Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Ba, 2024, 03:35:04 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân-1968‎  (Đọc 31136 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #110 vào lúc: 19 Tháng Ba, 2017, 08:56:09 pm »


VỀ ĐỢT TIẾN CÔNG THÁNG 5 NĂM 1968

PTS HỒ KHANG       

        Sau thắng lợi vang dội của Tết Mậu Thân, thực hiện Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 4 năm 1968, trong tháng 5 năm 1968, quấn và dân ta trên chiến trường mở tiếp đợt tiến công mà hướng chính vẫn nhằm vào đô thị. Trong điều kiện yếu tố bất ngờ không còn, địch đã dồn về phòng thủ, lực lượng ta bị tổn thất trong đợt Tết Mậu Thân, đợt tiến công trên đây gây cho địch những thương vong nặng nề về sinh lực và tổn thất về phương tiện chiến tranh nhưng ta cũng bị tiêu hao lớn. Hơn nữa, trong lúc ta dồn sức vào đô thị, địch kịp thời lợi dụng cơ hội đó để tung quân chiếm lại những vùng chúng vừa bị mất trong dịp Tết Mậu Thân. Từ đấy, thế trận 3 vùng chiến lược của ta ngày càng bị suy giảm. Từ giữa năm 1968 đến giữa năm 1970, cách mạng miền Nam gặp nhiều thử thách, khó khăn...

        Tình hình trên làm cho việt xem xét đợt tiến công tháng 5 năm 1968 có khuynh hướng xem nặng mặt hạn chế mà hậu quả là làm cho cục diện chiến trường sau Tết Mậu Thân trở nên “xấu hơn trước năm 1968”, cách mạng miền Nam lâm vào “thời kỳ đen tối”. Có ý kiến cho rằng: “Đáng lẽ sau đợt 1, nếu ta biết ngừng và chuyển hướng hoạt động chiến đấu để chống bình định mới đúng”, “nếu ta có chủ trương từ trước, từ đầu, thì rất hay”; “sau đợt 1, nên chuyển hướng ngay là đúng nhất, hay nhất” ...

        Tuy nhiên để làm rõ vai trò, vị trí của đợt tiến công tháng 5 năm 1968, cần phải đặt nó trong bối cảnh tổng thể của thời kỳ lịch sử sau Tết Mậu Thân, cần phải đặt ra và giải quyết những vấn đề sau:

        1. Ý đồ chiến lược thực sự của hai bộ thống soái Mỹ và Việt Nam sau đợt Tổng tiến công Tết Mậu Thân.

        2. Những nhân tố quốc tế đã tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới tính toán chiến lược của Mỹ và Việt Nam thời kỳ sau Mậu Thân.

        3. Phía Việt Nam sẽ ngồi vào bàn đàm phán trực tiếp với Mỹ ở thế và lực nào nếu như sau Tết Mậu Thân, chúng ta thôi không tiến công vào đô thị mà quay ra củng cố vùng giải phóng nông thôn? Và liệu Mỹ, ngụy có chịu ngừng các hoạt động quân sự để ta “củng cố” khi chúng vẫn còn hơn một triệu quân, với khối lượng lớn vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại?

        Từ Tết Mậu Thân trở về trước, lập trường của Đảng, Chính phủ ta là: Mỹ phải chấm dứt không điều kiện mọi hành động chiến tranh chống phá Việt Nam dân chủ cộng hòa trước khi có bất cứ cuộc tiếp xúc chính thức nào giữa đại diện Mỹ và Việt Nam. Đến ngày 31-3-1968, mặc dù phải đơn phương xuống thang chiến tranh và tuyên bố sẵn sàng cử đại diện đàm phán với phía Việt Nam, nhưng trên thực tế, Mỹ vẫn duy trì cuộc chiến tranh phá hoại miền Bấc từ vĩ tuyến 17 đến vĩ tuyến 20, các chuyến bay trinh sát trên vùng trời, vùng biển miền Bắc và ném bom trở lại trên lãnh thổ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Chiến sự vẫn không ngừng tiếp diễn và ngày càng ác liệt. Tháng 3 và tháng 4-1968, địch tập trung lực lượng, liên tiếp mở các cuộc hành quân quy mô lớn nhằm đánh bật lực lượng vũ trang ta ra xa các đô thị, khôi phục lại các tuyến giao thông chiến lược bị cắt đứt đồng thời tăng cường đàn áp, khủng bố ác liệt các cơ sở cách mạng của ta, ráo riết “bình định” nhằm giành lại các vùng nông thôn, đồng bằng, đặc biệt là các vùng trọng điểm vừa bị mất.

        Đứng trước tình hình này, Đảng ta không thể không cân nhấc kỹ lưỡng mọi phương án hành động nhằm đưa sự nghiệp kháng chiến của nhân dân ta tiếp tục phát triển.  Kinh nghiệm của những lần đàm phán trực tiếp với phía Pháp năm 1945, 1946 đã để lại cho Đảng ta những bài học quý báu trong cuộc đấu tranh ngoại giao cũng như sự cảnh giác cao độ của một nước nhỏ khi đàm phán hòa bình với một nước đế quốc lớn đầy tham vọng. Đặc biệt là những kinh nghiệm dày dạn trong đấu tranh ngoại giao từ năm 1965 đến Tết Mậu Thân 1968 cũng như sự thấu hiểu bản chất của đế quốc Mỹ.

        Đảng và Chính phủ ta nhận thứ rõ ràng rằng, cái gọi là “sáng kiến hòa bình”, thương lượng không điều kiện của Mỹ trước đây chỉ là luận điệu tuyên truyền nhằm đánh lạc hướng dư luận, che giấu các hành động chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Cho nên, chúng ta không hề ảo tưởng vào “thiện chí hòa bình” của Mỹ. Tuy nhiên, đương đầu với Mỹ - một cường quốc đế quốc lớn của thế kỷ XX, Đảng ta luôn luôn chủ trương phải giữ vững quyết tâm chiến lược, đồng thời áp dụng sách lược đấu tranh chính trị và ngoại giao khôn khéo để phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng với đấu tranh quân sự tạo nên sức mạnh to lớn đánh thắng địch. Trước đó, từ tháng 1-1967, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 13 (khóa III) quyết định mở mặt trận đấu trình ngoại giao, xem “đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc đấu tranh trên chiến trường mà trong tình hình quốc tế hiện nay, với tính chất cuộc đấu tranh giữa ta và địch, đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động”.

        Từ quan điểm nhất quán đó, trước đề nghị đàm phán của Mỹ ngày 31-3-1968 và trước hành động thực tế của Mỹ, nguỵ trên chiến trường, Đảng, Chính phủ ta đã một mặt, sẵn sàng cử đại diện của mình tiếp xúc với đại diện của Mỹ; mặt khác, kiên quyết “động viên toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phát huy khí thế chiến thắng, tiếp tục phát triển tiến công toàn diện (...) đẩy địch vào thế thất bại liên tiếp ngày càng suy yếu, tan rã, không sao gượng dậy được nhằm đi tới giành thắng lợi quyết định”.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #111 vào lúc: 19 Tháng Ba, 2017, 08:56:35 pm »


        Đây là chủ trương chiến lược thể hiện bản lĩnh vững vàng và sách lược mềm dẻo của Đảng ta trong tình hình lúc đó  Bởi lẽ , sau ngày 31-3- 1968 , nếu ta từ chối cử đại diện tiếp xúc trực tiếp với đại diện Chính phủ Mỹ thì Mỹ “đẩy quả bóng sang sân” chúng ta. Ngày 3-4-1968, Chính phủ ta đã tuyên bố: “sẵn sàng cử đại diện của mình tiếp xúc với đại diện Mỹ nhằm xác định với phía Mỹ việc Mỹ chấm dứt không điều kiện việt ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam dân chủ cộng hòa để có thể bắt đầu cuộc nói chuyện đối với Mỹ, cho dù có ngồi vào bàn đàm phán đầu tháng 4-1968 đi chăng nữa thì Mỹ cũng đàm phán trên thế của kẻ mạnh. Cố vấn Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ đã bình luận việc ta chấp nhận cử đại diện đàm phán với Mỹ là “tự thừa nhận họ (tức Việt Nam dân chủ cộng hòa) đã ở vào một tình thế quân sự suy yếu”. Trong khi đó, Ha-ri-man - người cầm đầu phái đoàn Mỹ hội đàm với phái đoàn Việt Nam dân chủ cộng hòa, đã nói tại cuộc họp ngày 9-4-1968 rằng: Trong cuộc hội đàm sắp tới, Mỹ phải cầm chắc sẽ đạt được những kết quả tích cực. Quan điểm của phía Mỹ là: “Chúng ta (tức Mỹ - TG) càng mạnh về quân sự trên chiến trường thì lập trường chúng ta trong thương lượng càng có thế”. Muốn vậy, Mỹ cần phải gia tăng hơn nữa những nỗ lực quân sự trên chiến trường.

        Theo hướng hành động đó, trong khi trên chiến trường, Mỹ dồn sức mở hàng loạt cuộc hành quân quy mô lớn, sử dụng ồ ạt bom đạn, chất độc hóa học, hòng đánh bật quân ta ra khỏi đô thị thì ở Hội nghị, phía Mỹ ngang nhiên đặt điều kiện cho việc chấm dứt ném bom hoàn toàn miền Bắe, bằng cách buộc ta phải:

        •    Công nhận đại diện chính quyền Sài Gòn tại Hội nghị Pa-ri. Chấm dứt không điều kiện việc đưa người, vũ khí vào miền Nam.

        •   Ngừng các cuộc tiến công vào các thành phố lớn miền Nam.

        Công khai bám giữ lập trường trên, ngày 20-7-1968, trong thông cáo chung nhân cuộc hội đàm giữa Giôn-xơn, Nguyễn Văn Thiệu tại Hô-nô-lu-lu, phía Mỹ khăng định lại cam kết “quyết tâm ngăn chặn xâm lược”, “không bỏ miền Nam Việt Nam, Mỹ rút quân thì Bắc Việt Nam cũng phải rút quân”. Tiếp đó, trung tuần tháng 8-1968, phát biểu tại Hội nghị cựu chiến binh Mỹ, Giôn-xơn một lần nữa tái xác nhận quan điềm của Chính phủ Mỹ là: không có ý đồ tiến xa thêm nữa cho đến khi có đủ lý do để tin rằng, phía bên kia có những ý đồ nghiêm chỉnh để phối hợp với Mỹ xuống thang chiến tranh và nghiêm chỉnh tiến tới hòa bình. Trong khi đó, chính quyền Sài Gòn công khai đòi đàm phán trực tiếp với Hà Nội - chứ không phải là với Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.

        Rõ ràng là, sau ngày 31-3-1968, lập trường nhất quán của Mỹ vẫn là buộc Chính phủ ta phải thỏa mãn các điều kiện mà Mỹ đưa ra trước khi chấm dứt hoàn toàn cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc. Thực chất, đó vẫn là đòi hỏi trịch thượng của kẻ mạnh.

        Trước tình hình đó, Đảng ta vẫn kiên định lập trường “ vừa đấu tranh đòi Mỹ phải đơn phương chấm dứt hoàn toàn cuộc chiến tranh phá hoại miền Bác, vừa chỉ đạo quân và dân ta ở miền nam đẩy mạnh tiến công dù không còn thế bất ngờ như trước, mà ta vẫn đủ sức tiếp tục đánh mạnh vào các thành thị”.

        Như vậy, diễn biến chiến trường sau Tết Mậu Thân thực chất là sự phản ánh ý đồ chiến lược thực sự của hai bộ thống soái Việt Nam và Mỹ: giành ưu thế trên trường để tạo ưu thế ở bàn hội nghị. Trong điều kiện quyết liệt đó, các bên tham trận đều bị tổn thất nặng. Đó cũng chính là thời điểm số lượng thương vong của Mỹ đã gia tăng ghê gớm, nó lên gấp hai lần tổng số thương vong của tất cả các năm trước đó cộng lại: 30.610 người so với 16.210 người. Chỉ 6 tháng đầu năm 1968, Mỹ, ngụy thừa nhận bị tổn thất 101.400 người. Đó là sự ác liệt mà mỗi bên đều buộc phải chấp nhận nhằm khẳng định ý chí, chẳng định thế của mình trên chiến trường để giành lợi thế trên bàn đàm phán. Điều này không chỉ được chứng nghiệm trong thời điểm có tính bước ngoặt lớn là năm 1968 mà sau đó còn tái diễn trong năm 1972 để đi tới Hiệp định Pa-ri tháng 1-1973.

        Rõ ràng là phải thông qua nhưng hoạt động cụ thể trên chiến trường - đặc biệt vào những thòi điểm quyết định, quân và dân ta mới buộc phía Mỹ phải xuống tiếp một nấc thang chiến tranh bằng việc: ngày 31-10-1968, bỏ qua sự phản ứng gay gắt của chính quyền Sài Gòn, Tổng thống Mỹ Giôn-xơn đã đơn phương tuyên bố chấm dứt hoàn toàn mọi hành động chống phá nước Việt Nam dân chủ cộng hòa mà không còn đưa ra điều kiện đòi ta phải ngừng chi viện cho cách mạng miền nam; công nhận đại diện Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tại Hội nghị Pari mà trước đó phía Mỹ vẫn nhất mực phủ nhận... Buộc được Mỹ xuống thấp một nấc thang chiến tranh trong khi trên chiến trường, quân số Mỹ, ngụy và chư hầu tiếp tục tăng đến đỉnh cao là một thắng lợi có ý nghĩa chiến lược to lớn của nhân dân Việt Nam, là một thành công trong chỉ đạo chiến lược nhất quán của Đảng ta: kéo Mỹ xuống thang chiến tranh để đánh bại hoàn toàn ý chí xâm lược của Mỹ.

        Điểm lại một số sự kiện lịch sử trên đây, có thể thấy rằng, để buộc Mỹ xuống nấc thang chiến tranh ngày 31-10-1968, chúng ta phải dồn tâm lực, đẩy mạnh đợt tiến công tháng 5 năm 1968 để khẳng định thế và lực của ta, buộc Mỹ phải đàm phán theo điều kiện của chúng ta...
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #112 vào lúc: 19 Tháng Ba, 2017, 08:58:49 pm »


CHIẾN CÔNG LÀM NÁO ĐỘNG CẢ NƯỚC MỸ

Đại tá NGUYỄN HUY TOÀN         

        Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968), quân và dân ta đã đồng loạt đánh địch ở hầu hết các thành phố và thị xã khắp miền Nam, là những nơi xung yếu và tương đối sơ hở của địch, làm cho chúng hoàn toàn bị bất ngờ cả về không gian, thời gian và quy mô của cuộc chiến.

        Đây là một sáng tạo lớn của Đảng ta, trong lịch sử quân sự thế giới xưa nay chưa từng có. Phát huy truyền thống “lấy ít địch nhiều” ta đã đánh vào lúc địch nhiều quân nhất (120 vạn, trong đó có hơn 50 vạn quân viễn chinh Mỹ và chư hầu của Mỹ), được trang bị những phương tiện chiến tranh hiện đại nhất. Ta lại đánh vào lúc chúng đang thực hiện chiến lược “chiến tranh cục bộ” mà biện pháp chủ yếu là “tìm diệt” quân chủ lực và chụp bất cơ quan đầu não của ta, với tham vọng “bẻ gãy xương sống Việt Cộng”.

        Thật là trớ trêu thay, Mỹ không phải “vất vả” đi tìm Việt Cộng ở đâu cả, mà chính ta đã vào tận các hang ổ của chúng mà đánh, đến nỗi tờ tin hàng ngày Oa-sinh-tơn đã mô tả: “Dân chúng Mỹ choáng váng, không khí Oa-sinh-tơn ảm đạm. Tổng thống vừa đau tim, vừa đau đầu. Sự sửng sốt ngày đầu chuyển sang rã rời tuyệt vọng”.

        Riêng ở Sài Gòn, quân và dân ta đã đánh hầu hết các cơ quan trọng yếu của địch, với một lực lượng ban đầu nhỏ bé, đó là 106 chiến sĩ biệt động - những người anh hùng nhất của chúng ta. Đôn O-bơ -đo -phơ trong tập ký “Tết” đã nhận xét: một trận đánh nhỏ về số người tham gia nhưng náo động cả nước Mỹ, tác động vào niềm tin, suy nghĩ cua hàng triệu người Mỹ và tương lai của giới lãnh đạo nước Mỹ” .

        Thco lời kể của đồng chí Tư Chu - nguyên Phó tư lệnh Bộ chỉ huy Sài Gòn - Gia Định, kiêm chỉ huy các lực lượng biệt động, ngày 24 tháng 1 năm 1968, đồng chí Võ Văn Kiệt - Bí thư sở chỉ huy Tiền phương II giao nhiệm vụ cho các đơn vị đánh trong nội thành như sau: ‘sử dụng toàn bộ lực lượng của F100 (biệt động) và biệt động của các cánh, các ngành đã ém trong thành phố, bất ngờ tiến công đồng loạt một số mục tiêu thuộc các cơ quan đầu não của Mỹ-ngụy ở Sài Gòn. Các đơn vị biệt động có nhiệm vụ tập kích từ giờ G, đánh chiếm khống chế các mục tiêu này và giữ cho được trong 1 giờ, bảo đảm cho lực lượng thanh niên đến tiếp tế để tăng cường sức đề kháng tại chỗ, và bảo đảm cho các tiểu đoàn mũi nhọn của các phân khu đánh chiếm thuận lợi.

        106 chiến sĩ biệt động của chúng ta được phân chia nhiệm vụ như sau:

        Đội 5, 19 người, có 1 nữ, do đồng chí Tô Hoài Thanh chỉ huy trưởng, đồng chí Trương Văn Rồi - chính trị viên, đánh dinh Tổng thống ngụy.

        Đội l, 20 người có 1 nữ, do đồng chí út Nhỏ chỉ huy, có đồng chí Vân và Tươi là phái viên của sở chỉ huy đi cùng, có nhiệm vụ đánh vào Sứ quán Mỹ.

        Đội 6 và 9, gồm 30 người có 6 nữ, do đồng chí Đỗ Tấn Phong chỉ huy trưởng và đồng chí Năm Đức - chính trị viên, có nhiệm vụ đánh Bộ tổng tham mưu ngụy.

        Đội 3, 20 người, có 3 nữ, do đồng chí Trần Văn Lém chl huy trưởng, đồng chí Quốc - chính trị viên, đánh Bộ tư lệnh Hải quân ngụy.

        Đội 4, 14 người, có 2 nữ, do đồng chí Nguyễn Gia Lộc chỉ huy trưởng, đồng chí Đặng Văn Tẻo - chính trị viên đánh Đài phát thanh ngụy.

        Bài viết này không thể kể hết diễn biến chiến đấu và những tấm gương sáng chói chủ nghĩa anh hùng cách mạng của 106 chiến sĩ chúng ta, tôi chỉ xin cung cấp một số tư liệu để tham khảo.

        Để chuẩn bị cho trận đánh, trước hết phải xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân ở đô thị một cách vững chắc. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo phương châm “ba vùng chiến lược, và chỗ dựa vững chắc là lòng dân, quân và dân Sài Gòn - Gia Định đã bền bỉ, công phu chuẩn bị thế trận chiến tranh nhân dân ở nội đô trong nhiều năm. Đến tháng  12 năm 1965 ta đãnxây dựng được 10 hầm chứa vũ khí, 2 hầm rộng và một số nhà cơ sở gần các mục tiêu cần đánh ở trung tâm Sài Gòn để làm sở chỉ huy. Việc vận chuyển hàng trăm tấn vũ khí vào thành phố là một kỳ công của Đảng bộ và nhân dân Sài Gòn - Gia Định. Vợ chồng ông  Chín (Hóc Môn) suốt đời chèo thuê, chở mướn trên sông Sài Gòn đã đưa được cả cối 82 và ĐKZ 15 vào thành phố, chị Bùi Thị Lý có chồng là tỉnh ủy viên Thủ Dầu Một đã hy sinh trong kháng chiến chống Pháp, vừa hoạt động vừa nuôi hai con nhỏ. Khi được tổ chức gợi ý về công tác này, đã hiến số vàng dành dụm được để mua ngôi nhà phù hợp với địa điểm mà cách mạng yêu cầu. Mọi công tác chuẩn bị chiến đấu đã được hoàn tất trong vòng bí mật. Trong lịch sử quân sự dân tộc, chúng ta thường thắng những đội quân xâm lược lớn theo cách riêng của mình. Để phá âm mưu chuẩn bị tấn công xâm lược của địch, Lý Thường Kiệt đã đưa quân sang tập kích vào hậu phương chiến dịch của chúng. Vó ngựa mạnh mẽ và kiêu căng của đội ky binh Nguyên Mông đã đánh chiếm nhiều nước châu Âu và châu Á, nhưng đến Việt Nam cả ba lần đều bị thua vì nhà Trần chưa bao giờ đánh khi chúng ngồi trên mình ngựa, các trận Hàm Tử, Chương Dương, Bạch Đằng đều là lúc chúng đã xuống ngựa. Khi vây hãm quân Minh ở thành Đông Quan, Lê Lợi đã sai quân đi chặn đánh viện binh và chém đầu Liễu Thăng, khi mất quân viện, Vương Thông đã phải đầu hàng. Thời chứng Mỹ, cách đánh của Biệt động và Đặc công là cách riêng hết sức độc đáo chưa từng có trên thế giới.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #113 vào lúc: 19 Tháng Ba, 2017, 08:59:23 pm »


        Thật vậy! Tất cả các mục tiêu trong nội đô Sài Gòn, sào huyệt của địch ta đểu đánh chiếm mau lẹ đến nỗi Oét mo-len “bị choáng váng về việc cộng sản có thể phối hợp nhiều cuộc tiến công như thế mà lại trong vòng bí mật”.

        Trận đánh ở Đài phát thanh Sài Gòn, sau 5 phút ta làm chủ khu vực đài, và đã giữ được đến 6 giờ sáng. Nhưng vì lực lượng tiếp ứng không vào kịp, địch dùng cả máy bay trực thăng và xe thiết giáp phản kích. Cuối cùng còn lại đồng chí Năm Lộc - đội trưởng, Bẩy Thân - đội phó và hai chiến đấu viên Hồng và Chín. Các anh đã kết lại với nhau dùng 20 kg thuốc nổ cuối cùng, phá hỏng đài và hy sinh anh dũng.

        Trận đánh vào Sứ quán Mỹ, với một lực lượng ít mà tinh nhuệ, ta đã chiếm được tầng trệt một cách dễ dàng, 5 phút sau đã chiếm được lầu trên. Thu súng đạn và bắt một số tù binh cho vào một phòng khóa trái cửa lại. Ơ đây, anh em đã giữ được đến 7 giờ sáng nhưng đại quân ta cũng chưa vào kịp. Đồng chí Ngô Văn Vân (Ba Đen) người phụ trách chung trận đánh, đã liều chết với giặc bằng trái lựu đạn cuối cùng, nhưng anh chỉ bị thương và bị bắt, năm 1973 địch phải trao trả.

        Trong quyển sách “Việt Nam cuộc chiến tranh mười ngàn ngày” Mi-sen Mac-li-a viết: “Chiến tranh Việt Nam có nhiều bất ngờ, nhưng không có bất ngờ nào làm người ta phải sửng sốt nhiều hơn trận tấn công Tết, đặc biệt là nó diễn ra ngay trong Sứ quán Mỹ ở Sài Gòn. Nó đã làm cho một số người phải ra đi. Đó là Bộ trưởng Mác Na-ma-ra, tướng Oét-mo-len và chính Tổng thống Giôn-xơn nữa”.  Nếu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy là một đòn bất ngờ lớn đối với địch, thì đòn đánh của các chiến sĩ biệt động Sài Gòn là đỉnh điểm của sự bất ngờ. Chỉ với số chiến sĩ tương đương với số quân của một đại đội bộ binh, ta đã luồn vào tận “tim gan” của địch, đánh cho nó một đòn đau nhớ đời. Nhờ các phương tiện thông tin đại chúng người dân Mỹ có thể nhìn thấy tận mắt những chiến sĩ ta đánh Sứ quán Mỹ - Lầu năm góc ở miền Nam, và đánh dinh Độc Lập - phủ tổng thống của Việt Nam cộng hòa như thế nào. Những trận đánh trong nội đô Sài Gòn của biệt động, không chỉ tính kết quả bằng số thương vong mà còn phải tính ta đã thắng cả về quân sự, chính trị cả về tâm lý và dư luận. Đây chính là đòn đánh hiểm, phơi bày thế suy yếu, thất bại của Mỹ - ngụy ở một thành phố lớn nhất. Để lập nên chiến công đầu sáng chói ở Sài Gòn – Gia Định Mậu Thân 1968, trong số 106 chiến sĩ thân yêu của chúng ta, có 61 người hy sinh. Trong đó có đồng chí Trần Văn Lém (Bảy Lốp) bị bắt và bị Nguyễn Ngọc Loan - tổng giám đốc cảnh sát quốc gia ngụy dùng súng ngàn bắn vào đầu gục tại chỗ, cảnh này được chiếu trên truyền hình và đăng báo làm xúc động cả nhân loại. Họ đã lên án hành động man rợ này của địch. 12 người bị bắt đến năm 1973 địch chỉ trao trả 9 người . Bốn người được tuyên dương Anh hùng; đó là các đồng chí Lê Tấn Quốc (bí danh là Bảy Rau Muống), Trần Phú Cường (Năm Một), Phan Thị Mỹ (Tư Oanh) và Đỗ Tấn Phong.

        Trở về đời thường, những chiến sĩ biệt động - những “VC” làm náo động nước Mỹ - lại sống bình lặng khiêm tốn như cha anh của mình trong lịch sử, có giặc thì đánh, hết giặc lại cùng nhau xây dựng quê hương đất nước. Nhân cuộc Hội thảo khoa học này, tôi muốn kiến nghị hai điểm:

        Một là: Vì thành tích đặc biệt xuất sác của lực lượng Biệt động, năm 1967, Đội 5 Biệt động Sài Gòn - Gia Định - đơn vị sau này đánh dinh Tổng thống ngụy – đã được tuyên dương đơn vị Anh hùng với 16 chữ vàng ‘ĐOÀN KẾT MỘT LÒNG, MƯU TRÍ VÔ SONG, DŨNG CẢM TUYỆT VỜI, TRUNG KIÊN BẤT KHUẤT”, năm 1976 lực lượng Biệt động Sài Gòn - Gia Định được tuyên dương đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Nhưng hiện nay các lực lượng vũ trang ở thành phố Hồ Chí Minh không có đơn vị nào giữ phiên hiệu của đơn vị Biệt động Anh hùng hồi chống Mỹ.

        Thành tích và truyền thống của các lực lượng vũ trang nói chung, Biệt động nói riêng được xây dựng bằng những chiến công oai hùng, bằng xương máu và nước mắt của nhiều người, có khi là cả một thế hệ, cần được trân trọng lưu giữ bằng một đơn vị cụ thể (dù là nhỏ thôi), vì đây là một trong những tổ chức mà chỉ có Quân đội nhân dân Việt Nam mới có, còn hiệu quả của tổ chức này thì chắc ai cũng biết. Hơn nữa, trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc tương lai, ta vẫn phải tổ chức ra các đội biệt động. Nên chăng, vừa duy trì một đơn vị nhỏ để giữ truyền thống, vừa tổ chức nghiên cứu khoa học cả về lý luận và thực tiễn, cả tổ chức và nghệ thuật quân sự về lực lượng này.

        Hai là: Do điều kiện hoạt động trong lòng địch, biệt động là lực lượng được hình thành trên cơ sở phong trào cách mạng của quần chúng do Đảng lãnh đạo, đã bố trí công việc của người ấy, nhiều đội viên không thoát ly sản xuất, nhiều người chỉ quan hệ với nhau qua bí danh. Nay đã sau 30 năm, nhiều đồng khí hy sinh cũng chưa biết tên thật, chưa tìm thấy phần mộ, trong số 106 chiến sĩ hồi Mậu Thân, nhiều người đã hy sinh chưa được xét khen thưởng và thực hiện chính sách. Chị Nguyễn Thị Phê, sau Mậu Thân, cơ sở bị lộ, địch bắt cả nhà chị đày ra Côn Đảo. Mẹ - Vũ Thị Lương và 2 con trai, 1 con gái, 1 dâu, 1 rể - cả gia đình đều là biệt động. Sau Mậu Thân các con mẹ bị địch bắt đi tù. Mẹ tần tảo vừa nuôi các con trong tù, vừa gây quỹ cho cách mạng. Rất cần thiết phải tổ chức thu lượm tin tức, và thực hiện chính sách đối với những chiến sĩ “gan vàng dạ sắt” này, những người đã lập công xuất sắc trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #114 vào lúc: 20 Tháng Ba, 2017, 03:05:22 pm »


THẮNG LỢI CHIẾN LƯỢC TẾT MẬU THÂN 1968

PTS NGUYỄN MẠNH HÀ       

        Ba mươi năm đã trôi qua, sự kiện Tết Mậu Thân 1968, theo đánh giá của cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Rô-bớt Mác Na-ma-ra thời kỳ 1961-1968, là một sự kiện quan trọng nhất, quyết định nhất của chiến tranh Việt Nam. Thắng lợi và ảnh hưởng to lớn của quân và dân ta trong cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ là một thực tế hiển nhiên. Tuy nhiên, đây là một sự kiện lớn lao và rất phức tạp, nên đến nay vẫn còn các ý kiến đánh giá khác nhau xung quanh sự kiện này.

        Về phía Mỹ, nhiều chính khách và tướng lĩnh Mỹ liên quan trực tiếp tới chiến tranh Việt Nam thời kỳ này tuy thừa nhận Mỹ đã bị giáng một đòn nặng nề trên chiến trường về mặt chiến lược vả bị tổn thất lớn, suy sụp tinh thần chiến đấu, nhưng không thua về quân sự. Rằng quân đội Mỹ sắp sửa giành thắng lợi quyết định thì bị giới lãnh đạo dân sứ trong chính phủ Mỹ buột phải bỏ cuộc... Những người có quan điểm trên lý giải rằng:

        Thứ nhất, sau một thời gian bị bất ngờ, choáng váng, quân Mỹ và ngụy Sài Gòn đã củng cố lại và thực hành phản kích quyết liệt, dần dần giành lại quyền kiểm soát các đô thị, đẩy chủ lực quân giải phóng ra xa các vùng ven, đồng bằng và đầu mối giao thông.

        Thứ hai, quan điểm quân sự truyền thững về thắng thua trên chiến trường của Mỹ và phương Tây là phải được căn cứ vào sự chuyển dịch đường chiến tuyến giữa hai bên tham chiến. Vì thế, Mỹ cho rằng phạm vi hoạt động của chủ lực Quân giải phóng sau Tết Mậu Thân đã bị đẩy ra xa và thu hẹp rất nhiều, chi còn các căn cứ trên rừng núi, giáp với Cam-pu-chia.

        Thứ ba, bộ chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn lấy việc thống kê tổn thất của ta về lực lượng trong các đợt tiến công Mậu Thân làm mốc đo thắng lợi quân sự của Mỹ. Theo đó nếu tổn thất của Quân giải phóng miền Nam ngang bằng hoặc lớn hơn số lượng bổ sung từ miền Bắc vào thì có nghĩa là quân Mỹ đã thắng...

        Tuy nhiên, có một bộ phận trong chính giới Mỹ không đồng tình với cách lý giải trên. Giữa lúc cuộc tiến công Tết Mậu Thân của ta lên đến đỉnh cao (2-1968), Tổng thống Giôn-xơn quyết định thành lập ủy ban Clíp-phớt để bàn việc tăng thêm 20,6 vạn quân Mỹ theo yêu cầu của Tư lệnh quân Mỹ ở Nam Việt Nam - tướng Oét-mo-len. Nhưng ủy ban Clíp-phớt lại tập trung thảo luận về chiến lược tương lai của Mỹ ở Việt Nam. Kết luận đưa ra: chiến lược quân sự Mỹ ở Việt Nam là vô vọng, dù có đưa thêm bao nhiêu quân và tiền của, vũ khí đi chăng nữa. Bản thân Đin A-ki-sưn, ngoại trưởng dưới thời Ai-xen-hao và là cố vấn của Giôn-xơn đã phải thốt lên: cuộc Tổng tiến công Tết cho thấy số 50 vạn quân Mỹ là vô cùng thiếu, không thể nào đánh đuổi khuất phục nổi Việt Cộng. Đây chính là nhận định và tâm trạng phổ biến của rất nhiều người Mỹ đã dính líu vào Việt Nam thời bấy giờ...  về phía ta, trong khi hầu hết các ý kiến, sách báo, hội thảo xung quanh sự kiện này đều cho rằng cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân là một thắng lợi chiến lược, làm thay đổi cục diện chiến tranh, thì không phải không còn ý kiến cho rằng lực lượng ta bị tổn thất nặng, nhất là trong các đợt sau, rằng thắng lợi Tết Mậu Thân là thắng lợi lớn của một trận tập kích chiến lược...

        Vấn đề này, chúng tôi xin có một số ý kiến để góp phần khẳng định, làm rõ hơn thắng lợi chiến lược của cuộc Tổng tiến công Tết Máu Thân.

        Trong thơ gửi các đồng chí Trưng ương Cục tháng 7-1970, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng khẳng định: “Trong đợt tiến công, nổi dậy dịp Tết Mậu Thân, ta đã thắng lợi rất to, địch đã thua rất nặng. Rõ ràng trận này đã mở ra bước ngoặt chiến lược đánh đấu thời kỳ Mỹ phải xuống thang trong chiến lược chiến tranh cục bộ”.

        Bên cạnh nhiều ý kiến đã thống nhất về đánh giá thắng lợi chiến lược của Tết Mậu Thân, chúng tôi thấy cần làm rõ hơn mấy vấn đề sau:

        Một là, về mặt chiến lược, quân và dân miền Nam đã giữ vững được thế tiến công chiến lược, mặc dù tình hình sau Tết Mậu Thân cực kỳ khó khăn. Bằng chứng là ta đã đánh bại mục tiêu tao trùm của Mỹ muốn đổ quân chiến đấu Mỹ vào để tiêu diệt Quân giải phóng, hoàn thành chiến lược chiến tranh cục bộ rồi nhanh chóng rút quân. Ta đã đánh bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 của Mỹ - ngụy. Từ chủ trương “Tìm diệt”, tấn công vào tận căn cứ của đối phương, quân Mỹ đã phải quay về thực hiện “quét và giữ”. Đây là một bước lùi có ý nghĩa chiến lược của Mỹ ngay khi mới khai triển hàng chục vạn quân tinh nhuệ vào Việt Nam nhằm “đè bẹp đối phương”.

        Hai là, lần đầu tiên ta đã thực hiện được cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt trên hầu khắp các đô thị, địa phương miền Nam đưa chiến tranh vào tận sào huyệt của Mỹ-ngụy. Đây là một bất ngờ về chiến lược của Mỹ trong khi Mỹ cho rằng quân giải phóng đã “hết hơi”. Mặc dù tổng quân số vào thời điểm cuối 1967 lên tới một triệu người, song quân Mỹ - ngụy không làm chủ được tình thế, không tiêu diệt được chủ lực đối phương, không ngăn chặn được nguồn tiếp tế từ miền Bắc vào. Mỹ bị thua về thế, bị hãm vào tình cảnh tiến thoái lưỡng nan trong khi vẫn còn đông quân nhiều tướng. Một nước lớn đánh với một nước nhỏ yếu hơn mà không thắng, trong khi một nước nhỏ đánh cho nước lớn thất điên bát đảo, chẳng những không thua mà còn càng ngày càng mạnh hơn, đủ để nói lên thất bại hiển nhiên của Mỹ.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #115 vào lúc: 20 Tháng Ba, 2017, 03:05:44 pm »


        Ba là, nếu trước Tết Mậu Thân Mỹ tìm mọi cách để thắng, thì sự thể sau Tết Mậu Thân lại ngược lại. Vấn đề bây giờ là Mỹ tìm cách thua như thế nào để đỡ mất thể diện, cuộc tiến công Tết đã đánh bại ý chí leo thang tiếp tục chiến tranh của Mỹ. Giờ đây, Mỹ đã nhận ra rằng không thể đánh bại Việt Cộng, dù có tăng thêm bao nhiêu quân chăng nữa. Báo giới Mỹ nói nhiều về thất bại tâm lý và chính trị của Mỹ, về hậu quả của cuộc tiến công. Nội bộ chính quyển Mỹ chia rẽ nghiêm trọng. Một cuộc chiến tranh khác nổ ra ngay trong lòng nước Mỹ. Chưa bao giờ người dân Mỹ được biết tường tận sự kiện chiến tranh Việt Nam như trong Tết Mậu Thân. Nếu Mỹ không thua thì chắc chắn không có bài diễn văn 31-3-1968 của Giôn-xơn, chấp nhận đàm phán, hạn chế ném, bom miền Bắc, bắt đầu rút quân chiến đấu Mỹ khỏi Việt Nam. Vị tổng thống đầy tham vọng này còn phải ngậm ngùi tuyên bố không ra ứng cử nhiệm kỳ 2.

        Bốn là, việc các chính khách và tướng lĩnh Mỹ nhận rằng Mỹ đã thắng về quân sự trên chiến trường dịp Tết Mậu Thân chỉ là một sự tính toán cơ học, máy móc. Chúng ta không phủ nhận lực lượng Quân giải phóng bị tổn thất khá nặng, nhiều vùng căn cứ và đất đai bị địch chiếm, tình thế nhiều địa phương trở nên khó khăn hơn nhiều sau đợt 2...  Nguyên nhân có thể là do đề ra mục tiêu, thời gian và địa bàn tiến công chưa thực sát hợp. Nhưng tình thế khó khăn đó chỉ là tạm thời. Điều đạt được có ý nghĩa từ cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân của quân dân miền Nam là buộc Mỹ phải rút ra kết luận: không thể dùng sức mạnh quân sự để áp đặt ý đồ chính trị của Mỹ ở Việt Nam. Chưa bao giờ số quân chiến đấu Mỹ chết và bị loại khỏi vòng chiến đấu, tính theo từng tuần, lại nhiều như thời kỳ này. Các số liệu của Mỹ cũng thừa nhận như vậy.

        Năm là, cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân đã mang lại cho quân và dân ta một xung lực mới, khả năng mới và củng cố niềm tin vững chân vào trọng lực cuối cùng ngay trong những ngày tháng gay go, ác liệt nhất. Nếu so với kháng chiến chống Pháp, chúng ta phải tập trung hầu như toàn bộ các đơn vị chủ lực tinh nhuệ của quân đội vào một trận quyết chiến chiến lược ở một địa bàn xa trung tâm đất nước tại Điện Biên Phủ, thì trong cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân ta đã có đủ lực lượng cùng lúc đánh đồng loạt vào gần 40 thành phố, thị xã toàn miền Nam, trong đó tập trung vào các sào huyệt quan trọng, hiểm yếu nhất của Mỹ và ngụy quyền như Sài Gòn, Huế...

        Như vậy, cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân là một thắng lợi chiến lược do có sự chuẩn bị kỹ càng mọi mặt đánh nhiều đợt, nhiều lực lượng, có tiến công và nổi dậy nhằm đạt được những mục tiêu chiến lược đề ra, không phải là đòn tập kích.

        Về sự thất bại của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam nói chung, Tết Mậu Thân nói riêng, mới đây, tháng 5-1997, Nhà xuất bản Háp-pơ Côn-lin của Mỹ đã cho ra mắt bạn đọc cuốn sách có tiêu đề: “Không làm tròn bổn phận - Lin-đơn Giôn-xơn, Rô-bớt Mác Na-ma-ra, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân và những lời dối trá đã dẫn tới cuộc chiến tranh Việt Nam” (Dreliction of duy - Lyndon Johnson, Robest Mc Namara, the joint chiefs of staff, and the lies thất led to Việt Nam) của tác giả Mác Mát-xtư. Nội dung chính của cuốn sách, đang gây được sự chú ý của dư luận, là làm rõ điều gì đã xảy ra, tại sao và ai chịu trách nhiệm về những quyết định đã dẫn tới việc can thiệp trực tiếp vào cuộc chiến tranh Việt Nam. Cuốn sách góp phần làm thay đổi quan điểm hiện đang phổ biến ở Mỹ cho rằng đây là một cuộc chiến tranh không thể tránh khỏi trên cơ sở vạch rõ vai trò của các cố vấn thân cận của Tổng thống Mỹ Giôn-xơn như Mác Gioóc-giơ Bân-đi, Đin Rát-xcơ, Gioóc-giơ Bôn, Mác-xoen Tay-lo và đặc biệt là Mác Na-ma-ra, rằng các nhà hoạch định chính sách của Mỹ bị bó buộc bởi lý thuyết về chính sách ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản, và do vậy phải được vô tội trước hậu quả cuối cùng đó. Có người hỏi, vì sao để chống cộng sản, Mỹ lại không đưa quân vào lục địa Trung Quốc?  Quyết tâm đưa quân Mỹ vào Việt Nam; cầm quyền Mỹ nhằm áp đặt chủ nghĩa thực dân mới ở Nam Việt Nam và tin chắc rằng sẽ thắng vì Việt Nam là nước nhỏ.

        Nhà bình luận nổi tiếng của tờ “Tin Mỹ và thế giới”, đồng thời là đồng tác giả cuốn sách: “Có một thời, chúng ta là những người lính... và trẻ trung”, Giô-dép Ga-lô-uây viết: “ở đây (trong sách của Mát-xtư) có những điểm mà bạn chưa từng được đọc trong cuốn sách của R.Mác Na-ma-ra (Nhìn lại quá khứ - Tấn thảm kịch và những loài học về Việt Nam, in 1995). Cuộc chiến tranh Việt Nam không diễn ra một cách đun thuần, nó không phải là một cuộc xung đột ngẫu nhiên của chiến tranh lạnh giết chết 58.000 người Mỹ và một triệu người Việt Nam. Mát-xtư đã khám phá các hồ sơ vừa mới được gỡ dấu mật và trong những trang tài liệu này tỏa ra ánh sáng rõ ràng và hiểu biết về việc làm như thế nào mà các nhà lãnh đạo lỗi lạc, được che đậy dưới một lớp bảo vệ bằng những lời nói dối và những từ như “tối mật”, đã dùng thủ đoạn và mánh khóe kéo đất nước chúng ta tuột xuống con đường dẫn tới chiến tranh và sự bại trận cay đắng”.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #116 vào lúc: 20 Tháng Ba, 2017, 03:07:55 pm »


SỰ KIỆN TẾT MẬU THÂN 1968 QUA NHẬN XÉT CỦA MỸ VÀ NƯỚC NGOÀI

NGUYỄN XUÂN NĂNG       

        Cách đây vừa tròn 30 năm, vào Tết Mậu Thân 1968, quân và dân ta đã mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt vào 4/6 thành phố, 37/46 thị xã và hàng trăm thị trấn trên toàn miền Nam. Trong lịch sử chiến tranh thế giới cũng như lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta, chưa bao giờ có cuộc tiến công đồng loạt, đều khắp và rộng lớn như Mậu Thân 1968. Mậu Thân 1968 với hiệu lực chiến đấu “cộng hưởng” lớn lao chưa từng có đã làm rung chuyển cả Nhà Trắng và Lầu Năm góc. Cũng chính vì vậy, nó gây chấn động dữ dội trong dư luận không chỉ ở nước Mỹ mà trên toàn thế giới. Sự chấn động ấy được thể hiện qua một số sách báo xuất bản lúc đó và cả sau này.

        Nhà sử học Mỹ Ga-bơ-ri-en Côn-cô trong tác phẩm “Giai phẫu một cuộc chiến tranh” xuất bản tại Nữu-ước năm 1985, đánh giá: “Cuộc tiến công Tết là sự kiện quan trọng nhất và phức tạp nhất của chiến tranh Việt Nam”. Theo ông: với Mậu Thân 1968, Việt Nam đã trở thành cuộc chiến tranh ngoài nước đầu tiên của Mỹ kể từ năm 1882 đã gây ra cuộc khủng hoảng xã hội, nội bộ sâu sắc và một sự phân hóa về hình trị.  Còn tướng Mắc-xoen Tay-lo - cựu đại sứ Mỹ ở Sài Gòn, sau khi từ chức (tháng 6 năm 1965) về làm cố vấn đặc biệt của Tổng thống Giôn-xơn, trong hồi ký “Thanh gươm và lưỡi cày” xuất bản tại Nữu-ước năm 1972 đã thừa nhận: “Ngày 31-1-196S, quân địch (tức quân giải phóng) tiến công và chỉ trong vòng 2 ngày họ đã tiến vào 5 đô thị lớn, 39 tỉnh lỵ và nhiều thành phố. Những trận tiến công của họ đã được báo chí Mỹ tường thuật dưới dạng những hàng tít lớn được chiếu trên các màn ảnh vô tuyến truyền hình và đã làm cho phần lớn dân chúng Mỹ và một số quan chức kinh hoàng. Phải rất lâu họ mới hoàn hồn và trong một số trường hợp sự hoàn hồn đó mãi mãi không bao giờ được khôi phục lại hoàn toàn”.

        Tay-lo còn nói: “Những điều bất ngờ thực sự mà cuộc tiến công Tết 1968 đã gây cho tôi không phải là việc đối phương đã mở được một cuộc tiến công lớn mà chính là việc họ đã mở cùng một lúc nhiều trận tiến công mãnh liệt đến như thế”.  Oét-mo-len - nguyên Tư lệnh Bộ chỉ huy quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam viết trong “Một quân nhân tường trình” xuất bản ở Nữu-ước năm 1976: “Việt Cộng đã đưa chiến tranh đến các thành phố, các đô thị, đã gây thương vong thiệt hại và nền kinh tế bị phá hoại... các trung tâm huấn luyện bị đóng cửa... Nói theo quan điểm thực tế thì chúng ta (Mỹ) phải công nhận, đối phương đã giáng cho chính phủ Nam Việt Nam một cú đấm nặng nề. Oét-mo-len còn nhận xét một cách bi quan rằng: “Chiến tranh đã trở thành một vấn đề chính trị với triển vọng địch (QGP) có thể thắng ở Oa-sinh-tơn như họ đã thắng ở Giơ-ne-vơ 1954. Ý chí của các chính khách Mỹ đang suy giảm”.

        Cựu tổng thống Mỹ Ai-xen-hao, ngày 27-3-1968 nghĩa là chưa đầy 2 tháng sau khi ta mở cuộc tiến công đã phải than thở: “... Chưa bao giờ gặp phải tình trạng đáng buồn như tình cảnh hiện nay của nước Mỹ bị chia rẽ sâu sắc về chiến tranh”.

        Ngay đương kim Tổng thống Giôn-xơn lúc bấy giờ cũng tỏ ra chán nản, dao động sâu sắc. Trong hai ngày 25 và 26-3-1968, ông ta đã triệu tập một cuộc họp “những nhân vật am hiểu tình hình nhất”. Phiên họp kéo dài với những thành viên hội nghị gồm những người nắm những địa vị then chốt nhất trong chính phủ Mỹ, Giôn-xơn đã hỏi quan điểm từng người một. Và, “Tổng thống đãnhận được những câu trả lời vô vùng bi quan của những người từ trước đến nay được xem là loại cứng rắn... Cuối cùng, Tổng thống quyết định rời khỏi sân khấu chính trị với hy vọng thống nhất lại một quốc gia đang bị chia rẽ và điển hình của sự chia rẽ đó là sự chia rẽ ngay trong những người thân cận nhất của Tổng thống”. Sau đó, Níc-xơn gặp Nguyễn Văn Thiệu tại đảo Ha-oay để bàn về việc Mỹ sẽ rút quân khỏi Việt Nam. Hen-ry Kít-sinh-giơ, ngoại trưởng Mỹ nhận xét:

        “Việc Tổng thống chúng ta chỉ có thể gặp người lãnh đạo một nước mà hơn 30.000 người Mỹ đã chết vì nó trên một hòn đảo hiu quạnh trong một khung cảnh đẹp trời của Thái Bình Dương chứng minh tình hình rối như tư vò mà chiến tranh Việt Nam đã dìm xã hội chúng ta vào”.

        Đó là lời của các nhân vật chóp bu trong giới cầm quyền Mỹ. Còn báo chí Mỹ thì sao?.

        Tờ tin tức Hoa Thịnh Đốn ngày 31-1-1968 đã viết: “Các cuộc tiến công ồ ạt, táo bạo của cộng sản ngày 31-1 vào Sài Gòn, 8 tỉnh ly và 30 thị trấn nhỏ hơn là một điều đáng kinh ngạc. Cảnh sát quân sự Mỹ đã phải đổ bộ bằng máy bay lên thẳng xuống nóc nhà sứ quán Mỹ ở Sài Gòn trong khói đạn để giành lại ngôi nhà được coi là “chống du kích” nhưng lại bị cộng sản chiếm trong 6 giờ liền. Chỉ riêng cảnh tượng đó cũng đủ để buộc chính phủ Giôn-xơn dẹp đi, coi là không có giá trị những nhận định lạc quan của mình”.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #117 vào lúc: 20 Tháng Ba, 2017, 03:08:18 pm »


        Thời báo Nữu-ước, tờ báo lớn nhất nước Mỹ số ra ngày 1-2-1968 bình luận: “Cuộc tiến công của đối phương đột nhập cả đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn cho thấy thêm những bằng chứng đau xót về sức mạnh có hạn của Mỹ ở châu Á.  Bằng chứng cuộc tiến công táo bạo vào những thành phố chính ở miền Nam Việt Nam và bằng sự tập trung quân ở Khe Sanh, cộng sản đã làm tiêu tan niềm lạc quan bao trùm lên Hoa Thịnh Đốn và Sài Gòn trong mấy tháng qua. Đây rõ ràng không phải là hành động của một đối thủ đang yếu dần như các nhà quân sự Mỹ đã khẳng định hồi tháng 11 năm Cũng tờ báo này, trong số ra ngày hôm sau 2-1-1968, có đoạn: “Chiến thắng của Việt Cộng chứng minh sự suy yếu của cơ cấu chính trị mà Mỹ dùng làm chỗ dựa trong cố gắng chiến tranh và đe dọa thủ tiêu hoàn toàn các cơ cấu chính trị đang suy yếu”. Tác giả bài báo tỏ ý lo ngại rằng: “Hậu quả chính trị do thắng lợi đáng kinh ngạc của Việt Cộng gây ra lần này mới là nguy hại nhất”.

        Không chỉ báo chí Mỹ, các báo phương Tây và các nước trên thế giới ở góc độ này hay khác đều đưa tin và bình luận về sự kiện lịch sử này.ư

        Hãng thông tấn Roi-tơ của Anh ngày 3-2-1968 nói: “Quy mô và tính chất ác liệt của các trận tấn công phối hợp ở Sài Gòn và ở các trung tâm chủ chốt khác tại Nam Việt Nam làm cho Mỹ và các nước đồng minh rất đỗi ngạc nhiên”. Kế đó ngày 5-2-1968 hãng này thống kê: “Mỹ có đến nửa triệu quân ở Nam Việt Nam, đã mất 13 năm và đã tiêu mỗi ngày 60 triệu đô la mà vẫn không bảo vệ được một tấc đất vuông nào ở miền Nam Việt Nam cả”. Trong khi đó báo Người quan sát (Anh) tỏ ra ngạc nhiên khi than rằng: “Người ta không thể tin là một tình hình như thế lại có thể xảy ra”. Báo Pháp “thế giới” ngày 1-2-1968 mỉa mai: “Người Mỹ đã từng khẳng định dân chúng Nam Việt Nam chịu đựng hơn là ủng hộ Mặt trận dân tộc giải phóng, giờ đây liệu họ còn có thể nêu lên những lý lẽ như thế nữa không sau khi đã xảy ra một cuộc biểu dương đáng khâm phục về sức mạnh và lòng dũng cảm của Việt Cộng như vậy”. Báo “Chiến đấu” ngày 1-2-1968 khẳng định: “Điều hiển nhiên là người Mỹ đã thua đứt về mặt chính trị trong cuộc chiến tranh này rồi. Những gì xảy ra ở Sài Gòn cũng đủ cho thấy Mặt trận Dân tộc giải phóng đã nắm được các tầng lớp dân chúng ‘ở Nam Việt Nam trong mức độ lớn biết dường nào”.

        Tờ Lơ-phi-ga-rô (Pháp) ngày 2-2-1968 ca ngợi: “Cuộc tiến công lừng danh của Việt Cộng cho ta thấy trước hết cái tài tình của những người chỉ huy trong việc hướng dẫn cuộc chiến tranh vừa quân sự, vừa chính trị này. Về mặt đối nội - họ vừa thu được một thắng lợi lớn; họ chứng tỏ cho nhân dân Việt Nam thấy rằng họ có thể đánh nơi nào và lúc nào cũng được hết. Họ làm cho chính phủ Sài Gòn và quân đội của chính phủ này trở thành một trò cười. Họ tăng cường sự kiểm soát của họ, và do đó, làm giảm bớt sự kiểm soát của chế độ Sài Gòn đối với dân thường, những người dân thường nay thì đầy lòng kính nể và khâm phục đối với Mặt trận dân tộc giải phóng”.

        Nhiều báo của các tổ chức Đảng Cộng sản và công nhân ở các nước tư bản đều tỏ thái độ khâm phục với cuộc chiến đấu chống Mỹ của nhân dân ta qua sự kiện Tết. Báo Nhân đạo cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Pháp ngày 1 2-1968 đã ca ngợi: “Đây là cuộc tiến công lớn nhất của các lực lượng vũ trang giải phóng. Những người yêu nước miền Nam Việt Nam đã chứng to rằng ở khắp nơi, quyền chủ động đang thuộc về họ, họ có thể quyết định địa điểm, thời gian của các cuộc tiến công làm cho Bộ chỉ huy Mỹ luôn luôn bở hơi tai”.

        Các nước trong phe xã hội chủ nghĩa lúc đó thì vui mừng. Hầu như báo của nước nào trong ngày 31 tháng 1 và 1 tháng 2 cũng đăng bài biểu lộ niềm hân hoan trước thắng lợi của nhân dân ta. Tiêu biểu là tờ “Diễn đàn nhân dân Ba Lan”, báo có đoạn: “Các trận đánh táo bạo được chuẩn bị tốt của những người yêu nước miền Nam Việt Nam là sự phát triển của các cuộc tiến công trên một quy mô rộng lớn mà Quân giải phóng đãmở đầu trong tháng Giêng năm nay vào những lúc, ở những nơi và với hình thức mà họ lựa chọn. Quân giải phóng trên thực tế đã trói chân, khóa tay tất cả các lực lượng chiến đấu của quân thù trong khắp các tỉnh”.

        Qua một số sách báo Mỹ và nước ngoài nói về sự kiện Tết Mậu Thân 1968 có thể nhận thấy: dù ở góc độ nào, dưới con mắt của nhà chính trị, nhà sử học hay nhà báo, từ người dân bình thường đến các tướng lĩnh cao cấp thậm chí cả Tổng thống đương nhiệm của nước Mỹ lúc bấy giờ đều phải thừa nhận tác động to lớn của sự kiện Tết Mậu Thân 1968 đối với toàn bộ cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam. Điều này chứng tỏ tầm vóc và ý nghĩa sâu sắc của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1968 của quân và dân ta ở miền Nam. Nó đập tan những luận điểm sai trái và xua đi những nghi ngờ về thắng lợi của ta trong sự kiện lịch sử này.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #118 vào lúc: 21 Tháng Ba, 2017, 12:03:19 am »


NGHỆ THUẬT TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY

PTS PHẠM VĂN THẠCH       

        Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của nhân dân ta, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 là một sự kiện trọng đại. Nó để lại nhiều bài học quý báu, có giá trị lớn về lý luận và thực tiễn.

        Như chúng ta đã biết, do thất bại trong chính sách xâm lược thực dân mới thông qua chế độ cai trị độc tài phát xít của chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm và trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, Mỹ buộc phải chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ”, ồ ạt đưa quân Mỹ vào trực tiếp tham chiến trên quy mô lớn ở miền Nam, dùng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc - hậu phương lớn của cuộc kháng chiến. Đây là bước leo thang chiến tranh hết sức nguy hiểm của Mỹ với tham vọng đè bẹp cách mạng miền Nam trong một thời gian ngắn. Đứng trước tình thế hiểm nghèo này, Đảng ta đã bình tĩnh, sáng suốt phân tích, đánh giá toàn diện, sâu sắc chiến lược mới của Mỹ, những mặt mạnh và yếu của chúng, thế và lực của ta, từ đó hạ quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ chính xác, tạo nên sự nhất trí cao trong toàn Đảng, toàn quân toàn dân. Nhờ vậy, quân và dân ta đánh thắng quân Mỹ ngay từ khi chúng vừa đặt chân vào miền Nam. Đó là các trận Núi Thành, Vạn Tường, Đất Cuốc, Bầu Bàng, Plây Me... Chiến công chúng Mỹ ngay từ những trận đầu đã khẳng định khả năng có thể đánh và đánh thắng quân Mỹ của quân và dân ta. Điều đó có ý nghĩa hết sức quan trọng ở thời điểm đầu cuộc “đọ sức” trực tiếp giữa ta và quân Mỹ như chính các tướng lĩnh Mỹ, khì nói về trận Plây Me, đã cho là một trận đánh làm thay đổi chiều hướng của cuộc chiến tranh. Tuy nhiên, ở đây chúng ta mới đánh thắng quân Mỹ ở quy mô chiến thuật.

        Bước vào mùa khô 1965-1966 và 1966-196r/1 quân Mỹ tập trung lực lượng cùng với vũ khí, trang bị hiện đại liên tiếp rnở hai cuộc phản công chiến lược quy mô lớn vào miền Đông Nam Bộ và Trung Bộ nhằm “tìm diệt” chủ lực ta, “xóa sổ” cơ quan đầu não kháng chiến ở miền Nam, thực hiện mưu đồ giành thắng lợi quyết định, nhưng đều bị quân và dân ta đánh bại. Đây là thắng lợi lớn của ta. Chúng ta không những đánh thắng quân Mỹ ở quy mô chiến thuật mà cả ở quy mô chiến dịch.

        Có thể nói, đến giữa năm 1967, quân và dân ta đã giành những thắng lợi lớn liên tiếp, trận sau thắng lớn hơn trận trước và làm thất bại nghiêm trọng chiến lược “tìm diệt” của Mỹ. Địch bị thất bại nặng nề. Ta đang ở thế thắng, thế chủ động và có bước phát triển mới về thế và lực; địch ở thế thua, thế bị động. Tình hình đó làm cho giới cầm quyền ở Nhà trắng và Lầu năm góc phân hóa sâu sắc, tỏ ra giao động, lúng túng, ngập ngừng về chiến lược. Trong khi đó, cuộc bầu cử Tổng thống ở Mỹ đang đến gần, phong trào chống chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam ngay tại nước Mỹ và trên thế giới ngày càng cao. Chúng ở trong tình trạng “tiến  thoái lưỡng nan” cả về quân sự và chính trị. Nhạy bén nắm bắt, phân tích và đánh giá chính xác cục diện trên, Hội nghị Bộ Chính trị đầu tháng 12 năm 196’7 nhận định: “Chúng ta đang đứng trước những triển vọng và thời cơ chiến lược lớn” để “chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết định”. Muốn vậy, cần có một đòn đánh mạnh có ý nghĩa chiến lược làm thay đổi cục diện chiến tranh. Từ nhận định đó, Bộ Chính trị hạ quyết tâm chiến lược: “Động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định”.

        Hướng tiến công chiến lược chủ yếu là các thành thị, trung tâm đầu não của Mỹ-ngụy, trọng điểm là Sài Gòn – Gia Định, Huế, Đà Nẵng. Đêm 20 rạng ngày 21-1-1968, ta mở Mặt trận đường 9 -_Khe sanh nhằm nghi binh, thu hút, kìm chân một lực lượng quan trọng quân Mỹ, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, hỗ trợ cho hướng tiến công chiến lược chủ yếu nói trên.

        Đúng đêm giao thừa Tết Mậu Thân 1968 (ngày 30 - 31-1-1968) quân và dân ta đã mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt vào 4/6 thành phố, 37/46 thị xãvà hàng trăm thị trấn, các căn cứ quân sự, hậu cần, sở chỉ huy... lớn của địch trên toàn miền Nam.

        Bằng cuộc tiến công táo bạo, bất ngờ, ta đã đánh thắng vào các vị trí quan trọng nhất của Mỹ - ngụy như Đại sứ quán Mỹ, dinh Tổng thống ngụy, Bộ Tổng tham mưu, Tổng nha Cảnh sát ngụy, Đài phát thanh... ở Sài Gòn, tiến công, làm chủ thành phố Huế (25 ngày) và hầu khắp vùng nông thôn, tiêu diệt nhiều sinh lực, nhất là sinh lực cấp cao của địch, phá hủy một khối lượng lớn vũ khí, phương tiện chiến tranh của chúng. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thán 1968 đã giáng một đòn quyết định, làm phá sản chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ, làm rung chuyển nước Mỹ và lung lay ý chí xâm lược của giới cầm quyền Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh, phải “phi Mỹ hóa chiến tranh”, rồi ‘Việt Nam hóa chiến tranh” để từng bước rút quân Mỹ ra khỏi cuộc chiến.

        Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt, rộng khắp, trên quy mô lớn toàn miền Nam - lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thật sự là một đòn chiến lược giành thắng lợi quyết định, tạo ra bước ngoặt của cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta. Đó là một nét hết sức độc đáo, bước phát triển cao, rất sáng tạo của nghệ thuật chiến tranh nhân dân Việt Nam.

        Trong chiến tranh, yếu tố quyết định thắng lợi luôn luôn tùy thuộc vào so sánh lực lượng, thế và lực giữa hai bên tham chiến. Đó là một quy luật phổ biến trong bất cứ một cuộc chiến tranh nào. Dĩ nhiên, sức mạnh trong chiến tranh phụ thuộc vào nhiều yếu tố, điều kiện nhưng các yếu tố ấy, phải được thể hiện thành sức mạnh cụ thể để chiến thắng đối phương.

        Trong cuộc đụng đầu lịch sử với đế quốc Mỹ - một cường quốc tư bản hàng đầu thế giới có tiềm lực kinh tế, quân sự lớn hơn ta nhiều lần, Đảng ta cho rằng phải bằng bạo lực cách mạng bao gồm hai lực lượng: lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân; kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, ngoại giao; kết hợp khởi nghĩa của quần chúng với chiến tranh cách mạng, đánh địch trên cả ba vùng chiến lược: rừng núi, nông thôn đồng bằng và thành thị; đánh địch bằng ba mũi giáp công: quân sự, chính trị, binh vận; kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, kết hợp đánh lớn, vừa, nhỏ, thực hiện làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm chủ...  nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp đánh Mỹ, thắng Mỹ, từng bước làm chuyển biến cục diện chiến tranh, tiến lên giành toàn thắng. Phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng chính trị và vũ trang, cùng với các hình thức đấu tranh như trên, tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công, đấu tranh quân sự chính trị, ngoại giao gắn chặt với nhau, trở thành một quy luật trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.

        Tổng tiến công và nổi dậy với quy mô lớn, tính đồng loạt, nhằm vào các mục tiêu chiến lược có tác động lớn, có ý nghĩa bước ngoặt trong tiến trình và đối với kết cục của chiến tranh như thực tiễn chứng tỏ.

        Nghệ thuật tổng tiến công và nổi dậy đã được Đảng ta, quân và dân ta phát triển lên đỉnh cao nhất để giành toàn thắng trong mùa Xuân 1975. Đó là những vấn đề cần được nghiên cứu, đúc kết về lý luận nhằm làm phong phú thêm kho tàng tri thức quân sự và nghệ thuật quân sự độc đáo Việt Nam và vận dụng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xãhội chủ nghĩa ngày nay.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #119 vào lúc: 21 Tháng Ba, 2017, 12:09:41 am »


CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY MẬU THÂN 1968
(Tổng thuật qua tài liệu Mỹ)

Thiếu tướng NGUYỄN ĐÔN TỰ       

PHẦN I

BỐI CẢNH CUỐI NĂM 1967

        1.Tình hình quân sự:

        Số quân Mỹ đến tháng 12 năm 1967 ở Việt Nam: 485.600 tên.

        Theo Westmoreland, từ 1966 Mỹ đã thực hiện kế hoạch: lực lượng Sài Gòn tập trung bảo vệ vùng đông dân trong khi lực lượng Mỹ làm lá chắn để phía sau tiến hành công tác bình định. Lực lượng Mỹ hoạt động xa vùng dân cư để phát huy được hỏa lực và cơ động, chống lại các đơn vị chủ yếu của Bắc Việt Nam và quân giải phóng.

        Nhà sử học của lính thủy đánh bộ Mỹ - chuẩn tướng Edwin Simmonus bình luận: “Sự thật là chúng ta vi phạm nhiều nguyên tắc cơ bản của chiến tranh, chúng ta không có mục đích rõ ràng. Chúng ta không có thống nhất chỉ huy, không bao giờ có chủ động. Câu nói thông thường là “lực lượng phản ứng”, lực lượng của chúng ta chia rẽ và lộn xộn.  Do chúng ta không có một chiến lược rõ ràng nên phải tính thành tích bằng con số thống kê: ngày chiến đấu của tiểu đoàn, số ấp được kiểm soát, số chết qua “đếm xác”... Cuộc tranh cãi về chiến lược của Mỹ trong cuộc chiến tranh kéo dài. Đến giữa năm 1967, cuộc họp cấp cao nhất ở Honolulu đã không xác định được chiến lược và cũng không quyết định được vấn đề gì có tầm chiến lược, ngoài việc bàn về ngăn chặn tiếp tế tử Bắc vào Nam.

        Cuộc chiến tranh bằng không quân mà Mỹ đặt nhiều hy vọng đã không đạt được các mục tiêu đề ra: không phá được tiềm lực của miền Bắc (còn được viện trợ gấp bốn lần mức bị thiệt hại), không chặn được tiếp tế vào miền Nam, không phát huy được trong chiến đấu ở vùng rừng núi, trong khi đó lại bị chiến tranh nhân dân Việt Nam đánh cho thiệt hại nặng, đến tháng 11 năm 1967 đãmất hơn 1.000 máy bay trị giá hơn 6 tỷ đô-la. Quyết tâm chống Mỹ của lãnh đạo Việt Nam không hễ bị lay chuyển.

        Ở miền Nam, quân giải phóng vẫn chủ động trong các trận đánh, tức là chủ động về địa điểm và thời gian tác chiến, đánh rồi rút, không chủ trương giữ đất. Từ giữa năm 1967, ta chỉ có một số trận đánh ở Làng Vây, Hải Lăng, Cồn Tiên phía nam khu phi quân sự; Đắc Tô ở Tây Nguyên đánh Lộc Ninh, Sông Bé giáp Cam-pu-chia. Đầu tháng 1 năm 1968 hoạt động rộ lên ở Khe Sanh, địch cho ta có đến 4 sư bộ binh và 2 trung đoàn pháo ở quanh khu vực này. Đây là cơ hội để Mỹ phát huy cao độ lực lượng không quân pháo mặt đất và pháo hạm. Như vậy chỉ trận Đắc tô Khe Sanh cỡ sư đoàn, còn là các trận nhỏ, ở dọc biên giới. Địch có các cuộc hành quân Persing ở Tam Quan và Bình Định, phản ứng mạnh ở Đắc Tô và Khe Sanh. Chúng cho rằng lực lượng ta lùi về Cam-pu-chia, biên giới Lào và khu phi quân sự, chứng tỏ là khả năng chiến đấu giảm sút do bị thiệt hại nhiều. Đại sứ Mỹ Ellsworth Bunker, tướng Westmoreland, Robert Komer phụ trách chương trình bình định, đều gây ấn tượng cho mọi người là quân giải phóng đang thua trận, quân Mỹ đã đẩy lùi được họ ra vùng rừng núi ở biên giới.

        2. Đánh giá sự thất bại của quân giải phóng và mức độ nào thì phải chịu thua.

        Theo tính toán của Tình báo quân đội Mỹ (DIA) và ủy ban tình báo quốc gia thì cộng sản có thể kéo dài chiến tranh vô thời hạn nếu bị thiệt hại dưới 3,265 người một tuần. Trong khi đó, con số thống kê năm 1966 thì bình quân cao nhất một tuần theo MACV là 2,460. Nếu tính bình quân quý I năm 1967 thì đạt mức rất cao là 3,696 người/tuần. Nếu đạt được con số bình quân đó cả năm 1967 thì số hụt của cộng sản là 431 người/tuần thì cũng phải 10 năm mới diệt hết họ. Số thiệt hại gồm bị chết, bị bắt, đào ngũ. Theo điều tra của ngành thống kê thì số “đếm xác” thường được tăng 50%, số người đào ngũ được tăng gấp đôi. Hơn nữa cứ tính 6 người chết mới thu được một khẩu súng thì nhiều người chết không phải là lính mà là cư dân hoặc người qua đường. Do đó, có thể thấy con số thống kê về lực lượng vũ trạng của quân giải phóng bị thiệt hại là quá phóng đại.  Quân đội Mỹ không có khả năng định chỉ tiêu nâng mức thiệt hại của quân giải phóng vì chủ động tấn công không thuộc về quân Mỹ. Westmoreland lại đang chứng tỏ với Tổng thống Johnson và nước Mỹ là đang thắng cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Vậy tổng số lực lượng của cộng sản ở miền Nam là bao nhiêu, Westmoreland báo cáo số quân địch ở miền Nam là 285.000, số tiêu hao lớn hơn số bổ sung. Nhưng Samuel Adams chuyên viên phân tích của CIA, với những tài liệu mới bắt được thì số Việt cộng là 600.000 người, không phải như con số của tham mưu liên quân là 271.000 người. Đại tá Gains B.Hawkms phụ trách theo dõi các đơn vị Việt cộng trong cơ quan tình báo của Westmoreland cho rằng số quân V.C là 500.000 người: Wheeler tham mưu trưởng liên quân điện cho Westmoreland không được công bố cho báo chí con số “nghiên cứu’ trên. Westmoreland cũng chỉ thị cho cơ quan là không được báo cáo về Mỹ, vì con số đó sẽ là một “quả bom chính trị”.

        Tranh cãi giữa CIA và DIA kéo dài hàng tuần. DIA được lệnh giữ con số khoảng 300.000. Tháng 9-1967 George Carver được phái đi Sài Gòn gặp Komer, lúc này là đại diện cá nhân của Tổng thống, hàm đại sứ. Komer cho là không nên tính du kích và dân quân vào quân cố định vì loại này chất lượng thấp, chỉ làm nhiệm vụ từng thời gian, phần lớn không có súng. Quân đội Mỹ không có loại lực lượng này, vả lại trình độ của họ thấp không đe dọa lực lượng Mỹ. Nên con số được chấp nhận là 299:OOO người. Tháng 10-1967, đại sứ Bunker điện cho Walt Rostows, cố vấn an ninh, là nên loại số 120.000 du kích vì dễ gây ra những lộn xộn và rắc rối. Lúc này Rostows đang phụ trách “ủy ban chiến lược tâm lý” ở Nhà trắng nhằm giới thiệu chiến tranh Việt Nam càng thuận lợi càng tốt nên chấp nhận ngay.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM