Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Thế

(1/21) > >>

chuongxedap:
Tên sách: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Thế
Nhà xuất bản: Quân đội Nhân dân
Năm xuất bản: 2008
Số hoá: ptlinh, chuongxedap

Ban biên soạn:
      Thượng tá ĐẶNG VIỆT THỦY (Chủ biên)
      Đại tá ĐỒNG KIM HẢI
      Thượng tá ĐẬU XUÂN LUẬN
      Thượng úy PHAN NGỌC DOÃN
      Trung úy NGUYỄN MINH THỦY

Hoàn chỉnh bản thảo:
      Trung úy NGUYỄN MINH THỦY

LỜI NÓI ĐẦU

Việt Nam là một đất nước nằm ở ven biển Thái Bình Dương - cửa ngõ quan trọng của lục địa Đông Nam châu Á. Trải qua bao thế kỷ, bọn xâm lược phong kiến, thực dân và đế quốc nhòm ngó và xâm lăng nhưng dân tộc Việt Nam không bao giờ chịu khuất phục. Ngay từ ngày dựng nước đến nay, dân tộc ta đã phải bao phen đứng lên chiến đấu bảo vệ non sông đất nước, bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc, lập nên những chiến công oanh liệt: Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa, Điện Biên Phủ, Chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân 1975...

Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam là một kho tàng kiến thức vô cùng quý giá, xây đắp nên truyền thống quật cường, bất khuất, lòng yêu quê hương đất nước và lòng tự hào dân tộc. Việc tìm hiểu lịch sử dân tộc vừa là nhu cầu, vừa là trách nhiệm trước lịch sử để tỏ lòng biết ơn đối với công lao to lớn của tổ tiên, vừa là đòi hỏi của thời cuộc để mỗi người dân Việt Nam tự tin hội nhập cùng bạn bè quốc tế với một bản sắc dân tộc mạnh mẽ.

Với ý nghĩa đó, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân tổ chức biên soạn và xuất bản "Tủ sách lịch sử Việt Nam". Tủ sách lịch sử Việt Nam gồm nhiều cuốn, mỗi cuốn sách trình bày một cuộc khởi nghĩa cụ thể, dưới dạng hỏi đáp, ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, dễ nhớ và đảm bảo tính chính xác, khoa học.

Hy vọng "Tủ sách lịch sử Việt Nam”nói chung và cuốn sách Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Yên Thế nói riêng sẽ là người bạn đồng hành thân thiết của mỗi bạn đọc trong cuộc hành trình tìm về lịch sử dân tộc.

Mặc dù những người biên soạn đã có nhiều cố gắng, nhưng bộ sách khó tránh khỏi những thiếu sót, chúng tôi rất mong được bạn đọc lượng thứ và đóng góp ý kiến.

NHÀ XUẤT BẢN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN

chuongxedap:

Câu hỏi 1: Tình hình Việt Nam sau khi Pháp nổ tiếng súng xâm lược nước ta năm 1858?
Trả lời:

Tiếng súng xâm lược nước ta của thực dân Pháp từ năm 1858 đã phát động cả một cao trào chống giặc giữ nước trong toàn quốc. Cuộc kháng chiến anh dũng của nhân dân tuy cuối cùng đã thất bại vì sự phản phúc của triều đình, nhưng cũng đã giáng vào đầu địch những đòn chí tử, và chỉ chờ thời cơ thuận lợi lại vùng dậy với một sức mạnh phi thường. Ngay ở Nam Kỳ là nơi bị thôn tính trước tiên và do đó thực dân Pháp có đủ thì giờ tổ chức bộ máy thống trị tàn bạo để khủng bố và đàn áp những người yêu nước, phong trào tuy bị dập tắt trong căn bản, song sự uất ức, nỗi căm thù vẫn ngấm ngầm lan rộng trong nhân dân làm cho bè lũ thực dân rất lo ngại.

Nhưng Hòa ước Hắc Măng (25-8-1883) rồi Hòa ước Pa-tơ-nốt (6-6-1884) đã ghi dần những bước tiến sỗ sàng của thực dân Pháp trong âm mưu thôn tính toàn bộ Việt Nam, đồng thời cũng là một bước lùi đớn hèn của bè lũ đại phong kiến trước áp lực quân cướp nước.

Mặt khác, hết Quy ước Thiên Tân lần thứ nhất (11-5-1884) rồi Hiệp định đình chiến (4-4-1885) và cuối cùng là Hiệp ước Thiên Tân lần thứ hai (9-6-1885) quy định việc quân Thanh rút khỏi Bắc Kỳ trong một thời hạn ngắn và việc Trung Quốc công nhận những hiệp ước Pháp đã ký hay sẽ ký với triều đình Huế được thi hành đã đánh dấu sự nhượng bộ ngày càng sâu sắc của phong kiến nhà Thanh trước tư bản Pháp. Trong những điều kiện lịch sử đó, tình hình có nhiều thay đổi quan trọng bất lợi cho tiền đồ Việt Nam.

Thực dân Pháp từ nay có thể rảnh rang ngoài Bắc để tập trung lực lượng vào công cuộc "bình định”, nghĩa là tập trung lực lượng để tiêu diệt các trung tâm kháng chiến của nhân dân ta và xâm chiếm những vùng tự do rộng lớn còn lại.

Cho nên, mặc dù chính phủ Phe-ri (Jules Ferry) sụp đổ ngày 30 tháng 3 năm 1885 sau vụ quân Pháp bị quân Thanh đánh đại bại ở Lạng Sơn, chính phủ mới do Bờ-rít-xông (Brisson) lên (6-4-1885) cũng vẫn tiếp tục một chính sách thuộc địa của bè lũ tư bản tài chính. Chính phủ Pháp vẫn tiếp tục tăng viện cho đội quân viễn chinh do tướng Cuốc-xy (De Courcy) toàn quyền chỉ huy.

Lúc đó, thực dân Pháp chú trọng thực hiện ba công tác lớn: Một là, chiếm cứ các yếu điểm ở biên giới và thượng du sau khi quân Thanh đã rút về; sự rút lui của quân Thanh phải hết tháng 5 năm 1885 mới xong, nhưng lúc bấy giờ là mùa mưa, Pháp không thể hành quân đông đảo lên Việt Bắc ngay được; vả lại ở trung du, quân khởi nghĩa mạnh, chúng phải để nhiều lực lượng đánh chiếm vùng đất có vị trí chiến lược quan trọng là vùng đất từ sông Hồng lên Tam Đảo. Việc thứ hai của địch là chia quân đi trấn áp các cuộc khởi nghĩa ở đồng bằng. Việc thứ ba là mưu toan đánh gãy cánh chống Pháp ở triều đình Huế mà Tôn Thất Thuyết là vị thủ lĩnh cương quyết. Chúng mong rằng nếu bắt được Thuyết, giải tán được quân của Thuyết, thì sẽ "bình định" được các cuộc khởi nghĩa địa phương. Chúng không biết rằng chính các cuộc khởi nghĩa nhân dân ở địa phương mới nuôi dưỡng ý chí đề kháng của cánh Tôn Thất Thuyết tại triều đình Huế.

chuongxedap:

Ngày 27 tháng 6 năm 1885, Cuốc-xy cùng 4 đại đội lính thủy đánh bộ đáp 2 tàu chiến ở Hải Phòng vào Huế, với ý định cụ thể là sẽ tiến hành một cuộc "đảo chính" để thanh toán cánh kháng chiến trong triều, giải tán quân đội Huế, tức là siết chặt nền đô hộ, làm cho triều đình hoàn toàn phụ thuộc vào bè lũ cướp nước.

Trong tình thế đó, Tôn Thất Thuyết và phe chủ chiến bắt buộc phải tranh thủ hành động để tự vệ. Đêm mồng 4 rạng sáng mồng 5 tháng 7 năm 1885, quân ta nổ súng đánh úp doanh trại quân đội Pháp, nhưng cuối cùng đã thất bại. Vua Hàm Nghi xuất bôn, để lại sau lưng kinh đô Huế trong tay giặc và chìm đắm trong máu lửa. Trên đường quốc nạn, nhà vua đã hạ chiếu Cần Vương kêu gọi nhân dân toàn quốc nổi dậy chống bè lũ cướp nước hung bạo.

Kết quả cấp thời của chiếu Cần Vương là nhân dân toàn quốc đều sôi nổi hưởng ứng. Do các văn thân yêu nước lãnh đạo, cả một phong trào nhân dân kháng Pháp lan rộng khắp Trung và Bắc, trừ Nam Kỳ là nơi bị Pháp chiếm từ lâu, ở đó chính quyền thống trị của bè lũ cướp nước đã được củng cố tương đối. Tình hình đó làm cho thực dân Pháp vô cùng bối rối.

Cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam từ năm 1885 đến năm 1891, dù có Hàm Nghi đứng đầu hay là khi không có Hàm Nghi nữa, đã chứng tỏ cho bọn thực dân thấy rằng đất nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. La-nét-xăng đi đến kết luận là làm sao cho triều đình Huế mường tượng như có ít nhiều quyền hành ở ngoài Bắc, thực tế là dùng cả bộ máy của triều đình vào việc đàn áp các cuộc khởi nghĩa một cách tích cực hơn. Liền sau khi đến Huế, La-nét-xăng đã nói với bọn thực dân ở Huế chấm dứt cái mưu toan phế Thành Thái và Viện Cơ mật. Hội đồng nhiếp chính của Huế liền "trả ơn" bằng cách phát hành một chỉ dụ cho tất cả quan lại các tỉnh Bắc Kỳ phải tuyệt đối tuân lệnh của La-nét-xăng. Triều đình Huế lại còn sai hoàng thân Hoài Đức và Nguyễn Trọng Hiệp (cả hai đều là phụ chính) ra Bắc để tra xét xem các tỉnh có chấp hành chỉ dụ ấy không. Cuối năm 1891, tại Nam Định có kỳ thi Hội, thì Nguyễn Trọng Hiệp tuyên bố "đem hết quãng đời cuối cùng" để giúp La-nét-xăng "trong sự nghiệp hòa bình và tiến bộ của thực dân". Từ năm 1885 đến năm 1890, Pháp dùng chính sách vũ lực là chính, trong chính sách vũ lực đó thì dựa vào các đoàn quân lưu động trước hết. Đến năm 1891, thực dân Pháp, nhất là với tên toàn quyền La-nét-xăng, dùng một chính sách có mới hơn: cũng dùng vũ lực đàn áp, nhưng đàn áp đi đôi với chính trị, chủ yếu là làm sao cho triều đình, kinh lược, các quan Nam hàng tỉnh và huyện cho đến các tổng, lý cộng tác với Pháp một cách tích cực và chặt chẽ hơn.

chuongxedap:

Câu hỏi 2: Đặc điểm chung của cục diện chính trị ở đồng bằng và trung du từ năm 1889 đến năm 1897 như thế nào?
Trả lời:

Đặc điểm chung của cục diện chính trị thời kỳ này là một sự chuyển hướng của Pháp trong sự cộng tác với tầng lớp phong kiến đầu hàng. Trong óc bọn thực dân ở Pa-ri, sẵn có định ý rằng Bắc Kỳ là một nước riêng (như hồi Nguyễn - Trịnh phân tranh), rằng người dân Bắc Kỳ muốn được "giải thoát" khỏi "quyền thống trị của người Trung Kỳ". Để đi đến kết luận đó, chúng căn cứ vào một hiện tượng có thật, tức các cuộc khởi nghĩa liên miên của nhân dân miền Bắc chống triều đình Huế. Chúng không hiểu hay không muốn hiểu rằng các cuộc khởi nghĩa ấy, dầu ở Bắc, ở Trung hay ở Nam, chỉ có ý nghĩa là nhân dân của một nước đấu tranh chống chính quyền phong kiến của nước ấy; thực ra là chúng lấy ý định chủ quan của chúng là muốn tách Bắc Kỳ ra khỏi Việt Nam, cũng như chúng đã tách Nam Kỳ ra khỏi Việt Nam để làm thuộc địa, lấy cái ý định chủ quan ấy để làm tiêu chuẩn mà nhận xét ý nghĩa của các cuộc khởi nghĩa. Lúc ấy, bọn chủ trương trực trị là đa số trong đám thực dân ở Sài Gòn, hay Pa-ri, hiềm vì, nếu muốn trực trị luôn ở Trung Kỳ thì phải bỏ vua, bỏ triều đình - điều ấy chưa tiện cho chúng nó - nên chúng nó hẳn tìm cách trực trị Bắc Kỳ đã. Đoạn trích sau đây trong quyển "La colonisation Française de l'Indochine" của La-nét-xăng đã cho biết sơ qua chính sách cai trị của Pháp ở Bắc Kỳ từ 1885 đến 1891.

"Mỗi khâm sứ hay là mỗi toàn quyền chỉ theo ý riêng mình mà lạm, hoặc chà đạp Hòa ước Pa-tơ-nốt 1884, hoặc đòi hỏi thực hiện hòa ước ấy, tùy thời cuộc hay là tùy chủ trương mỗi lúc khác nhau; ông này thì ra sức xâm chiếm phần đất này hay phần đất nọ của nước An Nam, ông khác thì thôi, không chịu theo những phương hướng cố gắng của người đã cai trị trước mình; ông này thì hứa hẹn đủ điều với triều đình Huế, ông khác lại bác bỏ tất cả yêu cầu của triều đình Huế; vả lại, tất cả các ông ấy đều khinh miệt bộ máy cai trị của triều đình Huế ở Trung Kỳ cũng như ở Bắc Kỳ, tất cả đều để cho các công sứ cai trị theo ý riêng của họ. Không có quy củ thể lệ phương pháp gì cả, một ông công sứ có một phương pháp riêng, hễ công sứ đổi thì đổi cách cai trị. Mà từ 1883 đến 1891, đã có tới 20 ông quan tổng khâm sứ Bắc Kỳ và 7 ông khâm sứ Trung Kỳ. Tôi không nói đến sự thay đổi chành chạnh những ông công sứ ở tỉnh này tùy hứng của các ông khâm sứ với những lý do nhỏ nhặt. Thường thường người ta thấy nhiều ông công sứ hễ bị đổi từ tỉnh này sang tỉnh khác thì mang theo ông một số quan An Nam. Nhưng sự thay đổi chành chạnh ấy chỉ tổ đem lại một tình trạng rất là vô chính phủ"1.

Bọn thực dân Pháp lúc bấy giờ có ý định phế vua Thành Thái, bắt bỏ tù hay giết đi một số quan to ở triều đình mà chúng nó tưởng đâu là kẻ ngầm xui các cuộc khởi nghĩa không ngớt; kỳ thật triều đình chẳng dính dấp gì đến các cuộc khởi nghĩa cả. Duy nhà vua bù nhìn ngồi, không tý quyền hạn dù rất phụ thuộc, thì nhà vua bù nhìn này cũng bất mãn. Thực dân Pháp thì nay xéo góc cực Nam của Trung Kỳ, mai xéo đầu cực Bắc của Trung Kỳ, luôn luôn theo chính sách của Puy-ghi-nhê là chính sách triệt hạ sĩ phu, không tin dùng ngay cả số đông bọn quan lại theo triều đình Đồng Khánh (và Thành Thái) cho nên triều đình mất cái phần còn sót lại uy tín của nó, nó bất mãn, huống hồ gì bổng lộc của quan lại chẳng còn là mấy, phần chính đã vào tay thực dân rồi. Triều đình bù nhìn Huế dù bù nhìn cũng không thể không thấy Pháp chà đạp Hòa ước 1884, toan cắt 3 tỉnh Nam Trung Kỳ cho Nam Kỳ và tách hẳn Bắc Kỳ ra khỏi Việt Nam.
________________________________
1. Lanessan, La colonisation Française de l’IC, tr.23.

chuongxedap:

Năm 1891, La-nét-xăng sang làm toàn quyền; tên này cai trị trên 3 năm. Hắn thấy rằng không thể trắng trợn cắt xéo như trước, không thể "bình định" mà không có sự công tác mật thiết hơn, sự tham gia tích cực hơn của cả bộ máy của triều đình Huế. Hắn nhận định rằng:

"Thực ra, Trung Kỳ, Bắc Kỳ mà cả Nam Kỳ nữa, là ba bộ phận của một vương quốc rất thống nhất (aussi unique possible), trên đất ấy có một dân tộc cùng nói một thứ tiếng với nhau, có những phong tục giống nhau, có tôn giáo giống nhau, có tổ chức xã hội và cai trị giống nhau, tất cả đều công nhận uy quyền của Hoàng đế và kính trọng quan lại do Hoàng đế cắt cử. Thật đã có ở Bắc Kỳ những cuộc nổi loạn chống ông vua này hay ông vua khác, cũng như việc ấy đã xảy ra ở nước Pháp trước đây, nhưng không bao giờ Bắc Kỳ tự xem là tách biệt vối nước An Nam. Hơn nữa, danh từ Tonkin không có trong tiếng nói của người An Nam, chỉ có danh từ Bắc Kỳ, tức là những tỉnh ở miền Bắc nước An Nam, cũng như Nam Kỳ là những tỉnh ở miền Nam của nước ấy… Bằng cách toan cắt đứt Bắc Kỳ ra khỏi nước An Nam, chúng ta đã gây ra nhiều thù địch trong cả hai bộ phận của nước An Nam, mà không gây được chút lòng tin nào ở Bắc Kỳ như người ta đã hứa"1.

Chữ "người ta" ở đây là chỉ một cánh thực dân và đám giáo sĩ Pháp.

Cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam từ năm 1885 đến năm 1891, dù có Hàm Nghi đứng đầu hay là khi không còn có Hàm Nghi nữa, đã mở mắt bọn thực dân rằng đất nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một.

Viên kinh lược Bắc Kỳ báo cáo tình hình năm 1891 với chính phủ Pháp rằng, sở dĩ nhân dân nổi lên mà không đàn áp nổi là vì:

“Xét đến cội rễ, tôi thấy quan Nam đã chẳng có binh lính trong tay mà cũng không có uy tín, quyền hành gì; cho nên kẻ cướp, kẻ phiến loạn không sợ và nổi lên làm chủ các nơi”.
_____________________________
1. Lanessan, La colonisation Française de l’IC, tr.25, 26.

Navigation

[0] Message Index

[#] Next page