Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 02:27:35 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Tết Mậu Thân 1968 - Bước ngoặt lớn của cuộc KCCM cứu nước  (Đọc 29149 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #50 vào lúc: 08 Tháng Ba, 2017, 10:43:52 pm »


        Tại các huyện vùng ven như Hương Trà, Hương Thủy, Phú Vang, lực lượng vũ trang được sự hỗ trợ của quần chúng nhân dân đánh chiếm các mục tiêu vòng ngoài của địch, bức rút đồn bốt, gọi hàng và làm tan rã lực lượng dân vệ truy quét bọn ác ôn và tay sai ngoan cố, mở rộng vùng giải phóng xung quanh Huế.

        Trong khi đó, trên các hướng phối hợp, các đơn vị vũ trang Trị - Thiên nổ súng tiến công, hỗ trợ cho quần chúng nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ ở nhiều vùng nông thôn.

        Ở hướng Phú Lộc, ta đánh chiếm quận lỵ, phá sập cầu Hai, cầu Nước Ngọt và một số cầu cống khác, tiếp tục chặn cắt đường số 1 - đoạn từ Đà Nẵng ra Huế trong nhiều ngày, thực hiện đúng kế hoạch của Quân khu giao cho. Đồng thời, trên hướng này, quân ta bao vây các đồn An Bằng, Thừa Lưu, giải phóng khu vực xung yếu ven biển, khu vực phía Nam cầu Hai và khu vực Ruồi.

        Ở hướng Phong Điền, Quảng Điền, lực lượng vũ trang Mặt trận 6 cắt đứt tuyến đường Phú Ốc - Sịa, bao vây quận lỵ Sịa của huyện Quảng Điền, buộc địch rút bỏ khu vực vùng đồng bào công giáo Thanh Lương. Hơn 3.000 quần chúng huyện Hương Điền bao vây uy hiếp quận ly Phò Trạch.

        Ở Quảng Trị, mặc dù địch bố trí lực lượng phòng thủ khá dày đặc (Trước ngày ta nổ súng tiến công, địch tăng tiếp tới khu vực Quảng Trị 2 tiểu đoàn kỵ binh không vận Mỹ và 6 tiểu đoàn quân đội Sài Gôn nhằm củng cố khả năng phòng thủ thị xã quan trọng này) nhưng đêm 30 rạng ngày 31 tháng 1, ta đánh mạnh vào phía Đông Nam thị xã, tiêu diệt 1 tiểu đoàn quân Sài Gòn ở khu vực Tri Bưu, đánh tiêu hao nặng 1 tiểu đoàn khác đến phản kích suốt ngày 31 tháng 1. Cùng đêm, một bộ phận quân ta bí mật vượt dòng Thạch Hãn, đột nhập vào bên trong đánh chiếm ty Cảnh sát, dinh Tỉnh trưởng, nhà máy Đèn. Tuy nhiên, cả 2 mũi tiến công của quân ta đều bị địch chặn đánh quyết liệt, không tiếp tục phát triển được. Trong khi đó, các mũi đánh vào La Vang Thượng, La Vang Trung, Cầu Lớn cũng không dứt điểm. Vì thế đêm 31 tháng 1, toàn bộ lực lượng ta phải rút ra bên ngoài thị xã.

        Tại Quân khu 6, chiều ngày 8 tháng 1 năm 1968, Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu mới được truyền đạt chủ trương Tổng công kích - tổng khởi nghĩa và đến chiều ngày 29 tháng 1 mới nhận được lệnh nổ súng tiến công vào giao thừa Tết Mậu thân. Mọi mặt chuẩn bị phải gấp rút hoàn thành trong một khoảng thời gian quá ngắn. Dù vậy, với quyết tâm cao và niềm tin mãnh liệt vào thắng lợi, 0 giờ ngày 1 tháng 2 năm 1968, lực lượng vũ trang Khu 6 đã nổ súng tiến công thị xã Phan Thiết - tỉnh ly ven bờ biển miền Trung, có số dân 50.000 người, nổi tiếng với nghề làm nước mắm truyền thống. Do đánh chậm hơn các nơi khác nên ở đây địch đã kịp đề phòng. Nhưng phía tiến công vẫn đột kích sâu, đánh chiếm phần lớn tòa Hành chính tỉnh và một số cơ quan tiểu khu, làm chủ khu vực Nhà ga và xung quanh đồn Trịnh Tường; phát động nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ hầu hết các phường Ơ tả ngạn dòng sông Ca Ty chia đôi thị xã.

        Tại Đà Lạt, lực lượng vũ trang Khu 6 đã đánh mạnh vào Bộ chỉ huy tiểu khu, Tỉnh đoàn bảo an, dinh Tỉnh trưởng, Nhà lao, tòa Thị chính, ty Cảnh sát, khu vực Nhà ga, trường Chiến tranh chính tri, sân bay Cam Ly... Sáng ngày 1 tháng 2, Quân giải phóng đã làm chủ nhiều khu vực trong thị xã. Dựa vào đó, quân ta tiếp tục phát triển tiến công và đánh địch phản kích trong hơn 10 ngày.

        Sài Gòn - Gia Định là trọng điểm thứ nhất của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân. Tại thành phố rộng lớn này, để bảo vệ trung tâm chính trị , quân sự và kinh tế của chế độ Sài Gòn; bảo vệ các cơ quan chỉ huy đầu não của bộ máy chiến tranh Mỹ, ngụy, địch bố trí nhiều loại lực lượng và phương tiện chiến tranh, hình thành nhiều tuyến phòng thủ vững chắc.

        Đến cuối năm 1967, ở vòng ngoài, trên hướng Tây Bắc, ngoài căn cứ Đồng Dù với sư đoàn 25 và 2 lữ đoàn quân Mỹ, địch còn bố trí sư đoàn bộ binh 25 ngụy, nhiều tiểu đoàn biệt động quân và một số đại đội bảo an. Trên hướng Bắc, có căn cứ Lai Khê của sư đoàn 1 bộ binh Mỹ cùng sư đoàn 5 ngụy và hàng chục tiểu đoàn biệt động quân. Khi cần thiết, hướng này còn được lực lượng của trung đoàn 11 thiết giáp Mỹ ở Bàu Trai, Bến Cát hỗ trợ.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #51 vào lúc: 08 Tháng Ba, 2017, 10:45:14 pm »


        Ở hướng Đông và Đông Bắc, ngoài quân dù Mỹ ở Biên Hòa, địch còn bố trí các đơn vị quân Nam Triều Tiên (đóng ở Dĩ An), quân Úc (đóng ở Long Bình) và sư đoàn 18 nguỵ (đóng ở Xuân Lộc). Bảo vệ hướng Nam có lực lượng dù, lính thủy đánh bộ ngụy và các đơn vị hải quân ngụy. Ngoài ra, một bộ phận thuộc sư đoàn bộ binh 9 quân Mỹ hoạt động ở phía Tiền Giang và phía bắc sông Hậu cũng là lực lượng sẵn sàng tiến về bảo vệ phía Nam Sài Gòn.

        Vòng trong, ngoài lực lượng bảo vệ trị an của biệt khu Thủ đô và các đơn vị cảnh sát dã chiến, địch còn bố trí một số tiểu đoàn, đại đội quân Mỹ và ngụy ở sân bay Tân Sơn Nhất, ở các trại : Đống Đa, Hoàng Hoa Thám, Quang Trung...

        Ngoài ra, trên các ngả đường dẫn vào thành phố, ở các vùng ven, tại các khu phố, mạng lưới tình báo, gián điệp, mật vụ cùng hệ thống bốt canh, trạm kiểm soát của địch giăng khắp mọi nơi...

        Để tiến công và nổi dậy tại trung tâm đầu não của Mỹ, ngụy, trong phương án đề ra, Trung ương Cục, Bộ chỉ huy Miền chủ trương sử dụng toàn bộ lực lượng của Đoàn F.100 (Tháng 6 năm 1965, Khu ủy và Quân khu ủy Sài Gòn - Gia Định quyết định thành lập Đoàn biệt động F.100 với nhiệm vụ bí mặt chuẩn bị để có thể, khi được lệnh, tập kích cùng một lúc các cơ quan đầu não trung ương của địch tại Sài Gòn - Gia Định) và biệt động các cánh, các ngành bất ngờ đánh chiếm 9 mục tiêu để trong một thời gian ngắn, làm tệ liệt sự đề kháng của địch; chốt chân giữ vững các "đầu cầu” để chờ các tiểu đoàn mũi nhọn và lực lượng thanh niên sinh viên đến tiếp ứng, đặng mở rộng phạm vi kiểm soát, phát động nhân dân vùng dậy khởi nghĩa. Trong khi đó, các sư đoàn, trung đoàn chủ lực chặn đánh địch ở vòng ngoài, nhằm kìm chân địch, không để chúng kéo vào cứu nguy trong nội đô; đồng thời sẵn sàng kéo vào thành phố khi được lệnh.

        Tại đây, cũng như nhiều nơi trên chiến trường, do đánh chậm, trước giờ quân ta nổ súng tiến công, địch đã tăng cường đề phòng. Vì thế, trên các ngã ba, ngã tư đường phố, địch đã bố trí các xe Jép có gắn đại liên phòng vệ và các đội tuần tra cơ động trên đường. Các đơn vị chiến đấu Mỹ được đặt trong tư thế sẵn sàng chiến đấu cao nhất... Mặc dù vậy, 2 giờ sáng ngày 31 tháng 1 năm 1968, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy ở Sài Gòn - Gia Định vẫn bắt đầu.

        Ngay từ phút nổ súng đầu tiên, trong thành phố, các đại đội biệt động trang bị gọn nhẹ đã lập tức đồng loạt và bất ngờ đánh vào các mục tiêu quy định: dinh Độc Lập, Bộ tổng tham mưu ngụy, Bộ tư lệnh Hải quân ngụy, sân bay Tân Sơn Nhất, Đài phát thanh, tòa Đại sứ Mỹ, Đại sứ quán Phi-líp-pin1 (Lực lượng đánh vào tòa Đại sứ Phi-líp-pin là các chiến sĩ thuộc Ban An ninh Thành ủy Khu Sài Gòn - Gia Định và tự vệ của Thành đoàn. Mục tiêu của trận đánh là bắt Nguyễn Văn Thiệu nhưng vì cơ sở nội thành báo sai địa điểm; cho rằng tòa nhà trên đường Trương Minh Giảng là nhà riêng của Nguyễn Văn Thiệu nhưng thực ra, đó là tòa Đại sứ phi-líp-pin). Tuy nhiên, các mục tiêu khác, như: Tổng nha cảnh sát, Biệt khu thủ đô, Khám Chí Hòa..., ta không đánh được vì các đội biệt động đã bị địch ngăn chặn trên đường hành quân. Lực lượng vũ trang của các ban, ngành, đoàn thể như các đội tự vệ, biệt động của Thành đoàn, Thanh niên, Công đoàn, Hoa vận, Phụ nữ... hoạt động rộng khắp, đánh các bốt cảnh sát, truy diệt ác ôn ở phường Bến Đá, phường Bàn Cờ... Ở những nơi và trên những hướng có lực lượng vũ trang Quân giải phóng tiến công, khí thế cách mạng của quần chúng dấy lên khá mạnh mẽ, sôi nổi. Nhân dân đã giúp bộ đội chiến đấu dưới nhiều hình thức như dẫn đường, tiếp tế lương thực, tải thương, cứu chữa và nuôi giấu thương binh, treo cờ Mặt trận, dựng chướng ngại vật trên đường phố cản địch phản kích, tham gia truy bắt ác ôn... Nhiều nơi, nhân dân trực tiếp phối hợp chiến đấu với bộ đội, vận động con em gia nhập Quân giải phóng. Trong khi đó, lực lượng dân quân du kích đẩy mạnh các hoạt động võ trang tuyên truyền ở vùng ven, phối hợp với bộ đội địa phương tiến công vào nhiều mục tiêu trong các thị trấn, quận ly, chi khu...
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #52 vào lúc: 09 Tháng Ba, 2017, 08:40:28 am »


        Đồng thời với hoạt động của biệt động, các tiểu đoàn mũi nhọn của các phân khu cũng mở các cuộc tiến công vào những mục tiêu quy định. Trên hướng Đông và Đông Bắc thành phố, các đơn vị thuộc Phân khu 4 và Phân khu 5 đánh địch trên đường 13, khu vực Bình Triệu, xa lộ Biên Hòa, ngã tư Hàng Xanh... Ở hướng Tây Nam, các tiểu đoàn mũi nhọn Phân khu 2 phối hợp với Trung đoàn bộ binh 16 và lực lượng đặc công tiến công sân bay Tân Sơn Nhất, chiếm hãng dệt VINATEXCO, trụ bám đánh địch phản kích ở khu vực cầu Tham Lương. Tiểu đoàn mũi nhọn mang tên "Tiểu đoàn 6 Bình Tân" trên đường tiến vào mục tiêu Biệt khu Thủ đô đã tiêu diệt trại cảnh sát dã chiến cạnh trường đua Phú Thọ, đánh địch ở ngã tư đường Nguyễn Văn Thoại, làm chủ trường Nữ quân nhân, kiểm soát một khu vực rộng lớn từ chùa Từ Nghiêm đến chùa Ấn Quang - có 4 đại lộ bao quanh là đại lộ Nguyễn Tri Phương, đại lộ Trần Quốc Toản, đại lộ Lý Thái Tổ, đại lộ Minh Mạng1. Ở hướng Nam, các tiểu đoàn mũi nhọn Phân khu 3 xuất phát từ các bàn đạp vùng ven Long Càng, Long Định, Hiệp Phước, Phước Lại, rạch Bà Tàng tiến vào nội thành, đánh chiếm khu vực Phú Định, Lò Gốm, chợ Thiếc, cầu Nhị Thiên Đường, phường Bến Đá, phường Hùng Thái, phường Đa Phước... Ở hướng Bắc và Tây Bắc, lực lượng vũ trang Phân khu 1 đánh chiếm Bộ chỉ huy thiết giáp ngụy ở trại Phù Đổng, chiếm một phần Bộ chỉ huy pháo binh ngụy ở trại Cổ Loa, căn cứ tiểu đoàn pháo binh ở trại Nỏ Thần, căn cứ 80 quân cụ, căn cứ 60 truyền tin. Tiếp đó, tiểu đoàn 1 bộ binh thuộc Trung đoàn “Quyết Thắng" phát triển tiến công về hướng ngã năm Bình Hòa, ngã ba Cây Thị. Trong lúc đó, tiểu đoàn mũi nhọn Gò - Môn cùng một bộ phận đặc công trên đường thọc vào Bộ tổng tham mưu ngụy, bị lạc hướng, phải tìm đường theo sự chỉ dẫn của nhân dân mới đến được mục tiêu tác chiến. Vì vậy, sáng mồng hai Tết, (tức 7 giờ ngày 31 tháng 1)2, Tiểu đoàn mới nổ súng đánh chiếm cổng số 4 Bộ tổng tham mưu ngụy. Cùng thời gian trên, một bộ phận Trung đoàn 1 thuộc Sư đoàn 9 chủ lực Miền tiến công trung tâm huấn luyện Quang Trung, đánh địch ở vùng Tân Thới Trung, Thới Trung Thôn, Trung Mỹ Tây, Xuân Thới Thượng.

        Xung quanh Sài Gòn-Gia Định, một loạt các căn cứ quân sự trụ sở của quân đội và chính quyền Sài Gòn ở Biên Hòa, Bình Dương, Hậu Nghĩa, Long An... cũng bị tiến công.

        Xa hơn về phía Nam Sài Gòn là vùng đồng bằng châu thổ mênh mông. Đây là vựa lúa lớn của miền Nam Việt Nam, một địa bàn chiến lược trọng yếu đối với ta và địch. Trước Tết, cơ quan phụ trách “bình định" và các cố vấn Mỹ đã từng tuyên bố lạc quan về tình hình an ninh tại các tỉnh đồng bằng đông dân cư này. Thế nhưng, đêm 31 tháng 1 rạng sáng ngày 1 tháng 2 và những ngày tiếp sau, lực lượng vũ trang Quân giải phóng (hầu hết là lực lượng vũ trang địa phương) đã tiến công vào 13 trong số 14 thị xã và nhiều quận lỵ, thị trấn, căn cứ quân sự và hệ thống đồn bốt của chính quyền, quân đội Sài Gòn trên toàn vùng. Cuộc tiến công và nổi dậy của quân và dân các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long đã làm cho Mỹ, ngụy càng thêm bối rối trong khi chưa kịp định thần trước việc Huế, Sài Gòn và một loạt các đô thị bị tiến công; Khe Sanh - đường 9 đang bị bao vây, uy hiếp...

        Đòn tiến công bất ngờ, mãnh liệt vào đô thị đã buộc Mỹ, ngụy phải co lực lượng từ các nơi về cứu nguy, bỏ ngỏ vùng nông thôn. Nắm vững thời cơ này, lực lượng vũ trang tại chỗ đã hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ ở nhiều nơi, giải phóng nhiều vùng nông thôn rộng lớn.

----------------------
        1. Sách Cuộc Tổng công kích - tổng khởi nghĩa Tết Mậu thân... của Bộ Tổng tham mưu Quân đội Việt Nam cộng hòa ghi: "Người ta thấy địch (Quân giải phóng), tấn công vào khu vực này là một khu vực đông dân cư lao động và là nơi có chùa Ấn Quang từng xuất phát các cuộc xuống đường chống chính phủ, nhằm để nhen nhóm lên một cuộc nổi dậy của nhân dân phát xuất từ đây lan tràn vào đô thị". tr.54.

        2. Một số cuốn lịch sử địa phương như Miền Đông Nam Bộ kháng chiến - Nxb Quân đội nhân dân, H, 1993; Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu thân - Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1988, ghi rằng: mãi ngày 1 tháng 2, Tiểu đoàn 2 Gò Môn mới tới cổng số 4 Bộ tổng tham mưu ngụy. Thế nhưng một số văn bản khác như tài liệu nội bộ của Viện Lịch sử quần sự Việt Nam: Hướng tiến công Sài Gòn-Gia Định (1968) lại ghi sáng 31 tháng 1, tiểu đoàn này đã có mặt và nổ súng đánh vào cổng 4 Bộ Tổng tham mưu. Đối chiếu với tài liệu của Ban quân sử thuộc Bộ tổng tham mưu Quân đội Sài Gòn, chúng tôi cho rằng: sáng 31 tháng 1, Tiểu đoàn 2 Gò - Môn đã đến được cổng 4 Bộ tổng tham mưu ngụy là chính xác.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #53 vào lúc: 09 Tháng Ba, 2017, 08:47:22 am »


        Bị tiến công rộng khắp ở thành thị và nông thôn, thoạt đầu, địch lúng túng chống đỡ. Nhưng ngay sau đó, chúng nhanh chóng lấy lại bình bĩnh, điều động lực lượng, tổ chức phản kích. Cuộc giao tranh nhằm giành quyền kiểm soát các khu vực mục tiêu trọng yếu diễn ra quyết liệt ở các đô thị trên phạm vi toàn Miền. Trong cuộc chiến đấu đó phía Mỹ, ngụy chiếm ưu thế về quân số, vũ khí, hỏa lực. Để đánh bật các đơn vị Quân giải phóng ra khỏi các mục tiêu đang chiếm giữ, lực lượng phản kích, ngoài số quân áp đảo, đã đem vào sử dụng cả các loại vũ khí hạng nặng như xe tăng, đại bác, chất độc hóa học và không quân. Bom đạn Mỹ đã san bằng nhiều khu phố, phá hoại nhiều nhà cửa, giết hại nhiều dân thường ở các thành phố lớn như Sài Gòn, Huế; ở các thị xã Mỹ Tho, Bến Tre, Vĩnh Long, Cần Thơ, Phan Thiết... và một loạt các thị trấn, quận lỵ khác1. Vì thế, từ đầu cuộc phản công của địch, cuộc chiến đấu trong đô thị đã diễn ra rất ác liệt do địch chiếm ưu thế về quân số và hỏa lực. Cho dù bộ đội ta đã chiến đấu anh dũng, giành giật quyết liệt với địch từng ngôi nhà, từng góc phố; gây cho chúng nhiều tổn thất về sinh lực và phương tiện chiến tranh,... nhưng, phía ta cũng bị tiêu hao nặng. Cuộc chiến tuy ác liệt, bom đạn rền trời, nhưng đòn công kích quân sự của ta chưa đủ mạnh để làm chỗ dựa chắc chắn cho phong trào nổi dậy của quần chúng, nên không diễn ra khởi nghĩa ở các đô thị như lường tính ban đầu. Trước tình hình đó, sau khi chiếm giữ các mục tiêu một thời gian, đánh lui nhiều đợt phản kích của địch, lực lượng chiến đấu trong nhiều đô thị của ta đã phải rút ra vùng ven củng cố và bổ sung quân số, giữ bàn đạp tiến công.

        Riêng mặt trận Sài Gòn - Gia Định, cuộc chiến đấu trên đường phố, ở vùng ven kéo dài nhiều ngày và rất quyết liệt. Ngay từ sáng sớm ngày 31 tháng 1, địch điều tiểu đoàn dù số 1 ngụy giải tỏa Đài phát thanh, tiểu đoàn dù số 8 giải tỏa Bộ tổng tham mưu, tiểu đoàn dù số 6 giải tỏa sân bay Tân Sơn Nhất. Liên đoàn biệt động 5 gồm 4 tiểu đoàn trấn đóng trên vòng cung Thủ Đức - Nhà Bè - Bình Chánh - Hóc Môn được điều gấp vào nội thành Sài Gòn. Trong ngày 31 tháng 1, thêm 3 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ ngụy được không vận từ Vũng Tàu và Cai Lây (Định Tường) về Sài Gòn. Những ngày tiếp theo, thêm nhiều đơn vị Mỹ và ngụy tiếp tục được điều tới mặt trận Sài Gòn - Gia Định2.

        Với lực lượng tăng viện nhanh và ngày càng nhiều, phía Mỹ và quân đội Sài Gòn liên tiếp mở nhiều cuộc phản kích giải tỏa các khu vực nằm trong tay Quân giải phóng. Trong các ngày từ 31 tháng 1 đến 4 tháng 2, nhiều trận đánh ác liệt tiếp diễn trên đường phố Sài Gòn.

        Tại khu vực dinh Độc Lập, 15 chiến sĩ biệt động3do đồng chí Trương Hoàng Thanh chỉ huy, sau khi dùng thuốc nổ phá tung cánh cửa sắt, đã vấp phải hỏa lực bắn chặn của quân canh giữ, không phát triển tiến công được vào bên trong dinh, phải bám bậc thềm phía ngoài chiến đấu. Sáng ra, địch tăng viện, có cả xe bọc thép yểm trợ. Tiểu đoàn mũi nhọn và lực lượng sinh viên tiếp ứng không tới được các chiến sĩ biệt động buộc phải lùi ra phía ngoài, triển khai đội hình chiến đấu trên đường Nguyễn Du. Cuộc chiến đấu không cân sức. Tám chiến sĩ bị hy sinh. Số còn lại bị rơi vào tay địch.

---------------------
        1. Việc phía Mỹ cố ý sử dụng ồ ạt hỏa lực trong các đô thị miền Nam dịp Tết Mậu thân..., đã được nhiều phóng viên báo chí và vô tuyến truyền hình lúc đó phản ánh. Ngày 7 tháng 2 năm 1968, Hãng thông tấn AP đã phát bài của nhà báo Mỹ Pi-tơ Ác-nét. Bài báo có đoạn viết: “Đến mức nào thì anh nã súng đại bác bắn phá và gọi máy bay phản lực ném bom các khu phố trong thị xã anh? Đến lúc nào thì việc gây thương vong cho dân thường trở thành một việc mà anh không cần bận tâm đến làm gì? Người ta đã trả lời cho máy câu hỏi đó ngay trong mấy giờ đầu của các trận đánh giành thị xã Bến Tre trước đây là một thị xã thanh bình có 35.000 dân trên bờ sông Cửu Long. Một thiếu tá Mỹ nói: Cần phải phá hủy thị xã để bảo vệ nó". Hãng tin Roi-tơ ngày 10 tháng 2 năm 1968 kể lại lời một sĩ quan cao cấp Mỹ: "Anh có thể kiểm tra sự thiệt hại theo tỉ lệ trực tiếp với hỏa lực. Như vậy tức là phía Mỹ đúng là đã gây ra cảnh tàn phá nhiều hơn. Phía Mỹ có khả năng đánh sập cả một khu phố bằng máy bay để tìm bắt một vài Việt cộng lẩn trốn. Ngược lại, Việt cộng đánh lén vào thành thị cho nên họ cố gàng càng ít gây ra tiếng động càng hay". Cần nói thêm rằng, việc Mỹ sử dụng không hạn chế hỏa lực dịp Tết Mậu thân dù có giúp cho Mỹ giành lại quyền kiểm soát các đô thị từ tay đối phương đi chăng nữa thì bản thân hành động đó lại là một trong số những bằng chứng biểu hiện sự thất bại của Mỹ về mặt chính trị trong dịp Tết Mậu thân nói riêng, trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam nói chung.

        2. Hãng thông tấn AFP ngày 3 tháng 2 năm 1968 đưa tin cho biết ở Sài Gòn lúc đó có chừng 3.500 Quân giải phóng, còn phía Mỹ và quân đội Sài Gòn có tới 500.000 quân gồm 15 tiểu đoàn Mỹ, 18 tiểu đoàn ngụy, 34.000 cảnh sát dã chiến.

        3. Tác giả Hồ Sĩ Thành, trong cuốn Biệt động - những chiến công bất tử (Nxb Trẻ, 2002), ghi rằng, đánh vào dinh Độc Lập gồm 17 chiến sĩ của đội biệt động 5.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #54 vào lúc: 10 Tháng Ba, 2017, 09:43:09 am »


        Tại khu vực Bộ tư lệnh hải quân, ta gặp khó khăn ngay từ đầu. 16 chiến sĩ biệt động do đồng chí Nguyễn Văn Lém (Bảy Lốp) chỉ huy chiến đấu quyết liệt; 14 bị hy sinh và 2 bị bắt ngay trong dêm 30 rạng ngày 31 tháng 1 giữa vòng vây quân thù. Đồng chí Bảy Lớp bị bắt và bị kẻ thù sát hại ngay sau đó.

        Ở khu vực Bộ tổng tham mưu nguỵ, cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt trong các ngày 31 tháng 1 và 1 tháng 2. Cụm biệt động 679 gồm 27 tay súng; sau khi đánh chiếm cổng số 5 và cổng Phi Long, vì lực lượng ít, địch đông nên không thể lọt vào bên trong được. Trời sáng, địch điều thêm lực lượng và xe bọc thép phản kích. Dựa vào các tòa nhà trên đường Trương Quốc Dung, các chiến sĩ biệt động đánh trả kiên cường, loại khỏi vòng chiến hàng trăm tên, bắn cháy 2 xe bọc thép. Nhưng phía ta cũng bị tổn thất và hết đạn. 2 giờ chiều ngày 31 tháng 1, các chiến sĩ còn lại buộc phải rút lui. Trong khi đó, ở cổng số 4 Bộ tổng tham mưu ngụy, Tiểu đoàn 2 Gò - Môn đến chậm, mãi đến 7 giờ sáng ngày 31 tháng 1 mới nổ súng tiến công. Do đánh chậm, yếu tố bất ngờ không còn. Dù vậy, một bộ phận lực lượng Tiểu đoàn 2 Gò - Môn vẫn còn lọt được vào phía trong chiếm trường Sinh ngữ quân đội Sài Gòn. Trong ngày 31 tháng 3, địch tăng viện tới khu vực này 3 tiểu đoàn quân dù và lính thủy đánh bộ, mở nhiều đợt phản kích. Trực thăng vũ trang của địch bắn phá ồ ạt xuống những khu vực mà chúng tình nghi là quân ta chiếm giữ, làm hư hại nặng trường Sinh ngữ, trường Tổng quản trị, trung tâm Huấn cụ và các khu vực kế cận. Sáng ngày 1 tháng 2, lực lượng còn lại của Tiểu đoàn 2 Gò - Môn rút khỏi khu vực cổng số 4 Bộ tổng tham mưu. Trên đường rút lui Tiểu đoàn bị thương vong nặng; khi về tới căn cứ, từ 500 chiến sĩ, Tiểu đoàn chỉ còn lại 28 người!

        Tại khu vực Đài phát thanh Sài Gòn, 12 chiến sĩ biệt động và 2 phục vụ viên sau 3 phút chiến đấu mưu trí đã chiếm đài loại khỏi vòng chiến đấu trung đội bảo vệ của địch. Tuy nhiên, do thiếu nhân viên kỹ thuật và vì địch có kế hoạch dự phòng nên ta không sử dụng được đài phát thanh như trù liệu. Ngay sau khi bị mất Đài phát thanh, địch tổ chức phản kích nhanh và quyết liệt. Chúng sử dụng cả trực thăng vũ trang và xe tăng yểm trợ cho quân phản kích. Cuộc chiến không cân sức. Lực lượng biệt động bị thương vong toàn đội; chỉ còn lại 2 nhân viên kỹ thuật lánh được khỏi vòng vây.

        Tại tòa đại sứ Mỹ, 17 chiến sĩ biệt động do đội trưởng Ngô Thành Vân (Ba Đen) chỉ huy, sau khi lọt vào phía trong đã nhanh chóng đánh chiếm từ tầng 1 đến tầng 3. Phân đội cảnh vệ Mỹ chống trả quyết liệt nhưng không đẩy lùi được cuộc tấn công. 7 giờ sáng ngày 31 tháng 1, một trung đội quân cảnh Mỹ mới lọt được vào cổng chính. Kịch chiến xảy ra trong khu vườn Sứ quán. Địch dùng máy bay lên thẳng định đổ quân lên nóc tòa Sứ quán nhưng bị hỏa lực mặt đất bắn lên dữ dội. Phía dưới, các chiến sĩ biệt động chiến đấu đến người cuối cùng. 9 giờ ngày 31 tháng 1, địch chiếm lại toàn bộ khu vực Sứ quán giữa ngổn ngang gạch vụn và xác người. Địch thương vong 124 tên. Đội trưởng Ngô Thành Vân bị bắt.

        Tại nhiều nơi khác, các tiểu đoàn mũi nhọn của các phân khu cũng đã chiến đấu quyết liệt trước lực lượng địch phản kích có quân số áp đảo, lại được trọng pháo, xe thiết giáp, máy bay ném bom chiến thuật và trực thăng vũ trang chi viện hỏa lực ồ ạt. Chiến sự diễn ra ác liệt tại các khu vực: ngã năm Bình Hòa, ngã ba Cây Thị (hướng Phân khu 1); tại khu vực hãng dệt VINATEXCO, cầu Tham Lương, cầu Tre phía Tây sân bay Tân Sơn Nhất và các khu vực đường Trần Quốc Toản, thợ Thiếc, trường đua Phú Thọ, trường Nữ quân nhân, đường Nguyễn Văn Thoại, chùa Ấn Quang, đường Nguyễn Tri Phương, đường Triệu Đà, đường Lê Đại Hành, cư xá Lữ Gia, đường Nguyễn Kim... (hướng Phân khu 2); khu vực nhà Hội đồng, cầu số 3, kho gạo Bình Đông, cầu Nhị Thiên Đường, phường Bến Đá, phường Hùng Thái, khu vực Phú Định, Lò Gốm, hãng rượu Bình Tây, đường Hậu Giang, cầu Tân Quy... (hướng Phân khu 3); khu vực Hàng Xanh, Cầu Sơn, Phú Cường, Cù lao Bình Qưới... (Phân khu 4 và Phân khu 5). Tại các khu vực này, Quân giải phóng đã bám trụ từng cao ốc, từng hẻm phố, từng ngả đường, từng ngôi nhà, từng mô đất... quần lộn với địch, đánh bật nhiều đợt phản kích của chung ở một số nơi, các chiến sĩ Quân giải phóng đã đưa súng đại liên đặt trên tầng thượng các tòa cao ốc để đón đánh máy bay địch và khống chế khu vực xung quanh các tòa cao ốc đó...
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #55 vào lúc: 10 Tháng Ba, 2017, 09:46:50 am »


        Trong khi chiến sự diễn ra quyết liệt tại đô thành Sài Gòn, Bộ chỉ huy Miền đã nhanh chóng và kịp thời sử dụng một số đơn vị bộ đội chủ lực Miền, mở gấp một loạt trận đánh ở vòng ngoài để hỗ trợ.

        Sư đoàn 5 đánh vào sân bay Biên Hòa, khu kho Long Bình, sở chỉ huy dã chiến số 2 của quân Mỹ, Bộ tư lệnh quân đoàn 3 ngụy. Tiếp đó, một bộ phận lực lượng sư đoàn tổ chức chốt chặn ở khu vực ngã ba Tam Hiệp thuộc thị xã Biên Hòa.

        Sư đoàn 7 tiến công sở chỉ huy sư đoàn 5 ngụy tại Bến Cát, tập kích các cụm quân thuộc sư đoàn 1 bộ binh "Anh cả đỏ” và căn cứ của trung đoàn thiết giáp số 11 Mỹ ở khu vực Phú Giáo.

        Sư đoàn 9 giao chiến với lữ đoàn 1, sư đoàn 25 bộ binh “Tia chớp nhiệt đới" ở Củ Chi...

        Các trận đánh trên đây đã có tác dụng ghìm chân một bộ phận quan trọng chủ lực Mỹ, ngụy, không cho chúng tăng viện cho Sài Gòn. Tuy nhiên, do chủ trương bảo toàn lực lượng, các sư đoàn, trung đoàn chủ lực Miền vẫn không tiến vào nội đô. Vì thế, lực lượng chiến đấu trong thành phố trở nên đơn độc, bị bao vây bốn mặt, bị hao tổn nặng nề: 80% chiến sĩ biệt động bị hy sinh và bị bắt, 50% lực lượng các tiểu đoàn mũi nhọn bị thương vong; một số tiểu đoàn khi rút ra chỉ còn lại 1/5, 1/10 quân số1. Cơ sở nội thành bị bộc lộ và tổn thất nhiều... Trước tình hình đó, lực lượng chiến đấu trong thành phố được lệnh rút ra ngoại ô.

        Từ giữa tháng 2 năm 1968, vùng ven đô trở thành chiến trường nóng bỏng, nơi diễn ra các cuộc giao tranh quyết liệt giữa ta và địch nhằm chiếm giữ các khu vực bàn đạp tiến công vào nội đô Sài Gòn.

        Từ đây, trên toàn chiến trường, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân sau những ngày bùng lên mạnh mẽ, đã giảm dần. Riêng mặt trận phía Bắc, chiến sự vẫn diễn ra ác liệt tại đường 9 - Khe Sanh và Huế.

        Tại đường 9 - Khe Sanh đêm 6 và ngày 7 tháng 2, Sư đoàn 304 chủ lực miền Bắc nổ súng đánh chiếm làng Vây - cứ điểm mạnh trong hệ thống phòng thủ khu vực đường 9 của địch, mở rộng bàn đạp nhằm đến ngày 8 tháng 2 tổ chức vây hãm căn cứ Tà Cơn. Đến ngày này, pháo binh ta bắn khống chế sân bay trong căn cứ này của địch. Song, máy bay lên thẳng Mỹ vẫn hạ cánh được. Vì thế, từ ngày 15 tháng 2, ta chuyển sang chiến thuật vây lấn, toan áp dần vào cứ điểm địch. Ở phía tây sân bay Tà Cơn, mũi vây lấn của ta đã xuyên được vào giữa các lớp hàng rào (cách chiến hào địch một tầm súng bộ binh). Các mục tiêu bên trong căn cứ địch đã bắt đầu bị uy hiếp bằng hỏa lực bắn thẳng và chịu sự khống chế của pháo binh ta. Tất cả những chiến thuật ta áp dụng xung quanh căn cứ Tà Cơn vào tháng 2 năm 1968 dường như là sự áp dụng lại chiến thuật mà ta đã dùng ở Điện Biên Phủ năm xưa...

        Tuy nhiên, do tình hình nóng bỏng ở Mặt trận Huế và do áp lực của ta ở đường 9 - Khe Sanh chưa đủ mạnh nên Bộ chỉ huy quân sự Mỹ (M.A.C.V) chưa thể tăng viện lớn cho khu vực đường 9 - Khe Sanh. Thay vì bằng việc sử dụng bộ binh, địch đã phải dùng hỏa lực pháo binh, máy bay - kể cả B.52, đánh phá dữ dội khu vực bao quanh căn cứ Tà Cơn suốt ngày đêm nhằm làm giảm áp lực vây hãm của ta.

        Tại Huế, sau những ngày đầu tiến công và nổi dậy giành thắng lợi vang dội, lực lượng ta ở cả hai cánh chuyển sang đánh địch phản kích. Cánh Bắc - phía tả ngạn sông Hương, do ta không chiếm được đồn Mang Cá và khu vực sân bay Tây Lộc, không chia cắt và ngăn chặn được địch ở hướng Bao Vinh nên địch có điều kiện tăng cường lực lượng vào Mang Cá và Tây Lộc, dựa vào đó để phản kích vào khu vực thành nội và nhiều nơi khác. Ở cánh Nam, địch phản kích đánh bật lực lượng ta ra khỏi nhiều mục tiêu, buộc ta phải lùi ra tuyến ven sông An Cựu, Vân Dương và vùng Long Thọ. Tại đây, các đơn vị cánh Nam lại cố gắng tổ chức các trận tập kích sâu vào một số mục tiêu trong thành phố. Như vậy, trên thực tế, từ ngày 5 tháng 2, lực lượng cánh Nam đã rút khỏi nội thành, ra trụ bám ở vùng ven.

        Từ ngày 7 tháng 2, 14 tiểu đoàn chủ lực Mỹ, ngụy với sự chi viện hỏa lực ồ ạt của không quân, pháo binh và xe tăng mở các đợt phản kích nhằm chiếm lại khu vực phía bắc thành phố - phía tả ngạn sông Hương. Tiếp đó, thêm nhiều đơn vị chủ lực địch được tung vào mặt trận này; đưa tổng số có mặt tại Huế lên 23 tiểu đoàn chủ lực Mỹ, ngụy (trong đó có 15 tiểu đoàn chủ lực Mỹ). Ngoài ra, sư đoàn 1 kỵ binh không vận Mỹ chiếm đóng phía bắc và tây bắc Huế nhằm ngăn chặn sự tăng viện của ta. Không quân Mỹ dội bom vào các mục tiêu do quân ta chiếm giữ, tàn phá nhiều nhà cửa và công trình kiến trúc của cố đô Huế.

--------------------
        1. Dẫn theo Miền Đông Nam Bộ kháng chiến (1945-1975), T2, Nxb Quân đội nhân dân, H, 1997, tr.339, 340.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #56 vào lúc: 10 Tháng Ba, 2017, 09:57:18 am »


        Để phối hợp cùng toàn Miền, ta tăng cường lực lượng vào khu vực Thành Nội, kiên quyết giữ vững những mục tiêu đang chiếm giữ. Ở vùng ven, ta mở các trận tiến công địch ở Nam Giao, Long Thọ, Tam Thai, cầu Bến Ngự, cầu Lò Rèn, Đập Đá, Vĩ Dạ, An Cựu... nhằm buộc địch phải phân tán lực lượng đối phó, hỗ trợ cho lực lượng chiến đấu trong nội thành.

        Từ ngày 9 tháng 2, giao tranh nổ ra tại nhiều nơi trong thành phố. Những trận đánh ác liệt tiếp diễn Ơ khu vực Phú Văn Lâu, cửa Đông Ba, đồn Mang Cá, đài phát thanh Huế... Tại Đông Ba, cửa Hữu, cửa An Hòa, cửa Thượng Tứ..., ta và địch giành giật nhau từng căn phố, từng khu vườn, từng khúc đường, từng bãi trống... Địch bị thiệt hại nặng nhưng ta cũng bị hao tổn nhiều.

        Phối hợp chiến đấu với chủ lực Quân giải phóng, du kích và bộ đội địa phương đẩy mạnh các hoạt động tiến công địch rộng khắp. Đội tự vệ khu phố Gia Hội được thành lập ngay trong những ngày Tổng tiến công và nổi dậy, đã hăng hái, dũng cảm chiến đấu, bắn cháy một số tàu chiến địch trên sông Hương. Ở khu vực chợ Cống - Vân Dương, tiểu đội du kích gồm 11 cô gái Hương Thủy trụ bám địa bàn, phối hợp cùng các chiến sĩ Tiểu đoàn 10 (Đoàn 5) đánh địch phản kích, diệt hơn trăm tên Mỹ và bắn cháy 5 xe tăng... Tiểu đội du kích 11 cô gái Hương Thủy còn được biết đến với cái tên Tiểu đội 11 cô gái sông Hương. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có thơ khen:

                                    Dõng dạc tay cầm khẩu súng trường
                                    Khôn ngoan bày trận khắp trong phường
                                    Bác khen các cháu dân quân gái
                                    Đánh giặc Huê Kỳ phải nát xương


        Liệt sĩ Phạm Thị Liên - người phụ trách tiểu đội sau này đã được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

        Ngày 21 tháng 2, sau nhiều lần phản kích, địch dồn ta về phía An Hòa. Ở khu vực Thành Nội, chúng chiếm thêm cửa Thượng Tứ, dồn ta về khu vực phía Tây Thành. Trước tình hình đó, để bảo toàn lực lượng, tránh bị bao vây, ngày 22 tháng 2, Khu ủy Trị - Thiên và chỉ huy mặt trận Huế quyết định rút toàn bộ lực lượng tác chiến trong thành phố ra ngoài1. Từ ngày 23 tháng 2 đến ngày 25 tháng 2, các đơn vị chủ lực, đặc công, biệt động, bộ đội địa phương, dân quân du kích, thương bệnh binh đã chủ động, bí mật lần lượt rút ra vùng giải phóng Phú Vang và vùng căn cứ miền núi Trị - Thiên.

        Trên toàn Miền, đêm ngày 17 rạng ngày 18 tháng 2, quân và dân ta đồng loạt tiến công bằng bộ binh, pháo binh vào 47 thành phố, thị xã, quận ly, thị trấn và nhiều căn cứ quân sự địch. Ở các tỉnh Định Tường, Kiến Hòa, Châu Đốc, Phan Thiết... bộ binh ta đánh sâu vào một số mục tiêu trong thị xã. Ở Sài Gòn, mặc dù lực lượng quân sự địch đã tràn ngập trong nội đô và đánh phá quyết liệt ở vùng ven nhưng lực lượng vũ trang ta vẫn thực hiện được một loạt trận tấn công nhằm vào các mục tiêu trong nội thành như: Trụ sở Bộ chỉ huy quân sự Mỹ (M.A.C.V), Bộ tư lệnh quân dù ngụy, Tổng nha cảnh sát, Nha cảnh sát đô thành Biệt khu thủ đô, Trung tâm ra đa Phú Lâm, Nhà máy Đèn chợ Quán, khu cư xá Mỹ... Liên tiếp trong các ngày 17, 21, 24 tháng 2, pháo binh ta đã nã đạn vào sân bay Tân Sơn Nhất, khu kho xăng An Nhơn - Gò Vấp... Ở vùng ngoại vi, ta tấn công Nhà Đèn Thủ Đức, khu hậu cần Rạch Chiếc, cầu Bình Lợi, khu huấn luyện quân sự Trung Hòa, trung tâm huấn luyện Quang Trung, căn cứ Đồng Dù, chi khu quân sự Bình Chánh, thị trấn Hóc Môn; chặn đánh địch hành quân càn quét ở Vĩnh Lộc, Tân Thới Trung, Hóc Môn, Bà Điểm...

---------------------
       1. Thượng tướng Trần Văn Quang - nguyên Tư lệnh Quân khu Trị Thiên - Huế trong tham luận tại Hội nghị khoa học do Bộ Quốc phòng Quân đội nhân dân Việt Nam tổ chức tháng 3 năm 1986 cho biết, khi quyết định rút lực lượng khỏi nội thành Huế, Khu ủy và Bộ tư lệnh quân khu Trị - Thiên "chỉ nghĩ làm sao bảo toàn được các đơn vị chiến đấu (các trung đoàn 3, 6, 9, 1 và các đơn vị đặc công, biệt động, bộ đội địa phương) không bị địch bao vây, tiêu diệt. Ngoài ra, không còn nghĩ được biện pháp nào để bảo toàn cơ sở quần chúng, không kịp nghĩ gì đến phương châm, phương pháp đấu tranh, càng không nghĩ được là sau khi rút ra phải làm gì và làm thế nào; ngoài việc lo sao cho bộ đội không bị đói". Xem thêm: Trần Văn Quang: Huế - 25 ngày đêm. Tạp chí Lịch sử quân sự trích đăng, số tháng 2 năm 1988.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #57 vào lúc: 11 Tháng Ba, 2017, 05:07:16 am »


        Tiếp đó, ngày 25 tháng 2, bộ binh và pháo binh ta tiến công tỉnh lỵ Long Xuyên và một số thị trấn, quận lỵ trên toàn miền Nam; tăng cường áp lực phía Tây và Tây Bắc Sài Gòn - vùng Phú Thọ Hòa và Hóc Môn. Đêm 5 tháng 3, nhiều quận ly, thị trấn và một số thị xã lại bị tấn công bằng pháo cối và bộ binh. Tuy nhiên, từ tháng 3 năm 1968 trở đi, áp lực của ta xung quanh các đô thị giảm dần. Trên thực tế, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân đã kết thúc.

        Sau "Tết Mậu thân", lực lượng tiến công vào các đô thị của ta rút ra vùng ven hoặc rút về hậu cứ để củng cố. Trong lúc đó, quân Mỹ và quân ngụy Sài Gòn dốc sức mở các cuộc hành quân quy mô lớn hòng đẩy lực lượng ta ra xa các vùng ven đô thị, các căn cứ quân sự và hậu cần, các đầu mối giao thông huyết mạch, giải tỏa áp lực xung quanh các khu vực quan trọng này1 (Từ giữa tháng 3 năm 1968, Mỹ, ngụy tập trung 50.000 quân mở chiến dịch mang tên "Quyết thắng" trên địa bàn 5 tỉnh Gia Định, Long An, Biên Hòa, Bình Dương, Hậu Nghĩa. Xa hơn về phía Nam, địch mở chiến dịch "Trương Công Định" ở vùng Hậu Giang. Tại khu vực giới tuyến quân sự tạm thời, tại Táy Nguyên, tại Quáng Nam, Quảng Ngãi..., Mỹ, ngụy mở nhiều chiến dịch càn quét, đánh phá ác liệt cơ sở cách mạng và vùng làm chủ, vùng giải phóng của ta). Cùng với các cuộc hành quân giải tỏa đó, Mỹ, ngụy đã liên tiếp mở các cuộc hành quân càn quét nhằm triệt phá cơ sở cách mạng của ta ở nội đô và vùng ven đô. Trong các cuộc hành quân đó, chúng đã sử dụng ồ ạt bom đạn triệt hạ nhiều làng mạc nhằm lập vành đai trắng xung quanh các đô thị và các căn cứ1; thẳng tay tàn sát nhiều người dân vô tội hòng gây nỗi khiếp sợ trong nhân dân miền Nam Việt Nam2. Cần lưu ý thêm ở đây rằng, con số chính xác số người bị quân Mỹ tàn sát ở Sơn Mỹ là 501 người, trong đó có 173 trẻ em và 182 phụ nữ. Nhưng thực ra, không phải chỉ sau "Tết Mậu thân" mà ngay từ những nam trước, quân đội Mỹ đã tiến hành nhiều vụ thảm sát dân thường vô tội ở miền Nam Việt Nam (trong khi không quân và hải quân Mỹ dội bom xuống nhiều khu vực dân cư, trường học, bệnh viện, nhà thờ, chùa chiền... trên miền Bắc Việt Nam). Gần đây hành động thảm sát vô nhân tính ngày ấy của quân Mỹ đã bị một số tờ báo Mỹ đưa ra ánh sáng. Ví như, tờ “Lưỡi dao cạo" (The Blade) ngày 19 tháng 10 năm 2003 đã khởi đăng một loạt phóng sự và ảnh điều tra xung quanh các vụ thảm sát thường dân Việt Nam mà đơn vị đặc nhiệm Mỹ có tên là "Lực lượng mãnh hổ (Tiger Force) thuộc sư đoàn kỵ binh bay số 101 Mỹ tiến hành trong khoáng thời gian từ tháng 5 đến tháng 11 năm 1967 tại các địa phương thuộc Quảng Ngãi và Tây Nguyên. Dựa trên một bản báo cáo được giải mật dài 22 trang của Bộ quốc phòng Mỹ và sau hơn 8 tháng điều tra, nhóm phóng viên của tờ "Lưỡi dao cạo" cho biết: đơn vị "Lực lượng mãnh hổ” gồm 45 binh sĩ Mỹ đã thực hiện nhiều vụ thảm sát thường dân trước khi xảy ra vụ Mỹ Lai. Đơn vị này được thành lập từ tháng 2 năm 1967 theo lệnh của Oét-mo-len. Trong một thời gian ngắn, đơn vị này đã giết hại dã man hàng trăm phụ nữ, trẻ em và người già không một tấc sắt trong tay, chôn sống họ trong những hố chôn tập thể. Tàn ác hơn, những tên lính trong đơn vị này còn cắt tai nạn nhàn làm vòng đeo cổ, cạy răng lấy vàng hay tra tấn tàn bạo họ. Con số nạn nhân của "lực lượng mãnh hổ" hiện nay chưa ai tính được, song nhóm phóng viên điều tra dẫn lời một cựu lính quân y trong đơn vị này cho biết, ông ta đã tính được có tới 120 người bị sát hại trong một tháng).

----------------------
        1. Việc Mỹ dùng một khối lượng lớn bom đạn đánh xuống các vùng ven đô thị đã được báo chí Mỹ và phương Tây ngày đó ghi nhận. Chỉ riêng xung quanh Sài Gòn - Gia Định, trong vòng 9 ngày đầu tháng 6 năm 1968, "máy bay B.52 đã thực hiện 166 phi vụ (...) nhằm ngăn chặn Việt cộng tập trung" (Hãng tin AP, ngày 21 tháng 6 nam 1968). Để hiểu rõ hơn mức độ tàn phá của bom đạn do máy bay B.52 rải thảm, cũng cần nhắc lại rằng: "Mỗi chiếc B.52 có đủ bom để trải xuống thành một hình chữ nhật dài 1.000 mét, ngang 100 mét. Thấy kết quả khả quan nên số phi vụ B.52 tại Nam Việt Nam được thực hiện ngày một tàng; trong nửa cuối năm 1965, mỗi tuần có 50 phi vụ; năm 1966, số phi vụ hàng tuần là 100; đầu năm 1967, mỗi tuần có 186 phi vụ và bây giờ (tháng 8 năm l968) thì mỗi tuần có 350 phi vụ. (Thời báo Niu-Oóc ngày 26 tháng 8 năm 1968). Ngay từ tháng 6 năm 1968, tướng Mỹ Abram - người thay Oét-mo-len làm tư lệnh Bộ chỉ huy quân sự Mỹ tại Sài Gòn - đã tuyên bố: "Sẽ cho B.52 ném thật nhiều bom đến mức (...) chỉ cần phái một đội tuần tra không vũ trang đi xa với những quyển sổ tay để ghi kết quả" (Hãng tin AP, ngày 29 tháng 6 năm 1968).

        2. Điển hình là vụ thảm sát Sơn Mỹ - vùng ven thị xã Quảng Ngãi, ngày 16 tháng 3 năm 1968. Tập sách ảnh Nhật Bản "Việt Nam: cách mạng và tháng lợi, ghi lại vụ thảm sát này như sau: ngày 16 tháng 3 năm 1968, xã Sơn Mỹ, tỉnh Quảng Ngãi bị quân Mỹ triệt hạ, tàn sát một lúc 500 thường dân. Lúc đó, quân Mỹ dùng mọi loại máy bay sẵn có chia làm bốn tầng bay trên bầu trời Sơn Mỹ. Bay thấp dưới 300 mét là máy bay lên thằng vũ trang bắn chết tất cả những "Việt cộng" định thoát ra khỏi xã. Trên 800 mét là máy bay chở sĩ quan tư lệnh quân cơ động, chỉ huy trận đánh. Trên 800 mét là máy bay sư đoàn trưởng quan sát trận đánh. Sự tàn bạo lên đến cực điểm khi quân Mỹ coi những cuộc hành quân đó như một trò chơi thể thao. Nó làm chúng ta phần nỗ tới mức không thể nào tả nổi" (Dẫn theo Viện lịch sử Đảng, Hội đồng biên soạn lịch sử Nam Trung Bộ kháng chiến: Nam Trung Bộ kháng chiến (1945-1975), H, 1992, tr.403.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #58 vào lúc: 11 Tháng Ba, 2017, 05:11:53 am »


        Ngoài ra, Mỹ - ngụy còn tăng cường các biện pháp khủng bố, kìm kẹp bằng nhiều thủ đoạn như: bắt giam những nhân vật đối lập - những người đã từng ra tranh cử tổng thống với Thiệu, Kỳ hồi năm ngoái; thành lập "Mặt trận cứu nguy dân tộc" do Trần Văn Đôn cầm đầu; đưa việc “phòng vệ dân sự" lên thành "quốc sách", xem đó là một trong những biện pháp chủ chốt để chống lại mọi cuộc tiến công của Quân giải phóng và mọi cuộc nổi dậy của nhân dân; thanh lọc các cơ quan hành chính; phát "thư tố cáo" cho từng nhà, từng người để khuyến khích việc giám sát lẫn nhau trong nhân dân, khuyến khích nhân dân "tố cáo Việt cộng" hoặc tố cáo binh lính ngụy bỏ trốn cho chính quyền Sài Gòn...

        Thông qua những biện pháp quân sự trên chiến trường miền Nam kết hợp với việc tập trung không quân, hải quân đánh phá dữ dội vùng đất "cán xoong" từ bắc vĩ tuyến 17 đến nam vĩ tuyến 20 nhằm ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho cách mạng miền Nanh, Mỹ hy vọng sẽ trấn an được dư luận trong nội bộ nước Mỹ và giành thế mạnh trên bàn Hội nghị Pa-ri.

        Về phía ta, sau "Tết Mậu thân", nhằm "đẩy địch vào thế thất bại liên tiếp, ngày càng suy yếu, tan rã, không sao gượng dậy được"1, làm cho chúng "thất bại trên chiến trường, thất bại ở các thành thị lớn và thất bại ở ngay nước Mỹ"2, theo đề nghị của lãnh đạo, chỉ huy một số chiến trường3, Bộ Chính trị Trung ương Đảng chủ trương mở tiếp các đợt tiến công và nổi dậy mặc dù lực lượng ta bị tổn thất chưa kịp bổ sung và trong điều kiện địch đã tăng cường bảo vệ xung quanh đô thị. Tuy nhiên, khác với đợt Tết Mậu thân - đợt mà các lực lượng vũ trang ta được lệnh “đánh theo yêu cầu”; trong hai đợt tháng 5 và tháng 8 năm 1968, lực lượng vũ trang ở các chiến trường được lệnh “đánh theo khả năng hiện có".

        Thực hiện chủ trương đó, lúc vào 0 giờ 30 phút ngày 5 tháng 5 năm 1968, quân và dân ta trên khắp chiến trường đã đồng loạt tiến công bằng bộ binh và pháo binh vào 31 thành phố, thị xã, 58 thị trấn, quận lỵ; đánh trúng 10 bộ tư lệnh quân đoàn và sư đoàn, 30 sân bay, 20 căn cứ xuất phát hành quân và trung tâm huấn luyện quân sự của địch. Trong đợt này, chiến sự diễn ra quyết liệt ở trọng điểm Sài Gòn - Gia Định và khu vực đường 9 - Khe Sanh.

        Ở Sài Gòn - Gia Định, trước cuộc tiến công, lực lượng quân sự địch dồn về đây lên tới 200.000 tên gồm quân Mỹ và quân Sài Gòn (60 tiểu đoàn). Bên cạnh đó, chúng tập trung hàng nghìn xe tăng, xe bọc thép; hàng trăm máy bay lên thẳng vũ trang đêm ngày quần đảo, lùng sục trên dịa bàn vùng ven... Hơn nữa, trước ngày mở màn đợt 2, Phó chính ủy Phân khu 1 T.V.Đ đã đầu hàng, chạy sang phía bên kia chiến tuyến. Dù vậy, Thường vụ Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền vẫn giữ vững quyết tâm ban đầu, không thay đổi mục tiêu tiến công và ngày, giờ nổ súng như đã định. Mở đầu cuộc tiến công, pháo binh ta bắn phá mãnh liệt sân bay Tân Sơn Nhất, Sứ quán, các khu nhà ở của đại sứ Mỹ, dinh Độc Lập, tân cảng Sài Gòn, bộ tư lệnh Hải quân, tổng nha Cảnh sát, Biệt khu thủ đô; đặc công và biệt động tập kích đài vô tuyến truyền hình, cầu Phan Thanh Giản; chủ lực Miền và các tiểu đoàn mũi nhọn cùng bộ đội địa phương đánh sâu vào trung tâm thành phố, chiếm giữ ngã tư Bảy Hiền, trường đua Phú Thọ, quận lỵ Gò Vấp, cầu Chữ Y, bốt cảnh sát Quận 8, cầu Bình Lợi, cầu Bình Hòa... Phối hợp với các lực lượng chiến đấu trong nội thành, ở ngoại vi Sài Gòn, bộ đội ta khống chế nhiều ngả đường dẫn vào thành phố, pháo kích vào một số kho tàng, sân bay, tiến công các đơn vị Mỹ, ngụy, đánh vào các thị trấn và quận lỵ địch. Mỹ, ngụy chống trả quyết liệt, tổ chức các cuộc phản kích quy mô lớn. Mặc dù chiếm ưu thế về quân số và hỏa lực yểm trợ nhưng Mỹ, ngụy không dễ dàng đánh bật được các lực lượng tiến công ra khỏi những mục tiêu đang bị chiếm giữ. Chiến sự tại khu vực trường đua Phú Thọ, cầu Tre, cầu Chữ Y, bến Phạm Thế Hiển, đường Minh Phụng diễn ra đặc biệt ác liệt trong một số ngày.

        Tại mặt trận đường 9 - Khe Sanh, ta tăng thêm lực lượng, đánh bại các cuộc hành quân giải tỏa của Sư đoàn ky binh không vận số 1 Mỹ và 4 tiểu đoàn ngụy, xiết chặt vòng vây xung quanh căn cứ Tà Cơn, dồn địch lâm vào tình thế có thể bị tiêu diệt hoàn toàn...

--------------------------
        1. Nghị quyết Bộ Chính trị, tháng 4 năm 1968.

        2. Nghị quyết Bộ Chính trị, tháng 8 năm 1968.

        3. Sau đợt 1 Tết Mậu thân, đồng chí Lê Trọng Tấn - Phó Tư lệnh Bộ chi huy Miền được cử ra Hà Nội trực tiếp báo cáo với Bộ Chính trị và xin được mở đợt 2 vào Sài Gòn. Sau đợt 2, Mặt trận Quảng Đà và một số mặt trận khác đề nghị tiếp tục mở đợt 3.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #59 vào lúc: 11 Tháng Ba, 2017, 08:08:26 am »


        Trước tình hình đó, Bộ chỉ huy quân sự Mỹ buộc phải rút bỏ Khe Sanh nhằm bảo toàn lực lượng (tháng 6 năm 1968) - sau khi đã bị hao tổn 17.000 quân và hàng trăm máy bay khiến cho tuyến phòng thủ đường 9 của địch đã bị đập vỡ ở một khâu trọng yếu. Đó là một thất bại nặng nề về quân sự và chính trị của Mỹ, chứng tỏ quân Mỹ không thể đứng vững được ở tuyến phòng thủ vòng ngoài trước đòn tiến công của chủ lực miền Bắc Việt Nam1.

        Sau đợt tiến công tháng 52, quân và dân ta trên chiến trường đã mở tiếp đợt tiến công tháng 8. Trong đợt này, ta sử dụng pháo binh là chủ yếu đánh vào một mục tiêu ở 27 thành phố, thị xã và 100 thị trấn, quận lỵ, chi khu quân sự địch.

        Đợt tiến công tháng 5 và tháng 8 năm 1968 bồi tiếp đòn nặng vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, gây cho chúng những tổn thất nặng nề về sinh lực và phương tiện chiến tranh, buộc Mỹ phải cử đại diện tới Pa-ri trong tư thế bị suy yếu hơn trước.

        Về phía ta, do tiến công và nổi dậy liên tục, kéo dài, trên quy mô rộng lớn, lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị của ta trong năm 1968 đã bị tổn thất nặng nề: 111.306 cán bộ, chiến sĩ đã anh dũng hy sinh và bị thương, hàng vạn quần chúng cách mạng đã ngã xuống. Riêng ở Nam Bộ, "thương vong của ta trong năm này cao hơn số thương vong của các năm từ 1961 đến 1970 cộng lại"3.

        Mặt khác, trong khi dồn sức tấn công vào đô thị hết đợt này đến đợt khác, ta đã bỏ hở vùng nông thôn đồng bằng. Lợi dụng tình hình này, địch tung quân đẩy bật các đơn vị chủ lực của ta ra xa các đô thị và căn cứ quân sự; đồng thời, tiến hành "bình định cấp tốc", ra sức càn quét và tranh chấp quyết liệt những vùng chúng vừa bị mất, đặc biệt là vùng ven Sài Gòn, đồng bằng sông Cửu Long, duyên hải Khu 5 và Trị - Thiên. Từ tháng 11 năm 1968, địch mở các "chiến dịch Phượng Hoàng"4 nhằm “tiêu diệt chính quyền bí mật của Việt cộng" mà chúng tin chắc là “đã có những Uỷ ban cách mạng hoạt động trong 17 tỉnh, 5 thành phố và 2.541 xã"5 trên toàn miền Nam. Với nỗ lực và thủ đoạn mới, lại biết lợi dụng kịp thời sự sơ hở của ta ở nông thôn đồng bằng, từ giữa năm 1968 trở đi, địch dần dần líp lại được hầu hết những khu vực đã mất trong các đợt Tổng tiến công và nổi dậy tháng 2, tháng 5 năm 1968; khôi phục các tuyến giao thông quan trọng. Từ đây kéo dài tới các năm 1969, 1970, thế trận chiến tranh nhân dân trên cả ba vùng chiến lược bị sa sút, cách mạng miền Nam gặp nhiều khó khăn và thử thách nặng nề...

        Tình hình trên đây khiến cho từ nhiều năm qua, đã có không ít bài viết đề cập tranh luận khá gay gắt xung quanh sự kiện "Tết Mậu thân" và việc mở các đợt tiến công tháng 5 và tháng 8 năm 1968. Nhiều người khi nhìn lại cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân 1968 đã không khỏi bị tình cảm chi phối nặng nề . Đây chính là vấn đề nổi cộm trong các hội nghị khoa học, trên các trang viết về “Tết Mậu thân", không ít người dè dặt khi tìm hiểu về đề tài này. Một số khác khi xem xét "Tết Mậu thân" đã nhận thấy sự kiện lịch sử đó đã "không tạo được một bước phát triển đi lên của chiến tranh cách mạng miền Nam, không thay đổi được cục diện chiến trường có lợi cho ta; mà làm cho cục diện xấu hơn năm 1968. Cũng có thể nói rằng nó đã tạo nên một bước tạm thời đi xuống của cục diện chiến trường miền Nam"46. Cũng đã có tác giả cho rằng: trong và sau Tết Mậu thân, "lực lượng kháng chiến của ta lâm vào tình trạng hết sức khó khăn. Cách mạng miền Nam đi vào thời kỳ đen tối"47. Sau hơn 20 năm nhìn lại, đồng chí Lê Đức Thọ đã đặt ra câu hỏi về sự cần thiết của việc mở cuộc Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa Tết Mậu thân và cho rằng cái giá mà ta phải trả cho thắng lợi "Tết Mậu thân" là “đắt quá"!48.
   
        Xét về mặt khoa học, những nhìn nhận và sự tranh luận trên đây là cần thiết, góp phần làm rõ hơn về một sự kiện lịch sử "quan trọng nhất và phức tạp nhất" của cuộc chiến tranh kéo dài, diễn ra trên quy mô rộng lớn và với cường độ vô cùng khốc hệt, và không vì thế mà làm giảm đi tầm giá trị đã đi vào lịch sử như một CỘT MỐC LỚN, ghi dấu BƯỚC NGOẶT LỚN của sự kiện này trên chặng đường dài 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân trên cả hai miền Nam Bắc vì nền độc lập, tự do và sự vẹn toàn, thống nhất đất nước.

-----------------------
       1. Việc Bộ chỉ huy quân sự Mỹ buộc phải rút bỏ Khe Sanh để tránh bị tiêu diệt đã được dư luận thế giới ngày đó bình luận sôi nổi. Đài phát thanh BBC ngày 30 tháng 6 năm 1968 nhận định: “Việc rút lui Khe Sanh không phải đơn giản bỏ rơi một yếu điểm, mà là bỏ rơi một ảo tưởng và một chính sách. Tất cả nỗ lực của Hoa Kỳ dựng lên đã tan ra tro như những pháo đài xi măng cốt sắt ở Khe Sanh". Còn trước đó, ngày 27 tháng 6 năm 1968, Hãng tin AP viết: "Việc quân Mỹ rút khỏi Khe Sanh là một thất bại đối với Mỹ. Các quan chức cao cấp của Mỹ ở Hoa Thịnh Đốn và Sài Gòn đã từng nói phải bảo vệ căn cứ này bằng bất cứ giá nào, thậm chí nhiều người phát ngôn của lính thủy đánh bộ Mỹ còn nói: "Nếu chúng ta rút khỏi Khe Sanh thì liệu chúng ta dừng lại ở đâu? Trên biển Nam Hải chắc?".

        2. Trong tham luận Ghi nhớ về xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện đòn tiến công chiến lược Mậu thân 1968 đăng trong kỷ yếu hội thảo khoa học (năm 1998), Thượng tướng Lê Ngọc Hiền - nguyên Phó Tổng tham mưu trưởng, Cục trưởng Cục Tác chiến Bộ Tổng Tham mưu cho biết: Sau đợt 2, vào khoảng tháng 6 năm 1968, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương đã chính thức xác nhận phải chuyển hướng tiến công chiến lược từ thành phố về nông thôn, rừng núi "cho dù chủ trương đó không thể hiện ra thành nghị quyết hoặc quyết định chính thức (vấn đề này được ghi trong biên bản cuộc hội ý của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt)". Cũng trong bài viết này, tác giả chỉ ra: "Trên thực tế sau đợt 3, đã không còn có đợt 4, đợt 5 tổng công kích - tổng khởi nghĩa vào đầu năm 1969 nữa. Tuy thế, để nghi binh, lừa địch trong khi chủ lực ta đã chuyển về địa bàn nông thôn, rừng núi cũng như để phục vụ cho công tác tuyên truyền đối ngoại, phục vụ cho đấu tranh ngoại giao... ta đã bằng nhiều cách “tạo cảm giác" tiếp tục đẩy mạnh các đợt tổng công kích - tổng khởi nghĩa nhằm vào “đô thị".

        3. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Mấy vấn đề về tổng kết chiến tranh và viết lịch sử quân sự (những bài nói và viết chọn lọc của Đại tướng Hoàng Văn Thái - Thứ trưởng Bộ Quốc phòng từ năm 1980-1986), H, 1987, tr.278. Về tổn thất của ta trong năm 1968, xem thêm phần phụ lục.

        4. Tháng 7 năm 1968, địch lập ra Uỷ ban Phượng Hoàng các cấp nhằm đánh phá cơ sở Cách mạng miền Nam bằng các hoạt động ám sát bắt cóc. Nhân viên hoạt động trong tổ chức này phần lớn được tuyển chọn trong bọn ác ôn, được nhận lương và chịu sự chi đạo trực tiếp của Cục tình báo Trung ương Mỹ C.I.A.

        5. Hãng tin A.P, ngày 1 tháng 12 năm 1968.

        6. Trích từ tham luận Cục Khoa học quân sự - Bộ Tổng tham mưu - Bộ Quốc phòng trong Hội thảo khoa học tháng 8 năm 1986. Tlđd.

        7. Đỗ Thôn: Sai lầm chiến lược của đế quốc Mỹ... Tạp chí Lịch sử quân sự, số 8 năm 1986.

        8. LÊ ĐỨC THỌ: Một số vấn đề tổng kết chiến tranh và biên soạn lịch sử quân sự, Sđd, tr.56.
« Sửa lần cuối: 12 Tháng Ba, 2017, 08:06:29 am gửi bởi Giangtvx » Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM