Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 04:44:51 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Tết Mậu Thân 1968 - Bước ngoặt lớn của cuộc KCCM cứu nước  (Đọc 29006 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #40 vào lúc: 06 Tháng Ba, 2017, 10:47:41 pm »


        Để phục vụ cho cuộc tiến công vào đô thị, Phòng Quân báo, Phòng Thông tin Miền gấp rút hoàn thành một khối lượng lớn công việc như sưu tầm bản dỗ thành phố, thị xã; điều tra các mục tiêu mà biệt dộng và các tiểu đoàn mũi nhọn sẽ tiến công; đưa đón cán bộ chỉ huy quân sự vào nội thành khảo sát thực địa; chuẩn bị lực lượng trinh sát dẫn đường; tổ chức mạng thông tin, liên lạc... Tất thảy những công tác ấy được thực hiện với sự mưu trí, dũng cảm của cán bộ và chiến sĩ ta đã bao năm gần bó với địa bàn, dựa chắc vào cơ sở và quần chúng cách mạng, dựa vào lòng dân...

        Tại chiến trường các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, Quân khu 8, Quân khu 9 cũng gấp rút hoàn chỉnh phương án tổng tiến công và nổi dậy, lấy thị xã, thị trấn, quận lỵ trên địa bàn quân khu làm hướng tấn công chính. Lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị được tổ chức lại và tăng cường thêm một bước phù hợp với phương án đề ra. Bằng cách động viên lực lượng tại chỗ, các quân khu này đã thành lập thêm một số đơn vị bộ đội chủ lực trực thuộc Quân khu, tỉnh, huyện. Các quân khu cũng đã điều động cán bộ chính trị, cán bộ quân sự về tăng cường cho những địa phương phong trào còn yếu.

        Ở Khu 6, trong điều kiện địch càn quét, đánh phá ác liệt sự liên lạc giữa Trung ương Cục và Quân khu gặp nhiều khó khăn, mãi tới ngày 8 tháng 1 năm 1968, Thường vụ Khu ủy và Bộ tư lệnh Quân khu mới nhận được chủ trương và nhiệm vụ cụ thể của trên giao cho Quân khu. Dù vậy, với ý thức chấp hành mệnh lệnh và quyết tâm cao, Khu ủy và Bộ tư lệnh Quân khu lập tức họp bàn biện pháp thực hiện và quyết định chọn Đà Lạt, Phan Thiết là trọng điểm tổng tiến công và nổi dậy của Quân khu.

        Khu 5, được chia thành bốn hướng tiến công: Hướng Quảng Nam - Đà Nẵng, hướng Bình Định (bao gồm cả An Khê), hướng Tây Nguyên và hướng Phú Yên - Khánh Hòa. Trong kế hoạch tổng tiến công và nổi dậy của Quân khu, tỉnh Quảng Đà được xác định là chiến trường chính và thành phố Đà Nẵng là trọng điểm. Tháng 7 năm 1967, Bộ tư lệnh Quân khu thành lập Mặt trận 4 để thống nhất chỉ huy tất cả các đơn vị vũ trang chiến đấu trên Mặt trận này. Vào lúc thành lập, Mặt trận 4 bao gồm toàn bộ lực lượng vũ trang của Tỉnh đội Quảng Đà, của Thành đội Đà Nẵng và một số đơn vị bổ sung của Quân khu. Trước cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, Mặt trận dược tăng cường thêm 2 trung đoàn pháo binh, 1 trung đoàn bộ binh từ miền Bắc mới hành quân vào. Tháng 11 năm 1967, Quân khu thành lập trung đoàn đặc công đầu tiên của Quân khu, sử dụng dể dành chiếm thị xã Quảng Ngãi. Tất cả các tỉnh đội, các địa phương trên địa bàn Quân khu, từ tháng 11 năm 1967, được lệnh vừa duy trì các hoạt động tác chiến thường kỳ, vừa gấp rút bổ sung và chấn chỉnh các đơn vị hiện có, thành lập các tiểu đoàn mũi nhọn, tăng thêm các đội biệt dộng, huấn luyện cách đánh trong thành phố. Đến trước ngày tổng tiến công và nổi dậy, đội quân chính trị sẽ tham gia khởi nghĩa ở đô thị trên địa bàn Quân khu lên tới 20 vạn người. Phần lớn trong số đó là nhân dân vùng căn cứ, vùng giải phóng và vùng ven các thành phố, thị xã, thị trán. Đội quân này được tổ chức thành từng đại đội hoặc tiểu đoàn, do các đồng chí trong cấp ủy Đảng ở các địa phương phụ trách. Theo kế hoạch, khi tiến công và nổi dậy ở đô thị nổ ra, lực lượng này sẽ từ ngoài kéo vào, phối hợp với quẩn chúng ở nội đô khởi nghĩa giành chính quyền.

        Theo kế hoạch của Khu ủy Khu 5, cuộc tổng tiến công và nổi dậy ở các đô thị trên địa bàn Khu sẽ tùy thuộc vào điều kiện và khả năng của từng nơi mà áp dụng phương thức phù hợp. Ví như, đối với Đà Nẵng, Nha Trang, Quy Nhơn: chủ yếu là dùng khởi nghĩa, còn các đô thị vùng đồng bằng ven biển thì tiến công quân sự và khởi nghĩa song song; trong khi đó, các thị xã ở Tây Nguyên như Plây Cu, Công Tum, Buôn Ma Thuột thì đòn tiến công quân sự là chủ yếu.

        Ở Trị - Thiên, chuẩn bị cho tổng tiến công và nổi dậy, từ tháng 5 năm 1967, Tnmg ương Đảng chuẩn y việc tổ chức lại hệ thống lãnh đạo, chỉ huy cho phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ quân sự mới đối với chiến trường quan trọng này. Theo đó, các tỉnh ủy và tỉnh đội giải thể. Các huyện ủy dặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Khu ủy. Về mặt quân sự, trên các hướng, thành lập các đoàn theo từng khu vực nhằm phân rõ trách nhiệm cho từng cấp chỉ huy trên từng khu vực mặt trận. Các đoàn chịu sự chỉ huy trực tiếp của Bộ tư lệnh Quân khu.

        -  Đoàn 4: Phụ trách khu vực Phú Lộc.

        -  Đoàn 5: Phụ trách mặt trận thành phố Huế và 3 huyện ngoại thành là Hương Trà, Hương Thủy, Phú Vang.

        -  Đoàn 6: Phụ trách 2 huyện Phong Điền, Quảng Điền (tỉnh Thừa Thiên).

        -  Đoàn 7: Phụ trách 2 huyện Triệu Phong, Hải Lăng (tỉnh Quảng Trị).

        -  Đoàn 31 : Phụ trách khu vực từ đường 9 trở ra đến giới tuyến quân sự tạm thời và chịu sự chỉ huy của Bộ tư lệnh Mặt trặn đường 9 - Bắc Quảng Trị (B5).
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #41 vào lúc: 07 Tháng Ba, 2017, 08:03:09 am »


        Tháng 12 năm 1967, Thường vụ Khu ủy và Bộ tư lệnh Quân khu 1 (Bấy giờ, do đồng chí Trần Văn Quang - Bí thư Khu ủy kiêm Tư lệnh Quân khu, phụ trách) hạ quyết tâm tiến công và nổi dậy ở Trị - Thiên, xác định mặt trận thành phố Huế là chiến trường trọng điểm, Quảng Trị và Phú Lộc là hai chiến trường phối hợp. Ban chỉ đạo tổng tiến công và nổi dậy toàn khu và mặt trận Huế do Ban thường vụ Khu ủy và Thường vụ Quân khu ủy hợp thành. Về quân sự, một Bộ chỉ huy mặt trận Huế được chỉ định, gồm Tư lệnh Lê Minh, Chinh ủy Lê Chưởng, Phó Tư lệnh Nam Long, Tham mưu trưởng Đặng Kinh. Theo kế hoạch quân sự, Mặt trận Huế được chia làm hai cánh, lấy sông Hương làm giới tuyến chiến đấu giữa mỗi cánh. Cánh Bắc là hướng tiến công chủ yếu, cánh Nam là hướng tiến công quan trọng; đồng thời là hướng chủ yếu đánh dịch phản kích. Kế hoạch khởi nghĩa dự định ngay đêm tiến công và ngày hôm sau sẽ phát dộng mạnh mẽ nhân dân thành phố, nhân dân nông thôn tiến hành khởi nghĩa vũ trang, chiếm toàn bộ thành phố và vùng nông thôn. Để đảm bảo hậu cần tiếp tế phục vụ tổng tiến công và nổi dậy, Khu ủy và Quân khu ủy thành lập Ban chỉ đạo, chỉ huy hậu phương toàn khu.

        Từ tháng 12 năm 1967, quân và dân Trị - Thiên khẩn trương hoàn tất các mặt chuẩn bị. Trước ngày cuộc tiến công và nổi dậy bắt đầu, lực lượng vũ trang Quân khu có 4 trung đoàn, 4 tiểu đoàn bộ binh, 4 tiểu đoàn đặc công, 15 đội biệt động thành, một số đơn vị binh chủng. Mỗi huyện trong Quân khu đều có 1 đại đội bộ đội tập trung và bàng trăm dân quân, du kích. Toàn bộ lực lượng này, ngay tư những tháng cuối của năm 1967, đã được chấn chỉnh về biên chế, tổ chức; bổ sung quân số, trang bị; đẩy mạnh việc học tập rèn luyện kỹ thuật, chiến thuật - nhất là cách đánh trong thành phố, phương pháp phối hợp giữa tiến công quân sự và nổi dậy của quần chúng... Hầu hết các đơn vị chủ lực Quân khu bấy giờ đang đứng chân ở Khe Trài, Động Chuồi vùng thượng nguồn sông Bồ, sông Hữu Trạch. Các đơn vị này lập ra những bãi tập mà ở đó, các mục tiêu tiến công là sự "mô phỏng” những mục tiêu trong nội thành Huế để thao luyện bộ đội. Đồng thời, vào lúc đó, các tổ đội vũ trang công tác, các bộ phận trinh sát chuẩn bị chiến trường đã mưu trí và bí mật tiếp cận các mục tiêu xung quanh và bên trong Huế như khu vực An Hòa, Mang Cá - nơi bộ tư lệnh sư đoàn 1 quân đội Sài Gòn đóng bản doanh; sân bay Tây Lộc, khu vực Đại Nội... Cùng lúc, lực lượng an ninh khu tỉnh tỏa xuống phối hợp với dân quân, du kích địa phương mở rộng lực lượng. Trước tháng 11 năm 1967, trên địa bàn Thừa Thiên - Huế chỉ có 5 đội trinh sát vũ trang hoạt động khá phân tán thì đến đầu tháng 1 năm 1968, Bộ tư lệnh Mặt trận đã xây dựng được 1 tiểu đoàn và 7 đội trinh sát an ninh vũ trang với tổng số hơn 400 người.

        Ở nội thành Huế, cho đến trước ngày nổ súng tiến công, ta đã có 8 chi bộ Đảng và 100 cơ sở bí mật, nửa bí mật. Để phát động quần chúng nổi dậy, Khu ủy đã mở nhiều lớp tập huấn cho 700 cán bộ và quần chúng cách Mạng cơ sở ở đô thị và nông thôn đồng bằng vùng địch chiếm. Sau khi kết thúc khóa tập huấn, họ trở về địa phương, thành lập các đội công tác, làm nòng cốt phát động quần chúng khởi nghĩa. Về hậu cần, bằng việc thu mua và dựa vào sự đóng góp của nhân dân, hậu cần Quân khu đã chuẩn bị được gần 2.000 tấn lương thực ở đồng bằng, 1.000 tấn ở vùng căn cứ, 8 tấn thuốc men và dụng cụ y tế. Để phục vụ bộ đội tiến công, nhiều địa phương tổ chức các đội vận tải, cứu thương, đào hầm bí mật. Một số xã phía bắc, phía tây cố đô Huế, ta dẩy mạnh lùng diệt, trán áp bọn ác ôn, buộc chúng co vào dồn, tạo thêm điều kiện cho việc vận chuyển vũ khí, lương thực và tạo bàn đạp xuất phát tiến công cho các đơn vị vũ trang. Trong khi đó, phía nam sông Hương, ở các phường Phú Ninh, Phú Nhuận, Phú Xuân, Phường Đúc, Xuân Giang, Vĩ Dạ, Vân Dương, Thanh Thủy, các đoàn thể cách mạng phát triển khá nhanh; đặc biệt từ tháng 12 năm 1967 trở đi, nghĩa là sau khi căn cứ quân sự địch ở Phú Lộc bị ta đánh chiếm.... Mạng lưới giao liên, giao thông, nhờ vậy, dược củng cố và mở rộng; mỗi đêm có dện hàng chục người ra vào nội thành làm nhiệm vụ.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #42 vào lúc: 07 Tháng Ba, 2017, 08:07:29 am »


        Như vậy trong điều kiện thời gian gấp, chiến trường bị chia cất mạnh, hơn một triệu quân Mỹ, ngụy, chư hầu với hệ thống dồn bốt, trạm kiểm soát và bộ máy kìm kẹp cùng mạng lưới tình báo, gián diệp giăng khắp mọi nơi nhưng quá trình chuẩn bị của ta vẫn giữ được bí mật. Được như vậy là bởi ta xây dựng dược thế trận chiến tranh nhân dân ngày càng phát triển trên cả ba vùng chiến lược. Thế trận đó đan cài, xen kẽ với vùng địch kiểm soát. Tổ chức và con người của ta cài cắm, lồng xen vào hàng ngũ địch ở nhiều cấp nhiều nơi. Mặt khác, trong suốt quá trình này, ta dựa vào sự che chở, giúp đỡ, tham gia của đông đảo nhân dân ở vùng giải phóng, vùng giáp ranh, vùng tranh chấp và vùng địch kiểm soát. Thế trận và lòng dân đó cho phép quân và dân ta trên chiến trường, trong một khoảng thời gian không nhiều, đã hoàn tất được mọi mặt chuẩn bị với một khối lượng công việc phức tạp, khó khăn trên quy mô rộng lớn toàn miền từ rừng núi đến đồng bằng, từ nông thôn tới đô thị, từ vùng giải phóng vào vùng địch kiểm soát...

        Cùng với quá trình chuẩn bị, các chiến trường đã mở đợt hoạt động Thu Đông 1967. Đợt hoạt động này nằm trong khuôn khổ giai đoạn 1 của kế hoạch tác chiến chiến lược1.  Về hoạt động của lực lượng vũ trang ta tại vùng ven Sài Gòn - Gia Định trước Tết Mậu thần, ngay từ tháng 8 nam 1968, Bộ tổng tham mưu ngụy đã thú nhận: "Những tháng cuối năm 1967, thường thấy các vụ khủng bố, ám sát xảy ra ở khu Gò Vấp, là vùng ngoại ô tiếp cận ngay thành phố Sài Gòn. Có lẽ đây là khu vực cuối cùng thuộc vùng lân cận thủ đô có hệ thống làng xã còn vững chãi trong thời gian bấy giờ mà địch (tức Quân giải phóng) cần thanh toán hạ tầng cơ sở để khống chế, kiểm soát vùng này. Cũng vào cuối năm 1967, người ta thường thấy địch đột nhập ngay từ chập tối vào các khu phế ở miệt Phú Lâm - Chợ Lớn... Sau những vụ này, những ngày kế tiếp, sinh hoạt bình thường lại diễn ra như không có dấu vết và trở ngại nào tại những khu vực xảy ra biến cố. Tuy địch đã tiến sát tới đô thành nhưng vẫn cố duy trì một tình trạng an ninh giả tạo"2.. Mục đích của đợt hoạt động này là trực tiếp tạo thế, tạo lực cho "Tết Mậu thân"; buộc địch phải phân tán chiến lược trên chiến trường, nghi binh làm lạc hướng chú ý của chúng, tạo thêm diều kiện thuận lợi cho quá trình chuẩn bị của ta.

        Ở vùng ven đô thị và nông thôn, đồng bằng, lực lượng vũ trang tại chỗ được lệnh duy trì các hoạt động theo như lệ tháng: Đánh phá giao thông, tập kích các căn cứ quân sự căn cứ hậu cần và một số mục tiêu trong nội đô, chặn đánh các cuộc hành quân càn quét của Mỹ - ngụy, đẩy mạnh các hoạt động diệt tề, trừ gian, chuẩn bị địa bàn xung quanh các đô thị.

        Ở Nam Bộ, lực lượng vũ trang tại chỗ của ta tiến công địch trên đường số 4, chặn cắt giao thông trên đoạn dường này từ Mỹ Tho đến Tân An. Lực lượng vũ trang Quân khu 9 tập kích sân bay Trà Nóc (Cần Thơ), dành địch càn quét ở khu vực Nam, Bắc lộ 4 (Mỹ Tho). Lực lượng vũ trang dịa phương cùng các đội biệt động, đặc công tập kích sở chỉ huy sư đoàn dù 101 Mỹ ở Hóc Môn, tiến công chi khu quân sự Cần Giuộc, tập kích căn cứ của lữ đoàn 1, sư đoàn bộ binh 25 Mỹ ở Củ Chi, đánh địch ở Tịnh Biên (Châu Đốc), Cao Lãnh (Sa đéc).

        Ở khu vực đồng bằng ven biển miền Trung, lực lượng vũ trang tại chỗ Khu 6, Khu 5 duy trì các hoạt động chống phá càn quét bình định, dành cắt giao thông, tập kích các căn cứ hành quân hỗn hợp của quân Mỹ, quân ngụy ở Bàu Ốc cách thị xã Phan Thiết 80km về phía Đông, tiến công quận lỵ Tuy Phước (phía Bắc Quy Nhơn), thị trấn Đập Đá (Bình Định), đánh vào một số căn cứ quân sự Mỹ ở Quế Sơn Tiên Phước, Tam Kỳ (Quảng Nam),...

-------------------
        1. Kế hoạch tác chiến chiến lược dự kiến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy gồm 3 giai đoạn: - Giai đoạn 1: Tiến hành trong mùa Đông 1967 và đầu tháng 1 năm 1968. Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là kiếm chế, thu hút lực lượng cơ động Mỹ ra cùng rừng núi đường 9 - Khe Sanh, tạo điều kiện cho đòn tiến công và khởi nghĩa đô thị. - Giai đoạn 2: Xuẩn 1968, cao điểm là Tết Mậu thần: thực hành tổng công kích - tổng khởi nghĩa ở các đô thị và vùng nông thôn đồng bằng, miền núi. - Giai đoạn 3: đánh địch phản kích, giữ vững thành quả giành được trong giai đoạn 2.

        2. Cuộc tổng công kích - tổng khởi nghĩa của Việt cộng Mậu thân 1968. Bộ tổng tham mưu quân lực Việt Nam Cộng hòa, tháng 8 năm 1968, tr.385.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #43 vào lúc: 07 Tháng Ba, 2017, 08:14:02 am »


        Tại Trị - Thiên, trong suốt tháng 1 năm 1968, lực lượng vũ trang Trị - Thiên đẩy mạnh hoạt động trên hai hướng Nam và Bắc thành phố Huế nhằm giữ chân, nghi binh đánh lạc hướng dịch (hướng Quảng Trị) và chặn cắt giao thông tiếp tế của chúng (hướng Phú lộc). Trong khi đó ở vùng ven Huế, lực lượng vũ trang tại chỗ duy trì các hoạt động diệt ác, trừ gian, khống chế bọn tay sai, chỉ điểm của dịch; tập kích một số mục tiêu nhỏ vùng phụ cận như ấp Mỹ Xuyên (Phong Điền), Thủ Lệ (gần Sịa), phá đường An Lỗ - Sịa, chặn đánh 2 cuộc càn của quân ngụy vào vùng núi Hương Trà.

        Trong khi duy trì các hoạt dộng như lệ thường ở vùng ven và vùng nông thôn đồng bằng, chủ lực Quân giải phóng liên tiếp mở các chiến dịch có quy mô tương đối lớn ở khu vực rừng núi nhằm lôi kéo, đặng ghìm chân một bộ phận quan trọng chủ lực Mỹ tại vòng ngoài.

        Từ ngày 27 tháng 10 đến ngày 10 tháng 12 năm 1967, Bộ chỉ huy Miền sử dụng 2 sư đoàn bộ binh (sư đoàn 7 và 9), 1 sư đoàn pháo binh (Sư đoàn 69) cùng bộ đội địa phương hai tỉnh Bình Long, Phước Long mở chiến dịch Lộc Ninh - đường 13 - chiến trường chính mà quân Mỹ liên tiếp tung ra các cuộc phản công chiến lược trong hai mùa khô trước đó nhằm tiêu diệt các đợn vị chủ lực Miền; liên tục tiến công vào các cụm quân thuộc sư đoàn bộ binh số 1 Mỹ, sư đoàn bộ binh 25 Mỹ và sư đoàn bộ binh số 5 ngụy, tiêu diệt nhiều sinh lực địch là phương tiện chiến tranh của chúng. Nhận xét về hoạt động nói trên của ta, sau Mậu thân, dịch vẫn cho rừng: mục đích chính của chiến dịch Lộc Ninh - đường 13 của ta chỉ là “để gây tiếng vang quốc tế và cũng để có thể rút an toàn lực lượng qua biên giới dễ dàng"1.

        Đầu tháng 11 năm 1967, lực lượng vũ trang Tây nguyên mở chiến dịch Đắc Tô nhằm bức địch phải điều lực lượng cơ động chiến lược lên Tây Nguyên, tiêu diệt và làm tan rã một bộ phận chủ lực ngụy thuộc quân đoàn 2, tạo điều kiện cho vùng ven, vùng đồng bằng đẩy mạnh chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy. Quả nhiên, chiến dịch vừa mở ra, Bộ chỉ huy quân sự Mỹ (M.A.C.V) đã buộc phải điều sư đoàn 4 Mỹ và lữ đoàn dù 174 từ Gia Lai, Đắc Lắc và Phú Yên lên Đắc Tô đối phó. Suốt gần một tháng, "nhiều trận đánh đẫm máu đã xảy ra"2, quân Mỹ bị những tổn thất nặng nề về người và vũ khí.

        Nhận xét về chiến dịch Lộc Ninh - đường 13 và chiến dịch Đắc Tô, Bộ chỉ huy quân sự Mỹ tại Sài Gòn vẫn chủ quan cho rằng, “đối phương đã bị những thiệt hại nặng nề đến nỗi nỗ lực chính của Việt cộng và quân Bắc Việt hiện nay phần lớn chỉ giới hạn ở vùng biên giới Nam Việt Nam"3. Còn phía ngụy thì cho rằng "đại để, qua các trận đánh trên, địch (Quân giải phóng) đã làm những công việc tuyệt vọng và chỉ nhằm gây những tiếng vang yếu ớt”4 (Cuộc Tổng công kích - tổng khởi nghĩa của Việt cộng Mậu thân 1968, Sđd, tr.358, 359).

        Cùng với các hoạt động trên chiến trường miền Nam trong Thu Đông 1967, cơ quan chỉ đạo chiến lược đã đề ra các biện pháp nghi binh nhằm đánh lạc hướng sự chú ý của Bộ chỉ huy đối phương. Tháng 9 năm 1967, trên báo Nhân Dân và Quân đội nhân dân, xuất hiện bài "Thắng lợi lớn, nhiệm vụ lớn" của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Bài báo khẳng định lại phương châm của ta là đánh lâu dài và kêu gọi quân và dân chiến trường ra sức bảo tồn lực lượng. Bài báo lập tức được Cục tình báo trung ương Mỹ CIA dịch và phân phát qua chi nhánh công khai của nó là Sở thông tin và truyền thanh nước ngoài. Vào tháng 11 năm 1967, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam đã phổ biến trực tiếp cho các tư lệnh chiến trường kế hoạch nghi binh chiến lược. Nhằm mục dịch đó, một bản kế hoạch tác chiến giả được gửi cho các cấp tại chiến trường miền Nam5.

--------------------
        1, 2, 4. Cuộc tổng công kích - tổng khởi nghĩa của Việt cộng Mậu thân 1968, Sđd, tr.358, 359.

        3. Dẫn theo Nây Si-hân: Lời nói dối choáng lộn, T2, Sđd, tr.392.

        5. Để giữ bí mật, chủ trương và kế hoạch tác chiến thật chỉ được phố biến cho các chiến trường trực tiếp bằng miệng - thông qua phái viên của Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam hoặc cán bộ giữ cương vị chủ chốt ở chiến trường phải ra Hà Nội nhận lệnh, chứ không hề có văn bản.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #44 vào lúc: 07 Tháng Ba, 2017, 08:20:09 am »


        Trong hồi ký Tường trình của một quân nhân, Oét-mo-len cho biết, vào tháng 11 năm 1967, quân Mỹ đã thu được một bản tài liệu quan trọng về kế hoạch quân sự năm 1968 của đối phương ở gần Đắc Tô phía bắc Tây Nguyên - nơi từ ngày 3 đến ngày 28 tháng 11 năm 1967, ta sử dụng một bộ phận lực lượng gồm 1 sư đoàn tăng cường, 1 trung đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn súng máy cao xạ... mở chiến dịch tiến công nhằm nghi binh "lừa địch". Cuốn Cuộc tổng công kích - tổng khởi nghĩa của Việt cộng của Ban quân sử - Bộ tổng tham mưu Quân lực Việt Nam cộng hòa, ghi nhận: "Một bản tài liệu… đã được tìm thấy tại tỉnh Tây Ninh ngày 25 tháng 11 năm 1967 gồm 10 trang chữ in. Tài liệu đề ngày 1 tháng 9 năm 1967. Tài liệu này cũng như các tài liệu khác của Việt cộng được in trên giấy báo khổ sách nhỏ và được ngụy trang ngoài bìa thành một cuốn nghiên cứu giáo lý đạo Phật, tên sách là “Tế độ chúng sinh" của Thượng tọa Thích Minh Tâm, Nhà xuất bản Lục Hòa Tăng. Bên trong tài liệu ghi rõ “tài liệu học tập tình hình mới, nhiệm vụ mới" cho các cán bộ sơ cấp, đảng viên và quần chúng cảm tình viên".

        Cũng tại cuốn sách này, Bộ tổng tham mưu Quân lực Việt Nam cộng hòa nhận thấy: "Kế hoạch tổng công kích - tổng khởi nghĩa còn dự liệu tung ra một tin đồn là Mặt trận Dán tộc Giải phóng miền Nam được sự thỏa thuận của Hoa Kỳ chỉ đánh vào các đơn vị và cơ cấu chỉ huy của Việt Nam cộng hòa. Sự thật, trong cuộn tống công kích này, quân địch đã không đánh vào bất cứ một cơ sở Hoa Kỳ nào. Như vậy, tin đồn của Việt cộng được phóng ra đã dựa vào một vài yếu tố cụ thể là vào trước Tết, sau lời tuyên bố của Ngoại trưởng Bắc Việt Nguyễn Duy Trinh ngỏ ý mở hội đàm, một vài nhân vật của Mặt trận Giải phóng có giao dịch tiếp xúc với tòa Đại sứ Hoa Kỳ tại thủ đô Sài Gòn về vấn đế này. Một người trong các nhân vật này bị Tổng nha cảnh sát quốc gia bắt và chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Loan - tổng giám đốc cảnh sát quốc gia, ra ý phản đối việc Hoa Kỳ xen lẫn vào nội bộ của Việt Nam và vì một áp lực nào đó có lẽ là tòa Đại sứ Hoa Kỳ can thiệp đòi tha nhân vật nói trên khiến ông xin từ chức nhưng Hội đồng nội các bác đơn, không chấp thuận. Cũng tin đồn này cho rằng vì Việt Nam cộng hòa có một thái độ cứng rắn trong vấn đề liên hiệp với Mặt trận Giải phóng miền Nam trái với ý Hoa Kỳ nên người Mỹ để mặc cho Việt cộng đánh vào các cơ sở và lực lượng của Việt Nam cộng hòa để xem phản ứng của quân đội đạt được đến mức nào và cũng là một cơ hội để Hoa Kỳ xem khả năng tấn kích cửa Việt cộng thực hư ra sao hầu đánh giá việc mua bán trong việc thương thuyết"1.

        Những tài liệu đó chính là bản kế hoạch tác chiến giả, tài liệu giả do ta tung vào mà nội dung của nó, theo Oét-mo-len, càng củng cố thêm nhận định của ông là “Việt cộng đang trong quá trình thất bại lớn mà trận Đắc Tô là bước mở đầu” của quá trình này. Vì vậy theo phán đoán của Bộ chỉ huy quân sự Mỹ tại Sài Gòn (M.A.C.V) thì, trong năm 1968, trọng tâm hoạt động của quân và dân ta ở miền Nam sẽ là chống phá "bình định”, mở một số trận đánh dọc biên giới, tiến công các mục tiêu ở 2 tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, tìm cách bảo tồn lực lượng, cố gắng duy trì mức độ giao tranh như năm 1967.

        Xuất phát từ nhận định, đánh giá về ý đồ và khả năng của ta như vậy, Bộ chỉ huy quân sự Mỹ chủ trương ổn định tình hình nội bộ chính quyền và quân đội Sài Gòn, tiếp tục thực hiện biện pháp chiến lược “tìm diệt” và "bình định”, đẩy mạnh đánh phá khu vực hành lang vận chuyển và triệt phá căn cứ, kho tàng của ta ở vùng rừng núi. Trong điều kiện Mỹ không còn khả năng tăng quân lớn, Bộ chỉ huy quân sự Mỹ - để duy trì thế giằng co, vẫn quyết định mở cuộc phản công chiến lược lần thứ 3, mùa khô 1967-1968 mà hướng chủ yếu vẫn là miền Đông Nam Bộ và hướng quan trọng là khu vực Trị - Thiên.

        Theo kế hoạch này, Mỹ sẽ tuần tự tập trung lực lượng đánh vào các mục tiêu trọng diềm như hệ thống các căn cứ của ta ở miền Đông Nam Bộ, các đẩu mối giao thông trên hành lang vận chuyển Bắc - Nam để hỗ trợ cho quân ngụy Sài Gòn đẩy mạnh chương trình “bình định" vùng nông thôn đồng bằng Nam Bộ; ngăn chặn chủ lực ta ở khu vực tiếp giáp với Lào trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên. Tại Trị - Thiên, Oét-mo-len dự kiến sẽ mở bốn cuộc hành quân mang mật danh “Yord”, càn quét vùng biên giới Việt - Lào ở 4 tỉnh phía Bắc của miền Nam Việt Nam nhằm lập lại quyền kiểm soát thung lũng A Sầu...

------------------
        1.  Tường trình của một quân nhân. Oét-mo-len. Sđd, tr. 59-60.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #45 vào lúc: 07 Tháng Ba, 2017, 08:24:34 am »


        Như vậy, theo dự định của cuộc phản công lần này, người ta thấy Bộ chỉ huy quân sự Mỹ đã tỏ ra dè dặt trong việc xác định mục tiêu mặc dù có trong tay hơn 1.200.000 quân - trong đó có 486.000 quân Mỹ. Âm mưu của Bộ chỉ huy quân sự Mỹ tại Sài Gòn và của giới lãnh đạo Oa-sinh-tơn là cố giữ thế giằng co trên chiến trường, tránh mọi sự đảo lộn bất ngờ ở miền Nam Việt Nam, chờ cho kỳ bầu cử tổng thống Mỹ tháng 11 năm 1968 kết thúc sẽ tính toán bước đi tiếp theo.

        Tại Mỹ, vào những tháng cuối năm 1967, theo lời khuyên của Đin A-che-sơn1 và nhóm cố vấn cấp cao về Việt Nam "Những nhà thông thái", chính quyền Giôn-xơn triển khai mạnh mẽ chiến dịch tuyên truyền về thắng lợi của Mỹ ở Việt Nam nhằm chống lại sự xói mòn lòng tin trong dư luận Mỹ đối với chính quyền. Cố vấn Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ Rốt-xtâu được Giôn-xơn chỉ định theo dõi mọi nhân vật trong Quốc hội chống đối đường lối chiến tranh của chính quyền Mỹ tại Việt Nam để có biện pháp đối phó. Giôn-xơn cũng thành lập Nhóm thông tin về Việt Nam nằm trong văn phòng thừa hành của tổng thống. Nhiệm vụ của nhóm này là thông báo đều đặn tình hình tiến bộ của Mỹ ở Việt Nam nhằm tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân Mỹ. Vào giữa tháng 11 năm 1967, nhân ngày Cựu chiến binh Mỹ, Giôn-xơn đi một loạt các bang trong nước nhóm thuyết phục các tầng lớp xã hội Mỹ tin rằng, Mỹ đang thực sự đạt được các tiến bộ vững chắc ở Việt Nam. Đại sứ và Tư lệnh Bộ chỉ huy quân sự Mỹ tại Sài Gòn được triệu về Oa-sinh-tơn nhằm bênh vực cho dường lối chiến tranh của Giôn-xơn. Phối hợp chặt chẽ với các hoạt động tuyên truyền ở Mỹ, tại Sài Gòn, Bộ chỉ huy quân sự Mỹ được lệnh tổ chức đều đặn các buổi thuyết trình về thắng lợi của Mỹ và quân đồng minh. Bằng chiến dịch tuyên truyền đó, chính quyền Mỹ đã phần nào hồi sinh niềm hy vọng giành thắng lợi trong một bộ phận công chúng Mỹ, ngăn chặn sự "han rỉ" trong thái độ ủng hộ chính quyền, ủng hộ chiến tranh Việt Nam. Tuy nhiên, "cái giá" phải trả cho sự hồi sinh đó, như nhận xét của tác giả Đôn O-bớc-đoi-phơ, "quả là đắt". Bởi vì, chính phủ Mỹ phải đổi lấy sự ủng hộ của dân chúng bằng "một lời hứa hẹn vế tương lai"1 để rồi không bao giờ trở thành hiện thực!

        Vào tháng 12 năm 1967, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố phóng thích 2 tù binh Mỹ để họ trở về đoàn tụ với gia đình nhân dịp lễ Nô-en 1967.  Cử chỉ này của Chính phủ ta khiến cho một số quan chức cao cấp trong chính phủ Mỹ vội chủ quan nhận định: "Các nhà lãnh đạo Hà Nội đã từ bỏ hy vọng chiếm được miền Nam trong một tương lai gần"3! Điều này, theo họ có nghĩa là: khả năng đàm phán trực tiếp với đại diện miền Bắc Việt Nam đang hé mở và "Mỹ đang ở trong một giai đoạn Bàn Môn Điếm nào đó"!4. Tại buổi chiêu đãi đoàn ngoại giao ở Hà Nội ngày 30 tháng 12 năm 1967, người ta vẫn còn thấy Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh ngỏ ý rằng: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ đi vào đàm phán với chính phủ Mỹ một khi phía Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc Việt Nam5. Tín hiệu này càng làm cho nhiều nhân vật chủ chốt trong chính quyền Giôn-xơn thêm hy vọng. Và chính vì thế mà sức ép đòi ngừng ném bom miền Bắc để mở đường đi vào đàm phán với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã lập tức tăng lên mạnh mẽ ở trong chính quyền Mỹ, trong dư luận Mỹ và trên thế giới.

-------------------
        1. Đin A-che-sơn (Dan Acheson): Bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ từ năm 1949 đến 1953 trong chính quyền Tổng thống Mỹ Tru-man, sau này là một thành viên có ảnh hưởng trong nhóm cố vấn về chính sách đối ngoại Mỹ cho đến khi qua đời vào năm 1969; là cố vấn cho Tổng thống Mỹ Giôn-xơn về vần đế Việt Nam trong Nhóm những nhà thông thái từ năm 1965 đến năm 1968.

        2. Đôn O-bớc-đoi-phơ: Tết, Sđd, tr.72.

        3, 4. Dẫn theo Nây Si-han: Lời nói dối choáng lộn, Sđd, T2, tr.390.

        5. Trước đó, ta chưa bao giờ công khai tuyên bố sẽ đi vào đàm phán, mà chỉ mới hé mở khả năng "có thể nói chuyện với Mỹ" sau khi Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc. Tuyên bố trên đây của Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh là đòn tiến công ngoại giao, ngoài mục đích tăng cường sức ép và khoét sâu thêm mâu thuẫn trong nội bộ địch, còn có tác dụng che giấu ý đồ ta ta trước khi mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân 1968.
« Sửa lần cuối: 07 Tháng Ba, 2017, 08:36:55 am gửi bởi Giangtvx » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #46 vào lúc: 08 Tháng Ba, 2017, 08:16:05 am »


        Đồng thời với thao tác nghi binh trên mặt trận ngoại giao, trên mặt trận quân sự, ta đã bàn với bạn Lào mở chiến dịch Nậm Bạc, buộc địch phải phân tán lực lượng, đối phó không chỉ trên chiến trường miền Nam mà cả trên chiến trường Lào, tạo điều kiện cho đòn tiến công đồng loạt đánh vào các đô thị miễn Nam Việt Nam.

        Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 12 tháng 1 năm 1968, liên quân Lào - Việt nổ súng mở màn chiến dịch, tiêu diệt địch ở khu vực Bắc Lào. Cùng lúc đó, tại miền Nam Việt nam, các sư đoàn, các trung đoàn chủ lực Quân giải phóng cùng các đơn vị binh chủng bắt đầu rời căn cứ, hướng về các trung tâm dân cư và các đô thị, kể cả Sài Gòn - Gia Định Đồng thời, một số. sư đoàn chủ lực miền Bắc đã tập kết lực lượng xung quanh khu vực rừng núi Khe Sanh, hình thành thế bao vây, uy hiếp căn cứ có tầm quan trọng chiến lược này của địch. Trước tình hình đó, ngày 13 tháng 1 năm 1968, Oét-mo-len buộc phải ra lệnh hủy bỏ dự án mở cuộc phàn công chiến lược lần thứ 3; triệt thoái các đơn vị Mỹ đã triển khai đánh vào chiến khu C, chiến khu D ở miền Đông Nam Bộ, lùi về giữ vùng quanh Sài Gòn - Gia Định1. Đồng thời, vì có mối đe dọa ở phía Bắc, Mỹ cũng buộc phải hủy bỏ các cuộc hành quân mang mật danh “York” ở các tỉnh phía Bắc; lệnh cho sư đoàn kỵ binh không vận số 1 Mỹ thôi không từ Tây Nguyên về miền Đông Nam Bộ theo như dự định ban đầu mà cùng với lữ đoàn bộ binh nhẹ 196 Mỹ chuyển ra Thừa Thiên, tăng cường cho mặt trận phía Bắc.

        Như vậy, đang từ thế chuẩn bị phản công chiến lược nhằm giành quyền chủ động chiến trường, lực lượng quân sự Mỹ ở miền Nam Việt Nam buộc phải quay về phòng ngự bị động trên hai hướng chính là xung quanh Sài Gòn và Trị - Thiên.

        Giữa lúc đó, đêm 20 tháng 1 năm 1968, lực lượng vũ trang ta bất ngờ nổ súng tiến công tập đoàn cứ điểm Khe Sanh, uy hiếp mạnh tuyến phòng thủ đường 9 của địch. Chiến dịch Khe Sanh nổ ra đã phá tan những cố gắng của chính quyền Giôn-xơn trong việc thuyết phục công chúng Mỹ tin rằng với Mỹ, cuộc chiến tranh Việt Nam đã thấy "ánh sáng cuối đường hầm".

        Khe Sanh, một vị trí có tầm quan trọng chiến lược ở miền núi phía Tây Quảng Trị, nằm trên cao nguyên mỗi bề gần 10km. Đây là khu vực phía Tây phòng tuyến Mắc-na-ma-ra mà địch phòng thủ rất mạnh nhằm ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam, là bình phong chắn giữ cho khu vực phía đông đường 9, bảo vệ vùng dân cư đồng bằng ven biển thuộc tỉnh Quảng Trì. Dưới con mắt của các tướng lĩnh Mỹ, Khe Sanh là một căn cứ tuần tra để ngăn chặn chủ lực miền Bắc thâm nhập từ Lào sang theo đường số 9; là một căn cứ cho các hoạt động của lực lượng dặc biệt Mỹ và ngụy nhằm đánh phá các căn cứ của ta trên đất Lào; là sân bay phục vụ cho việc trinh sát đường không tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn; "là cái mỏ neo ở phía Tây cho hệ thống phòng thủ phía Nam khu phi quân sự; và là một bàn đạp cho các cuộc hành quán trên bộ để cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh" 2. Theo Oét-mo-len, bỏ Khe Sanh tức là đã bỏ mất tất cả lợi thế đó, "đồng thời chấp nhận cái tất yếu là đưa chiến tranh vào vùng dân cư ven biển thuộc tỉnh Quảng Trị” 3. Vì tầm quan trọng đó, nên chiến dịch Khe Sanh của ta vừa mở màn đã lập tức thu hút tâm trí của giới lãnh đạo Mỹ. Giôn-xơn chỉ thị cho tướng Tay-lo lập phòng "Tình hình đặc biệt" tại Nhà Trắng và đích thân theo dõi diễn biến tình hình Khe Sanh từng giờ. Ông cũng lệnh cho các tham mưu trưởng liên quân Mỹ phải cam kết giữ vững Khe Sanh ông mọi giá, lệnh cho Oét-mo-len hàng ngày phải gửi về Oa-sinh-tơn báo cáo tình hình chiến sự Khe Sanh.

        Vì tình hình căng thẳng ở Khe Sanh, đêm đêm, Oét mo-len phải ngủ lại tại Trung tâm hành quân trong Bộ chỉ huy quân sự Mỹ tại Sài Gòn. Ông và các cộng sự của mình trong Bộ chỉ huy quân sự Mỹ (M.A.C.V) nhận định Khe Sanh là hướng tấn công chính của ta trong Đông - Xuân 1968. Ám ảnh bởi Điện Biên Phủ nam 1954 đã chôn vùi uy danh quân đội Pháp, Oét-mo-len cho mời nhà sử học quân sự công tác tại M.A.C.V, đại tá Rác-gơ thuyết trình về nguyên do đưa đến sự bại trận của quân đồn trú Pháp ở Điện Biên Phủ. Theo nhà sử học này, tại Điện Biên Phủ năm 1954 cũng như nhiều nơi khác trong lịch sử chiến tranh thế giới, sở dĩ quân dồn trú thất bại là bởi bị bao vây và mất hết quyền chủ động. Kết luận đó, theo hồi ký của Oét-mo-len, khiến cho ông và cả Bộ chỉ huy vô cùng choáng váng. Trong lo lắng, Oét-mo-len quyết định thành lập Sở chi huy tiền phương của Bộ chỉ huy quân sự Mỹ tại Vùng 1 chiến thuật nhằm kiểm soát, chỉ huy toàn bộ lực lượng Mỹ - ngụy ở mặt trận phía Bắc, và nhằm đối phó kịp thời với tình hình chiến sự ở Khe Sanh. Toàn bộ lực lượng này, vào cuối tháng 1 năm 1968, lên tới 40% số tiểu đoàn bộ binh và thiết giáp mà M.A.C.V hiện có trong tay.

------------------------
        1. Theo hồi ký Tường trình của một quân nhân thì các đơn vị chiến đấu Mỹ sau khi lui quân về đã được bố trí ở "vùng chu vi Sài Gòn hoặc dọc các hành lang đi từ các khu an toàn ở biên giới tới Thủ đô".

        2, 3. W.Oet-mo-len: Tường trình của một quân nhân. Thư viện Quân đội trung ương sao lục, T 3, tr.166.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #47 vào lúc: 08 Tháng Ba, 2017, 08:23:19 am »


        Như vậy đến trước ngày cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân nổ ra, phía Mỹ vẫn hoàn toàn lạc hướng trong việc phán đoán ý đồ chiến lược thực sự của ta. Ngay cả các sĩ quan tình báo trong Bộ chỉ huy quân sự Mỹ sau này cho biết, nếu như lúc đó, họ nắm được toàn bộ kế hoạch của cuộc Tổng tiến công đi nữa, thì họ cũng sẽ “không thể nào tin được"1 và không hiểu nổi "bản chất" của hành động này. Còn Tư lệnh chiến trường Mỹ, tướng W Oét-mo-len sau khi rời Việt Nam về Mỹ, đã nhận xét trong hồi ký của ông rằng: “Bắc Việt Nam đã vạch ra một bài bản khôn khéo, trong đó có việc đe dọa Khe Sanh rồi đánh tiếng rất khôn ngoan về vấn đề thương lượng. Thế rồi dù là vô tình, nhiều người Mỹ, trong đó có giới báo chí, Quốc hội và các nhà trí thức ở các trường đại học - thậm chí cả các quan chức chính phủ, đã bị đóng vai trò mà người ta dành cho họ một cách có hiệu quả" đến nỗi "như thể họ đã được đọc trước văn bản thương lượng"2. Đó là phát biểu của ông ta sau này. Còn dịp Tết Mậu thân, giữa cảnh đổ nát và xác người ngổn ngang ở sân tòa đại sứ trong ngày đầu cuộc Tổng tiến công nổ ra, ông ta nhận định: "Nỗ lực chính của Bắc Việt Nam vẫn là nhằm vào Khe Sanh và vùng bắc Trung phần"3.

        II. DIỂN BIẾN CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY ĐỒNG LOẠT TẾT MẬU THÂN

        Các hoạt động nghi binh chiến lược, đặc biệt chiến dịch Khe Sanh mở màn trước Tết Mậu thân 1968 mười ngày, đã làm cho Bộ chỉ huy quân sự Mỹ tại Sài Gòn (M.A.C.V) và giới lãnh đạo Oa-sinh-tơn bị lạc hướng. Trong khi phía Mỹ dồn tâm trí và lực lượng ra hướng đường 9 - Khe Sanh, nhận định Khe Sanh là một Điện Biên Phủ trong ý đồ chiến lược của Bộ thống soái Việt Nam thì cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân đồng loạt nổ ra trên khắp chiến trường miền Nam mà hướng chính là nhằm vào đô thị - trung tâm quân sự, chính trị và kinh tế của Mỹ, ngụy.

        Đêm 29 rạng ngày 30 tháng 1 năm 1968 (tức đêm giao thừa theo lịch miền Nam), quân và dân các tỉnh đồng bằng ven biển miền Trung và Tây Nguyên dã đồng loạt tiến công vào các thành phố, thị xã, thị trấn, quận lỵ và hàng loạt căn cứ, kho tàng, sở' chỉ huy, sân bay, bến cảng... của địch, mở dầu cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt trên khắp chiến trường miền Nam4.

--------------------
       1. Dẫn theo Đôn O-bớc-đoi-phơ: TẾT, Sđd, tr.80.

        2. W.Oét-mo-len Tường trình của một quân nhân, Sđd, T3, tr.173.

        3. Dẫn theo Đôn O-bớc-đoi-phơ: TẾT, Sđd, tr.34.

        4. Việc các địa phương Quân khu 5 nổ súng tiến công sớm hơn một ngày so với Quân khu Trị - Thiên, Quần khu 6, Quân khu 7... đã được một số cuốn sách xuất bản ở Trung ương và địa phương đề cập. Cuốn Nam Trung Bộ kháng chiến 1945-1975 ghi chú rằng: "Cuối năm 1967, vì lý do khoa học, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công bố ngày mồng một Tết âm lịch Mậu thân chậm hơn lịch cũ một ngày (tức ngày 30 tháng 1 năm 1968), trong lúc đó, ngụy quyến Sài Gòn vẫn giữ như lịch cũ (tức ngày 31 tháng 1 nam 1968)". Vì giờ nổ súng trên toàn chiến trường được quy định đúng vào đêm giao thừa nên hiển nhiên, việc đổi lịch trên đây dẫn đến tình trạng giữa các chiến trường sẽ đánh lệch ngày giờ như dự tính ban đầu. "Phát hiện tình hình này, Bộ Tổng Tham mưu lệnh cho các địa phương nổ súng trước lùi lại (một ngày) cho thống nhất (sách Quân khu 5 - 30 năm chiến tranh giải phóng). Cũng theo cuốn sách này, "trong hội nghị tổng kết cuộc Tiến công và nổi dậy Xuân 1968, từ ngày 1 đến ngày 8 tháng 8 năm 1986 tại Thành phố Hồ Chí Minh, các đồng chí ở Cục Tác chiến khẳng định: lệnh viết rõ là giao thừa (miền Nam). Nhưng vì một số địa phương không nghiên cứu kỹ nên làm sai". Thế nhưng, "Lệnh" này được gửi đi từ bao giờ thì sách này không ghi rõ. Trong khi đó, cuốn Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, 1 tập II cho biết: "Chiều ngày 29 tháng 1 năm 1968, Quân khu 5 nhận được điện hoãn cuộc tiến công sang đêm 30 rạng ngày 31 tháng 1". Nếu vậy, bức điện gửi đi đã là qúa muộn nếu như đặt trong điều kiện chiến trường ác liệt lúc đó. Cho nên, trên thực tế, lệnh hoãn ngày giờ nổ súng tiến công trên đây, quả thực cũng "chi kịp báo cho Sư đoàn 2, Sư đoàn 3, Trung đoàn 10 và hải tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi", còn lại, "các tỉnh Quảng Đà, Phú Yên, Bình Định, Khánh Hòa không nhận được (lệnh) nên vẫn nổ súng theo kế hoạch ban đầu là đêm 29 rạng ngày 30 tháng 1 năm 1968" (sách: Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, tập II). Chúng tôi không chuyên môn về lịch Việt Nam mà ở đó, phép tính âm lịch, tháng đủ, tháng thiếu, tháng nhuận... là một chuyên môn sâu, nên không thể giải thích được “lý do khoa học” của việc "công bố ngày mồng một Tết âm lịch Mậu thân năm ấy chậm hơn lịch cũ một ngày". Sau này, đã có những ý kiến cho rằng, việc dùng lịch âm mà không dùng lịch dương để quy định ngày giờ nổ súng rất đáng được đem ra phân tích. Dưới góc độ nghiên cứu một sự kiện lịch sử đã diễn ra hơn 30 năm qua, chúng tôi nghĩ rằng, việc quy định ám lịch và việc "đổi lịch" mà ngay sau đó, một số địa phương ở chiến trường Quân khu 5 đánh sớm hơn một ngày với toàn Miền tự bản thân nó, đã là một HÀNH ĐỘNG NGHI BINH tầm chiến lược thu hút tâm trí và lực lượng địch vào chiến trường không phải là trọng điểm trong kế hoạch Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân 1988... Vả chăng, lực lượng tiến công trong ngày đầu ở các địa phương Quân khu 5, thực ra cũng mới chỉ chủ yếu là bộ đội địa phương và dân quân du kích...
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #48 vào lúc: 08 Tháng Ba, 2017, 08:28:21 am »


        23 giờ ngày 29 tháng 1: Nha Trang.

        0 giờ ngày 30 tháng 1: Tuy Hòa.

        0 giờ 30 phút ngày 30 tháng 1: Tân Cảnh.

        0 giờ 45 phút ngày 30 tháng 1: Buôn Ma Thuột.

        0 giờ 55 phút ngày 30 tháng 1: Plây Cu.

        1 giờ ngày 30 tháng 1: Đà Nẵng, Hội An.

        1 giờ 15 phút ngày 30 tháng 1: Quy Nhơn, Công Tum...

        Tại Tây Nguyên, vào lúc 0 giờ 30 phút ngày 30 tháng 1 năm 1968, một tiểu đoàn chủ lực thuộc Trung đoàn 174 bộ đội Tây Nguyên đã nổ súng đánh vào Tân Cảnh, thị trấn nhỏ nằm dưới chân một ngọn đồi cách Đắc Tô 3km và cách thị xã Công Tum chừng 40km về phía Bắc - nơi đặt sở chỉ huy trung đoàn 42 quân đội Sài Gòn. Ít phút sau đó, các tiểu đoàn 401, 406, 300 bộ đội địa phương tỉnh Gia Lai, Công Tum, Đắc Lắc phối hợp với lực lượng đặc công của Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên đã tiến công sân bay Cù Hanh, A-ri-a và các thị xã Buôn Ma Thuột, Plây Cu, Công Tum. Ngay từ đầu, quân ta đã đánh trúng một số mục tiêu đầu não của chính quyền địch như khu hành chính, dinh tỉnh trưởng, ty cảnh sát, tỉnh đoàn bảo an, đài phát thanh... cùng các căn cứ, sở chỉ huy quân sự địch ở bên ngoài và bên trong thị xã.

        Tại các tỉnh đồng bằng ven biển Khu 5, lực lượng vũ trang ta tiến công vào một loạt các thành phố, thị xã - như Tam Kỳ, Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Hội An, Quy Nhơn, Tuy Hòa, Nha Trang và hơn 40 thị trấn, quận lỵ cùng hàng trăm mục tiêu quân sự, chính trị của địch trên địa bàn chiến lược trọng yếu này.

        Còn ở thành phố Đà Nẵng - một căn cứ quân sự liên hợp lớn của Mỹ, ngụy, một trong ba trọng điểm của cuộc Tổng tiến công Tết Mậu thân thì, mặc dù đã dược chuẩn bị từ trước khá lâu nhưng ngay từ đầu, cuộc tiến công và nổi dậy dã gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân chính của khó khăn này là do công tác nắm địch không chắc, chuẩn bị mọi mặt chưa chu đáo, tổ chức hành quân chiếm lĩnh bàn đạp xuất phát tiến công chưa tốt nên đã bị địch chặn đánh quyết liệt ngay trên đường hành quân.

        Theo kế hoạch, đêm 29 rạng ngày 30 tháng 1 năm 1968, lực lượng pháo binh, đặc công, bộ binh, biệt động sẽ dộng loạt đánh phá các sân bay, trận dịa pháo, kho tàng; chiếm một số mục tiêu chủ yếu trong thành phố để hỗ trợ cho quần chúng từ bên ngoài kéo vào phối hợp với quần chúng bên trong nổi dậy giành chính quyền. Ở Đà Nẵng, phương thức vạch ra để giành thắng lợi là dùng sự nổi dậy của quần chúng giành chính quyền là chính.

        Thế nhưng, đêm 29 tháng 1, lực lượng luồn sâu đánh chiếm sở chỉ huy quân đoàn 1 ngụy trên đường hành quân đã bị địch chặn lại bên bờ sông Cẩm Lệ. Chỉ có một bộ phận nhỏ gồm 57 cán bộ, chiến sĩ di trước vượt được qua sông, tiến công vào mục tiêu và chiến đấu dện người cuối cùng trước một lực lượng địch đông hơn gấp bội, có xe tăng, pháo binh và máy bay yểm trợ. Trong khi đó Sư đoàn 2 bộ binh chủ lực Quân khu 5 có nhiệm vụ đánh ra phía Nam Đà Nẵng do nhận được lệnh hoãn ngày nổ súng tiến công đã lùi về phía sau. Địch tập trung lực lượng và dùng pháo binh, máy bay đánh phá, ngăn chặn mọi ngả dường dẫn vào Đà Nấng. 40.000 quần chúng các huyện xung quanh dược tổ chức thành đại đội, tiểu đoàn đã bị chặn lại trên đường vào thành phố. Hơn 100 cán bộ đã bị bắt, bị hy sinh. Bên trong thành phố, phong trào nổi dậy của quần chúng nhân dân không thực hiện nổi.

        24 giờ sau khi quân và dân các tỉnh ven biển miền Trung và Tây Nguyên nổ súng mở màn, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy dộng loạt nổ ra ở khắp các tỉnh và thành phố lớn miền Nam. Bộ binh, đặc công, pháo binh ta ngay từ những phút đầu dã đánh mạnh, dành trúng các mục tiêu trọng yếu của dịch ở Sài Gòn, Huế, Quảng Trị, Tam Kỳ, Quảng Ngãi, Phan Thiết, Phan Rang, Đà Lạt, Tây Ninh, Bến Tre, Biên Hòa, Mỹ Tho, Cần Thơ, Trà Vinh, Châu Đốc, Vinh Long, Cà Mau, Sóc Trăng, Rạch Giá...
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #49 vào lúc: 08 Tháng Ba, 2017, 10:41:17 pm »


        Tại Mặt trận Huế, thành phố lớn thứ ba miền Nam với dân số 15 vạn người - tính đến thời điểm cuối năm 1967, là nơi tập trung các cơ quan đầu não chỉ đạo chiến tranh của Mỹ, ngụy ở khu vực Vùng 1 chiến thuật, nơi địch tập trung một bộ phận khá lớn binh lực và phương tiện chiến tranh1 thì, vào lúc 2 giờ 33 phút ngày 31 tháng 1 năm 1968, pháo binh của ta đồng loạt dội đạn xuống các mục tiêu của địch ở khu Tam Giáp, khu Phan Sào Nam, Phú Bài, Động Tòa, Đông Ba, mở đầu cho cuộc tiến công đánh chiếm thành phố - Cố đô này. Ngay sau đó, lực lượng tiến công trên 2 cánh đồng loạt đánh vào 39 khu vực mục tiêu trong và ngoài thành phố.

        Ở cánh Bắc, phía tả ngạn sông Hương, khi pháo binh ta sau một thời gian bắn cấp tập, chuẩn bị chuyển làn thì Trung đoàn 6 bộ binh cùng một số tiểu đoàn bộ binh, đặc công, pháo cối và các đội biệt động thành... chia làm nhiều mũi tiến đánh khu Mang Cá - nơi đặt sở chỉ huy của sư đoàn 1 bộ binh quân Sài Gòn, khu An Hòa, cửa Chánh Tây, sân bay Tây Lộc, cửa Hữu, cửa Thượng Tứ, khu Đông Ba, khu Cột Cờ, khu Đại Nội, cầu Bạch Hổ, khu vực Kim Long, khu Gia Hội, Kẻ Vạn, Văn Thánh... hầu hết các mục tiêu quy định đều đã bị quân ta đánh chiếm, chỉ trừ khu Mang Cá và sân bay Tây Lộc.

        Cùng lúc với cánh Bắc, ở cánh Nam, phía hữu ngạn sông Hương, Trung đoàn 9 bộ binh được tăng cường 2 tiểu đoàn của Thành đội Huế, 2 tiểu đoàn đặc công và một số đơn vị binh nhung, biệt động, dân quân du kích 2 huyện vùng ven Hương Thủy, Phú Vang... tiến công căn cứ trung đoàn 7 thiết giáp ngụy ở Tam Thai, đại đội Nam Triều Tiên ở khu Tàu Lăng, khu công binh Nam Giao, sở chỉ huy lực lượng cảnh sát dã chiến, khu kho Rèn, Ngã Sáu, Đài phát thanh... Lực lượng cánh Nam còn đánh mạnh vào các đơn vị địch ở Phước Quả, ty Sắc Tộc, chiếm Tòa tỉnh trưởng, giải phóng 2.000 cán bộ, chiến sĩ bí địch giam cầm ở lao Thừa Phủ; chiếm khu vực nhà ga, xưởng quân cụ, tiến công khách sạn Mỹ là khách sạn Hương Giang và khách sạn Thuận Hóa. Như vậy, hầu như tất cả các cơ quan đầu não chính quyền và quân đội Sài Gòn tỉnh Thừa Thiên và các cơ quan đại diện chính quyền trung ương đặt tại Huế đầu bị ta đánh chiếm.

        Rạng sáng hôm sau, ngày 1 tháng 2 năm 1968, tuy tiếng súng vẫn rộ lên ở nhiều nơi nhưng phần lớn thành phố Huế đã nằm trong tay Quân giải phóng. Trong sương sớm, lá cờ nửa đỏ nửa xanh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã phấp phới trên cột cờ Thành Nội. Sáng ngày 3 tháng 2, quần chúng bắt đầu nổi dậy lùng diệt, truy quét ác ôn và tàn binh ngụy, phá bỏ bộ máy kìm kẹp, thiết lập chính quyền cách mạng ở cơ sở, xây dựng công sự, trận địa phòng thủ, cứu chữa thương binh, vận động binh lính và nhân viên chính quyền cũ ra trình diện chính quyền cách mạng (Đã có hơn 10.000 sĩ quan, binh lính, cảnh sát, nhân viên chính quyền cũ ra trình diện chính quyền cách mạng)... Các tổ chức đoàn thể mới như "Hội binh sĩ yêu nước", "Đoàn nghĩa binh cảnh sát " được thành lập, tập hợp hàng trăm hội viên, đoàn viên. Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình thành phố Huế (gồm các nhân sĩ, trí thức, sinh viên, chức sắc tôn giáo yêu nước) ra đời, phát lời kêu gọi các tầng lớp nhân dân đoàn kết đứng lên chống Mỹ và tay sai2.

----------------------
        1. Toàn bộ Mặt trận Huế, cho đến thời điểm nổ ra cuộc Tống tiến công và nổi dậy, địch có khoảng 25.000 đến 30.000 quân, gồm 13 tiểu đoàn bộ binh (8 tiểu đoàn quân Sài Gòn, 5 tiểu đoàn quân Mỹ), 2 trung đoàn thiết giáp, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn biệt kích, 2 tiểu đoàn công binh, 2 tiểu đoàn vận tải, 1 tiểu đoàn pháo cao xạ, 2 tiểu đoàn hải thuyền, 12 đại đội bảo an, 3 tiểu đoàn cảnh sát, 96 trung đội dân vệ, 18 đoàn bình định, 100 máy bay vận tải, một số đơn vị trực thuộc của Sư đoàn 1 bộ binh quân đội Sài Gòn và Sư đoàn 8 lính thủy đánh bộ Mỹ... Toàn bộ lực lượng này được bố trí trên hai khu vực bắc và nam thành phế Huế, mỗi khu vực, hệ thống phòng thủ được tổ chức thành vòng trong và vòng ngoài kiên cố, hỗ trợ cho nhau.

        2. Liên quan tới việc thành lập Mặt trận thứ hai, sách "Cuộc Tổng công kích - tổng khởi nghĩa của Việt cộng" ghi nhận: "Tại thủ đô, Mặt trận liên minh dân tộc Dân chủ và Hòa bình" chưa kịp xuất hiện nhưng thành phần của Mặt trận này, sau đớ cũng được tiết lộ do Luật sư Trịnh Đình Thảo, ông Lâm Văn Tết và Thượng tọa Thích Đôn Hậu cầm đầu. Thành phần này thuộc trong tổ chức Trung ương. Còn tại Huế, một tổ chức loại này đã thật sự ra mắt hoạt động do Giáo sư Lê Văn Hảo cầm đầu và đã gây ra nhiều xáo trộn chính trị tại thành phố này (Sđd, tr.59).
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM