Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 08:13:25 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Tết Mậu Thân 1968 - Bước ngoặt lớn của cuộc KCCM cứu nước  (Đọc 29009 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #30 vào lúc: 05 Tháng Ba, 2017, 09:32:42 pm »


        Tuy bị thất bại nặng cả về quân sự, "đế quốc Mỹ vẫn ngoan cố tăng thêm nỗ lực chiến tranh... tìm cách thông qua đàm phán để nếu có thể rút ra khỏi chiến tranh ở miền Nam thì vẫn duy trì được ngụy quân, ngụy quyền; hoặc nếu không thực hiện được âm mưu ấy thì chúng vẫn có thể duy trì được tình hình của chúng ở miền Nam không bị đảo lộn một cách bất ngờ, chờ sau cuộc tổng tuyển cử tổng thống sắp tới ở Mỹ, chúng sẽ định ra những bước tiếp theo của cuộc chiến tranh"1.

        Về phía ta, bản Dự thảo nhận định rằng, với những thắng lợi giành được trên cả hai miền Nam, Bắc, "chúng ta đang giữ quyền chủ dộng trong cuộc chiến tranh, đẩy địch vào thế bị động toàn diện và đang thúc đẩy cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của ta đến sát một bước ngoặt chiến lược quyết định"2. Trong những điều kiện đó, như Dự thảo đã chỉ rõ, trên cơ sở nhạy bén nắm bắt thời cơ chiến lược ra sức chuẩn bị mọi mặt, cần "nhanh chóng và nhất loạt thực hiện một cuộc đột kích chiến lược bất ngờ và mãnh liệt nhất, bằng cả lực lượng vũ trang và chính trị, tức là khởi sự một cuộc tổng công kích - tổng khởi nghĩa mạnh mẽ và quyết liệt nhất để giành lấy thắng lợi cao nhất và chủ động nhất"3. Để tổng công kích, tổng khởi nghĩa, nguyên tắc phải tuân thủ là: tiến công hết sức bất ngờ, dùng bạo lực mạnh mẽ và táp trung nhất, tiến công đồng loạt, nhằm vào cả Mỹ và ngụy. Dự thảo kế hoạch còn đề cập tới những nội dung lớn của từng đợt tiến công chiến lược nhiệm vụ chung, nhiệm vụ của từng miền và nhiệm vụ cụ thể của từng chiến trường...

        Ngoài bản dự thảo kế hoạch trên đây, Bộ Chính trị còn dành thời gian nghe báo cáo về tình hình địch của Cục 2, về tình hình ta của Cục Tác chiến Bộ Tổng tham mưu, về cáo kế hoạch tác chiến của Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Khu 5, Tây Nguyên, Nam Bộ.

        Trên cơ sở thảo luận rất kỹ các báo cáo trên đây, đặc biệt là Kế hoạch chiến lược Đông Xuân Hè 1967-1968 do Quân ủy Trung ương dự thảo, Bộ Chính trị nhận định: "Mỹ đang thất bại lớn, vì có tăng quân cũng không giải quyết được gì mà tình hình càng bế tắc, càng bị cô lập thêm, mâu thuẫn càng sâu sắc"4. Tuy nhiên, Mỹ vẫn còn rất ngoan cố, trong nội bộ còn đấu tranh. Do vậy Mỹ đang cố gắng tăng cường lực lượng để giữ cho tình hình không xấu đi, cố gắng cho khỏi bị cô lập hơn nữa. Trong khi đó, như Bộ Chính trị đã nhận định, "thắng lợi của ta là thắng lợi của một nước bé định thắng khổng lồ đế quốc Mỹ"5. Chớp thời cơ này, Bộ Chính trị quyết định thực hiện một phương thức tiến công, một cách đánh mới có hiệu lực cao nhằm "làm thay đổi tình hình (làm được chủ yếu do cố gắng của ta), thay đổi cục diện, chuyển biến chiến lược" trên chiến trường miền Nam và trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Phải thấy rằng, đây là một quyết định rất táo bạo của Đáng ta. Bởi vì, nếu chỉ nhìn thuần túy vào tương quan lực lượng quân sự thì bấy giờ (tháng 10 năm 1967) không thể có được chủ trương táo bạo đó. Hơn nữa, Bộ Chính trị nhận thấy cho đến lúc ấy, nhiều nơi, nếu "đánh vào thị xã mà giữ lại ta cũng chưa làm được” và “khả năng đánh tiêu diệt của ta còn yếu”. Nhưng ở đây là vấn đề chớp thời cơ, táo bạo, sáng tạo cách đánh mới, tạo nên hiệu lực có ý nghĩa chiến lược mới.

---------------------
        1. Kế hoạch chiến lược Đông Xuân Hè 1967 - 1968, tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.

        2. Kế hoạch chiến lược Đông Xuân Hè 1967 - 1968, tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.

        3. Kế hoạch chiến lược Đông Xuân Hè 1967 - 1968, tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.

        4. Kết luận của đồng chí Trường Chinh. Dẫn trong Biên bản Hội nghị Bộ Chính trị bàn về Kế hoạch chiến lược mùa thu: Tổng công kích - tổng khởi nghĩa Đông Xuân Hè 1967-1968. Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân Sự việt Nam.

        5. Kết luận của đồng chí Trường Chinh. Dẫn trong Biên bản Hội nghị Bộ Chính trị bàn về Kế hoạch chiến lược mùa thu: Tổng công kích - tổng khởi nghĩa Đông Xuân Hè 1967-1968. Tài liệu lưu tại Viện Lịch sử quân Sự việt Nam.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #31 vào lúc: 05 Tháng Ba, 2017, 09:41:17 pm »


        Cách mạng Tháng Tám là như thế. Về sau này, chiến thắng mùa Xuân 1975 cũng là như thế. Trên cơ sở đánh giá tương quan lực lượng địch - ta và sự lúng túng của Mỹ như trên đã phân tích, Bộ Chính trị xác định rất rõ: đến thời điểm này, thời cơ chiến lược đã xuất hiện. Muốn chớp thời cơ này, chúng ta cần phải gấp rút tăng cường lực lượng và sức mạnh tiến công địch. Ở đây, cần nhắc lại cách nhìn xuyên suốt của Đảng ta về sức mạnh, về so sánh lực lượng địch - ta trong chiến tranh cách mạng miền Nam. Trong bài viết tại Tạp chí Quân đội nhân dân, tháng 3 năm 1967, đồng chí Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lê Duẩn chỉ rõ: "Chiến tranh nhân dân ở miền Nam là một cuộc tiến công toàn diện của cách mạng miền Nam vào nền tảng thống trị của bọn Mỹ và tay sai chứ không đơn thuần là một cuộc tấn công về quân sự. Sức mạnh của nó không đơn thuần là sức mạnh quân sự (nhất là trong thời kỳ đầu thì chủ yếu không phải là sức mạnh quân sự), mà là một sức mạnh tổng hợp mọi mặt về chính trị - tinh thần, về quân sự, về thế và lực của cả nhân dân và đất nước (...). Khi so sánh lực lượng, nói mạnh yếu là nói trong những điều kiện nhất định. Nhất là phải xem những lực lượng đó với hiệu lực thực tế (efrlcacité) trong hành động, trong cuộc đọ sức trực tiếp với nhau, mà trong hành động thì trên cơ sở những điều kiện vật chất nào đó, tính năng động của con người (bao gồm cả ý chí, tài năng, mưu trí sáng tạo) có tác dụng quyết định"1. Trong thư gửi Khu ủy Sài Gòn - Gia Định tháng 7 năm 1967, đồng chí Lê Duẩn nhất mạnh: Xét lực lượng so sánh đôi bên trên chiến trường "là phải xét kết quả tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh thần, của các lực lượng chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa mà mỗi bên sử dụng để chống lại đối phương. Nó không phải là trừu tượng mà là cụ thể, nó không phải là một tỉ lệ bất biến mà là một so sánh trong vận động, kết quả của quá trình phát triển biện chứng về số lượng cũng như về chất lượng của các yếu tố, các lực lượng nói trên”2.

        Chính là xuất phát từ quan điểm đánh giá sức mạnh và so sánh lực lượng như trên cũng như xuất phát từ kinh nghiệm của Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, của kháng chiến chống Pháp (Ví như cuối năm 1951, khi Bộ chỉ huy Pháp đánh ra Hòa Bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng quyết định vừa đánh địch trên hướng chính diện, vừa táo bạo đưa hai đại đoàn vào mở mặt trận mới của bộ đội chủ lực sâu trong vùng địch kiểm soát, phát động và tạo điều kiện đẩy mạnh chiến tranh vùng sau lưng địch. Như lịch sử đã chứng minh, quyết định trên đây đã đưa đến thắng lợi to lớn, toàn diện của ta trong chiến dịch Hòa Bình - Một chiến dịch đã làm cho người pháp "hoàn toàn hết hy vọng đánh thắng ông Hồ Chí Minh" như tác giả M.Mác-li-a từng nhận xét trong cuốn sách "Việt Nam - cuộc chiến tranh mười nghìn ngày" của ông) và của Đồng khởi 1960 mà Đảng ta chủ trương tổng công kích và tổng khởi nghĩa. Hơn nữa, ngay tại hội nghị tháng 10 năm 1967 này, Bộ Chính trị còn chủ trương tạo một bất ngờ lớn về chiến lược đánh địch (Căn cứ vào tình hình trực tiếp liên quan tới cuộc chiến giữa Mỹ và Việt Nam lúc đó, Đảng ta chủ trương giữ nghiêm ngặt ý đố chiến lược này cả đối với các nước anh em, bè bạn. Phát biểu tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 14 (tháng 1 năm 1968), đồng chí Lê Duẩn cho biết: Chủ trương tổng công kích - tổng khởi nghĩa "anh em ta không hiểu đâu. Không ai biết chuyện này, không ai ngờ đâu. Ta không dám bàn với ai cả, bí mật lắm...". Đồng chí khẳng định: ta đã biết khởi sự cuộc chiến tranh thì cũng biết kết thúc cuộc chiến tranh, "ta độc lập không theo ai cả”3. Vì bí mật, bất ngờ cũng là một lực lượng vật chất vô cùng to lớn trong chiến tranh. Chính vì vậy mà, để tạo được bất ngờ về chiến lược, Bộ Chính trị quyết định thời gian bắt đầu mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy vào dịp Tết Mậu thân 1968 (Cũng tại cuộc họp quan trọng này, Bộ Chính trị đã phát hiện ra sự hoang mang của Mỹ đến cao độ. Sự hoang mang đó thậm chí đã thể hiện như một nỗi ám ảnh. Ám ảnh về một trận Điện Biên Phủ sẽ đến với Mỹ tại miến Nam Việt Nam! Có điều, nỗi ám ảnh đó lại được thể hiện bàng những nhận định của phía Mỹ tưởng như chắc nịch mà ngày nay đọc lại ta có thể thấy rõ như những lời tự trấn an. Đó là khi Mỹ cho rằng "Sắp tới, phía Việt Nam chưa đủ sức làm một “Điện Biên Phủ”(!) mà sẽ vẫn chỉ đánh lâu dài”.

----------------------
        1. Lê Duẩn: Về chiến tranh nhân dân Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, H, 1993, tr.295, 297.

        2. Lê Duẩn: Thư vào Nam, Nxb Sự thật, H, 1985, tr.177.

        3. Bài phát biểu của đồng chí Lê Duẩn tại Hội nghị lần thứ 14, Ban Chấp hành Trung ương, tháng 1 năm 1968 - bài gỡ từ bàng ghi âm. Dẫn theo Văn kiện Đảng - Toàn tập, T29, 1968, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2004.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #32 vào lúc: 05 Tháng Ba, 2017, 09:48:00 pm »


        Chúng tôi muốn nghĩ rằng có thể chính sự hoang mang, tự trấn an này của Mỹ đã khiến sự mẫn cảm của cơ quan chỉ đạo chiến lược phía Việt Nam kịp thời “tương kế tựu kế" nhằm tô đậm thêm, củng cố thêm cho sự trấn an đó bằng cách tập trung một số sư đoàn chủ lực xung quanh căn cứ Khe Sanh. Hành động này, ngay lập tức đã kích thích phía Mỹ dồn tâm trí và lực lượng vào vùng núi rừng Tây Quảng Trị, đặt một bộ phận lớn quân Mỹ vào thế “cá voi mắc cạn” khi “Tết Mậu Thân" nổ ra ở một loạt các đô thị trên toàn Miền. Quả thật đây là một "bài học đất giá" của giới quân sự Mỹ trong chiến tranh Việt Nam và chứng tỏ trí tuệ Việt Nam trong điều hành chiến tranh cách mạng đã vượt lên trên trí tuệ của các tướng lĩnh Hoa Kỳ. Vế vấn đế này, chúng ta sẽ phải đi sâu hơn nữa vào tài liệu của Bộ Chính trị, Bộ Quác phòng để nêu bật lên như một bài học về nghệ thuật quân sự của chúng ta). Dự đoán cho thắng lợi này, Bộ Chính trị đã chỉ rõ: "Ta tranh thủ giành thắng lợi cao nhất, song cũng có thể là đạt mức độ thôi".

        Sau hội nghị Bộ Chính trị tháng 10 năm 1967, các chiến trường bắt tay chuẩn bị trực tiếp cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân 1968.

        Ngày 28 tháng 12 năm 1967, Bộ Chính trị họp phiên đặc biệt; chính thức thông qua Kế hoạch chiến lược năm 1968 và nhiệm vụ của quân và dân ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh dự và chỉ đạo hội nghị. Đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng "báo cáo toàn bộ vấn đề và quán xuyến việc thảo luận" (Trong bài Bác Hồ với Tết Mậu thân năm ấy, đăng trên tờ Văn nghệ số Tết Mậu Dần 1998, đồng chí Vũ Kỳ cho biết, ngày 28 tháng 12 năm 1967, Bộ Chính trị họp phiên đặc biệt ngay bên nhà sàn của Bác, đề ra nhiệm vụ trọng đại và cấp bách là động viên sức mạnh của cả nước, thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa. Tiếp đó, sáng ngày 30 tháng 12 nam 1967, Bác lại dự họp Bộ Chính trị; chiều ngày mồng một Tết Mậu thân, Bộ Chính trị đến làm việc với Người. "Bác căn dặn thêm công việc trước khi Bác lên đường tiếp tục đi nghỉ ở Trung Quốc". Cũng theo đồng chí Vũ Kỳ, "chỉ thị cụ thể của Bác cho các chiến trường là:

        Kế hoạch phải thật tỉ mỉ
        Hợp đồng phải thật ăn khớp
        Bí mật phải thật tuyệt đối
        Hành động phải thật kiên quyết
        Cán bộ phải thật gương mẫu”).

        Tháng 1 năm 1968, hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 14 họp tại Hà Nội đã thông qua Nghị quyết tháng 12 năm 1967 của Bộ Chính trị, quyết định thực hiện tổng công kích và tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi quyết định cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước. 

        Bộ Chính trị nhận định: “Chúng ta đang đứng trước triển vọng và thời cơ chiến lược lớn. Đế quốc Mỹ đang trong tình thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược"1. So với mục tiêu chính trị và quân sự có hạn của chúng ở miền Nam, thì những cố gắng chiến tranh của Mỹ (cùng những thiệt hại nặng nề của chúng) ở Việt Nam đã lên tới đỉnh cao. Vì thế, "xu hướng của tình hình trong cả nước năm 1968 là địch sẽ ngày càng chuyển vào phòng ngự bị động hơn trước"2. Trong khi đó, "chúng ta đã thắng địch cả về, chiến lược lẫn chiến thuật. Thế và lực của ta phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết"3. Mặc dù hiện nay chúng ta còn một số nhược điểm như khả năng bổ sung lực lượng tại chỗ, trình độ đánh tiêu diệt những đơn vị lớn quân Mỹ, xây dựng thực lực chính trị và chỉ dạo phong trào thành thị vẫn bị hạn chế, đồng thời chúng ta cũng gặp khó khăn về hậu cần, giao thông vận tải, công tác ngụy vận, địch vận... nhưng, "điểm cơ bản của tình hình vẫn là ta đang ở thế thắng, thế chủ động và thuận lợi. Địch đang ở thế thua, thế bị động và khó khăn"4.

--------------------
        1. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lớn thứ 14 (tháng 1 năm 1968). Dẫn trong Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng - Toàn tập, T29, 1968, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2004.

        2. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lớn thứ 14 (tháng 1 năm 1968). Dẫn trong Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng - Toàn tập, T29, 1968, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2004.

        3. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lớn thứ 14 (tháng 1 năm 1968). Dẫn trong Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng - Toàn tập, T29, 1968, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2004.

        4. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lớn thứ 14 (tháng 1 năm 1968). Dẫn trong Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng - Toàn tập, T29, 1968, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2004.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #33 vào lúc: 06 Tháng Ba, 2017, 09:52:26 am »


        Trên cơ sở phân tích toàn bộ tình hình địch, ta, trong nước và trên thế giới có liên quan cũng như lượng định khả năng diễn biến của tình hình, Bộ Chính trị Tnmg ương Đảng hạ quyết tâm: "Chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định. Để thực hiện quyết tâm chiến lược đó, "Nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của Đảng ta trong thời kỳ mới là động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định"2. Mục tiêu chiến lược của tổng công kích - tổng khởi nghĩa nhằm tiêu diệt và làm tan rã tuyệt đại bộ phận quân ngụy, đánh đổ ngụy quyền các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân; tiêu diệt một phần quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ, làm cho quân Mỹ không thực hiện được các nhiệm vụ chính trị và quân sự của chúng ở Việt Nam. "Trên cơ sở đó, đập tan ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải chịu thua ở miền Nam, chấm dứt mọi hành động chiến tranh đối với miền Bắc, còn ta thì bảo vệ được miền Bắc xã hội chủ nghĩa và đạt được những mục tiêu trước mắt của cách mạng miền Nam là độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới thống nhất nước nhà”3.

        Bộ Chính trị cho rằng: "Ta tiến hành tổng công kích - tổng khởi nghĩa không phải trong điều kiện địch đã kiệt quệ mà trong lúc địch còn trên một triệu quân và một tiềm lực chiến tranh lớn, nhưng đội quân đó đã liên tiếp thất bại về chiến lược và chiến thuật, quân số tuy đông nhưng tinh thần đã bạc nhược và bắt đầu suy sụp. Về chính trị, quân địch đang lâm vào tình trạng mâu thuẫn, khủng hoảng toàn diện và nghiêm trọng, không không còn có thể cai trị nhân dân miền Nam được nữa và nhân dân miền Nam cũng không chịu sống dưới ách thống trị của chúng nữa. Trong khi đó, ta đang trong thế thắng và đang nắm quyền chủ động trên khắp các chiến trường; lực lượng vũ trang ta đã lớn mạnh về mọi mặt, đội quân chính trị của ta đã lớn mạnh về mọi mặt... và rất hùng hậu; đại bộ phận quán chúng nhân dân trong các vùng tạm chiếm đã được rèn luyện và thử thách qua nhiều năm đấu tranh kiên quyết và bền bỉ, đã tỏ rõ quyết tâm cách mạng rất cao"4. Trong điều kiện như vậy, Bộ Chính trị chủ trương "về biện pháp,... không chỉ tổng công kích mà đồng thời phát động tổng khởi nghĩa; tiêu diệt và làm tan rã quân địch, đánh đổ bộ máy cai trị đầu não của ngụy quyền, làm rối loạn và tê liệt tận gốc bộ máy chiến tranh của Mỹ, ngụy, biến hậu phương và dự trữ chiến lược của dịch thành hậu hương và dự trữ chiến lược của ta, làm thay đổi lực lượng so sánh một cách mau chóng có lợi cho ta, không lợi cho dịch và giành thắng lợi quyết định về ta"5.

        “Cuộc Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa sắp tới sẽ là một giai đoạn, một quá trình tiến công chiến lược rất phức tạp”6; giai đoạn đó dài hay ngắn là tùy thuộc vào sự cố gắng chủ quan của ta và sự đối phó của địch. Tuy nhiên trong tình hình địch đã chuyển vào thế bị động phòng ngự và đang tiến thoái lưỡng nan về chiến lược thì "những cố gắng chủ quan và nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của ta có tác dụng quyết định trực tiếp"7 trong việc rút ngắn thời gian tổng công kích - tổng khởi nghĩa, trong đó, việc chọn hướng tiến công chiến lược giữ vai trò rất quan trọng. Bộ Chính trị đã quyết định: một mặt, phải "sử dụng tốt nhất lực lượng vũ trang của ta, căng địch ra khắp các chiến trường, phải biết điều động lực lượng quân sự của địch ra các chiến trường quan trọng, sử dụng những quả đấm mạnh đánh quỵ các binh đoàn chủ lực của địch, đồng thời biết kịp thời phản công tiêu diệt địch, bẻ gãy các cuộc phản công của chúng"8. Đó là một hướng tiến công của bộ đội chủ lực. Mặt khác, "đòn chính của ta phải nhằm vào các thành thị quan trọng, kết hợp lực lượng xung kích về quân sự với lực lượng chính trị của quần chúng ở các đô thị và những vùng nông thôn kế cận vùng dậy đánh sập các cơ quan đầu não của Mỹ - ngụy, đánh phá các hậu cứ của địch, các cơ sở hậu cần, các trung tâm thông tin, phương tiện giao thông vận tải chiến lược của địch là những yếu tố vật chất không thể thiếu được trong bản thân sức mạnh của quân đội chính quy và hiện đại của Mỹ. Đồng thời kêu gọi binh lính địch đứng lên phản chiến cùng nhân dân khởi nghĩa. Đó là đòn ác liệt nhất, hiểm hóc nhất đánh vào óc tim, mạch máu của địch, cũng là cách tốt nhất để phối hợp ba mũi giáp công trên cả ba vùng chiến lược, để tiêu diệt nhiều nhất sinh lực địch, làm sập chỗ dựa chính trị của địch và đè bẹp ý chí xâm lược của chúng"9.

--------------------
        1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9. Nghị quyết hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 14 (tháng 1 năm 1968). Tlđd.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #34 vào lúc: 06 Tháng Ba, 2017, 09:57:22 am »


        Tiến hành cuộc tổng công kích - tổng khởi nghĩa, Bộ Chính trị dự kiến tình hình có thể diễn biến theo một trong ba khả năng:

        1. Ta giành được thắng lợi to lớn ở các chiến trường quan trọng, những cuộc công kích và khởi nghĩa của ta cuối cùng thành công ở các đô thị lớn. Địch bị thất bại đến mức không còn gượng dậy được. Ý chí xâm lược của chúng bị đè bẹp, phải chịu thua, buộc chúng phải thương lượng và phải kết thúc chiến tranh theo những mục tiêu và yêu cầu của ta.

        2. Tuy ta giành được thắng lợi ở nhiều nơi nhưng địch tập trung và tăng thêm lực lượng từ ngoài, giành và giữ những vị trí quan trọng, ổn định được các thành thị lớn, nhất là Sài Gòn - Gia Định, dựa vào các căn cứ lớn để tiếp tục chiến đấu với ta.

        3. Mỹ động viên và tăng thêm nhiều lực lượng, mở rộng chiến tranh cục bộ ra miền Bắc, sang Campuchia và Lào hòng xoay chuyển cục diện chiến tranh và gỡ thế thua của chúng.

        Trong ba khả năng trên đây, Bộ Chính trị cho rằng, cần nỗ lực phi thường, đem hết tinh thần và lực lượng để giành thắng lợi theo khả năng thứ nhất; đồng thời phải sẵn sàng đối phó với khả năng thứ hai; khả năng thứ ba tuy có ít nhưng cần cảnh giác đề phòng để chủ động đối phó.

        Bộ Chính trị đề ra các nhiệm vụ cụ thể cho quân và dân hai miền Nam, Bắc trên từng mặt đấu tranh.

        Về đấu tranh quân sự: phải phối hợp chặt chẽ giữa tổng công kích và tổng khởi nghĩa, giữa các chiến trường, phải thu hút cho được lực lượng cơ dộng của địch ra vòng ngoài để dành tiêu diệt; thực hành công kích mãnh liệt vào các thành thị nhất là các thành thị lớn đồng thời phát động công kích và khởi nghĩa ở khắp các chiến trường, tiến công đồng loạt vào các yết hầu của địch và những cơ sở hậu cần, làm tê liệt mọi sự đề kháng của Mỹ - ngụy.

        Về đấu tranh chính trị, “phát động quẩn chúng nổi dậy tổng khởi nghĩa (kết hợp với tổng công kích) cho đến thành công, đập tan ngụy quyền và các tổ chức phản động khác xây dựng chính quyền cách mạng và phát triển nhanh chóng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang quần chúng". Khẩu hiệu trung tâm trong khởi nghĩa là: Độc lập tự do, hòa bình, cơm áo, ruộng đất, chấm dứt chiến tranh xâm lược; đế quốc Mỹ phải rút quân về nước, chủ quyền thuộc về người Việt Nam"1. Thành lập mặt trận thứ hai bên cạnh Mặt trận Dân tốc Giải phóng miền Nam Việt Nam với cương lĩnh rộng rãi hơn và “sẽ giữ thái độ độc lập với Mặt trận Dân tộc Giải phóng” 2.

        Về binh vận, phải thực hành công tác địch vận, ngụy vận, góp phần làm tan rã quân ngụy và gây phong trào phản chiến trong nội bộ chúng, thực hiện khẩu hiệu "công - nông - binh liên hiệp". Đồng thời gây phong trào phản chiến trong quân đội Mỹ và chư hầu.

        Về đấu tranh ngoại giao, cấn có phương pháp và hình thức thích hợp để tiến công địch trong lúc chúng đang lúng túng bị động và “phải mở đường cho địch đi vào thương lượng theo hướng có lợi nhất cho ta"3.

        Miền Bắc “phải bảo đảm công tác tăng cường hậu phương lớn và công tác chi viện miền Nam"4, “phải ra sức giúp đỡ nhân dân Lào giành thêm thắng lợi mới, ủng hộ mạnh mẽ nhân dân Campuchia, chống mọi âm mưu xâm lược của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai"5[/sup. Ở đây, chúng tôi muốn được lưu ý thêm rằng, trong lời phát biểu tại Hội nghị này, đống chí Lê Duẩn nói đại ý: mặc dù Mỹ đang bị động, đang lầm vào thế khó khân, "nhưng nó lại là kẻ mạnh... nên ta phải biết thắng nó". Muốn vậy, chúng tà khòng thể đánh theo lối đánh cũ "mà phải chuyển qua một giai đoạn mới, tức giai đoạn tổng công kích, tổng khởi nghĩa 'buộc" nó phải đi đến ngồi với ta, thương lượng với ta". Điếu đó cho phép chúng ta nghĩ rằng, thực chất khi đi tới quyết định mở cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968, Đảng ta nhằm buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, ngừng ném bom miền Bắc, ngồi vào bàn đàm phán với ta. Và như thế, mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, mục tiêu hàng đầu của ta là tập trung đẩy mạnh những nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trên cả 2 miền để hiện thực hóa chủ trương Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng làn thứ 13 đã chỉ rõ: "chủ động vận dụng sách lược vừa đánh vừa đàm, vừa đàm vừa đánh”. Vế vấn đề này, cũng trong bài phát biểu tại Hội nghị Trung ương 14, đống chí Lê Duẩn nhấn mạnh: “Lịch sử Việt Nam ta đánh giặc rồi kêu giặc, đánh giặc mãi mãi không được. Nguyễn Trãi trước kia như vậy. Bây giờ ta cũng làm như vậy. Vì nó là đế quốc mạnh như vậy, cho nên ta phải biết thắng nó").

----------------
        1, 2, 3, 4, 5. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lớn thứ 14. Tlđd.
 
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #35 vào lúc: 06 Tháng Ba, 2017, 10:02:05 am »


        Bộ Chính trị giao cho Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam gấp rút hoàn chỉnh phương án tổng công kích, tổng khởi nghĩa.

        Căn cứ vào Nghị quyết Bộ Chính trị được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 14 thông qua, Quân ủy Tnmg ương và Bộ Tổng tư lệnh đã hoàn chỉnh phương án tổng công kích tổng khởi nghĩa và xác định cụ thể: Cùng với đòn tiến công của bộ đội chủ lực, mà chiến trường chính là đường 9 - Khe Sanh, nhằm thu hút, giam chân lực lượng chiến lược của địch, một đòn tiến công chiến lược đánh vào thị xã, thành phố quy mô trên toàn liền Nam, kết hợp với nổi dậy của quần chúng nông thôn và đô thị mở dầu cho tổng công kích - tổng khởi nghĩa, lấy chiến trường chính là Sài Gòn, Nam Bộ, Trị - Thiên - Huế, trọng điểm là Sài Gòn, Huế và các thành phố lớn. Thời gian tiến hành tổng công kích - tổng khởi nghĩa được chọn vào dịp Tết Mậu thân 1968. Đến ngày 21 tháng 1 năm 1968, thời điểm nổ súng mở màn cuộc tổng công kích - tổng khởi nghĩa mới được xác định đúng vào đêm giao thừa.

        Tiến hành tổng công kích - tổng khởi nghĩa trong điều kiện thời gian chuẩn bị gấp, địch tăng cường đánh phá ác liệt lại phải tuyệt đối giữ bí mật, bất ngờ, các chiến trường được lệnh phải cố gắng khai thác và sử dụng có hiệu quả vật chất và lực lượng hiện có.

        Cũng vào ngày 21 tháng 1 năm 1968, trong mật điện gửi Trung ương Cục miền Nam, Khu ủy Khu 5 và Khu ủy Trì - Thiên; Bộ Chính trị phổ biến cho riêng các đồng chí Phạm Hùng, Võ Chí Công, Trần Văn Quang chủ trương của Bộ Chính trị về việc thành lập Mặt trận thứ hai, lấy tên là “Liền minh Dân tộc Dân chủ và Hòa bình" nhằm "phân hóa địch đến mức cao nhất, tranh thủ và tập hợp thêm những lực lượng, những cá nhân chống Mỹ và Thiệu - Kỳ và tranh thủ các tầng lớp trung gian ở đô thị, đồng thời để tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi ở ngoài nước"1. Mặt trặn này sẽ giữ thái độ độc lập với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, tuyên bố liên minh với Mặt trận Dân tộc Giải phóng và những người muốn cho miền Nam Việt Nam có chủ quyền, độc lập, dân chủ, hòa bình và trung lập.

        Trở lên, chúng tôi đã trình bày bối cảnh và quá trình hình thành ý đồ chiến lược của Đảng ta trong việc quyết định mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân 1968. Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi thấy nổi cộm lên một số vấn đề lý luận mà chúng tôi chưa có điều kiện đặt ra để giải quyết đặc biệt là vấn đề tổng khởi nghĩa trong chiến tranh cách mạng miền Nam. Về vấn đề này, từ nhiều năm qua, đặc biệt là sau khi nước nhà thống nhất, tại các cuộc hội thảo khoa học, trên các trang viết của tướng lĩnh hoặc các nhà nghiên cứu, các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta, vẫn chưa được giải quyết thỏa đáng. Trong khi có một số xem tổng khởi nghĩa trong chiến tranh là một khả năng - thì một số khác dứt khoát khẳng định rằng: đó là điều không thể xảy ra và vì thế việc Đảng ta chủ trương phát động tổng khởi nghĩa, đặt tổng khởi nghĩa ngang với tổng công kích và lấy tổng khởi nghĩa để mong kết thúc chiến tranh vào năm 1968 là hệ quả của lối tư duy duy ý chí.

        Vấn đề này, có lẽ nó phải được đặt ra để suy nghĩ một cách nghiêm túc như một đề tài chuyên biệt hay một công trình tập thể - mà ở đó, mỗi cá nhân sẽ chỉ là một phân nhánh của đề tài.

        Song, về mặt phương pháp luận, trong khi tiếp xúc với những tư liệu, chúng tôi thảy đã có nhiều điều đáng suy ngẫm: Dường như những ý kiến phê phán trên đây đều đã gặp gỡ nhau ở chỗ:

        a) Bám quá chặt vào các luận điểm của Mác, Ăng-ghen và Lênin về điều kiện để nổ ra tổng khởi nghĩa.

        b) Bám quá sát vào các câu chữ trên báo chí sau phút nổ súng và các nghị quyết công khai của Đảng về chủ trương mở cuộc tiến công "Tết Mậu thân 1968".

        Thực ra, vấn đề không đơn giản như vậy. Vì khi tiếp xúc với một số văn bản, bức điện, chỉ thị, biên bản Hội nghị Bộ Chính trị đã hoặc còn chưa được công bố liên quan tới đề tài Tết, thì chúng tôi thấy rằng:

        a) Suốt hàng năm trời chuẩn bị cho "Tết Mậu thân", các văn bản, tài liệu trên đây không chỉ dùng thuật ngữ "tổng công kích - tổng khởi nghĩa mà còn dùng xen kẽ các thuật ngữ khác như. “Tổng tiến công và nổi dậy” hoặc “tiến công và nổi dậy”.

        b) Và ngay trong một nghị quyết - Nghị quyết Hội nghị Bộ Chính trị tháng 12 năm 1967 mà sau đó được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 14 thông qua - cũng đã dùng xen kẽ các thuật ngữ này.

        c) Vả chăng, hoạt động "Tết Mậu thân" là hoạt động có quy mô rộng lớn, phức tạp. Để bảo đảm bí mật, bất ngờ, đến sát ngày nổ súng, các chỉ thị chỉ được phép truyền đạt bằng miệng tới các tư lệnh chiến trường.

------------------
        1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng - Toàn tập, T29, 1968, Sđd, tr.164.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #36 vào lúc: 06 Tháng Ba, 2017, 10:05:05 am »


        Vì thế chúng tôi suy nghĩ: liệu sự truyền đạt đó có gì là bảo đảm rộng đã thể hiện được hoàn toàn đầy đủ ý đồ về tư tưởng chiến lược của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương ương?1, ghi nhận: "Để đề phòng các nơi linh hoạt mà không nắm vững quyết tầm của Trung ương, Bí thư Trung ương Cục Phạm Hùng nhắc các bí thư khu ủy: chỉ được phổ biến khả năng 1 ("dứt điểm" đô thị). Hai khả năng còn lại... chỉ được phổ biến cho biết khi có ý kiến Trung ương Cục", tr.309). Bởi ngay trong Nghị quyết tháng 12 năm 1967, Bộ Chính trị đã tính toán tới BA khả năng thắng lợi mà ở đó chỉ có khả năng thứ nhất là mang tính chất thắng lợi của tổng khởi nghĩa.

        Đó là chưa kể - chúng tôi nghĩ - khả năng thứ nhất trên đây có thể như một ước muốn cháy bỏng của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trên cả hai miền Nam, Bắc mà sau khi chớp được thời cơ, Đảng ta muốn bàn tới như một khẩu hiệu hành động, một mục tiêu cao nhất, lý tưởng nhất trong trận quyết chiến chiến lược này.

        Chỉ xét về mặt văn bản thôi, cũng đã cần phải có một chuyên đề nghiên cứu riêng biệt mới có thể tiếp cận được hoàn toàn đầy đủ ý đồ chiến lược "Tết Mậu thân" của đảng (Ở đây, chúng tôi muốn lưu ý thêm rằng, ngay từ năm 1962, khi phân tích tình hình cách mạng Lào sau chiến thắng Nậm Thà, đồng chí Lê Duẩn từng lưu ý các đồng chí lãnh đạo Trung ương Cục miền Nam ràng "Đế quốc Mỹ phải thua nhưng có thể thua đến mức nào, ta phải thắng nhưng thắng đến mức nào”. Trên cương vị là Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ngay từ ngày đó, vấn đề THẮNG MỸ ĐẾN MỨC NÀO đã được đồng chí đặt ra để suy nghĩ, để "tính toán, đo lường cho chuẩn xác”. Trong những năm tiếp theo, vấn đề trên đây thường xuyên xuất hiện trong nhiều bài nói, bài viết, điện chỉ đạo... của đồng chí. (xem Thư vào Nam, Nxb Sự thật, H,1985). Trong thư gửi Khu ủy Sài Gòn - Gia Định ngày 1 tháng 7 năm 1967, đồng chí Lê Duẩn viết: “Phấn đấu tiến tới tổng công kích - tổng khởi nghĩa là quyết tâm cách mạng rất cao, là phương pháp cách mạng rất quyết liệt, rất triệt để của chúng ta. Song mặt khác, chúng ta phải có sách lược mềm dẻo và biết thắng với mức độ thích hợp". Gần ba tháng sau đó, trong cuộc họp Bộ Chính trị tháng 10 năm 1967 bàn về "Tết Mậu thân", đồng chí Trường Chinh chủ trì cuộc họp đâ kết luận: "Ta tranh thủ giành thắng lợi cao nhất, song cũng có thể đạt mức độ thôi". Phát biểu trong Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 14 (tháng 1 năm 1968), đồng chí Lê Duẩn cho biết, đã một số lần, đồng chí "nói chuyện với các đồng chí Lưu Thiếu Kỳ, đồng chí Brêgiơnhép là chúng tôi biết khởi sự cuộc chiến tranh thì chúng tôi biết kết thúc cuộc chiến tranh. Ta độc lập không nghe ai cả"... Những ý kiến phát biểu trên đây của một số đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng là cơ sở rất quý, đặc biệt với những ai muốn tìm hiểu sâu hơn ý đồ chiến lược của cơ quan chỉ đạo chiến lược của Việt Nam trong dịp "Tết Mậu thân").

----------------------
        1. Cuốn Lịch sứ Bộ chl huy Miền (1961-1976) (do Nxb Chính trị quốc gia ấn hành năm 2004.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #37 vào lúc: 06 Tháng Ba, 2017, 10:41:26 pm »

       
CHƯƠNG II

TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY TẾT MẬU THÂN, ỨNG PHÓ CỦA MỸ, NGỤY TRÊN CHIẾN TRƯỜNG

        I. CHUẨN BỊ VÀ NGHI BINH CHIẾN LƯỢC

        Chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân là cả một quá trình nỗ lực phấn đấu, khắc phục nhiều gian khổ, khó khăn của các cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo chiến lược, của các cấp lãnh đạo, chỉ huy trên chiến trường, của quân và dân hai miền Nam, Bắc Việt Nam.

        Ngay từ tháng 5 năm 1967, sau thắng lợi đánh bại cuộc phản công chiến lược lần thứ hai, mùa khô 1966-1967, căn cứ vào Dự thảo kế hoạch tác chiến chiến lược đã được Bộ Chính trị Trung ương Đảng thông qua lần 1, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng đã chỉ đạo các chiến trường vừa đẩy mạnh đợt tác chiến mùa mưa 1967, vừa gấp rút bắt tay chuẩn bị cho cuộc tiến công và nổi dậy năm 1968 theo phương hướng đánh lớn. Do vậy, ngay từ giữa năm 1967, trên thực tế, quân và dân ta trên cả hai miền đã đi vào chuẩn bị cho Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968.

        Trên miền Bắc, cuối tháng 7 năm 1967, Quân ủy Trung ương mở các lớp tập huấn nhằm quán triệt về tình hình và nhiệm vụ mới cho cán bộ cao cấp, trung cấp trong toàn quân. Tháng 8 năm 1967, lực lượng vũ trang nhân dân mở cuộc vận động lớn "Nâng cao chất lượng, phát huy sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược". Các sư đoàn dự bị chiến lược 308, 304, 320, 312 gấp rút kiện toàn về tổ chức, lực lượng, biên chế, trang bị vũ khí, khẩn trương triển khai công tác huấn luyện chiến đấu nhằm nâng cao trình độ tác chiến hiệp đồng quân binh chủng. Lực lượng phòng không, phòng thủ bờ biền, lực lượng giao thông vận tải, công binh... chấn chỉnh về tổ chức, tăng cường về số lượng, hoàn chỉnh thế trận nhằm bảo vệ vững chắc miền Bắc, giữ vững mạch máu giao thông chi viện cho chiến trường. So với năm 1965, đến cuối năm 1967, số trung đoàn, tiểu đoàn pháo cao xạ tăng từ 2,5 lần đến 4,7 lần; số trung đoàn tên lửa tăng 5 lần, các trận địa ra đa cảnh giới tăng 2 lần. Lực lượng phòng không của dân quân, tự vệ phát triển về số lượng, được trang bị thêm các loại súng máy và cao xạ. Các lực lượng vận tải quân sự của Bộ Quốc phòng, của các quân khu cũng được tăng cường và phối hợp hoạt dộng chặt chẽ với lực lượng giao thông vận tải dân sự. Tháng 9 năm 1967, Hội đồng Chính phủ tổ chức Hội nghị phòng không nhân dân nhằm rút kinh nghiệm công tác phòng không, phòng tránh máy bay, công tác khắc phục hậu quả đánh phá của địch, công tác duy trì và bảo đảm sinh hoạt, sản xuất trong điều kiện dịch đánh phá ác liệt. Từ kinh nghiệm của các địa phương, Hội nghị đã đề ra các giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả của công tác phòng không, phòng tránh và bảo đảm sinh hoạt, sản xuất trong thời gian tới, đề phòng các bướt leo thang và các thủ đoạn đánh phá mới của không quân, hải quân Mỹ. Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng chỉ đạo chặt chẽ việc chuẩn bị và triển khai phương án đánh địch đổ bộ đường biển, đổ bộ đường không vào Nam Quân khu 4. Phương án này được quán triệt sâu rộng trong các đơn vị vũ trang và nhân dân trên địa bàn Quân khu.

        Nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Binh chủng Đặc công. Ngày 19 tháng 3 năm 1967, Binh nhung Đặc công chính thức ra đời. Ngay sau đó, Binh chủng được lệnh khẩn trương tổ chức các đơn vị đặc công tăng cường cho các chiến trường, bổ túc, đào tạo cán bộ đặc công cho toàn quân. Trong năm 1967, Binh chủng đã huấn luyện được 3.835 chiến sĩ đặc công, đào tạo và bổ túc gần 1.000 cán bộ trung đội, đại đội và tiểu đoàn, tăng cường cho chiến trường miền Nam 2.563 cán bộ, chiến sĩ.

        Để đảm bảo lực lượng chiến đấu trên chiến trường miền Nam và ở hậu phương miền Bắc, công tác tuyển quân được xúc tiến mạnh mẽ. Chỉ một thời gian ngắn, hàng vạn nam nữ thanh niên có trình độ văn hóa, có giác ngộ chính trị có sức khỏe được động viên vào lực lượng vũ trang và thanh niên xung phong. Trong năm 1967, số quân rời hậu phương miền Bắc vào chiến trường miền Nam chiến đấu tăng 1,5 lần so với năm 1966. Từ quý II năm 1967 đến quý I năm 1968, 15 vạn 5 ngàn quân đã được đưa vào miền Nam. Trong hơn 2 tháng, nghĩa là từ cuối tháng 12 năm 1967 đến cuối tháng 1 năm 1968, miền Bắc tổ chức chuyển vào chiến trường một khối lượng vật chất gồm 3 vạn tấn; riêng mặt trận Thừa Thiên - Huế, Binh trạm 42 tổ chức chuyển gấp 3.000 tấn lương thực, vũ khí, đạn dược phục vụ cho việc đánh chiếm Huế.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #38 vào lúc: 06 Tháng Ba, 2017, 10:44:58 pm »


        Trên tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn, Đoàn 559 nhanh chóng mở rộng mạng đường, tăng thêm lực lượng và phương tiện, cải tiến phương pháp ván chuyển, bảo vệ vận chuyển. Mặc dù địch đánh phá ngăn chặn quyết liệt bằng nhiều thủ đoạn nhưng đến cuối năm 1967, tuyến vận tải chiến lược tiếp tục vươn sâu xuống các mặt trận, vươn xa về phía nam với mạng trục ngang 800km, mạng trục dọc 3.000km, mạng đường vòng tránh 500km và hệ thống binh trạm, kho tàng, bến bãi ẩn dưới tán cây rừng Trường Sơn. Nhờ đó 6 tháng cuôl năm 1967, tuyến vận tải chiến lược đã nhận từ miền Bắc, vận chuyển vào Nam một khối lượng vật chất lớn gấp 6 lần năm 1965, đảm bảo hành quân cho hàng chục vạn lượt người từ Bắc vào Nam và từ Nam ra Bắc.

        Được miền Bắc dồn sức chi viện, lực lượng cách mạng miền Nam có bước phát triển nhanh chóng. Đến cuối năm 1967, lực lượng vũ trang Quân giải phóng lên tới 220.000 quân chủ lực và 57.000 quân địa phương, chưa kể dân quân, du kích, tự vệ. Ngoài số hiện có, các chiến trường còn tổ chức thêm một số đơn vị nhằm đáp ứng đòi hỏi của tình hình và nhiệm vụ mới: Miền Đông Nam Bộ thành lập Trung đoàn Quyết thắng, Khu 5 thành lập Trung đoàn 401 đặc công, Đồng bằng sông Cửu Long, Quân khu 8 thành lập 2 tiểu đoàn và tổ chức lại chủ lực Quân khu thành 2 trung đoàn; Quân khu 9 thành lập thêm Tiểu đoàn 807, đồng thời tổ chức chủ lực Quân khu thành 1 lữ đoàn và 5 tiểu đoàn.

        Cần lưu ý ở dây rằng, tại miền Nam, các chiến trường dự kiến đến giữa năm 1968 mới bắt đầu mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy, và bắt tay chuẩn bị theo dự kiến đó. Thế nhưng, tháng 10 năm 1967, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp bàn và quyết định thời điểm bắt đầu cuộc tổng tiến công và nổi dậy vào dịp Tết Nguyên đán năm Mậu thân 1968. Với thời gian còn 3 tháng, việc chuẩn bị trở nên cập rập. Trong một thời gian ngắn, các chiến trường, các mặt trận, các địa phương phải khẩn trương hoàn chỉnh phương án, kế hoạch công kích, khởi nghĩa; tổ chức, điều động, bố trí lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị và binh vận; phân chia chiến trường; tổ chức hệ thống đảm bảo hậu cần; triển khai mạng lưới giao liên từ căn cứ tới vùng ven vào nội thành; chuẩn bị khu vực ém giấu lực lượng, vũ khí và các bàn đạp xuất phát tiến công; tổ chức điều tra các mục tiêu và nắm tình hình địch ở nội đô... Để khắc phục mâu thuẫn giữa thời gian quá ngắn và nội dung chuẩn bị quá nhiều, các chiến trường đã phân cấp, phân hướng, trên, dưới đồng thời chuẩn bị.

        Tại chiến trường miền Đông Nam Bộ, tháng 10 năm 1967, Trung ương Cục miền Nam quyết định giải thể Quân khu I miền Đông, Quân khu IV Sài Gòn - Gia Định, thành lập Khu trọng điểm gồm Sài Gòn - Gia Định và một số địa phương thuộc các tỉnh bao quanh như Long An, Hậu Nghĩa, Bình Dương, Biên Hòa. Trên cơ sở "Kế hoạch X" được khởi thảo cuối năm 1964 và được bí mật chuẩn bị trong các năm sau đó (Cuối năm 1964 đầu năm 1965, Trung ương Cục miến Nam hoạch định kế hoạch đón thời cơ, thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa giành thắng lợi quyết định. Kế hoạch tuyệt mật này mang tên "Kế hoạch X”, lấy Sài Gòn - Gia Định làm địa bàn trọng điểm thực hiện kế hoạch. Tuy nhiên sau đó, vì Mỹ ồ ạt đưa quân viễn chinh vào miền Nam nên việc xúc tiến thực hiện kế hoạch bị hoãn lại), giờ đây Trung ương Cục quyết định chia Khu trọng điểm thành 6 phân khu. 5 phân khu vòng ngoài được lập ra với ý nghĩa lấy Sài Gòn, Chợ Lớn và tỉnh lỵ Gia Định làm mục tiêu tiến công và các vùng bao quanh là những bàn đạp xuất phát tiến công. Về địa hình, 5 phân khu này có vùng nông thôn, vùng ven đô và một số quận nội thành. Ở nội thành có phân khu 6. Đây là phân khu không bao gồm các khu vực địa lý mà chỉ phụ trách các lực lượng quân sự, chính trị hoạt động trong nội thành. 5 phân khu bao quanh gồm:

        -  Phân khu 1 ở hướng Bắc và Tây Bắc Sài Gòn, lấy chiến khu Bời Lời vùng Bưng Còng làm căn cứ xuất phát tiến công xuống phía Bắc.

        -  Phân khu 2 ở hướng Tây và Tây Nam, lấy vùng Vàm Cỏ Đông làm căn cứ tiến xuống các khu vực mục tiêu ở Bà Quẹo phía Tây Sài Gòn và Mũi Tàu Phú Lâm.

        -  Phân khu 3 ở phía Nam, lấy vùng Đông Nam Bến Lức và khu vực dọc theo sông Nhà Bè làm căn cứ tiến xuống các khu vực mục tiêu cầu chữ Y và khu Khánh Hội.

        -  Phân khu 4 ở hướng Đông, lấy vùng giồng Ông Tố và khu vực Hiệp Bình làm căn cứ tiến quân xuống các khu vực cầu Xa Lộ và cầu Bình Lợi.

        -  Phân khu 5 ở hướng Đông Bắc, lấy vùng Tây Bắc Tân Uyên làm căn cứ tiến xuống khu vực phía Tây Thủ Đức, cầu Xa Lộ, cầu Bình Lợi1 (Cụ thể hơn, mỗi phân khu bao gồm địa bàn các địa phương sau: Phân khu 1: gồm một phần huyện Trảng Bàng và các huyện Dầu Tiếng, Bến Cát, Củ Chi, Hóc Môn, Gò Vấp. Phân khu 2 gồm Bắc Long An (Đức Hòa, Đức Huệ, Bến Thủ), Bình Tân (Bình Chánh, Tân Bình), Quận 6, Quận 5, Quận 3. - Phân khu 3 gồm Nam Long An (Chầu Thành, Tán Trụ, Cần Đước, Cần Giuộc), Nhà Bè, Quận 8, Quận 7, Quận 4, Quận 2. Phân khu 4 gồm Thủ Đức, Thạnh Mỹ Tây, Quận 9, Quận 1. - Phân khu 5 gồm Tân Uyên, Lái Thiêu, Dĩ An, Bình Hòa, Phủ Nhuận và một phần đất của Quận 1, Quận 3).

---------------------
        1. Số liệu dẫn trong tài liệu số 790 tại kho K4 Bộ Quốc phòng.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #39 vào lúc: 06 Tháng Ba, 2017, 10:46:28 pm »


        Ở các phân khu, Trung ương Cục chỉ định Phân khu ủy và Bộ chỉ huy phân khu. Mỗi Phân khu ủy chia làm hai bộ phận, một bộ phận chỉ đạo các hoạt động trên địa bàn nông thôn và một bộ phận chỉ đạo các hoạt động trên địa bàn đô thị thuộc phân khu. Các phân khu ủy chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Khu ủy Khu trọng điểm do đồng chí Nguyễn Văn Linh làm bí thư. Về mặt quân sự, Trung ương Cục quyết định thành lập hai Bộ chỉ huy tiền phương: Bộ Chỉ huy tiền phương 1 (hoặc gọi là Bộ Tư lệnh Tiền phương Bắc) do đồng chí Trần Văn Trà làm Tư lệnh, phụ trách các mũi phía Đông, phía Bắc và các đơn vị chủ lực Miền; Bộ Chỉ huy tiền phương 2 (hoặc còn gọi là Bộ Tư lệnh Tiền phương Nam) do đồng chí Võ Văn Kiệt làm Tư lệnh phụ trách các mũi phía Nam, Tây Nam và các lực lượng nội thành. Toàn bộ các lực lượng vũ trang chiến đau trên Mặt trận Sài Gòn - Gia Định được chia làm 3 khối.

        -  Khối biệt động thành gồm hơn 100 cán bộ, chiến sĩ biệt động từ Đoàn F100 giải thể, tổ chức thành 3 cụm, mỗi cụm phân thành từng đội. Nhiệm vụ của Khối là đồng loạt đánh chiếm các mục tiêu Bộ tổng tham mưu ngụy, dinh Độc Lập, Đài phát thanh, Bộ Tư lệnh hải quân, Tòa Đại sứ Mỹ (Được giao nhiệm vụ tổ chức đánh Tòa Đại sứ Mỹ vào giờ chót (ngày 25 tháng 1 năm 1968), trong khoảng thời gian ngắn, đồng chí Ba Đen đã khẩn trương "gom nhặt" từng người trong đội bảo đảm, thành lập Đội biệt động 11 gồm 17 cán bộ, chiến sĩ để thực hiện nhiệm vụ này), Biệt khu Thủ dô, Khám Chí Hòa, Tổng nha cảnh sát. Theo kế hoạch, sau khi đánh chiếm, các đội biệt động sẽ phải trụ lại trong khoảng thời gian từ nửa giờ đến 2 giờ, chờ các tiểu đoàn mũi nhọn và lực lượng thanh niên, sinh viên đến tiếp ứng (Theo kế hoạch, sau khi đánh chiếm, các đội biệt động ở các mục tiêu sẽ được tiếp ứng như sau: Bộ Tổng tham mưu ngụy: 2 tiểu đoàn mũi nhọn và 5.000 thanh niên, sinh viên. - Biệt khu Thủ đô: 1 tiểu đoàn mũi nhọn và 1.000 thanh niên, sinh viên. Khám Chí Hòa. 1 tiểu đoàn mũi nhọn và 1.000 thanh niên. sinh viên. - Tổng Nha cảnh sát: 2 tiểu đoàn mũi nhọn và 1.000 thanh niên, sinh viên. Dinh độc Lập: 1 tiểu đoàn mũi nhọn và 200 thanh niên, sinh viên. Đài phát thanh: 1 tiểu đoàn mũi nhọn và 200 thanh niên, sinh viên. Bộ Tư lệnh hải quân: 1 tiểu đoàn mũi nhọn và 200 thanh niên, sinh viên).

        -  Khối các Tiểu đoàn mũi nhọn và các lực lượng đặc công của các phân khu 1, 2, 3, 4, 6. Mỗi phân khu cô từ 4 đến 6 tiểu đoàn mũi nhọn hoặc tiểu đoàn đặc công. Các tiểu đoàn này được tổ chức và trang bị gọn nhẹ, xuất phát từ các căn cứ bàn đạp, dùng phương pháp bôn tập luồn sâu vào tiếp ứng cho các đội biệt dộng trong nội thành, đánh dịch phản kích, mở rộng khu vực kiểm soát. Một số tiểu đoàn mũi nhọn, tiểu đoàn dặc công các phân khu được giao nhiệm vụ danh chiếm các mục tiêu như sân bay Tân Sơn Nhất, cầu Bình Lợi, cầu Xa Lộ, kho quân cụ Gò Vấp...

        -  Khối chủ lực Miền được tăng cường thêm 1 trung đoàn bộ binh của Mặt trận Tây Nguyên và một số đơn vị binh chủng từ miền Bắc vào, bao gồm 3 sư đoàn bộ binh, 1 sư đoàn pháo binh, 1 trung đoàn bộ binh và các đơn vị binh chủng như công binh, đặc công, thông tin, phòng hóa... Tất cả các đơn vị này được bố trí ở khu vực vùng ven trên hướng Đông, hương Bắc và Tây Bắc Sài Gòn, có nhiệm vụ chặn đánh các sư đoàn chủ lực Mỹ, ngụy; không cho chúng quay về ứng cứu cho khu vực nội thành.

        Bên cạnh lực lượng vũ trang, cơ sở chính trị nội - ngoại thành cũng được gấp rút phát triển. Đến cuối năm 1967, ở nội thành, đã có được 19 cơ sở chính trị gồm 325 gia đình. Phần lớn các gia đình này đều ở gần các mục tiêu đánh chiếm của các đội biệt động. Ta đã tạo được 400 điểm ém giấu lực lượng, vũ khí, trang bị trong nội thành và các khu vực ven đô. Tổ chức Đảng và các đoàn thể cách mạng (công đoàn, thanh mền, phụ nữ, nông hội...) đều được xây dựng ở các quận, huyện nội ngoại thành1 (Theo số liệu của Ban lịch sử Đảng Thành phố Hồ Chí Minh, đến cuối 1967, tổ chức và lực lượng đảng viên ở một số quận như sau: - Quận 3, Quận 5, Quận 6 có 60 đảng viên, các xã đều có chi bộ Đảng. - Quận 2, Quận 4 có 14 chi bộ Đảng. Quận 7, Quận 8 có 18 chi bộ. - Quận Nhà Bè có 15 đảng viên). Nhìn chung, so với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra thì lực lượng chính trị và phong trào đấu tranh quần chúng nội, ngoại thành còn yếu. Nhiều căn cứ, lõm du kích, lõm chính trị bị địch đánh tróc, nhất là ở địa bàn Củ Chi, Hóc Môn, Gò Vấp.

        Để bảo đảm tiếp tế vũ khí, lương thực cho lực lượng vũ trang, Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền tổ chức 5 đoàn hậu cần khu vực tương đương 5 trung đoàn. Ngoài các đoàn hậu cần, lực lượng vận chuyển vũ khí hoạt động trên địa bàn vùng ven Sài Gòn cũng được tổ chức và tăng cường. Đến cuối năm 1967, Nam Bộ nhận được hơn 5.000 khẩu súng bộ binh, trong đó có súng B.40, B.41. Nhân dân vùng ven thành lập các đội cứu thương, tải thương, tiếp tế hậu cần cho bộ đội. Hàng vạn lượt người đã tham gia vận chuyển vũ khí, lương thực từ căn cứ về vùng ven.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM