt tiến công vào 0 giờ 30 phút ngày 5-5-1968. Đồng thời, Bộ Tổng tham mưu còn đề nghị với Bộ Chính trị và Quân ủy trung ương xúc tiến chuẩn bị việc kiểm điểm, đánh giá thắng lợi, ưu, khuyết điểm chỉ đạo đợt vừa qua, làm cơ sở cho việc đề ra chủ trương chính xác của đợt hoạt động sắp tới. Nhắc lại điều này, tôi nhớ tới không khí làm việc rất nghiêm túc, ,khẩn trương và đầy trách nhiệm trong cơ quan chỉ đạo chiến lược lúc đó chứ không hề có biểu hiện chủ quan, tự mãn với thắng lợi vừa giành được trên chiến trường.  Còn về chủ trương mở tiếp đợt 3 chính là theo đề nghị của Mặt trận Quảng Đà và một số mặt trận khác. Có điều, tinh thần khi chấp nhận đánh đợt 3 theo đề nghị đó khác hoàn toàn so với khi chấp nhận đánh đợt 2 vào Sài Gòn - Gia Định. Trước hết, cho đến tháng 6 năm 1968, sức đột kích của ta vào các thành phố đế giảm sút cho dù tình hình ở Quảng Đà có khá hơn so với các nơi khác. Hơn nữa, đến lúc này đã hình thành chủ trương chuyển hướng tiến công chiến lược chủ yếu từ thành phố về nông thôn, rừng núi.  Cuối cùng, Bộ Tổng tham mưu biết rõ rằng, khả năng đánh vào thành phố của ta cho đến lúc này rất hạn chế, rằng lực lượng đánh vào đô thị chủ yếu là các đội pháo cối tinh nhuệ, đặc công, du kích mật... Vì vậy, khi chấp thuận mở đợt 3, Bộ Tổng tham mưu đã chỉ thị cho các chiến trường, các mặt trận “phối hợp hành động tùy theo khả năng thực tế để tiếp tục tiến công địch bằng phương pháp thích hợp nhằm phối hợp với Quảng Đà”...

        Như vậy là, trên thực tế, sau đợt 3, đã không còn có đợt 4, đợt 5 tổng công kích - tổng khởi nghĩa vào đầu năm 1969 nữa. Tuy thế, để nghi binh, lừa địch trong khi chủ lực ta đã chuyển về địa bàn nông thôn, rừng núi cũng như để phục vụ cho công tác tuyên truyền đối ngoại, phục vụ cho đấu tranh ngoại giao... ta đã bằng nhiều cách “tạo cảm giác tiếp tục đẩy mạnh các đợt tổng công kích - tổng khởi nghĩa nhằm vào đô thị.”

        Về vấn đề thứ 2: đến lúc nào thì ta mới chuyển hướng tiến công chiến lược chủ yếu từ thành phố về nông thôn, rừng núi ?

        Như vừa trình bày ở trên, sau đợt 2 vào khoảng tháng 6 năm 1968, cơ quan lãnh đạo cao nhất là Bộ Chính trị - Quân ủy trung ương đã chính thức xác nhận phải chuyển hướng, cho dù chủ trương đó không thể hiện ra thành nghị quyết hoặc quyết định chính thức (vấn đề này đã được ghi trong biên bản cuộc hội ý của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt). Trên đây là một số ghi nhớ của tôi có liên quan tới hoàn cảnh khách quan của việc mở tiếp đợt 2, đợt 3 năm 1968. Nhắc lại hoàn cảnh khách quan đó không phải để phủ nhận sai sót chủ quan chậm đề ra việc chuyển hướng tiến công chiến lược chủ yếu, từ thành phố về nông thôn đồng bằng, rừng núi khi tình hình đã thay đổi. Thực ra, sai sót đó bắt đầu từ việc chúng ta chưa vận dụng linh hoạt phương châm chỉ đạo chiến lược “ba vùng” của Trung ương Đảng: đột ngột, bất ngờ đánh thẳng vào các thành phố; đồng thời nhanh chóng chuyển về nông thôn đồng bằng và rừng núi, khi tình hình đã thay đổi, chuyển mặt trận đô thị thành mặt trận kiềm chế địch...
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #39 vào lúc: 05 Tháng Ba, 2017, 04:57:32 am »

         
        III. ĐÁNH GIÁ VỀ MẬU THÂN 1968

        1. Đánh giá thắng lợi:


        Trong các văn kiện của Đảng đã ban hành, thắng lợi to lớn của quân và dân ta dịp “Tết Mậu Thân” đã được đề cập sâu sắc đầy đủ. Đó là thắng lợi hết sức to lớn, đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ”, đỉnh cao nhất trong cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ là thắng lợi góp phần tích cực đánh bại chiến tranh phá hoại trên miền Bắc của chúng.

        Dưới đây xin làm rõ thêm một thắng lợi to lớn khác. Đó là qua thực tế tác chiến “Tết Mậu Thân” và trải qua nhiều cuộc họp liên tiếp kiểm điểm “đúng, sai”, “trúng, chệch” của các cơ quan lãnh đạo cao nhất, đến cuộc họp Bộ Chính trị - Quân ủy trung ương mở rộng, có đại diện Trung ương Cục và Quân ủy Miền cùng tham dự, do đồng chí Lê Duẩn chủ trì (họp từ ngày 25 tháng 10 đến ngày 3 tháng 11 năm 1968), đã có những kết luận chỉ ra phương hướng “sát đúng” nhiệm vụ trước mắt, đồng thời còn đề ra được phương hướng rõ ràng để có thể quy hoạch chiến lược vững chắc các bước đi lên giành “toàn thắng’.

        Một là: Tiếp tục khẳng định chuyển hướng chiến lược tiến công chủ yếu từ thành phố về nông thôn rừng núi đánh bại chiến lược: quét giữ” của địch. Mặt trận thành phố là hướng kiềm chế và tiến công địch bằng lực lượng tại chỗ, tinh nhuệ đánh nhỏ, đánh du kích giữ vững vùng ven, khôi phục phong trào nội thành. Ta chỉ tổng công kích - tổng khởi nghĩa đánh thành phố khi có điều kiện chín muồi, thuận lợi.

        Hai là: phân biệt xác định “giành thắng lợi quyết định”, đánh bại từng chiến lược địch khác hẳn với “giành thắng lợi hoàn toàn” là giành toàn thắng, đánh bại hoàn toàn quân địch, kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh. Nói lại như vậy đê tránh sự hiểu lầm rất lớn trong khi ta thực hiện phương châm chiến lược “đánh lâu dài, tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn” như đã tiến hành trong “tết Mậu Thân”.

        Ba là: Đó phải là một quá trình qua hai bước, hai giai đoạn:

        * “Đánh cho Mỹ cút” đến tên “lính chiến đấu cuối cùng” ‘ khỏi Việt Nam.

        * Trên cơ sở đó tạo tương quan có lợi diệt, đánh tan rã hoàn toàn ngụy quân, nguỵ quyền giành “toàn thắng!..

        Bốn là: Thay đổi cách đánh quân Mỹ. Thực hiện đánh đau, ta không ham đánh lớn, đánh trận “quyết chiến chiến lược” mất còn với Mỹ, chủ yếu đánh nhỏ, vừa, bằng lực lượng tinh nhuệ; ta thương vong ít, gây được nhiều thương vong tổn thất với quân Mỹ để có tác động mạnh đến phong trào phản chiến đòi rút quân của nhân dân Mỹ. Đánh quân ngụy thì tiếp tục như cách đánh trước đây, ta tiến lên tiêu diệt và đánh tan rã hoàn toàn...

        2. Ưu điểm và khuyết điểm chủ yếu.

        a. Hai ưu điểm chủ yếu.

        * Một là: Như đồng chí Trường Chinh đã từng nhận xét: “Đây là đòn tiến công chiến lược có tính sáng tạo lịch sử”. Bởi vì hai lẽ: Bản thân phương châm chi đạo chiến lược và phương thức tác chiến trong kháng chiến chống Mỹ của ta cũng đã mang tính sáng tạo, phát triển những kinh nghiệm quý báu của Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Lẽ thứ hai là vì từ cuộc kháng chiến chống Pháp trước đây đến kháng chiến chống Mỹ, quân đội ta thường lấy hướng tiến công chiến lược chủ yếu trong quá trình chiến tranh là hướng tiêu diệt lớn quân địch ở chiến trường rừng núi để làm chuyển biến chiến lược toàn cục chiến trường. Lần này ta đã sáng tạo, táo bạo thay đổi tư duy lấy hướng tiến công chiến lược chủ yếu là các thành phố trung tâm đầu não ...

        * Hai là: Các ưu điểm thuộc về tổ chức triển khai chiến lược được thống nhất, đồng loạt, bí mật, nghi binh gây bất ngờ lớn đối với kẻ thù.

        b. Ba khuyết điểm chủ yếu:

        * Một là: Chủ quan, đánh giá chưa chính xác, đúng với thực tế tình hình...

        * Hai là: Đề ra mức yêu cầu gần như “giành toàn thắng” như trong Nghị quyết Trung ương Đảng là quá cao.

        *  Ba là: Chậm và chưa chuyển kịp thời hướng tiến công chiến lược chủ yếu từ thành phố về nông thôn, rừng núi để ta bị tổn thất nặng nề .

        3. Bài học kinh nghiệm sâu sắc.

        Những ưu điểm, khuyết điểm chủ yếu trên đây tựu trung lại thành hai chủ đề chính của những bài học kinh nghiệm sâu sắc đối với chúng ta về: đánh giá địch, ta và đề ra phương châm, phương thức thích hợp, vận dụng sáng tạo trong quá trình chiến tranh.

        a. Ở đỉnh cao nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; ta vẫn kiên trì quan điểm đúng đắn đánh giá địch - ta. Đã tiếp tục phân tích trong cái mạnh “ghê gớm” của địch lúc chúng huy động lực lượng ở đỉnh cao nhất tìm ra chỗ yếu đồng thời lại là chỗ hiểm yếu do chúng chủ quan sơ hở để ra quyết định mạnh dạn, táo bạo lấy các thành phố trung tâm đầu não làm hướng tiến công chiến lược chủ yếu của ta. Nhưng một khi chỗ yếu đó của địch đã được khắc phục, ta đã chủ quan không dự đoán ngay trong kế hoạch từ trước để vận dụng phương châm cho linh hoạt, thay đổi kịp thời, nhanh nhậy chuyển hướng tiến công chủ yếu về nông thôn - rừng núi…

        b. Chúng ta lại càng nhận thức sâu sắc thêm, để ra phương châm chỉ đạo chiến lược các mặt thích hợp là vấn đề khoa học, nghệ thuật cao trong chỉ đạo toàn cuộc chiến tranh; thì vận dụng linh hoạt phương châm, phương thức ở các thời điểm khác nhau trong các giai đoạn chiến tranh từ khi khởi đầu, lúc ở đỉnh cao, khi kết thúc, lại càng là một vấn đề hệ trọng của khoa học quân sự.  Nếu Mỹ có công nghệ cao và vũ khí, trang bị kỹ thuật bậc nhất thế giới, gấp 10 gấp 100 lần hơn ta thì ta khiêm tốn và tự hào mà nói khoa học, nghệ thuật quân sự Việt Nam đã là gấp 10 gấp 100 lần hơn Mỹ. Ta phải luôn chăm lo đến việc phát huy, phát triển khoa học, nghệ thuật quân sự ưu việt, không để sút kém lạc hậu.  Phải chăm lo thường xuyên đến việc tổng kết kinh nghiệm của ta và học tập tham khảo kinh nghiệm, khoa học quân sự tiên tiến, hiện đại trên thế giới để không ngừng tiếp tục phát triển thế ưu việt của nền khoa học, nghệ thuật quân sự nước ta.  Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 là bài học sâu sắc cho chúng ta về những vấn đề trên

Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM