Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 26 Tháng Tư, 2024, 09:05:02 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Xuân giải phóng  (Đọc 41445 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #150 vào lúc: 21 Tháng Hai, 2017, 10:49:36 pm »


Chương 21

CHẬP CHỜN

        Những dải rừng nhiệt đới ở cuối dãy Trường Sơn trải rộng về phía nam, nối liền với những khu rừng cao su bạt ngàn, kéo dài đến sát bờ sông Đồng Nai. Địa hình trên phía tây và nam thành phố thì khác hẳn. Loại trừ khu Vĩnh Lộc hơi cao ráo một chút, còn lại là sông rạch, bưng sình. “Hòn ngọc Viễn Đông” được những con sông lớn viền lấy bốn chung quanh, như những vòng hào quanh đem lại cho thành phố bầu không khí trong lành mát mẻ, dòng nước ngọt tưới khắp nơi làm cho vành đai ven đô thêm mầu mỡ, bốn màu cây xanh tươi, nặng trĩu hoa thơm quả ngọt nổi tiếng khắp cả nước, với măng cụt ở Lái Thiêu, với bưởi Biên Hoà…

        Cái tên “hòn ngọc Viên Đông” đã có từ thời thực dân Pháp, chỉ nói lên được sự hấp dẫn của một thành phố vừa đẹp, vừa giầu. Với những người Việt Nam chúng ta, cái tên ấy rõ ràng là chưa đủ. Tuy Sài Gòn-Gia Định, không có lịch sử gần 1000 năm như Hà Nội, với những tên làm rạo rực lòng người như Thăng Long, Đông Đô, nhưng bước vào thế kỷ 20, không ai còn lạ gì với bến Nhà Rồng, nơi Bác cất chân ra đi tìm cách mạng, mười tám thôn Vườn Trầu, Bà Điểm, Bàn Cơ. Những dòng máu của các bậc cha anh tưới trên mảnh đất này đã viết lên những trang sử vẻ vang trong cuộc đấu tranh một mất một còn với chủ nghĩa thực dân cũ. Có lẽ vì thế, mà người Việt Nam chúng ta đã dành riêng cho thành phố này cái vinh dự được mang tên đẹp nhất: thành phố Hồ Chí Minh. Trong lúc trên toàn đất nước Việt Nam, núi rừng đang chuyển động, cả dân tộc hưởng ứng lời kêu gọi của Trung ương Đảng, nhất tề xông lên, dốc toàn lực cho trận quyết chiến cuối cùng với khí thế triều dâng thác đổ, thì ở Sài Gòn-Gia Định, đối phương, một mặt gấp rút co về phòng thủ theo kế hoạch mới nhất, mặt khác, lo tháo gỡ ngòi nổ chỗ này, luồn luỵ nơi khác, hòng cứ vãn tình hình.

        Sau những thất bại liên tiếp ở quân khu 1 và 2 và gần đấy nhất, sau các trận Xuân Lộc, Tân An, lực lượng trong khu vực Sài Gòn-Gia Định còn lại cũng khá đông: hơn 15 vạn quân chủ lực, hơn 9 vạn quân địa phương, trên nửa triệu dân vệ, biên chế thành 6 sư đoàn và 5 trung đoàn chủ lực bằng 80 tiểu đoàn, 40 đại đội và gần 1.000 trung đội dân vệ, trên 400 khẩu pháo, 600 xe tăng, 800 máy bay và ngót 1.000 tàu chiến. Lực lượng cảnh sát ác ôn ở các nơi chạy về còn trên 10 vạn. Đấy là chưa tính đến trên 17 vạn chủ lực và địa phương, một số khá nhiều binh quân chủng ở vùng 4, tuy có bị đánh, nhưng chưa bị sứt mẻ nhiều, và còn có khả năng đôn quân bắt lính.

        Vì vậy, cho đến trung tuần tháng 4 năm 1975, trong số chóp bu của ngụy quyền Sài Gòn, trong toà đại sứ Mỹ, còn có nhiều kẻ đinh ninh rằng chế độ còn có thể ngoắc ngoải kéo dài đến mùa mưa, và lối thoát cuối đường hầm sẽ là một cái bàn tròn có phủ thảm xanh.

        Để thực hiện ý đồ chiến lược này, tiếp đến việc phân chia lại giới tuyến chiến đấu như đã nói trên, kế hoạch phòng thủ được điều chỉnh lại như sau:

        Sư đoàn 18 co về phụ trách Bầu Cá, Trảng Bom, Suối Đỉa.

        Sư đoàn thuỷ quân lục chiến về Long Bình; lữ 3 kỵ binh làm dự bị đứng ở Gò Vấp, Lái Thiêu.

        Sư đoàn 25 và mấy trung đoàn vẫn còn nằm chết cứng ở Tây Ninh.

        Sát ven đô, do một lữ đoàn dù, sư đoàn biệt động quân mới thành lập và lực lượng tại chỗ trấn giữ, tổ chức thành 4 khu vực phòng thủ:

        Khu bắc bao gồm Hóc Môn-Cầu Bông trở vào Tân Sơn Nhất thì do tiểu đoàn 9 biệt động quân và trung tâm huấn luyện Quang Trung phụ trách.

        Khu tây gồm Vĩnh Lộc, Châu Hiệp, Bà Hom, Bình Chánh trở vào do hai liên đoàn biệt động quân số 7, số 8 và liên đoàn bảo an 239 phụ trách.

        Khu dông Gò Vấp-quận 9 thì do lữ đoàn 4 dù và liên đoàn 951 bảo an phụ trách.

        Khu nam gồm Nhà Bè, Nhơn Trạch thì giao cho lực lượng bảo an.

        Nội đô tổ chứ thành 5 liên khu, mỗi liên khu có 2 quận: 1 và 3, 2 và 4, 6 và 7, 10 và 11, tất cả đều do lực lượng cảnh sát, phòng vệ dân sự đảm nhiệm. Đây là lực lượng chính để chống xâm nhập và nổi dậy. Những nơi quan trọng vẫn giữ hình thức yếu khu như Nhà Bè, Tân Sơn Nhất, Bình Phước, Bộ Tổng tham mưu, Cát Lái. Riêng dinh tổng thống coi như một cứ điểm độc lập, có một bộ phận liên đoàn an ninh thủ đô phụ trách, được tăng cường thêm 1 lữ đoàn dù.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #151 vào lúc: 21 Tháng Hai, 2017, 10:51:33 pm »


        Vẫn còn chưa được an tâm vì không còn một tên quân dự bị nào nữa, Thiệu quyết định thành lập thêm lực lượng tại chỗ: ở ngoại thành, tổ chức cấp tốc 8 đại đội địa phương cho các quận, còn bên trong mỗi khóm xây dựng 1 trung đội nghĩa quân, tổng số lên đến 300 trung đội.

        Âm mưu cơ bản của Thiệu là cố kéo dài cuộc chiến tranh trong vòng một tháng nữa thôi, nên có bao nhiêu vốn liếng trong tay đều dàn cả lên tuyến 1, dựa vào các cụm chốt của Mỹ để lại: Đồng Dù, Lai Khê, Biên Hoà, Long Bình. Đằng sau tấm lá chắn ấy, từ ngoại ô trở vào đến trung tâm thành phố thì giao cho lực lượng chống nổi loạn. Đời xưa có người đưa quân ra ngăn chặn địch, bố trí trận địa quay lưng về sông sâu. Lý lẽ là: đưa quân sĩ đứng trước cái chết để chúng tìm ra lẽ sống. Thì ra, cuối thế kỷ 20 này, mà Mỹ-Thiệu cũng đem ra vận dụng kinh nghiệm của thời xa xưa ấy. Những cụm chốt Mỹ rất cứng, rất mạnh, chung quanh Sài Gòn, đều xoay lưng về những con sông lớn. Nếu dùng để làm bàn đạp đi tiến công, đi tìm diệt, thì rất thuận lợi; nhưng để tử thủ cho Sài Gòn-Gia Định thì thật là trái khoáy; nhất là binh lính chốt giữ lại là những người sẵn đã mất tinh thần. Những chướng ngại vật thiên nhiên vô cùng quý giá cho công tác phòng thủ lại chẳng kết hợp được tí gì với hoả lực và tác dụng của những chiếc cầu lớn trên sông, làm cho số lính bại trận rộng đường tháo chạy hơn là để phản kích, phản công. Có thể là lúc bấy giờ, thì không cho phép để nghiên cứu kỹ về mặc quân sự, nên cả thầy lẫn trò quên khuấy những nguyên tắc cơ bản của chiến đấu phòng ngự chăng?

        Quân sự thì thế, dường như người ta đổ xô vào mặt chính trị. Với toàn bộ vốn liếng còn lại, những tay đầu cơ chính trị lại được dịp thi thố tài năng. Người ta thấy xuất hiện ở Sài Gòn thượng nghị sĩ Trần Văn Đôn, nói là mới ở Pháp về. Đôn rêu rao là có gặp cả thủ tướng J.Sirac. Ông này cho Đôn biết là Bắc Việt đã chấp thuận giải pháp, và Đôn có thể thay Thiệu. Công việc phải giải quyết xong đâu đấy trong vòng 8 ngày thông qua vai trò trung gian của Pháp.

        Lịch sử quá trớ trêu: 20 năm về trước, Mỹ hất cẳng Pháp nhẹ nhàng và tàn nhẫn, thế mà gìơ đây, giữa lúc canh bạc đang tàn, người ta bỗng thấy quan hệ giữa hai vị đại sứ trở nên khăng khít lạ thường. Martin còn có sáng kiến cho phá hẳn bức tường ngắn cách hai sứ quán để hai bên qua lại dễ dàng. Hơn nữa để đỡ lộ bí mật, một đường dây điện thoại trực tiếp được nối liền hai phòng của hai vị đại sứ, càng tiện cho việc trao đổi với nhau về những vấn đề trọng đại giữa hai quốc gia.

        Những cuộc trao đổi ý kiến giữa hai vị đại sứ, dù có bưng bít đến đâu, cũng bị lọt ra ngoài và Thiệu đã đánh hơi biết được. Lập tức Thiệu ra lệnh đình chỉ ngay mọi sự tiếp xúc với đại sứ quán Pháp.

        Ngồi trong Nhà Trắng, Ford nói cứng. Ông ta cố xin cho được 722 triệu đô la viện trợ quân sự và 250 triệu đô la viện trợ kinh tế khẩn cấp. Theo ông ta, số tiền đó là cần thiết để Sài Gòn có cơ hội tự cứu, và tranh thủ thời gian cho giải pháp chính trị. So với Ford, Kissinger còn hăng hái hơn nhiều. Ngày 8 tháng 4, chính Kissinger lại một lần nữa đề nghị quốc hội đưa quân Mỹ sang để bảo vệ những người di tản; đồng thời tăng thêm viện trợ quân sự cho Thiệu. Được mớm lời, trong số đại biểu quốc hội đã có người lên tiếng đòi cho đổ bộ lên bờ biển Việt Nam vài sư đoàn để cứu các công dân Mỹ.

        Cho đến giờ phút này, Kissinger còn lớn tiếng kêu gào với quốc hội Mỹ: “Tôi nghĩ rằng người Việt Nam có thể th được các điều khoản của Hiệp định Paris quy định, có một hội đồng hoà giải, hoà hợp dân tộc”. Wayand thì khẳng định: Nếu không có viện trợ thì Nam Việt Nam sẽ sụp đổ trong vòng một tháng. Cần phải có một vài thay đổi chính phủ, mở rộng ra nội các, cho một số phần tử ôn hoà vào.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #152 vào lúc: 21 Tháng Hai, 2017, 10:52:06 pm »


        Chỉ có một số người thật sự miễn dịch với tình hình: Đó là quốc hội Mỹ. Họ bỏ qua những lời kêu gào của Ford, Kissinger, Martin. Như trong nhiều vấn đề khác, Ford chỉ biết có tiền và sức mạnh, ông ta khăng khăng đòi quốc hội khẳng định lại cho ông ta quyền dùng lực lượng quân sự, trong trường hợp có cuộc di tản đại quy mô. Ford nói: “Nếu có chuyện gì hết sức tệ hải xảy ra, thì sự rộng lượng này, ít ra cũng cho phép tiến hành một cuộc di tản có trật tự những người Mỹ và những người Việt Nam lâm nguy, mà con số này đông có tới hàng vạn người”. Kissinger không hoàn toàn như vậy. Ông ta cho là việc rút người Mỹ ra khỏi Việt Nam là không cần thiết, mà còn làm yếu thêm cho thế đứng của Thiệu. Kissinger nói: “Chớ có làm một việc gì để cho thế giới thấy rằng Mỹ không ủng hộ Thiệu”. Martin thì già trái mà non hạt, bề ngoài làm ra vẻ ít quan tâm đến vấn đề này trong lúc những người Mỹ xung quanh lo sốt vó. Kinh nghiệm khá chua xót gần đây nhất, ở Plây Cu, Đà Nẵng, Nha Trang là sau khi người Mỹ vừa rút đến đâu, thì ở đấy, các cấp chính quyền cũng theo chân thầy, sụp đổ ngay. Thậm chí cũng đã có kẻ xấu bụng còn cho rằng, những người Mỹ yếu bóng vía kia, chính là những kẻ đầu têu cho việc tháo chạy. Nếu ở Sài Gòn, vạn nhất có vấn đề như vậy xảy ra thì còn biết chạy vào đâu? Cho nên, Martin thấy cần phải tỏ rõ cho mọi người biết là Mỹ quyết tâm giữ Sài Gòn, giữ Thiệu đến cùng. Ai lại đại sứ vừa mới chân ướt chân ráo sang đây, mà bắt phải xông vào giải quyết cái vấn đề di tản hóc búa này, thì có khác gì tát vào mặt ông ta; hóa ra sang đây lần này, là để lo chuyện trốn sao? Lại còn một khía cạnh nữa, Martin cũng đã có nghĩ đến nhưng chưa dám hé răng: sự cứng nhắc của quốc hội, có thể làm cho nhiều người Việt Nam thất vọng, sự phản bội của người Mỹ sẽ làm cho họ tức giận, và biết đâu, chính những người mà Mỹ đã bỏ công, bỏ của ra nuôi dưỡng, dạy dỗ bấy lâu nay, lại không quay ngoắt một trăm tám mươi độ, lấy bạn làm thù, lấy sinh mệnh của hàng vạn người Mỹ hiện còn đang sống trên phần còn lại trên đất nước Việt Nam này để làm con tin, hoặc chí ít lấy sinh mạng của họ để đánh đổi mấy trăm triệu đô la viện trợ? Martin còn lạ gì bản chất của những người như Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Ngọc Loan, đầy rẫy trong chính quyền Thiệu? Lý lẽ, nghìa tình gì nữa, trong giờ phút nước sôi lửa bỏng này?

        Trong lúc đại sứ vẻ bề ngoài cố thản nhiên như không thì cả hai cơ quan tình báo trung ương mỹ CIA và DIA tìm đủ mọi cách để đưa người ra đi. Họ ít quan tâm đến việc Thiệu đổ hay còn, vì qua tin tức nắm trong tay, họ thừa biết rằng giờ cáo chung của Thiệu đã điểm-mà tập trung vào việc tính toán đến con đường làm ăn lâu dài sau này, trên một đất nước Việt Nam đã hoàn toàn được giải phóng và thống nhất. Từ ngày 2 tháng 4, Washington đã tổ chức một chiến dịch di tản: 2.000 trẻ em tỵ nạn được tung ra khắp thế giới để tranh thủ cảm tình, kích động dư luận. Cũng không ai buồn tra khảo, lật tẩy cái trò lừa bịp này làm gì. Chủ trương này rất phù hợp với chủ trương của DAO. Đây là một dịp để họ đưa bớt người đi khỏi Sài Gòn một cách hợp pháp, tất nhiên là qua mặt Martin. Nửa giờ sau khi có thông báo, các bà vợ, nhân viên và thư ký của DAO lên đường, gọi là đi phục vụ cho những đứa trẻ đầu tiên được hưởng ân huệ của Hoa Kỳ. Chiếc máy bay C5A-Galaxi của không quân Mỹ, loại máy bay vận tải lớn nhất thế giưới, mấy ngày gần đây, chuyên dùng để chở dịch vụ chiến tranh đến Sài Gòn, trên đường trở về Philippin mang theo 250 “em tỵ nạn” và 44 nhân viên. Sau khi rời khỏi Sài Gòn 30 phút, chiếc đèn đỏ bên cạnh bảng điều khiển nhấp nháy, báo hiệu có trục trặc về kỹ thuật, xin quay trở lại Tân Sơn Nhất. Lúc sắp hạ cánh, một tiếng nổ làm rung chuyển máy bay, phần bụng tung mất, tạo ra một áp suất thấp trong khoang hành khách. Cánh cửa bật mở, người bắn ra ngoài. Máy bay trượt ra khỏi đường băng. “Toán trẻ em giống như những mảng giẻ rách nhũn trong tay chúng tôi” một nhân viên y tế cấp cứu kể lại như thế đấy.

        Để được nhẹ tội, dồn trách nhiệm lên đầu người khác, ông đại sứ làm ra vẻ giận dữ và tuyên bố vuốt đuôi một câu “trách nhiệm thuộc về cơ quan DAO. Họ đã bí mật tổ chức cuộc di tản này, không hề báo cáo cho tôi biết. Nếu được báo cáo đầy đủ, chắc chắn là số gần 300 sinh mệnh kia đã được cứu sống rồi”.

        Có phải đâu vì lòng nhân đạo, để tránh những cuộc tắm máu tưởng tượng mà Mỹ bày ra trò di tản này. Gần 300 em bé mồ côi kia đã làm gì nên tội mà phải chịu cảnh tắm máu, trả thù? Thực ra, đây chỉ là những em bé đáng thương ở các trại mồ côi, còn các nhân viên phục vụ thì chẳng ai khác là vợ con, nhân tình, nhân ngãi của những người Mỹ trong cơ quan DAO mà thôi.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #153 vào lúc: 22 Tháng Hai, 2017, 09:09:21 am »


        Không biết từ đâu ra, Trần Văn Đôn lại còn đưa ra những tin tức làm cho Martin càng thêm do dự, ngập ngừng:

        “Cộng sản sẽ không can thiệp vào việc di tản người Việt Nam được lựa chọn và Mỹ có thể duy trì một sứ quan nhỏ ở Sài Gòn, nghĩa là những người Mỹ chính thức phải rút lui”.

        Dù điều đó có thật đi chăng nữa, thì ai cũng hiểu một cách nôm na là “ngụy phải nhào, Mỹ phải cút”. Nhưng đại sứ Martin thì cố tìm hiểu ra một cách khác. Ông ta tập trung các chuyên gia để nghiên cứu các ý định của Chính phủ cách mạng lâm thời khi nói đến những người Mỹ chính thức. Những người ấy là ai? Có phải là những người muốn lưu lại trên đất này trong cái toà đại sứ đồ sộ kia với một nhóm CIA, và gọi đó là dân thường, không hề có dính dấp gì đến cuộc chiến tranh bẩn thỉu này ư? Kissinger lại phái người đi thăm dò hoà bình nhưng chẳng đem lại kết quả gì. Gạo đã thành cơm rồi.

        Ngày 16 tháng 4, được hiểu rõ thêm một chi tiết: các lực lượng giải phóng sẽ bảo đảm việc rút lui an toàn và tức khắc các cố vấn Mỹ. Chính phủ cách mạng còn tuyên bố với các phóng viên New York thời báo: “Sẽ không cản trở nếu Mỹ rút hai vạn rưởi cố vấn quân sự ở Sài Gòn”. Chẳng cần phải hỏi lại cho lôi thôi, nhất định là Martin phải có trong số người này rồi.

        Số phận người Mỹ như thế là đã quá rõ, còn đối với những người Việt thì sao? Trong kế hoạch chính thức chọn người di tản, người Mỹ có đề ra các thỉ tiêu cụ thể, theo tứ tự ưu tiên, và có tính toán rất kỹ càng.

        Trước tiên là những nhân viên làm việc cho Mỹ, với mục đích là giữ bí mật cho Mỹ, để bịt các đầu mối sau này. Tiếp đến là chất xám những nhân viên kỹ thuật của các ngành không quân, hải quân, điện tử, bác sĩ, kỹ sư các ngành. Đứng vào hàng thứ ba là các tổng, bộ trưởng đã từng cộng tác với Mỹ, và đã cầm trong tay một số tài nguyên “tiền bạc, châu báu”, gửi ở các ngân hàng ngoại quốc rồi. Để Mỹ nắm được toàn bộ của cải nói trên, những người chủ của nó bắt buộc phải nhập quốc tịch Mỹ. Cuối cùng là các chuyên gia giàu có, lắm vàng, lắm đô la.

        Lý do nhân đạo, bảo vệ nhân quyền, không giấu nổi dã tâm của những người thực dụng. Những chỉ tiêu lựa chọn nói trên càng phơi bày bản chất thực dân. Lẽ ra thì những người đáng di tản nhất là những nạn nhân của cuộc chiến tranh bẩn thỉu mà Mỹ đã gây ra, những người mang tật nguyền suốt đời vì chất độc da cam, những thương phế binh, những vợ góa, con côi, những đứa bé mang trong người nửa phần máu Mỹ, những người mà Mỹ cầm chắc rằng suốt đời sống này sẽ rất chật vật, bấp bênh, do chính Mỹ gây ra.

        Những ai đã nắm được những bí mật trong các vấn đề kỹ thuật của Mỹ, chưa hẳn đã được trọng dụng, xem như là của quý của Hoa Kỳ. Câu chuyện sau đây xảy ra ở Cần Thơ, sẽ giúp chúng ta càng hiểu rõ thêm người Mỹ hơn.

        Tuỳ viên quân sự Mỹ Xoen Xơn và phụ tá của ông ta là Mít-sen đã nhiều lần bí mật bay đến sân bay Bình Thuỷ để họp với chỉ huy trưởng sư đoàn 4 không quân. Nội dung các cuộc họp đều hết sức giữ bí mật. Chính Nguyễn Văn Thiệu cũng không biết, mà Nguyễn Khoa Nam ở ngay đấy cũng không hay. Bọn này vạch ra một kế hoạch di tản máy bay như sau:

        - A37 sẽ bay từ Bình Thuỷ đi Utapao, nhờ có đủ xăng dầu bay được xa.

        - L.19 sẽ bay từ Bình Thuỷ-An Thới-Utapao

        - Trực trăng: Bình Thuỷ-Utapao

        An Thới là một sân bay nhỏ trên đảo Phú Quốc, sẽ có một đơn vị thuỷ quân lục chiến Mỹ đổ bộ lên chiếm trước nơi này, để bảo đảm cho phi cơ hạ cánh, tiếp tế xăng dầu.

        Biết được có một số tướng tá không quân ngụy thắc mắc, vì đã trót đưa gia đình từ Cần Thơ về Sài Gòn để đi Guam từ mấy hôm trước, Mít-sen hỏi Xoen Xơn:

        - Đối với những người này, sau khi đến An Thới, nếu không được đi Guam để gặp gia đình, họ sẽ nổi loạn.

        - Việc gặp lại vợ con hay không, sẽ không còn là thẩm quyền của họ nữa. Trường hợp đến An Thới mà nổi loạn thì sẽ cho trực thăng bao vây, bắn phá, không cho cuộc nổi loạn lan rộng ra ngoài, rồi dùng A37 ném bom phá huỷ tất cả mọi dấu vết.

        Trong các trận Bầu bàng, Bông Trang, Nhà Đỏ trước đây, sau khi bộ binh Mỹ tháo chạy, để lại chiến trường nhiềy thương binh, tử sĩ. Cách xử tri của Mỹ cũng gần như thế đấy: dùng máy bay bắn phá, rải xăng đối cháy sạch, rồi dùng máy bay lấp ủi tất cả mọi dấu vết.

        Nhanh, gọn hết chỗ nói! Nhưng rất vô nhân đạo.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #154 vào lúc: 22 Tháng Hai, 2017, 09:12:42 am »


Chương 22

NGHE CHIM TU HÚ GỌI

        Cho đến giữa tháng 4 năm 1975, khi các đơn vị chưa đến đầy đủ, lực lượng ta trên chiến trường miền Đông Nam Bộ vẫn chưa có ưu thế hơn đối phương. Sư đoàn 10 của binh đoàn Tây Nguyên đang phải đi vòng cao nguyên Lạng Biện. Đường hành quân xa xôi, mà không được tổ chức gì bảo đảm: đường sá, cầu cống, vượt sông, đều phải tự lo lấy. Lương thực, xăng dầu chẳng cơ quan nào, địa phương nào cấp phát. Trên cơ quan tham mưu chiến dịch, hàng ngày, vẫn có nhận được báo cáo đều đặn, vẽ lên bản đồ toàn bộ đội hình hành quân của sư đoàn, đơn vị ở đâu, tưởng như là nắm chắc lắm. Nhưng giá trên có hỏi bao giờ đến vị trí tập kết, có khó khăn gì cần phải giải quyết dọc đường, v.v… thì cũng chỉ có thể báo cáo một cách chung chung, phán đoán trên bản đồ, trên cảm tính mà thôi. Với Quân đoàn Quyết Thắng, thì cũng gần như vậy thôi. Chỉ biết được ngày xuất phát; được tin đang đi vào theo đường quốc lộ 1, thì lại nghe báo cáo chuyển trục hành quân từ đông sang tây, nhưng có đơn vị thì lại từ tây sang đông. Với Quân đoàn Hương Giang thì theo dõi được chặt chẽ hơn, nhưng lại còn biết bao nhiêu điều gì sẽ xảy ra: vượt qua mấy cái chốt ở Phan Rang, Phan Thiết thế nào? Liệu có đến được miền Đông Nam Bộ theo thời gian quy định hay không? Tình hình trong vùng 3, nhất là chung quanh Sài Gòn-Gia Định cũng thay đổi từng ngày một lực lượng vũ trang của thành, các đoàn đặc công, các đơn vị tự vệ, kết hợp chặt chẽ với lực lượng chính trị diệt nhiều đồn bốt ở Củ Chi-Hóc Môn-Bình Chánh-Thủ Đức, La Thành, Nhơn Trạch; thậm chí còn tập kích vào trạm kiểm soát Sa Cảng, Phú Lâm; trạm tuyển lính ở ngã tư Bảy Hiền. Việc giải phóng 7 xã gần hai vạn dân ở ngay cửa ô Sài Gòn đã tạo ra những bàn đạp vô cùng thuận lợi cho các đơn vị chủ lực của thành và lực lượng đặc công, biệt động.

        Trong lúc cơ quan tham mưu làm việc tất bật, thì việc chuẩn bị đòn nổi dậy cũng nhộn nhịp khác thường. Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Văn Linh và các đồng chí trong thành Sài Gòn-Gia Định, hàng nghìn đoàn viên, đảng viên với hơn 2 vạn rưởi quần chúng, đã xây dựng được 40 lõm chính trị ngay trong nội thành, đồng thời tạo ra được những hành lang nối liền với các bàn đạp ở ngoại ô. Nhờ đó mà phong trào phát triển rất nhanh, lực lượng chính trị chỉ trong một thời gian ngắn, đã lớn lên gấp 5, 7 lần; tinh thần quần chúng càng lên cao, thì tinh thần đối phương càng hoang mang, dao động dữ. Ngày lại ngày, ngày sau cao hơn ngày trước, cứ cuồn cuộn sôi nổi với khí thế của những ngày trước khởi nghĩa. Đã nhiều nơi ở ngoại thành, nhân dân đã th quyền làm chủ cả đêm lẫn ngày.

        Khi bắt tay vào làm kế hoạch, đã có người lo lắng: yếu tố bất ngờ của chiến dịch thế là không còn nữa; địch sẽ tháo chạy như ở miền Trung, ta sẽ không bao vây kịp, nên không có cơ hội tiêu diệt được nhiều địch, chúng sẽ kéo về đồng bằng sông Cửu Long: mà ở đây không xe tăng, pháo lớn, thì giải quyết các thành phố, thị xã như thế nào? v.v…

        Các đồng chí trong Bộ tư lệnh chiến sĩ theo dõi hàng ngày, hướng dẫn kịp thời. Có lần anh Tuấn đã giải thích cho một chiến sĩ sư đoàn 316:

        - Sài Gòn - Gia Định không phải như Huế - Đà Nẵng đâu. Mất nơi này là mất hết. Vì vậy, địch không thể bỏ đây một cách dễ dàng, nhất định nó phải giữ đến cùng. Về phần mình, ta phải buộc chúng giữ nguyên trạng thái bố trí như hiện nay. Ngay từ bây giờ phải thực hành bao bây chiến dịch, sư đoàn đồng chí phải chốt chặn dài ngày trên đường quốc lộ 1, 22, tuyệt đối không cho sư đoàn 25 ngụy hay bất cứ một lực lượng nào khác co về, tăng cường cho vành đai phòng thủ bên ngoài như Đồng Dù, Củ Chi.

        Cũng như vậy, đồng chí Lê Đức Thọ nhắc nhở cơ quan tham mưu:

        - Phải chỉ thị cho quân khu 8, quân khu 9, cách đánh địch ở đồng bằng sông Cửu Long trong lúc này. Không phải như ở quốc lộ 5 vừa rồi đâu. Không nên dùng lực lượng chủ lực của quân khu đánh vào giải phóng các thị xã như Cần Thơ, Mỹ Tho, Vĩnh Long v.v… như ta đã làm ở Huế, Đà Nẵng mà trái lại, ở đây, trong lúc này, phải dùng chủ lực để cắt đường, nhất thiết không được để cho ba sư đoàn chủ lực và các đơn vị binh khí truy kích của địch co cụm về Sài Gòn. Cứ để cho chúng rải rác quân ra ở Mộc Hóa, để ngăn chặn tuyến biên giới Campuchia, trong lúc ta đã lọt sâu vào bên trong. Đến khi ta đánh vào Sài Gòn, lực lượng của chúng sẽ tan rã. Lúc đó chúng ta đánh vào các đô thị thì rất thuận lợi, rất ít tổn thương. Thế nhưng, đối với lực lượng của địa phương thì lại khác; nơi nào giải phóng được dân thì cứ làm, càng giải phóng được nhiều bao nhiêu càng hay bấy nhiêu, đồng chí nói:

        - Hễ đánh ngã Sài Gòn-Gia Định rồi làm ăn tất cả, mà lại ăn nhanh hơn nữa là khác. Trong giai đoạn kết thúc chiến tranh, việc nắm và vận dụng phương châm cũng phải hết sức linh hoạt.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #155 vào lúc: 22 Tháng Hai, 2017, 09:14:32 am »


        Sau Xuân Lộc, thấy các quân đoàn đến chậm hơn dự kiến, ai nấy đang lo, thì được Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương chỉ thị: “Cần chuẩn bị thêm mấy ngày nữa, đến khi phần lớn lực lượng cả Quân đoàn Tây Nguyên và Quân đoàn Quyết Thắng (cả bộ binh và binh khí kỹ thuật) đến nơi sẽ bắt đầu tiến công lớn, chưa nên làm ngay bây giờ”.

        Bộ Chính trị còn hướng dẫn thêm:

        “Kế hoạch tiến công lớn và toàn diện cần bảo đảm, một khi đã phát động thì phải tiến công thật mạnh và liên tục, dồn dập cho đến toàn thắng. Vừa phát động tiến công ở ngoại vi, vừa có lực lượng đã chuẩn bị, sẵn sàng nắm thời cơ, thọc sâu vào trung tâm Sài Gòn từ nhiều hướng. Thế từ trong đánh ra, từ ngoài đánh vào, tạo điều kiện cho đồng bào nổi dậy, khong chia làm hai bước. Trong điều kiện này, thần tốc, táo bạo, bất ngờ là chỗ đó. Đó là phương hướng cơ bản và chắc thắng nhất (điện số L7 ngày 9 tháng 4, BCT gửi Trung ương Cục) .

        Xem xong bức điện này, anh Tuấn rất phẩn khởi. Những ý kiến hướng dẫn này rất phù hợp với sự suy nghĩ của các anh trong này mấy ngày qua, và cũng đã có giải đáp thắc mắc, lo lắng của cơ quan tham mưu. Được công tác lâu ngày trong Bộ Tổng tham mưu, anh em đều biết trong các chiến dịch, anh Tuấn rất quan tâm đến yếu tố bất ngờ, thường chỉ thị cho cán bộ dưới hãy luôn luôn động não, nghiên cứu tìm cách đổi mới cách đánh. Muốn chắc thắng thì phải hành động bất ngờ, nhưng muốn chắc thắng thì phải tập trung lực lượng ưu thế hơn đối phương. Hai yếu tố này thường mâu thuẫn với nhau, vì kéo dài thời gian để tập trung cho đủ lực lượng thì càng dễ lộ bí mật. Tuy nhiên, trong trường hợp này thì lại không thế. Sau những ngày cuối tháng 3 năm 1975, sau Đà Nẵng, Huế, Nha Trang, ai mà không đoán ra là sẽ đến lượt Sài Gòn, Gia Định? Bất ngờ có nhiều cách, bây giờ đây là cách đánh và thời gian đánh. Ở Buôn Ma Thuột, ta diệt được cơ quan đầu não địch ngay từ đầu. Đánh như vậy, sẽ làm cho sự chỉ huy của địch rối loạn, không còn khả năng đối phó với ta. Nhưng Sài Gòn, Gia Định đâu phải như Buôn Ma Thuột? Ngay từ phút đầu, làm thế nào đưa được xe tăng vào sâu bên trong để dùng pháo bắn thẳng, nã vào địch được không? Với cách bố trí phòng ngự như đã nói trên, dồn hết lực lượng ra ngoài, có thể chúng đinh ninh rằng ta sẽ dùng lối đánh bóc vỏ như ta đã làm ở Điện Biên Phủ trước đây. Họ sẽ lui dần từng bước, lùi đến đấu, phá huỷ cầu cống đến đó, chiếm lĩnh các vị trí, địa hình khống chế, có công sự kiên cố lắp sắn, để kéo dài cuộc chiến đấu. Cầm cự lâu thì khó, chứ kéo dài một vài tháng hay đến mùa mưa thì họ tin là có thể làm được, và mọi việc sẽ diễn biến theo một chiều hướng khác. Điều mà chúng rất bất ngờ là chỉ trong một số ít ngày, ta lại tập trung được một lực lượng rất lớn, lớn nhất từ trước đến nay đột nhiên thay đổi so sánh lực lượng, để vừa đủ sức đánh mạnh ở vòng ngoài, tiêu diệt và làm tan rã đối phương ở đây, đồng thời có sức mạnh thọc vào bên trong. Cho dù rằng họ phát hiện ta được từ xa, cách trung tâm thành phố 40-50 cây số, lại còn phải vượt qua biết bao nhiêu sông rạch mới vào được nội thành, cũng không cách gì đối phó nỏi, vì phải lo đối phó với vòng ngoài. Điều lý thú nhất đối với một người cán bộ tham mưu tác chiến là trong lúc ta chủ động tạo ra hết bất ngờ này đến bất ngờ khác, thì ngược lại đối phương lại không thể làm được như vậy đối với ta; lực lượng của chúng trước sau cũng chỉ có chừng ấy đơn vị; ta đã nắm bắt được tất cả phiên hiệu, vị trí, nhiệm vụ của từng đơn vị một. Rõ ràng là trong tung thâm, không còn có tý lực lượng dự bị nào để phản kích lớn một khi ta đã diệt được địch ở bên ngoài. Vì vậy, việc chiếm lĩnh trước các cầu là vô cùng quan trọng, bất cứ với cách đánh nào. Nhiệm vụ này đã giao cho binh chủng đặc công và bộ đội địa phương, trang bị gọn gàng. Nhưng chiễm thì dễ, mà giữ mới khó. Thế nào dịch cũng cố sống cố chết, giành đi giật lại các cầu này, vì đây là con đường rút lui sinh tử của chúng. Khi lập kế hoạch phải tính toán rất kỹ lưỡng, tổ chức chiệp đồng rất chặt chẽ, vì sớm muộn một tý, đều thành vấn đề cả.

        Phương châm tác chiến trên đề ra là hoàn toàn chính xác. Nhanh chóng, táo bạo, thần tốc, bất ngờ, chắc thắng quyện vào nhau một cách hữu cơ, cái nọ tạo điều kiện cho cái kia.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #156 vào lúc: 22 Tháng Hai, 2017, 09:17:42 am »


        Hôm nào ở Buôn Ma Thuột, anh Tuấn khi đi xem lại chiến trường, khen trận đánh vừa hay lại vừa đẹp, vì diệt địch nhanh gọn, và thị xã vẫn còn giữ được nguyên vẹn. Trong chiến sĩ này càng phải hay, phải đẹp hơn. Sẽ đánh vào Sài Gòn-Gia Định như thế nào để khỏi gây tổn thất cho đồng bào, gìn giữ những cái gì cần thiết cho công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa sau này, mà không ảnh hưởng đến việc tiêu diệt quân thù một cách triệt để và nhanh gọn. Cũng có người nói rằng, trong giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh, nhất là những ngày tàn của địch, chúng đã lâm vào bước đường cùng rồi, thì không cần phải có những trận đánh quyết liệt làm gì, trước sau rồi cũng giải quyết được vấn đề. Thực tế đã chứng tỏ rằng, sự chống đối của đối phương vẫn còn hết sức quyết liệt, cho đến phút cuối cùng. Tránh khỏi được cảnh điêu tàn đổ nát, tránh khỏi những sự nhầm lẫm thương vong vô ích là do cách đánh của ta. Vì thế việc lựa chọn từng mục tiêu trong nội thành để tiến công đã được đưa ra thảo luận rất kỹ và được các đồng chí trong Bộ tư lệnh cân nhắc từng ly từng tý. Mục tiêu hàng đầu đối với bộ binh là dinh Độc Lập rồi đến Bộ Tổng tham mưu, sân bay Tân Sơn Nhất, biệt khu thủ đô, tổng nha cảnh sát. Dinh Độc Lập là nơi đầu não của chính quyền Sài Gòn. Đánh vào các mục tiêu nói trên, thì sẽ ngã nhanh, đồng thời bảo đảm an toàn đồng bào ở các nơi khác.

        Thấy cán bộ tham mưu lúng túng trong việc lập kế hoạch phối hợp giữa đòn tiến công và đòn nổi dậy, đồng chí Nguyễn Văn Linh và đồng chí Phạm Hùng giải thích:

        “Các đồng chí phải hiểu đặc điểm của Sài Gòn-Gia Định. Với hơn hai vạn cảnh sát sẵn có, với hàng chục vạn phượng hoàng, ác ôn từ các nơi chạy về, cộng thêm bộ máy kìm kẹp như ta đã biết thì quần chúng nổi dậy thế nào cho đúng? Bọn nó giờ đây tuy hoang mang nhưng đề phòng chúng có thể điên cuồng, mất hết tính người. Trước đây, có mít tinh, xuống đường, thì chúng đối phó bằng hơi cay, dùi cui; nhưng sắp đến, khi ta nổ súng, còn đánh vào vòng ngoài, bộ phận thọc sâu chưa vào kịp mà làm như thế thì chúng có thể thẳng tay đàn áp vì chúng đã đến bước đường cùng. Nói như vậy, khong phải là không có đấu tranh chính trị phối hợp, nhưng hình thức đấu tranh thì phải khác; cuối cùng rồi cũng sẽ làm cho đối phương mất sức chiến đấu và tan rã nhanh chóng. Lực lượng chủ lực của ta chỉ đánh vào 5 mục tiêu thôi, còn các lực lượng vũ trang khác cảnh sát, ác ôn, bọn kìm kẹp thì có lực lượng của địa phương, còn đặc công, biệt động của Sài Gòn thì chiếm giữ các cầu, không để địch phá hoại để chủ lực ta có thể tiến thẳng vào các vị trí trung tâm của Sài Gòn như đã định. Công nhân sẽ đứng lên chặn bàn tay của địch, không cho chúng phá hoại các nhà máy, các xí nghiệp khác nữa”.

        Các đồng chí quân báo phát hiện có nguồn tin cho biết một lực lượng lớn của Mỹ gồm có 35 tàu chiến, 4 tàu chở sân bay đang rình rập ngoài khơi Vũng Tàu mấy hôm nay.

        Những tin tức như vậy, không làm cho một ai trong cơ quan tham mưu bận lòng, phải lo ngại. Năm xưa, cả một sư đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ đã chẳng làn nên trò trống gì ở Vạn Tường, trước vài tiểu đoàn chủ lực và mấy đại đội địa phương dân quân du kích; huống gì ngay nay,lực lượng ta như thế này, thì vài sư đoàn Mỹ làm thế nào mà đổ bộ lên được. Còn với con ngoáo ộp B52 thì quân chủng phòng không không quân đã bố trí sẵn mấy đơn vị tên lửa, với những kinh nghiệm nóng hổi nhất từ Hà Nội mới đưa vào, mấy hôm nay đã triển khai xong, ăn chực nằm chờ ở phía bắc Biên Hoà. Đối với những lời đe dọa của Kissinger, anh em trong sở chỉ huy không ai lạ gì.

        Gần như đã thành quy luật, trong khi bàn kế hoạch, vấn đề bảo đảm vật chất thường là sôi nhổi nhất, chiếm nhiều gờ và cũng đau đầu nhất. Trong chiến dịch này, cả nước lên đường, đại hậu phương xa xôi đã vươn dài đến sát phía trước, nối liền với hậu phương chiến dịch. Ngành hậu cần của Trung ương Cục, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí thiếu tướng Bùi Phùng, đã sớm hình thành nhiều khu vực bảo đảm, trên một địa bàn vừa có chiều rộng, vừa có chiều sâu. Cách tổ chức này, rất sáng tạo, khoa học cho phép khai thác và tận dụng được sức người, sức của tại chỗ, đồng thời đáp ứng kịp thời yêu cầu tác chiến của từng đơn vị.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #157 vào lúc: 22 Tháng Hai, 2017, 09:20:40 am »

          
        Xăng dầu, gạo, đạn nói chung thì không có vấn đề gì; nhưng rắc rối nhất là đạn pháo lớn và đạn chống tăng. Có đâu mà như ở Việt Nam, chẳng phải chỉ có cán bộ tham mưu hay hậu cần, kỹ thuật mới phải bận tâm đến số đạn dược của từng loại pháo, mà trong sổ tay cũng như trong trí nhớ của từng đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị cũng có ghi đầy đủ những con số này. Đồng chí thiếu tướng Doãn Tuế, là tư lệnh pháo binh của toàn chiến dịch. Ngoài nhiệm vụ chỉ huy chỉ đạo pháo binh các cấp, đồng chí còn đặc trách chỉ huy cụm pháo binh ở Hiếu Liêm, bắc sân bay Biên Hoà và cụm pháo chiến dịch có nhiệm vụ bắn vào Tân Sơn Nhất. Chưa nói đến việc diệt địch, chỉ riêng việc kìm chế các trận địa pháo địch ở rải rác xung quanh sở chỉ huy, bảo đảm không cho một quả đạn nào rơi xuống khu vực này, cũng đã cần đến một số đạn rất lớn rồi. Thế mà đồng chí chỉ nhận được một con số tối thiểu. Giữa lúc ấy thì được tin Nguyễn Thành Trung vừa mới lái chiếc máy bay F5E của không quân Việt Nam Cộng hoà, ném bom dinh Độc Lập và bay ra vùng giải phóng. Chính Nguyễn Thành Trung đã báo cáo với đồng chí Tuế phương pháp khống chế các sân bay với số lượng đạn ít nhất và hiệu quả nhất.

        Kinh nghiệm này tức khắc được phổ biến rộng rãi cho các nơi và đạt hiệu quả cao.

        Đồng chí Đỗ Văn Đức, tham mưu phó chiến dịch và tôi, phân công nhau đi kiểm tra tình hình trên các cánh tây và cánh bắc về báo cáo, càng làm cho các đồng chí trong Bộ tư lệnh thêm lo lắng. Thời gian chuẩn bị chẳng còn bao lâu nữa, mà trên cánh tây, đoàn hậu cần tập kết vật chất chưa được đầy đủ. Trên cánh đông bắc của Quân đoàn Quyết Thắng, tình hình cũng không lấy gì làm sáng sủa lắm. Tình hình của Quân đoàn Tây Nguyên, khá hơn nhiều, vì đơn vị này ngoài trang bị sẵn có, còn mang theo một số khá nhiều chiến lợi phẩm ngoài kế hoạch.

        Trong một buổi giao ban, đồng chí Lê Đức Thọ sau kế hoạch nghe báo cáo, quay sang hỏi tôi:

        - Đồng chí có biện pháo gì không?

        - Sở dĩ các loại đạn pháo lớn và đạn chống tăng ít vì từ trước đến nay, chiến trường Nam Bộ ít có những loại đạn pháo này, mà trong số đạn chiến lợi phẩm mới thu được thì lại hoàn toà không có. Đánh vào đô thị, cũng như đánh vào công sự vững chắc, mà thiếu những loại này, thì rất khó khăn. Theo tôi được biết, ở chiến trườn Trị Thiên, Khu 5 các loại đạn này còn khá nhiều, vì vừa qua, ta giải quyết nhanh, tiêu thụ ít. Đề nghị Bộ Chính trị cho hai nơi ấy, cấp tốc vét đưa vào.

        - Liệu có kịp không?

        - Thông thường phải mất cả tháng, vì theo chỗ tôi biết, thì các loại đạn này còn nằm trong các kho đặt ở trong các hậu cứ, sâu trong núi, rải rác mỗi nơi một ít. Tập trung lại cho đủ số, lựa chọn cho đúng lô, liều, mất rất nhiều thì giờ. Nhưng nếu cố gắng, hết sức may ra cũng có thể được.

        Qua ánh mắt, tôi thấy đồng chí rất băn khoăn. Đồng chí đã nói lên tâm trạng của mình, giữa những ngày này trong một bài thơi ngắn. Và đây cũng là tâm trạng của mọi người:

                                           Suốt đêm qua không ngủ,
                                           Nằm đếm tiếng mưa rơi.
                                           Lo cho anh bộ đội,
                                           Lầy lội quãng đường dài.
                                           Hết tăng rồi lại pháo,
                                           Mong chẳng thấy tăm hơi.
                                           Chiến trường chờ từng phút,
                                           Đừng mưa nữa mưa ơi.
                                           Để đường mau khô ráo,
                                           Cho xe vào tới nơi…


“Mưa rơi” Lộc Ninh        
9-4-1975                
       Sau này được biết, vừa nhận được điện của anh Sáu Thọ, các đồng chí Võ Chí Công và thượng tướng Chu Huy Mân đã họp ngay cơ quan lại để bàn việc thực hiện. Tuy bận rất nhiều công việc, nào phải lo tiếp quản các tỉnh và thành phố, ổn định đời sống cho hàng mấy triệu dân ở vùng giải phóng, Khu uỷ Khu 5 vẫn đặt vấn đề chi viện đạn dược cho chiến dịch lên hàng đầu. Quân uỷ Khu uỷ đã tập trung tất cả cán bộ, phương tiện, khả năng sẵn có, lập ra ban kiểm tra đạn pháo, và từng ngày ngày, từng giờ đôn đốc việc thực hiện. Kết quả là mấy hôm sau, thiếu tướng Võ Thứ, phó tư lệnh khu và đồng chí Giang chủ nhiệm hậu cần quân khu 5 đang kẻ trước người sau, áp tải một đoàn xe hàng trăm chiếc, chở đầy đạn dược, đúng theo yêu cầu, đến bàn giao cho Quân đoàn Quyết Thắng giữa tiếng reo hò của toàn đơn vị, vì giờ xuất kích sắp đến nơi rồi, mà chỉ còn không đầy một cơ số đạn dược mang theo. Nắng hạn gặp mưa rào!
« Sửa lần cuối: 22 Tháng Hai, 2017, 08:10:16 pm gửi bởi Giangtvx » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #158 vào lúc: 22 Tháng Hai, 2017, 08:17:32 pm »


        Những trận mưa đầu mùa, đã bắt đầu gây khó khăn cho việc tập kết lực lượng. Trên cánh tây nam, một khó khăn nữa của Đoàn 232 là phải vượt sông Vàm Cỏ. Theo kế hoạch đến giờ nổ súng, sư đoàn 3 phải vượt sông, mở cửa, đánh chiếm đầu cầu ở An Ninh, Lộc Giang, để bảo đảm cho sư đoàn 9 và các đơn vị binh khí kỹ thuật sang sông, kịp đưa đội hình lên đánh vào thành phố. Trong lúc này đối phương đã đề phòng, họ lại có sẵn phi pháo, còn các binh khí kỹ thuật của ta thì nặng nề, khi tài thiếu, đường sá ít, lại xấu, tai ác nhất là bưng sình, bùn lầy nhiều. Thiếu tướng Nguyễn Minh Châu và toàn bộ cơ quan tham mưu, kỹ thuật, hậu cần, từ cán bộ đến chiến sĩ, đếm ngày túc trực ở bãi sông, chỉ huy từng chuyến phà để kịp thời đưa toàn bộ lực lượng vượt sông an toàn. Trên hướng bắc, đứng giữa ngầm Bến Bầu, nhìn những đám mây đen, mỗi buổi chiều ùn ùn trên phía thượng nguồn Sông Bé, cả Bộ tư lệnh Quân đoàn Quyết Thắng ngồi đứng không yên. Nước sông cứ dâng lên từng phút một, gần lút cả bánh xe, chỉ cần lên cao vài tấc nữa, có lẽ toàn quân đoàn sẽ bị chôn chân ở phía bắc sông, vì không còn có con đường nào nữa để vòng tránh mà vào vị trí tập kết được. Lực lượng công binh, dù đoàn Trường Sơn đã tận tình giúp đỡ, tăng cường thêm máy móc, cũng không thể bắc cầu, hay ghép phà, vì lòng sông hẹp, bờ cao nhất nước chảy rất xiết. Thỉnh thoảng một vài chiếc máy bay A37 đến ném bom. May thay trời cũng chiều người, trước giờ xuất kích, toàn bộ đội hình đã xuống hết phía nam sông, sẵn sàng chờ lệnh.

        Chiều ngày 12 tháng 4, Bộ tư lệnh Quân đoàn Tây Nguyên đến sở chỉ huy chiến dịch nhận nhiệm vụ. Mới xa nhau hơn nửa tháng trời, mà trông đồng chí nào cũng gầy sọm lại, da rám nắng, đen nhưng lại rắn rỏi hơn. Vẻ mặt ai nấy đều hân hoan, phấn khởi. Bắt tay đồng chí Đặng Vũ Hiệp, hai chúng tôi chào nhau bằng một tiếng lóng: “Yên chí!”. Như thế có nghĩa là các anh cứ việc đánh đi, mọi việc đã có tôi lo. Bê ngoài thì nói thế thôi, nhưng trong lòng thì lại sốt ruột: công tác chuẩn bị, bảo đảm các mặt cho quân đoàn, lần này không được đầy đủ như ở Buôn Ma Thuột trước đây.

        Vừa ngồi xuống ghế, anh Tuấn hỏi ngay:

        - Có tin tức gì về Hồ Đệ không? - tức là sư đoàn 10. Đi chiến dịch, anh em thường lấy tên của tư lệnh thay cho tên của đơn vị.

        - Báo cáo đang làm đường vòng lên đường quốc lộ 11. Mấy hôm vừa rồi, máy bay ở Thành Sơn lùng sục bắn phá cả ngãy lẫn đêm, để ngăn chặn hoặc đề phòng ta đánh vào sân bay. Nhưng ra vẫn an toàn, chúng không đánh trúng.

        - Liệu bao giờ thì đến đây?

        - Khoảng mười ngày nữa, hay hơn một ít, nếu không gặp trở ngại gì lớn.

        Hôm nay, hầu hết các đồng chí trong bộ tư lệnh chiến dịch đều có mặt, kể cả đồng chí Lê Đức Thọ. Một tấm bản đồ một trăm phần nghìn, treo đứng, dăng ra quá nửa chiều ngang của phòng họp khá rộng. Phía trên cùng viết đậm nét dòng chũ: “Quyết tâm chiến dịch Sài Gòn-Gia Định”.

        Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền, quyền tham mưu trưởng chiến dịch báo cáo toàn bộ kế hoạch và đề nghị Bộ tư lệnh giao nhiệm vụ cho Quân đoàn. Đồng chí nói qua về tình hình địch, nêu lên một vài chi tiết thay đổi vừa mới nhận được, và đi thẳng vào vấn đề:

        - Nhìn chung, hướng bắc là hướng đột phá chính. Nhưng trên hướng này có hai hướng: tây bắc và đông bắc. Giữa hai hướng này thì tây bắc là hướng đột phá chủ yếu, do Quân đoàn Tây Nguyên đảm nhiệm.

        Trên đường tiến về Sài Gòn-Gia Định, Quân đoàn phải giải quyết một loạt các căn cứ lớn: Củ Chi, Đồng Dù. Trong tung thâm, còn phải giải quyết trại Quang Trung, một trung tâm huấn luyện, rồi mới thọc được vào sân bay Tân Sơn Nhất. Đây là mục tiêu chủ yếu của quân đoàn, nhưng chưa phải là cuối cùng. Làm xong nhiệm vụ này, nếu có điều kiện, thì phát triển sang Bộ Tổng tham mưu, phối hợp với các đơn vị bạn, từ phía đông bắc đánh xuống và cuối cùng, phái một mũi thọc sâu vào dinh Độc Lập.

        Vốn đã từng công tác với nhau lâu ngày ở Cục tác chiến và cũng đã cùng tham gia nhiều chiến dịch lớn trước đây: Quảng Trị, Đường 9-Nam Lào, Điện Biên Phủ trên không ở Hà Nội, nên anh em đều biết thiếu tướng Vũ Lăng là người rất “khó tính” cái khó tính của một người chỉ huy giầu kinh nghiệm. Anh tìm hiểu rất kỹ, suy tính, cân nhắc các mặt, từng ly từng tý một. Cơ quan tham mưu chiến dịch, sẵn sàng chờ đón những câu hỏi hắc búa của anh, chẳng hạn như: sơ đồ các vị trí địch, tình hình công sự, cách bố phòng, quy luật hoạt động, quy luật tiếp viện, tình hình các đơn vị đặc công được cấp trên phối thuộc cho Quân đoàn, các mặt bảo đảm cho Quân đoàn v.v… Giá có hỏi thì cũng chẳng có thể trả lời hết được, vì anh em trong cơ quan cũng đều chân ướt chân ráo mới đến đây như các anh cả thôi. Quân, tướng thì còn ở đâu đâu; đạn dược thì cũng chỉ mới nắm được trên kế hoạch, qua điện đài, chưa nhìn tận mắt, chưa sờ tận tay.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #159 vào lúc: 22 Tháng Hai, 2017, 08:20:18 pm »


        Cũng không ai còn lạ gì cách làm việc của Bộ tư lệnh Quân đoàn nữa. Vừa vào đến nơi tập kết, mới được trên khêu gợi quân đoàn sẽ đảm nhiệm hướng tây bắc thành phố Sài Gòn, Bộ tư lệnh đã tranh thủ tiến hành ngay công tác điều tra các vị trí, đường sá, nhất là cầy Bông, cầu Sáng và những trở ngại chủ yếu nhất trên hướng này rồi. Thực ra, thì cũng chẳng phải chỉ có quân đoàn mới tranh thủ triển khai công tác song song với trên mà thôi; cả đến sư đoàn, trung đoàn, cấp nào cũng tranh thủ từng giờ từng phút, sớm tý nào hay tý ấy. Thậm chí các đồng chí Bộ tư lệnh sư đoàn 10, trong lúc đơn vị còn đang lang thang trên đường hành quân, cũng đã phái một số cán bộ bứt lên trước để nhận, tìm hiểu, nhiệm vụ, và cũng bắt đầu triển khai công tác chuẩn bị. Cán bộ ta, tuy chưa phải tất cả được qua các trường đào tạo chính quy, nhưng nhờ kinh nghiệm qua tác chiến nhiều năm, nên rất hiểu tình hình, tác phong công tác và chiến đấu của nhau và cũng đã xây dựng được nền nếp công tác vừa chặt chẽ, vừa có hiệu quả. Bây giờ không phải là công tác thammưu hai ba cấp song song mà thôi; mà tất cả mọi cấp đều tiến hành cùng một lúc, theo một phương án chung, nên rút ngắn được rất nhiều thời gian chuẩn bị.

        Khi thông qua kế hoạch tác chiến, lần này anh Tuấn không nói đến cách tổ chức chiến đấu của từng cánh quân, đội hình chiến đấu ra sao, mà thấy nhắc nhiều đến vấn đề nắm chắc lực lượng, đôn đốc công tác chuẩn bị và kỷ luật bộ đội khi vào thành phố. Nghe giọng nói và nhìn qua ánh mắt, thấy bừng lên một niềm tin vững chắc: cái mục tiêu to lớn kia cũng là mục tiêu cuối cùng của chiến dịch và của cả cuộc chiến tranh đằng đẵng bấy nhiêu năm, nhất định sẽ giải quyết được. Thật là khác hẳn với hồi đánh Buôn Ma Thuột. Lúc ấy sắp đến giờ nổ súng rồi, mà còn phải cứ thấp thỏm nghe ngóng: có đơn vị biệt động quân, hay đơn vị dù nào bất thình lình đến tăng cường cho thị xã này thì sao, phương án 1 hay là phương án 2 đây?…

        Đồng chí Phạm Hùng, luôn luôn tươi cười, thân ái nhìn mọi người. Trong lời phát biểu, đồng chí đã nói lên tiếng nói của đồng bào Nam Bộ:

        “Ở trong này, được tin ta thắng lớn ở Tây Nguyên, Trung Bộ, ai nấy đều vui mừng, vì thấy có thể giải phóng cả miền Nam, hoàn thành trách nhiệm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong năm nay. Từ khi thành lập Đảng cho đến nay, đây là giờ phút lịch sử vinh quang nhất. Đảng ta có truyền thống đoàn kết, nhân dân ta và quân đội ta có truyền thống đoàn kết Nam Bắc một nhà, nước Việt Nam là một. Đây là cơ sở bảo đảm thắng lợi của chúng ta. Chúng tôi hoan nghênh sự có mặt kịp thời của các đồng chí trên chiến trường miền Nam, hoan nghênh các đồng chí tham gia trận quyết chiến chiến lược lịch sử này, đánh vào dinh luỹ cuối cùng của chủ nghĩa thực dân mới ở nước ta.

        Chúc các đồng chí toàn thắng!”

        Đồng chí vừa ngồi xuống, mở hộp thuốc lá sợi vàng ra, thong thả cuốn thuốc và quay sang anh Tuấn nói tiếp:

        - Làm sao để ngày sinh nhật của Bác Hồ, chúng ta có mặt ở Sài Gòn.

        Đồng chí Lê Đức Thọ bổ sung thêm:

        - Trung ương giao cho Đảng bộ miền Nam, toàn thể các lực lượng vũ trang của ta phải hoàn thành nhiệm vụ giải phóng miền Nam trong tháng Tư này. Lúc ra đi, tôi có gặp anh Ba. Đại ý anh Ba dặn: chúng ta nhất định thắng, nhưng cũng phải đề phòng có gì trắc trở thì ở luôn trong đó, làm xong nhiệm vụ rồi hãy về. Đó là quyết tâm của Bộ Chính trị.

        Cả cuộc họp như có một luồng gió mới thoảng qua. Bầu không khí khác hẳn. Các đồng chí lãnh đạo có vẻ tâm đắc, ngồi mỉm cười, gật đầu; còn anh em thì hướng mắt vào người các đồng chí. Từ trước đế nay, chúng ta đã từng được nghe những lời động viên, cổ vũ; nhưng chưa thấy lúc nào, lời lẽ lại thiêng liêng, sâu lặng vào lòng người, như những lời vừa nói. Bộ Chính trị đã thay mặt toàn Đảng, toàn dân giao nhiệm vụ, một nhiệm vụ mà suốt cả cuộc đời chiến đấu, ai ai cũng ấp ủ, mong chờ. Quyết tâm sắt đá, dứt khoát quá: trước mắt chỉ có một con đường là chiến thắng mà thôi; thật khác hẳn với mọi lần: có thắng lớn, có thắng vừa, lại có cả thắng nhỏ với bao nhiêu chứ “nếu” kèm theo.

        Đồng chí Lê Đức Thọ, móc từ trong túi áo bà ba đen ra một mảnh giấy nhỏ, chậm rãi đọc. Cả hội trường im phăng phắc. Mấy đồng chí cán bộ chính trị, vội vàng giở sổ công tác ra ghi chép:

                                          “Anh dặn ra đi thắng mới về,
                                          Phút giây cảm động, nói năng chi
                                          Lời anh là cả lời non nước,
                                          Ngàn dặm Trường Sơn sá ngại gì…

Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM