Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 06:23:12 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân-1968‎  (Đọc 31254 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #20 vào lúc: 02 Tháng Ba, 2017, 09:12:46 am »

     
VỀ CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY TẾT MẬU THÂN - 1968 Ở TRỊ THIÊN - HUẾ

Thượng tướng TRẦN VĂN QUANG        

        Cách đây vừa tròn 30 năm, vào đúng Tết Mậu Thân lịch sử, quân và dân miền Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt, đánh vào hầu hết các thành phố, tỉnh lỵ, thị xã, căn cứ quân sự, cơ quan chính quyền của Mỹ-ngụy. Đó là một sự kiện quân sự to lớn đã tạo ra một bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta; đồng thời làm rung chuyển chính trường nước Mỹ và đừ luận thế giới, làm lung lay đến tận gốc mưu đồ và ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ.

        Chiến trường Trị Thiên - Huế - gồm cả mặt trận chủ lực ở đường 9 và mặt trận chiến tranh nhân dân địa phương là một trong hai chiến trường chính, trong đó thành phố Huế được xác định là một trong ba mục tiêu chủ yếu của cuộc tiến công (Sài Gòn - Huế - Đà Nắng).  Nhiệm vụ của quần và dân Trị Thiên - Huế được Trung ương Đảng và Bộ Tổng Tư lệnh giao là thực hành Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt, tiêu diệt và làm chủ các căn cứ, vị trí quan trọng của địch, đánh chiếm thành phố Huế, các thị trấn, thị xã, chia cắt các trục đường giao thông, sân bay, bến cảng, thành lập chính quyền cách mạng, tạo điều kiện phối hợp với chủ lực ở Mặt trận đường 9 giành thắng lợi. Nhiệm vụ của Mặt trận đường 9 được giao là thu hút và tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân Mỹ, khi có điều kiện thì phá vỡ tuyến phòng thủ Mác Na-ma-ra, mở đường phát triển tiến công vào phía Nam.  Thực hiện nhiệm vụ trên giao, trải qua 25 ngày đêm - từ đêm 31 tháng 1 đến ngày 25 tháng 2 năm 1968, nếu kể cả giai đoạn tác chiến tạo thế, chia cắt hệ thống giao thông và nghi binh đánh lừa địch thì gần 2 tháng (trước đó, ngày 7 tháng 1 bắt đầu cắt đứt đường số 1 - huyết mạch giao thông chính nối Huế với Đà Nẵng ở đoạn Phú Lộc nam Thừa Thiên), quân và dân Trị Thiên - Huế với một lực lượng vũ trang có quân số và trang bị ít hơn địch, đã chiến đấu quyết liệt và vô cùng anh dũng, giành được nhiều thắng lợi to lớn. Két quả, ta đã tiêu diệt và làm tan rã một bộ phận quan trọng sinh lực địch, bắn rơi và phá hủy nhiều máy bay chiến đấu và trực thăng, xe quân sự, tàu xuồng, kho tàng, bến bãi, pháo, súng các loại, thu nhiều dạn dược, thuốc men và phương tiện chiến tranh của Mỹ-ngụy. Trong đợt Tổng tiến công và nổi dậy, ta đã đánh chiếm hầu hết các vị trí quân sự, đầu não của địch, các đồn bốt, căn cứ hậu cần (trừ căn cứ Phú Bài); tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận ngụy quân, ngụy quyền và hệ thống kìm kẹp (cơ quan tỉnh trưởng ngụy, 40 ty sở, các đoàn bảo an dân vệ), đánh chiếm hai nhà lao và giải thoát trên hai ngàn chiến sĩ cách mạng và quần chúng yêu nước đang bị địch giam cầm; làm chủ gần hết thành phố Huế, giải phóng đại bộ phận nông thôn (4/5 số thôn và dân số), ở nhiều nơi đã thành lập được chính quyển cách mạng lâm thời.

        Thắng lợi của quân và dân Trì Thiên - Huế trong cuộc Tổng - tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân là hết sức vẻ vang, đã góp phần cùng quân và dân toàn miền Nam đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang, ngồi vào đàm phán với Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa và Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam, mở ra một cục diện mới của cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

        Sự kiện Tết Mậu Thân 1968 ở miền Nam nói chung, ở Trị Thiên - Huế nói riêng, đã làm cho Mỹ-ngụy bàng hoàng, choáng váng, dư luận ở nước Mỹ và thế giới sửng sốt, kinh ngạc. Sau cuộc Tổng tiến công, nhiều quan chức quân sự cao cấp của Mỹ đã buộc phải từ chức, những quan chức diều hâu khác tại Nhà trắng đã bớt hung hăng và buộc phải thừa nhận một thực tế rõ ràng là “quân Mỹ không thể yên ổn tại bất cứ nơi nào ở miền Nam và càng không thể thắng trong cuộc chiến tranh này”. Tổng thống Mỹ Giôn-xơn, người đã ra sức hò hét tăng quân Mỹ và đẩy mạnh leo thang chiến tranh ở Việt Nam, nay cũng phải chấp nhận thất bại, tuyên bố không ra tranh cử tiếp nhiệm kỳ hai. Rõ ràng, đây là một đòn chí tử giáng vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Về sự kiện Tết Mậu Thân ở Huế, phía địch cũng phải thú nhận: “Cuộc Tổng tiến công vào Huế (của Việt Cộng) được coi như một trận tiến công nặng nề nhất và ngoài sức tưởng tượng, nên đã gây ra nhiều xúc động, làm cho các cấp chính quyền địa phương (ngụy) càng dao động mãnh liệt khi thấy đa số những nhân vật đầu não của chính quyền đã bị giết.

        Sau 30 năm với độ lùi của lịch sử, với cách nhìn nhận, đánh giá mới, khách quan và bình tĩnh hơn, chúng tôi thấy cuộc tiến công và nổi dậy ở Trị Thiên - Huế năm 1968 thắng lợi là rất to lớn và căn bản trên tất cả các mặt chính trị, quân sự, ngoại giao, với ý nghĩa tác động sâu sắc và toàn diện nhơ trình bày ở trên. Tuy nhiên, bên cạnh những thắng lợi to lớn đó, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan lúc bấy giờ đã làm hạn chế một phần mức độ thắng lợi, đồng thời cũng để lại không ít những hậu quả nặng nề.

        Sau khi chiếm giữ nhiều ngày các vị trí, mục tiêu quan trọng của địch ở Thừa Thiên và thành phố Huế, trước tình hình và yêu cầu mới, quân ta lần lượt rút lui. Địch sau cơn choáng váng đã nhanh chóng tổ chức lại lực lượng, quay sang phản kích ác liệt. Trước sức phản kháng tàn bạo của địch, lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị của ta, nhất là ở cơ sở bị tiêu hao nặng. Địch chiếm lại vùng giải - phóng, càn quét bắn phá vùng căn cứ giáp ranh, tiến công lên cả căn cứ của ta ở miền tây Huế, gây cho ta nhiều khó khăn.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #21 vào lúc: 02 Tháng Ba, 2017, 09:16:20 am »


        Những khó khăn và tổn thất của ta sau năm 1968 là nghiêm trọng, song chi là bước lùi tạm thời. Những khó khăn ấy không thể xóa được ý nghĩa và thành quả thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân.

        Thực tế chiến trường đã chứng minh là chỉ một thời gian ngắn sau đó ta đã lấy lại được thế trận chủ động, giáng cho địch liên tiếp nhiều thất bại trong mùa khô 1971-1972 và sau đó tháng 1-1973 buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pa-ri, chấp nhận thất bại, rút quân đội Mỹ về nước. Tuy nhiên, nhìn nhận lại sự kiện tiến công và nổi dậy ở Trị Thiên - Huế Tết Mậu Thân, chúng tôi thấy những khó khăn sau năm 1968 ta có thể tránh được hoặc hạn chế được ở mức thấp hơn, nếu lúc đó, chúng tôi - những người lãnh đạo chỉ huy trực tiếp, tỉnh táo hơn, đặt yêu cầu mục đích nhiệm vụ đúng mức, phù hợp với tình hình lúc đó, có phương châm hành động linh hoạt, quyết đoán hơn. Cố nhiên, trong lịch sử không có tử “nếu như”, song chúng tôi vẫn muốn vấn đề như vậy để thấy được rằng ngoài nguyên nhân khách quan, nguyên nhân chủ quan của các cấp lãnh đạo chỉ huy chiến trường là rất lớn. Qua công tác chỉ đạo, chỉ huy cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân ở Trị Thiên - tuế, có thể rút ra một số bài học và kinh nghiệm sau đây:

        Một là, đưa cuộc chiến tranh vào hậu phương địch, lấy thành phố Huế làm mục tiêu chính để tiến công là đúng, nhưng yêu cầu giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân là chưa phù hợp với khả năng và so sánh tương quan lực lượng địch - ta lúc đó; đánh giá quá cao yếu tố chính trị - tinh thần, đánh giá chưa đúng vài trò quyết định trong chiến tranh là tiêu diệt đội quân chủ lực - công cụ chiến tranh chủ yếu của địch.

        Hai là, kế hoạch tiến công và nổi dậy của Bộ tư lệnh Quân khu Trị Thiên có nhiều ưu điểm, thể hiện trong việc chuẩn bị chiến trường, chuẩn bị lực lượng tương đối chu đáo tuy lực lượng ít mà tinh, bộ đội có tinh thần chiến đấu cao, chọn cách đánh lúc mở màn thích hợp, kết hợp,tương đối nhịp nhàng giữa công kích và nổi dậy của quần chúng, công tác nghi binh, giữ bí mật tốt... Nhưng Bộ tư lệnh Quân khu cũng phạm phải những khuyết điểm, đó là chỉ có một phương án giành toàn thắng mà không tính đến các khả năng, tình huống khác, không có phương án 2, phương án 3 và lực lượng dự bị chiến dịch. Trong quá trình chỉ đạo tác chiến chưa nắm chắc bộ đội, xử lý không kịp thời, để bộ đội lâm vào thế phòng ngự bị động đối phó.  Đặc biệt là sau một tuần lễ chiến đấu trong thành phố, khi thấy không thể giành toàn thắng đã không kịp thời thay đổi hướng và phương châm tiến công. Lẽ ra lúc đó ta phải chỉ đạo chuyển sang kìm chế địch ở trong thành phố, chuyển hướng phát triển về nông thôn, kéo địch ra ngoài căn cứ vững chắc để tiêu diệt chúng ngoài công sự; chuyền yêu cầu đấu tranh chính trị từ hình thức khởi nghĩa sang đấu tranh bảo vệ các cơ sở cách mạng, chuyển ngay những cơ sở bị lộ ra khỏi thành phố, chuẩn bị đối phó địch khủng bố.

        Ba là, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy chưa có một kế hoạch phối hợp thật chặt giữa mũi tiến công của chủ lực với mũi đấu tranh nổi dậy của quần chúng nhân dân ở thành phố và các địa phương. Trong tư tưởng chỉ đạo của chúng tôi lúc đó, cố nhiên không có ai xem nhẹ vai trò quyết định của đòn chủ lực. Song, cách chỉ đạo, bố trí lực lượng lại phạm phải một thiếu sót nữa là bố trí lực lượng chủ lực của Bộ chủ yếu tập trung trên cùng một hướng với lực lượng chiến tranh nhân dân địa phương của Trị Thiên - Huế. Ở đây, chúng tôi đã không hình dung hết các khả năng. Do vậy, không chỉ đạo kế hoạch chuẩn bị chiến trường cho chủ lực như xây dựng đường vận động; trận địa triển khai, bảo đảm vật chất kỹ thuật. Vì thế, khi Bộ Tổng tư lệnh có ý định tăng cường các đội chủ lực vào phía nam Quảng Trì và Thừa Thiên thì các cấp chỉ huy bị động, lúng túng không triển khai được.

        Những thiếu sót và khuyết điểm trên đây trong Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân ở Trị Thiên - Huế thật sự là những bài học kinh nghiệm xương máu, vô cùng sâu sắc. Rút kinh nghiệm từ chiến trường Trì Thiên - Huế năm 1968, sau năm 1972, chúng ta đã chỉ đạo khắc phục triệt để các thiếu sót, khuyết điểm trên bằng việc: công tác chuẩn bị chiến trường đầy đủ, tốt hơn,  chuẩn bị cùng một lúc nhiều khả năng và phương án khác nhau, giữa lực lượng chủ lực và địa phương được thống nhất chỉ huy... và đó là một trong những điều kiện để ta tiến lên giành thắng lợi lớn trong Đại thắng Xuân 1975, giai phóng Huế và phát triển thắng lợi vào Đà Nẵng, thúc đẩy nhanh quá trình giải phóng miền Nam, thu non sông về một mối.

        Kinh nghiệm về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt xuân 1968 miền Nam và riêng ở chiến trường Trị Thiên còn nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, đánh giá ở đây trong phạm vi của một bài tham luận, bước đầu chúng tôi chỉ nêu lên một số bài học có tính khái quát. Đối với một người chỉ huy, lãnh đạo, dù ở cương vị nào, tôi cho rằng bài học bao trùm nhất, thấm thía nhất, đó là người chỉ huy phải kết hợp nhuần nhuyễn lòng dũng cảm, ý chí tiến công địch với thực tế khách quan; tinh thần phục tùng triệt để mệnh lệnh cấp trên với trách nhiệm thắng bại ở chiến trường; kết hợp tính kiên quyết của mệnh lệnh với tính dân chủ và biết, lâng nghe ý kiến của cấp dưới; tuyệt đối không chủ quan, nôn nóng... Đó là một trong những phong cách và đức tính cần thiết của người chi huy, đồng thời cũng là một trong những yếu tố bảo đảm thắng lợi.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #22 vào lúc: 02 Tháng Ba, 2017, 09:17:55 am »


TUYẾN CHI VIỆN CHIẾN LƯỢC ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH TRONG MẬU THÂN 1968

ĐỒNG SĨ NGUYÊN       

        Tuyến chi viện chiến lược Đường Hồ Chí Minh với 3 nhiệm vụ:

        - Là một tuyến vận tải quân sự chiến lược.

        - Là một hướng chiến trường trọng yếu.

        - Là một căn cứ chiến lược của các chiến trường của ta và Bạn.

        Suốt 16 năm ròng, ta đã tiến hành một cuộc chiến tranh chống ngăn chặn quyết liệt, thực hiện thành công công cuộc chi viện của hậu phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến lớn miền Nam.

        Tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn thực sự là thảm họa đối với đế quốc Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Lúc bấy giờ Đại sứ Mỹ E.Buker sau khi nhận chức đã gửi điện lên Tổng thống Hoa Kỳ nói: "Nếu Hoa Kỳ cắt đứt được Đường mòn Hồ Chí Minh, tôi nghĩ rằng Việt Cộng sẽ chết khô. Điều duy nhất khiến cho Việt Cộng hoạt động được là do tiếp tế khí giới, đạn dược, lương thực đưa từ Hà Nội vào”. Trên cơ sở tư duy đó, đế quốc Mỹ đã đặt vấn đề phải ngăn chặn bằng được việc chi viện theo tuyến Đường Hồ Chí Minh thành một trong những mục tiêu chiến lược hàng đầu. Suốt 10 năm, từ 1965 đến 1975, Đường Hồ Chí Minh liên tục là trọng điểm đánh phá của chúng, là chiến trường thực nghiệm chiến lược chiến tranh ngăn chặn bằng sức mạnh tổng hợp, chiến tranh điện tử, chiến tranh hóa học..., hòng cô lập miền Nam, thực hiện mưu đồ chia cắt lâu dài nước ta.

        Về phía ta, Đảng và Nhà nước đã quyết định lấy nhiệm vụ chi viện sức người, sức của cho miền Nam là một mặt trận hàng đầu.

        Quân ủy trung ương, Bộ Tổng tư lệnh và Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã quyết định giao cho Bộ tư lệnh Trường Sơn phối hợp chặt chẽ với các chiến trường ta, Bạn, với tuyến sau, chủ động sử dụng các biện pháp hữu hiệu để đẩy mạnh hơn nữa công cuộc chi viện qua tuyến Đường Hồ Chí Minh cho các chiến trường.

        Tích lũy trong quá trình chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước miền Nam, từ tháng 6 năm 196 7, nhân lúc đế quốc Mỹ đang đứng trước thế tiến, lùi đểu khó và trong thời điểm rất nhạy cảm của năm bầu cử Tổng thống Mỹ, Bộ Chính trị của Đảng ta đã có Nghị quyết đánh giá thế, lực của ta và của địch, đề ra chủ trương chuẩn bị đánh cho địch một đòn quyết đính, giành thắng lợi to lớn, tạo nên sự chuyển biến nhảy vọt, buộc Mỹ phải thua về quân sự.  Là một tuyến vận tải quân sự chiến lược, năm 1967 là năm thứ ba, tuyến Đường Hồ Chí Minh thực hiện vận chuyển cơ giới, là năm đạt được chỉ tiêu kế hoạch cao hơn hai năm trước đấy về khối lượng, chất lượng, thời gian. Khối lượng vận chuyển vũ khí, đạn dược, lương thực đạt trên 70 vạn tấn, quân bổ sung được 14 vạn người, gồm 2 sơ đoàn bộ binh, 6 tiểu đoàn binh chủng, đơn vị thực binh và các đơn vị đặc công.

        Cuối tháng 6 năm 1967, Bộ tư lệnh Trường Sơn ra Hà Nội báo cáo với Bộ Tổng tư lệnh về kết quả vận chuyển, hành quân, tác chiến của tuyến chiến lược Trường Sơn và nhận nhiệm vụ năm 1968. Cùng trong dịp này, Tư lệnh và Chính ủy Bộ tư lệnh Trường Sơn được đến báo cáo với đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn. Sau khi nghe báo cáo, đồng chí Tổng Bí thư có phân tích nhiều vấn đề trong nước, quốc tế. Ở đây, tôi chỉ trích một ý đồng chí Lê Quẩn nói: “Bộ tư lệnh Trường Sơn thực hiện kế hoạch chi viện năm 1967 như vậy là tốt, đây là một trong các căn cứ để Bộ Chính trị hoạch định những vấn đề chiến lược mới trên chiến trường”. Tổng tiến công nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là một chủ trương chiến lược tuyệt mật. Ở cương vị của mình, mãi đến gần ngày mở đầu cuộn Tổng tiến công, chúng tôi mới nhận được chỉ thị. Tuy vậy, thông qua kế hoạch chi viện năm 1967, 1968, cộng với sự suy nghĩ về ý kiến anh Ba Duẩn trong buổi làm việc nói trên với Bộ tư lệnh Trường Sơn, đã giúp cho chúng tôi có được những dự đoán có lợi cho việc thực hiện nhiệm vụ.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #23 vào lúc: 02 Tháng Ba, 2017, 07:20:23 pm »


        Theo hướng đó, cuối tháng 11, tháng 12 năm 1967 và tháng 1 năm 1968 lại diễn ra một đợt vận chuyển mới sôi động hơn, cao hơn trong cuộc chi viện cho các chiến trường, từ đường 9 - Khe Sanh, Thừa Thiên - Huế, Khu V, Tây Nguyên, Nam Bộ, Trung Hạ Lào, Cam-pu-chia. Đặc biệt, đợt vận chuyển này, trong 12 tiểu đoàn xe vận tải nhập tuyến thì có đến 4 tiểu đoàn chở súng đạn B40, B41, 12,7 ly, đạn hỏa lực và 18 chiếc xe Gát-69 chở tiền đi thẳng đến ngã ba Biên Giới. Tử đấy, trung đoàn thuyền máy tiếp chuyện bằng đường sông Mê Công từ At-ta-pơ, đưa đến Kra-tiê trên sông Mê Công, thuộc đất Cam-pu-chia để giao cho B2.

        Khối lượng vật chất và binh lực chi viện thêm cho các chiến trường đợt này gồm 3 vạn tấn vật chất, 5 vạn quân bổ sung, 14 tiểu đoàn tăng, pháo.

        Chiến dịch đường 9 - Khe Sanh nằm trong tổng thể của cuộc Tổng tiến công, nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, nhưng là một hướng trọng yếu, vừa tiêu diệt địch để giải phóng đường 9 - Khe Sanh, vừa thu hút địch tạo thuận lợi cho các chiến trường lớn. Vì vậy, phải sử dụng vào đây một binh lực lớn, trong đó có một bộ phận vật chất và binh lực của đợt vận chuyển mới nói trên, đồng thời chuẩn bị hệ thống đường sá cơ sở điều trị, tổ chức vận tải phục vụ chiến dịch... Chiến dịch đường 9 - Khe Sanh diễn ra 177 ngày, kể từ ngày 21 tháng 1 năm 1968. Suốt thời gian đó, tuyến chi viện Đường Hồ Chí Minh đã đảm bảo mọi yêu cầu vật chất và phục vụ chiến đấu. Đường 9 - Khe Sanh được giải phóng, đã tạo điều kiện mở rộng được chính diện của tuyến Đường Hồ Chí Minh, bao gồm cả đông, tây Trường Sơn; tạo cơ sở để bắt đầu mở trục đường dọc Đông Trường Sơn.

        Đối với cuộc Tổng tiến công nôi dậy ớ hướng Thừa Thiên - tuế khác với đường 9 là ở đây cách A Lưới - căn cứ chiến lược tuyến Đường Hồ Chí Minh hơn 100km, đường sá tiếp cận chơa có. Khi bất đầu chiến dịch, bộ đội tự mang theo đủ cơ số đạn bộ binh, một ít lương thực; lúc vào thành phố Huế, chủ yếu dựa vào nhân dân tại chỗ. Khi tấn công và chiếm giữ cố đô Huế, anh Trần Văn Quang, anh Lê Chưởng gọi điện thoại cho Bộ tư lệnh Trường Sơn, yêu cầu đưa công binh mở đường 70, 71 và sửa đoạn đầu đường 12 cũ để kéo pháo vào phía tây Bình Điền và vận chuyển hàng hóa đi sâu vào phía Tà Lương.

        Bộ tư lệnh Trường Sơn đã thỏa mãn yêu cầu đó góp phần phục vu cho Thừa Thiên Huế chiếm giữ Cố đô Huế. Đồng thời, sử dụng toàn bộ xe vận tải của Binh trạm 42 chở gấp lương thực và đạn dược với khối lượng trên 3.000 tấn, phục vụ hướng Thừa Thiên; điều 3 tiểu đoàn cao xạ 37 ly và 2 ly 7 bảo vệ các tuyến đường trên; củng cố mạng thông tin tải ba từ Bộ tư lệnh Trường Sơn đến Bộ tư lệnh Trị Thiên, để hai bên liên lạc và liên lạc về Bộ Tổng tư lệnh. Quân, dân Thừa Thiên - Huế chiếm và giữ Cố đô Huế tuy chỉ kéo dài 25 ngày đêm nhơng được phối hợp với chiến dịch đường 9 - Khe Sanh, đã tạo tiếng vang rất lớn đối với trong nước, ngoài nước. Đây là một đòn chiến lược để phân tán binh lực Mỹ, ngụy ở các chiến trường phía Nam, tạo thêm sự sa sút mạnh về tinh thần và ý chí của chúng. Đây cũng tạo thêm một nguồn động lực để Sài Gòn, các thành phố, thị xã và toàn bộ chiến trường miền Nam tiếp tục phát triển cuộc Tổng tiến công nổi dậy, giành thắng lợi vang dội, chấn động cả thế giới. Trong lúc Mỹ, ngụy phải tập trung đối phó trên toàn bộ chiến trường miền Nam buộc chúng phải giảm đánh phá, ngăn chặn tuyến đường Hồ Chí Minh. Do đó, bộ đội Trường Sơn, không những được cổ vũ, động viên tinh thần, ý chí mà còn lợi dụng được sơ hở của đối phương để đẩy mạnh tốc độ và quy mô vận tải hàng hóa, đảm bảo hành quân, bổ sung vật chất, binh lực cho tất cả các chiến trường. Do đó khối lượng vận tải vật chất và binh lực đạt cao hơn so với 2 năm trước đó. Việc đó, càng chứng tỏ mối quan hệ hữu cơ, gắn kết giữa cuộc Tổng tiến công nổi dậy với Đường Hồ Chí Minh; chứng tỏ càng coi trọng và chăm lo phát triển suốt quá trình thì mới tạo được những bước ngoặt lịch sử.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #24 vào lúc: 02 Tháng Ba, 2017, 07:21:03 pm »


        Đường Hồ Chí Minh đồng thời là một hướng chiến trường trọng yếu để đối phó với cuộc chiến tranh ngăn chặn quyết liệt của Mỹ, ngụy, chư hầu. Lực lượng phòng không, bộ binh và tất cả lực lượng tại chỗ trên tuyến Đường Hồ Chí Minh đã phối hợp với quân, dân bạn Lào mở chiến dịch phối hợp với cuộc Tổng tiến công nổi dậy Tết Mậu Thân 1968: bắn rơi nhiều máy bay, tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, giải phóng được nhiều huyện, xã của Bạn ở Trung, Hạ Lào. Đặc biệt đã đánh chiếm được Mường Pha Lan, mở rộng được chính diện hệ thống Đường Hồ Chí Minh Tây Trường Sơn, tặng thêm khả năng bảo vệ vững chắc hướng phía tây.  Tuyến chi viện chiến lược Đường Hồ Chí Minh được thể hiện rõ với góc độ là căn cứ chiến lược của chiến trường ba nước: chiến trường miền Nam Việt Nam, chiến trường Trung, Hạ Lào và chiến trường Đông Bắc Cam-pu-chia. Nước Lào và nước Cam-pu-chia anh em với tinh thần quốc tế cao cả, đặc biệt là nước Lào đã đồng ý để phía Việt Nam được xây dựng căn cứ chiến lược Tây Trường Sơn xuyên qua 6 tỉnh Trơng, Hạ Lào, một phần của 4 tỉnh Cam-pu-chia. Trong đó có 2 khu vực xung yếu: Đường 9 và vùng ba Biên Giới. Trong khu căn cứ, Bộ tư lệnh Trường Sơn đã cùng với quân, dân Trung, Hạ Lào xây dựng được mạng giao thông đường bộ liên hoàn, gồm các trục đường dọc xuyên Bắc - Nam, các trục đường nối ra các chiến trường; hệ thống đường sông nối Lào với Đông Bậc Cam-pu-chia; đường ống dẫn xăng dầu; hệ thống đường hành quan, trú quân; đường thông tin tải ba xuyên Bắc - Nam; hệ thống bệnh viện; cơ sở kỹ thuật; hệ thống kho dự trữ...

        Trong căn cứ rộng lớn này, Bộ tư lệnh Trường Sơn đã cùng với quân dân Trung, Hạ Lào chi viện lẫn nhau trên mọi mặt, đã liên tục phối hợp chiến đấu ròng rã 10 năm chống cuộc chiến tranh ngăn chặn khốc liệt, bảo vệ tuyến vận tải chi viện chiến lược. Đồng thời, đánh địch giải phóng đất đai, xây dựng cơ sở cách mạng ở Trung, Hạ Lào.

        Tất cả các cơ sở được xây dựng trong vùng căn cứ chiến lược, đã góp phần phát huy trong quá trình chuẩn bị và thực hành cuộc Tổng tiến công nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 trên chiến trường miền Nam. Sau Tết Mậu Thân, căn cứ chiến lược tiếp tục phục vụ điều trị thương, bệnh binh và một số đơn vị bộ đội các chiến trường củng cổ tổ chức, nghỉ ngơi. Với sự cổ vũ lớn lao của cuộc Tổng tiến công nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, tuyến vận tải chi viện chiến lược, một hướng chiến trường trọng yếu, một căn cứ chiến lược lại tiếp tục bước lên những đỉnh cao mới. Phối hợp với các lực lượng đánh thắng Chiến dịch đường 9 - Nam Lào, phục vụ thỏa mãn cho Đông Xuân 1975, chiến dịch Buôn Ma Thuộc, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

        Chủ trương mở cuộc Tổng tiến công nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 của Đảng ta, chủ yếu đánh vào các cơ quan đầu não Mỹ, ngụy trong tất cả thành phố, thị xã, thị trấn trên toàn miền Nam - là một chủ trương chính xác, sáng tạo, độc đáo chưa từng có trong các cuộc chiến tranh. Chủ trương đó, biểu hiện trình độ và tài thao lược chỉ đạo nghệ thuật chiến tranh của Đảng ta: thúc đẩy quá trình chuẩn bị; chọn đúng thời cơ trong nước, ngoài nước; chọn đúng hướng, đúng cách đánh; giữ được bí mật bất ngờ tuyệt đối.

        Thắng lợi vĩ đại của cuộc Tổng tiến công nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, không thể đánh giá thằng lợi như một chiến dịch. Đây là một thắng lợi tổng thể cả quân sự, chính trị, ngoại giao; ảnh hưởng cả trong nước và trên thế giới; đặc biệt là với nước Mỹ; tạo ra được sự phản kháng về chính trị và ngoại giao của nhiều nước trên thế giới, chống đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam, ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa của ta. Thắng lợi to lớn đó, đã tạo được bước ngoặt quyết định của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, khởi đầu một quá trình đi xuống về chiến lược trong chiến tranh xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ, buộc họ phải chuẩn bị để ngồi vào bàn hòa đàm; tạo ra được tốc độ đẩy nhanh sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

        Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công nổi dậy, chứng minh sức mạnh tổng hợp của cả hai miền, lòng yêu nước nồng nàn, trí thông minh và tinh thần dũng cảm hy sinh phi thường của quân và dân ta. Thắng lợi đó còn mở rộng, đẩy mạnh hơn sự ủng hộ tinh thần, vật chất của bầu bạn trên thế giới.

        Ba mươi năm trôi qua, nhưng bản anh hùng ca về cuộc Tổng tiến công nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 vẫn còn vang lên trong ký ức của cả dân tộc ta, của quân đội ta. Bộ đội Trường Sơn, tuyến chi viện chiến lược Đường Hồ Chí Minh rất tự hào đã đóng góp phần công sức nhỏ bé của mình trong thời điểm lịch sử của cuộc Tổng tiến công nổi dậy Tết Mậu Thân 1968; tạo chiến công bất hủ của dân tộc; đòn chiến lược quyết định đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ, tiếp sức cho thắng lợi cuối cùng năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #25 vào lúc: 02 Tháng Ba, 2017, 07:22:28 pm »


MẬU THÂN 196S, MÀN CUỐI CỦA “TẤN THẢM KỊCH” ĐƯA QUÂN MỸVÀO CỨU CHẾ ĐỘ SÀI GÒN

Trung tướng, PTS NGUYỄN THỜI BƯNG       

        Chủ nghĩa chống cộng bị ám ảnh bởi thuyết Đô-mi-nô đã dẫn dắt 5 đời Tổng thống Mỹ sa lầy vào cuộc chiến tranh Việt Nam, ngăn chặn cuộc đấu tranh hoàn thành giải phóng nước Việt Nam sau Hội nghị Giơ-ne-vơ 1954.  Người thực sự đưa quân viễn chinh Mỹ vào tham chiến ở Việt Nam hòng cứu chế độ Sài Gòn để gánh lấy hậu quả lớn nhất cho bản thân và cho nước Mỹ là Tổng thống Giôn-xơn, trong nhiệm kỳ của mình đã đưa số quân Mỹ can thiệp vào Việt Nam từ 16.300 cố vấn năm 1963, 23.300 cố vấn năm 1964, lên 485.600 quân vào cuối năm 1967, do đó cũng nâng số xác chết của lính Mỹ ở Việt Nam lên ngày càng cao (tới 30.568 tên sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân, tính đến lúc Mỹ phải bắt đầu rút quân vào tròng 4-1969).  Trận bão táp Mậu Thân đã đem lại cho những kẻ gieo gió những hậu quả nghiêm trọng nhất: Giôn-xơn phải tuyên bố phi Mỹ hóa chiến tranh, chấm dứt ném bom miền Bắc, chấp nhận thương lượng ở Pa-ri và bản thân Giôn-xơn tuyên bố không ứng cử Tổng thống nhiệm kỳ 2. Còn Bộ trưởng Quốc phòng Mác Na-ma-ra vì có nhiều quan điểm không nhất trí với Tổng thống và các tham mưu trưởng liên quân về cách điều hành chiến tranh ở Việt Nam đã rút khỏi Lầu năm góc ngày 29-2-1968 (đúng ngày trung đội địa phương Phú Vang rút khỏi phường Vĩ Dạ sau 29 ngày đêm làm chủ địa bàn). Hoạt động chính thức cuối cùng của Bộ trưởng Quốc phòng Mác Na-ma-ra là bác bỏ đề nghị của Oét-mo-len đòi thêm 200.000 quân Mỹ cho chiến trường miền Nam được người kế nhiệm là Clíp-phớt đồng tình.

        Nhớ lại từ năm 1953, Ai-xen-hao thấy trước sự thất bại của thực dân Pháp đã đưa ra đối sách: “Nếu để mất Việt Nam, mất Đông Dương thì sẽ khó có thể phòng thủ được bán đảo Ma-lay-xia... Phải ngăn chặn lại việc này ngay bây giờ”. Bàn giao lại cho Ken-nơ-đi năm 1961, Ai-xen-hao căn dặn “phải giữ lời hứa (ở Việt Nam) có nghĩa là phải đổ nhiều máu của chúng ta (tức Mỹ) ở chiến trường. . . Những thắng lợi thêm nữa của Việt Cộng sẽ là một thảm họa cho Mỹ” (Hồi ký của Giôn-xơn).

        Vừa nhậm chức, Ken-nơ-đi tuyên bố “không loại trừ việc đưa các lực lượng quân sự tới đồng bằng sông Cửu Long... sẵn sàng giúp đỡ Cộng hòa Việt Nam bảo vệ chế độ. Nhưng mọi giải pháp yểm hộ bằng cố vấn, tiền và súng lại không vực dậy nổi một chế độ gia đình trị lấy “diệt cộng” làm quốc sách, buộc Ken-nơ-đi 2 năm sau phải xác nhận “nước Mỹ sẽ có thể chìm nghỉm hoặc bơi cùng thuyền với Diệm” . . . “Chúng ta (tức Mỹ) đang ở trong đường hầm không lối thoát” (R.Tôm-xơn, sách “Mỹ không ra khỏi Việt Nam”). Giôn-xơn công nhận sẽ làm những việc cần làm để bảo vệ lợi ích của chúng ta ở Việt Nam” và mở đường bằng cánh tiếp nhận “bị vong lục” của các tham mưu trưởng liên quân ngày 22-1-1964 đòi Mỹ ‘phải có nhưng hành động táo bạo hơn, dù có thể có những rủi ro lớn hơn.. . cần mở rộng cuộc chiến tranh sang oanh tạc Bắc Việt Nam bằng không quân Mỹ và chuyển từ huấn luyện người Nam Việt Nam sang tiến hành cuộc chiến tranh ở cả 2 miền Bắc-nam Việt Nam bằng sức chiến đấu của Mỹ” (Hồi  ký Mác Na-ma-ra).

        Cuộc chiến tranh “Mỹ hóa” và mở rộng theo chiến lược “chiến tranh cục bộ” được thế giới chăm chú theo dõi. Ngày 25-3-1967 Hãng AFP đã công bố tư liệu: “Mỗi tháng ở chiến trường Việt Nam, trung bình có hơn 8.000 sĩ quan, binh lính Mỹ chết và bị thương. Mức độ thương vong của quân Mỹ đa vượt quá xa dự đoán của Lầu năm góc”. Cuối năm 1968, sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân, Giôn-xơn thổ lộ, tâm sự không ra ứng cử nhiệm kỳ 2: “Ở Việt Nam, cộng sản đã giáng một đòn choáng váng đối với chúng ta (tức Mỹ) ở mức độ này hay mức độ khác. Tôi kinh ngạc và thất vọng khi thấy các cố gắng của đối phương đã có ảnh hưởng rất xấu đến nhiều người trong Chính phủ và rất nhiều người ngoài Chính phủ mà xưa nay họ vẫn được coi là những phần tử trung kiên không hề lung lay dao động” (Hồi ký Giôn-xơn) .

        Thế là rõ! Hiệu quả của trận quyết chiến chiến lược không ai nói rõ hơn đối thủ trực tiếp: ở chiến trường bị giáng đòn choáng váng, ở hậu phương những phần tử trung kiên cả trong chính phủ và ngoài chính phủ đều lung lay dao động khiến người cầm đầu phải kinh ngạc, thất vọng. Những tư liệu lịch sử trên đây trích dẫn đúng lời ba Tổng thống Mỹ, đã nói rõ các nguyên nhân dẫn nước Mỹ tới “tấn thảm kịch Việt Nam” (Mác Na-ma-ra), tới: “Dòng sông đau khổ chảy qua giữa hai nước”, “Một mục tiêu phải khắc phục” như lời Đại sứ Pi-tơ-xơn khi đặt chân tới Nội Bài ngày 9-5-1997. Không có “lời mời quân Mỹ rút về nước của Mậu Thân 1968 tất không thể có việc trở lại Việt Nam của Đại sứ Mỹ vào giữa năm 1997”. “Những rủi ro lớn hơn” mà các bộ óc tham mưu hàng đầu của nước Mỹ đã lo ngại chính là trận bão táp Mậu Thân 1968, buộc hơn 50 vạn quân Mỹ cùng với 66.000 quân “đồng minh” phải rút khỏi Việt Nam, dẫn đến Hiệp định Pa-ri ngày 27-1-1973, mà cuộc Tổng tiến công nổi dậy mùa Xuân 1975 với Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử là tất yếu.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #26 vào lúc: 02 Tháng Ba, 2017, 07:24:02 pm »


        Trong suốt cuộc chiến tranh giải phóng, cuộc chiến đấu trực tiếp với đội quân gần 60 vạn lính Mỹ và chơ hầu kéo dài từ 1965 đến 1968-1969 là một thử thách quyết liệt nhất đối với “Tài thao lược Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh”, đáng ghi thành những trang sáng chói không chỉ về nghệ thuật quân sự mà cả về nghệ thuật điều hành chiến tranh cách mạng chống lại quân xâm lược lớn mạnh.  Sau hai cuộc phản công mùa khô, bất đầu từ năm 1965-1966, kế tiếp bằng 3 cuộc hành quân “tìm diệt” nối tiếp nhau ròng rã suốt 8 tháng (tháng 9-1966 - 5-1967), 2 cuộc ở quy mô quân đoàn, trước sau chỉ nhằm đánh vào chiến khu Dương Minh Châu là căn cứ của Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền (At-tơn-bo-rơ từ 14-9 đến 25-11-1966 và Gian-xơn Xi-ti từ 22-2 đến 14-5-1967) và vùng Bến Súc, Bến Cát, Củ Chi (Xi-đa-phôn 8-1 - 26-1-1967). Cuộc cuối cùng (Gian-xơn Xi ti) là cuộc ra quân lớn nhất trong lịch sử tham chiến của quân Mỹ ở Việt Nam, với 45.000 quân có 9 lữ đoàn đánh bộ, 41 tiểu đoàn thiết giáp, 1.200 xe tăng, 17 tiểu đoàn pháo với 250 khẩu đội, 17 phi đoàn máy bay có B.52 yểm trợ, do một trung tướng Mỹ chỉ huy.

        Cuối năm 1967, quân dân miền Nam đứng trước tình hình phải đương đầu với đội quân trên 1,6 triệu của Mỹ - ngụy, có trên 48 vạn lính Mỹ, 66 nghìn lính chư hầu, 99 vạn 8 nghìn quân ngụy gồm cả chủ lực, bảo an dân vệ và cảnh sát vũ trang, non nửa là quân chủ lực. Trong khi đó trên chiến trường, quân chủ lực ta phổ biến mới ở cấp tiểu đoàn, có khoảng ngót 20 trung đoàn và 6 sư đoàn bố trí ở các địa bàn trọng yếu, lực lượng địa phương và dân quân tự vệ phổ biến còn kiêm nhiệm nhiều việc lại trang bị không đồng bộ. Nếu so sánh lực lượng theo quan điểm của chiến tranh quy ước, không ai dám chủ trương tiến công lớn vào thời điểm đó. Trong thời đại Hồ Chí Minh, cái bí quyết giành thắng lợi của nước nhỏ, kém phát triển nằm trong một phương châm chiến lược “Đánh lui từng bước, đánh đổ từng bộ phận những thế lực xâm lược và thững trị lớn mạnh” do Hồ Chủ tịch đề xướng, đã từng được Hội nghị 8 Đảng cộng sản chấp nhận. Nhưng dụng vào thực tế đánh Mỹ ở Việt Nam, nó được nói rõ qua bài thơ chúc Tết giản dị vạch bước đi của Bác :

“Vì độc lập vì tự do
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”...

        Những hành động táo bạo hơn của nước Mỹ do các tham mưu trưởng liên quân kiến nghị được các cơ quan quyền lực chấp nhận đã vấp phải một sự táo bạo còn gan góc hơn nhiều do bộ tham mưu chiến đấu của dân tộc Việt Nam tung ra, được các tư lệnh chiến trường nhất trí, toàn thể quân dân hưởng ứng, chấp hành một cách chủ động và sáng tạo.

        Đó là sự phân tích cục diện chiến tranh hoàn toàn khác các quan điểm của chiến tranh quy ước, càng không đi vào cách so sánh về quân số, vũ khí mà về những chiến lược địch đã áp dụng và bị ta đánh bại, về thế địch - thế ta trên chiến trường, ở hậu phương chiến lược cùng vị thế đôi bên trên thế giới trong cuộc chiến tranh Việt Nam.  Không đợi đến năm 1972, người Việt Nam mới nhận biết “cuộc chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến tranh lâu dài nhất tốn kém nhất và mất lòng dân nhất, trong lịch sử nước Mỹ, với một hình ảnh bị dư luận thế giới chỉ trích tồi tệ nhất”, như Hãng AFP công bố ngày 29-10.

        Vấn đề đặt ra để xem xét là “quân xâm lược đã đưa chiến tranh cục bộ đến đỉnh cao mà vẫn thất bại”. Chúng đã làm tất cả những gì có thể làm được, đế mở những cuộc hành quân tới cỡ quân đoàn và trên quân đoàn gắn với cuộc leo thang đánh phá miền Bắc thật quyết liệt và táo bạo.  Vấn đề không phải là chỗ chúng còn bao nhiêu quân, bao nhiêu súng mà ở chỗ chúng còn giải pháp chiến lược gì, phương thức tác chiến gì có thể thi thố và ý chí xâm lược của chúng còn cứng rắn đến đâu?

        Những tín hiệu về phương trình đàm phán 14 điểm của Bộ trưởng Ngoại giao Đến Rat-xcơ, những trung gian do Mỹ phái đến Hà Nội và vận động qua bè bạn chứng minh rằng, Mỹ đã thấy rõ không thể giành thắng lợi bằng quân sự. “Phải chăng đã đến lúc ta có thể đưa chiến lược tiến công cách mạng tới bước phát triển tất yếu của chiến tranh nhândân là tổng tiến công và nổi dậy toàn dân, đưa cục diện chiến tranh tới bước ngoặt quyết định. Quyết târn được lựa chọn là tổng công kích và tổng khởi nghĩa, mặc dù về tổng khởi nghĩa đã đưa lại bài học sâu sắc: trong thế bị kìm kẹp, nhân dân chỉ có thể tổng khởi nghĩa khi có chỗ dựa vững chắc của các lực lượng vũ trang cách mạng.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #27 vào lúc: 03 Tháng Ba, 2017, 02:18:15 pm »


        Quyết tâm của trận quyết chiến Mậu Thân dựa vào sự so sánh ưu thế tuyệt đối của ta về dư luận quốc tế, về sự cố kết của hậu phương lớn với tiền tuyến lớn so với một hậu phương đầy mâu thuẫn của đối phương, trên chiến trường là ưu thế tuyệt đối về chính trị, tinh thần, về khát vọng được giải phóng của nhân dân miền Nam, sẵn sàng sống mái với quân thù để thoát khỏi xiềng xích, nếu được cách mạng tin cậy giao nhiệm vụ, về thế chiến lược của chiến tranh cách mạng trên cả 3 vùng rừng núi, nông thôn đồng bằng và thành thị.

        Chỉ có một bộ tham mưu chiến đấu dạn dầy chiến trận của một dân tộc được kết cấu bằng chất keo đặc hữu “không có gì quý hơn độc lập tự do”, tin cậy nhau đến độ “nhất hô bá ứng” mới dám hạ một quyết tâm chiến lược vượt ra khỏi những quy tắc thông thường của chiến tranh, mà cái căn cứ vững chắc chinh là “lòng tin vô bờ bến vào sức mạnh nhân dân”. Đây là nước đi của ván cờ thế không chỉ căn cứ vào đầu quân, đầu súng mà căn cứ vào toàn bộ thế cờ của hàng kiện tướng đã thấm sâu lời dặn của ông cha trên nền tảng “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, phụ tử chi binh, cả nước chung sức” mà chọn dùng tướng giỏi xem quyền biến như đánh cờ, tùy cơ ứng biến” (Bạt dụng vương tướng, quan hữu quyền biến, nhơ vi kỳ nhiên, tùy thời chế nghi - Di chúc Trần Hơng Đạo). Đây là nước đi nhằm lật ngược thế cờ, dẫn cuộc chiến tranh tới khúc quanh quyết định, làm lay chuyển ý chí xâm lược của kẻ đối phương, bất phải từ bỏ chiến lược tiến công, xuống thang chiến tranh, tìm cách rút quân trong danh dự.

        Nó khác xa với chiến tranh quy ước đến mức, Mác Na-ma-ra kể lại rằng, CIA có báo một tin về những cuộc tiến công vào thành phố, nhưng chính giới Mỹ đều coi là nghi binh để đánh Khe Sanh. Và cho đến nay, một giáo sư về các đại chiến lược của trường đại học Quốc phòng Mỹ, cựu đại tá Léc-béc San-lơ sang Việt Nam còn khẳng định: “một số nhà hoạch định chính sách Mỹ tin rằng cuộc tiến công vào cáe thành phố chỉ là đòn nghi binh nhằm che đậy mục tiêu, là cắt 2 tỉnh phía Bắc ra khỏi Nam Việt Nam”. Như thế là kế hoạch nghi binh kéo địch ra chiến trường ta chuẩn bị đã đánh lừa được địch tới 30 năm sau đó .

        Mậu Thân 1968 là ngọn lửa của quân dân miền Nam bùng lên từ cái nền tảng chiến tranh toàn dân đã qua nhiều phen hun đúc trong máu lửa, của những con người đã “trải nhiều biến cố thì suy nghĩ sâu” (Nguyễn Trãi) có thể làm được những việc mà những kẻ thiếu hiểu biết về lịch sử văn hóa và chính trị của nhân dân không thể hiểu nổi.

        Nếu không có ý chí “thà chết không làm nô lệ” của nhân dân thì những lực lượng từ trên “xanh”, từ hậu cứ, dù có đặc công biệt động, cũng làm sao đột nhập được vào từng ấy thành phố, thị xã, thị trấn, khi khu... tới từng ấy địa chỉ không sai một địa chỉ nào. Việc chủ lực ta cùng các đội đặc công, biệt động bám trụ 25 ngày đêm trong thành phố Huế; sự có mặt của chủ lực Miền và chủ lực các tỉnh, chủ yếu là tỉnh Long An ở vùng ven và nội đô, ở cầu Ban Ki, ở Trung tâm huấn luyện Quang Trung, ở Quận 5, Quận 6, Quận 10 Quận Tân Bình (Sài Gòn), nếu không có dân làm sao đứng được ? Nếu không có thực lực và uy thế của quân chủ lực, của các lực lượng vũ trang cách mạng, nhân dân chưa có chỗ dựa mà nổi dậy. Nhưng không có tai mắt, sự. gan dạ và sáng tạo của dân, chủ lực và các lực lượng tiến công làm sao có bàn đạp để tiến công các mục tiêu trong các thành thị và vùng ven. Chính sự nổi dậy của dân hòa quyện vào sức tiến công của quân giải phóng làm cho quân Mỹ không còn hậu cứ an toàn.

        Sự giãy giụa của con ác thú bị đánh đau, thua đau đã gây ra những thiệt hại mà ta chưa lường hết. Nhưng cái gì phải đến thì đã đến. Trong 3 mốc lịch sử 1968, 1972, 1975 ở miền Nam thì trận quyết chiến 1968 giữ vị trí mở đường. Nó là màn chót của “tấn thảm kịch” đem quân Mỹ đi cứu vãn một chế độ tay sai để cuối cùng phải phi Mỹ hóa. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân đã gắn chặt tài thao lược và trí tuệ Việt Nam với dũng khí và tinh thần cố kết dân tộc, được thế giới đồng tình. Phải chăng đó cũng là những yếu tố cần phải hội đủ cho sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, giữ vững nền độc lập tự chủ theo định hướng XHCN.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #28 vào lúc: 03 Tháng Ba, 2017, 02:21:42 pm »


MẬU THÂN SAU 30 NĂM NHÌN LẠI

TRẦN BẠCH ĐẰNG       

        Chưa một cơ quan khoa học nào lập bảng thống kê về các bài, tập sách, phim ảnh, ký sự, tư liệu về đợt Tổng tiến công Mậu Thân 1968. Tuy nhiên, điều chắc chắn là Mậu Thân được phản ánh rất phong phú - của ta, của Mỹ, của các nhà báo và nhà nghiên cứu trên thế giới. Điều đó nói lên rằng, Mậu Thân là một sự kiện tác động sâu sắc đến cuộc chiến tranh ở Việt Nam sau khi Mặt trận Dán tộc giải phóng thành lập 8 năm.

        Tất nhiên, có những cách đánh giá khác nhau đối với sự kiện tầm vóc lớn này và thật dễ hiểu khi sự kiện ấy cần những nỗ lực tiếp theo và cần một thời gian không ngắn để có thể phát huy đầy đủ ý nghĩa chiến lược của nó, nhất là sau các đợt của Mậu Thân, quân dân ta chịu một số tổn thất khá nặng.

        Trong tham luận này, từ cơ sở của diễn tiến cuộc tiến công đợt Một và đợt Hai trong nội thành Sài Gòn - là trọng điểm của chiến trường trọng điểm - tôi cố gắng phát biểu một vài suy nghĩ của mình, những suy nghĩ mà trong suốt 30 năm.

        Nguywn Ủy viên Thường vụ Đảng ủy Khu Trung tâm trong Mậu Thân, Phó bi thư Đảng ủy Tiền phương Nam bộ, Bí thư Thành ủy Sài Gòn, Bí thư Thành Quân ủy nhiều năm, tôi đã trình bày hoặc công khai trên báo chí, sách nghiên cứu hoặc trong thư từ đóng góp với Trung ương. Cũng có thể nói rằng, những gì tôi sắp trình bày không phải một phát hiện mới mà chằng qua là hệ thống hóa lại sự kiện và đánh giá nó một cách bình tĩnh. Tôi nhớ sau đợt Một Mậu Thân, đồng chí Trần Trọng Tân lúc bấy giờ phụ trách mũi vũ trang của Tuyên huấn và được giao chiếm Đài phát thanh đã nói với tôi: Suốt hơn 10 ngày của đợt Một, đồng chí vào cuộc như người say. Đó cũng là trạng thái tình cảm của nhiều người khác. Bây giờ, 30 năm sau, chẳng còn ai cảm nhận Mậu Thân như thế nữa. Khoảng cách từ đêm mùng Hai Tết Mậu Thân 1968 đến cuộc hội thảo khoa học đầu Xuân Mậu Dần 1998 của Thành ủy và Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và Viện Lịch sử quân sự Việt Nam đã có những sự kiện cực kỳ trọng đại mà nổi bật là Đại thắng mùa Xuân 1975 coi như một ghi nhận rõ rệt về kết quả của Mậu Thân trong quá trình kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

        Với phương châm chỉ đạo cuộc chiến tranh chống Mỹ của Đảng ta - đẩy lùi địch từng bước, giành thắng lợi từng phần, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn, kết hợp ba vùng chiến lược và hai phương thức: đấu tranh chính trị và vũ trang, kết hợp ba mũi giáp công: chính trị, quân sự và binh vận kết hợp công kích quân sự và nổi dậy quần chúng, kết hợp đấu tranh nội địa với đấu tranh ngoại giao; phát huy thựclực tại chỗ kết hợp với thực lực một nửa nước đã được giải phóng hoàn toàn; lấy thực lực chính trị - quân sự bản thân là chính đi song đôi với tranh thủ sự giúp đỡ eác mặt của phe Xã hội chủ nghĩa, của lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình trên thế giới, đặc biệt tranh thủ sự ủng hộ và cảm tình của nhân dân Mỹ; lấy thực lực bản thân là chính đồng thời coi trọng khai thác mâu thuẫn nội bộ kẻ thù… Mậu Thân là một trong bốn sự kiện lớn nhất của 21 năm đánh Mỹ: 3 sự kiện kia là Đồng Khởi 1959-1960, “Điện Biên Phủ trên không” của Hà Nội và chiến dịch Hồ Chí Minh 1975. Sự kiện Mậu Thân là gạch nối giữa Đồng Khởi, Điện Biên Phủ trên không và Đại thắng mùa Xuân 1975 tạo thành tổng thể bức tranh giải phóng đất nước. Như tất cả chúng ta đều biết, Mỹ là cường quốc hàng đầu của thế giới - cả tiềm lực kinh tế lẫn quân sự, dân số, đất đai cùng trình độ công nghệ, kỹ thuật đều hơn ta gấp nhiều lần. Đánh với một kẻ thù nhơ thế hoàn toàn không đơn giản, nhất là dân tộc ta tự lực tiến hành kháng chiến, có nhờ bè bạn giúp đỡ mặt này, mặt khác nhưng tuyệt nhiên không nhờ chi viện thực binh. Trong điều kiện như thế, đấu trí trở thành sức mạnh chủ đạo, lực lượng tổng hợp trở thành chủ lực và nghệ thuật chính trị - quân sự trở thành phương thức định đoạt thắng bại. Từ tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng chí Lê Duẩn đã vạch ra phương thức đánh và thắng Mỹ đầy sáng tạo. Kinh nghiệm của cuộc kháng chiến chống Pháp, và xa hơn, kinh nghiệm của cha ông qua các cuộc chiến tranh giữ nước, trên cơ sở sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Mình, đồng chí Lê Duẩn cùng Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã tìm được lối đi cho cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta trong diều kiện của thế giới hiện đại và trong truyền thống phong phú của dân tộc.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #29 vào lúc: 03 Tháng Ba, 2017, 02:23:39 pm »


        Một khi đã xác lập phương châm đấu tranh kết hợpchính trị và vũ trang thì đương nhiên đô thị trở thành mục tiêu chủ yếu của cách mạng. Phong trào nông thôn và vùng rừng núi dù mạnh mà phong trào đô thị yếu, khả năng tác động toàn cục sẽ kém. Kinh nghiệm của quá khứ cho thấy, ví dụ cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ 1940 rộng thế song không dấy lên được ở Sài Gòn, kết quả cuộc khởi nghĩa thất bại.  Tổng khởi nghĩa tháng Tám sở dĩ thành công nhanh gọn khớp nước vì nơi bùng nổ là Hà NộI, Huế, Sài Gòn và các tỉnh lỵ. So với trước kia, yêu cầu tiến vào đô thị càng bức xúc khi kẻ thù là một đế quốc mạnh, khi bộ máy tay sai được tổ chức hiện đại. Trên cơ sở nhận thức ấy, Đảng ta dần dần hoàn thiện quan điểm và lên phương án hành động. “Ý định đánh một đòn vang dội” nảy sinh trong tính toán chiến lược của Đảng trước Mậu Thân khá lâu. Tháng 11-1960, khi Nguyễn Chánh Thi đảo chính Ngô Đình Diệm, Xứ ủy Nam Bộ mà đồng chí Nguyễn Văn Linh là Bí thư, đã chớm nghĩ một phương thức tạo bước ngoặt trong chiến tranh.

        Bấy giờ, trọng điểm là phá “khu trù mật”. Danh từ “cướp thời cơ” xuất hiện, lực lượng huy động lao ra phía trước. Song một là: Nguyễn Chánh Thi thất bại nhanh quá, hai là chúng ta mới vừa chuyển từ đấu tranh đơn thuần chính trị lên hình thái chính trị - vũ trang kết hợp, thực lực quân sự đang gây dựng nên không khai thác cao được sự xung đột nội bộ địch. Tháng 11-1963, một lần nữa chúng ta xuống đường “cướp thời cơ”, nhưng Diệm không đề kháng lâu hơn ta tưởng - chúng ta cũng chỉ giành được một số thắng lợi phá ấp chiến lược. Từ sau cuộc đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm, với những xáo trộn liên miên trong nội bộ bọn cầm quyền sài Gòn, Đảng ta đã bắt tay vào nghiên cứu kỹ hơn, chủ động hơn. Ai cũng biết, một cú đánh chỉ thực sự vang dội khi đối tượng tiến công là Sài Gòn, thủ đô cua địch, trung tâm điều khiển chiến tranh của Mỹ. Một trận đánh nhỏ ở sân gôn Tân Bình, một vụ nổ khách sạn Brinsk, tàu Card, nhà hàng nổi Mỹ Cảnh, một vụ pháo kích sân bay Tân Sơn Nhất và Biên Hòa, v.v. đã xáo trộn dữ dư luận, thấu tận Oa-sinh-tơn, na ná như chiến thắng Ấp Bắc, Bình Giã... còn nói gì nếu là hành động phối hợp cả chính trị - quân sự - binh vận trên một diện rộng khắp Sài Gòn cùng các thành phố, thị xã, thị trấn khác ở miền Nam thì giá trị phải mang ý nghĩa cao rộng vô cùng. Năm 1964, một kế hoạch hành động tương tự được Trung ương xem xét. Tuy nhiên, lúc ấy, nếu lực lượng biệt động được xây dựng tương đối khá nhằm vào những mục tiêu tiêu biểu nhất ở Sài Gòn thì lực lượng quân sự và chính trị nói chung chưa đảm bảo nổi chức trách nối tiếp biệt động và phát huy thắng lợi. Các tỉnh miền Nam, thực lực chính trị, quân sự quanh và trong lòng thành thị nói chung còn yếu. Quy mô lực lượng chủ lực của chúng ta mới đến cấp trung đoàn, trang bị kém. Bộ đội địa phương vừa hình thành, du kích chiến tranh mạnh hơn nhưng chưa bám được vùng ven và các vùng xung yếu. Lực lượng chính trị, đặc biệt nội thành Sài Gòn, đang ở vào thời kỳ tranh chấp giữa cách mạng với các phe phái phản động cơ hội, quyền lãnh đạo của Đảng còn thấp trong thanh niên, sinh viên, học sinh, trong tín đồ đạo phật - bấy giờ quy tụ khá đông quần chúng tốt, trong công nhân lao động.

        Lợi thế rõ nhất của ta là thực binh Mỹ ở miền Nam chưa lên đến con số sau này, song nhơ vậy cũng còn một bài toán bỏ ngỏ: giới “điều hâu’ Mỹ dễ kết luận rằng chúng thiếu quân số viễn chinh cần thiết. Nghĩa là ý chí của Mỹ chưa nhụt.  Kế hoạch hoãn lại, Trung ương chỉ đạo cả miền Nam tích cực sửa soạn điều kiện tốt hơn về lực lượng và phong trào.

        Diễn biến tình hình của những năm 1966 - 1967 cho thấy dời ngày hành động lại là hợp lý. Trong hai năm dó, quân chủ lực của chúng ta được tăng cường rõ rệt, bộ đội địa phương vững vàng hơn. Thử thách mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 với việc bẻ gãy chiến dịch Xê-đa Phôn ở ngoại vi Sài Gòn báo hiệu khả năng tổng tập kích chiến lược đã chín muồi. Trong hai năm đó, thực binh Mỹ, chư hầu và quân đội Sài Gòn lên đến con số khổng lồ, Mỹ tung vào chiến trường các phương tiện kỹ thuật tối tân, kể cả mảy bay ném bom chiến lược B.52, pháo tầm xa, chất độc hóa học, nhiều loại trực thăng. Hạm đội Mỹ được huy động, tàu sân bay túc trực ở biển Đông. Nghĩa là Mỹ sử dụng gần như tổng lực - quy mô lớn nhất đối với một cuộc viễn chinh, chỉ trừ đại chiến thế giới lần thứ hai và trừ vũ khí nguyên tử.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM