Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 09:11:05 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Thiếu tướng Nguyễn Bá Phát - Vị tướng tài trí  (Đọc 15536 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
loiho000
Thành viên
*
Bài viết: 162


« Trả lời #50 vào lúc: 13 Tháng Hai, 2017, 11:33:47 pm »

                Vào tháng 7 năm 1969, Sở chỉ huy và cơ quan Tham mưu Đoàn 125 sơ tán ở Hang Vua, xã Minh Tân, Thủy Nguyên, Hải Phòng. Bộ Tư lệnh Hải quân ở đường Điện Biên Phủ, Hải Phòng. Tôi được Đoàn giới thiệu sang Bộ Tư lệnh gặp anh Phát, Tư lệnh, anh đưa cho tôi một phong thư và bảo sang gặp anh Kỳ, Cục trưởng Cục vận tải đường biển (lúc bấy giờ là phố Máy Tơ, Hải Phòng) đưa thư này cho anh ấy và dặn tôi đại ý là: Nhờ anh Kỳ cho mượn một số hải đồ vùng biển Trung Quốc (Hải Nam), Đông Nam Á (đến vịnh Thái Lan) phục vụ công tác nghiên cứu, huấn luyện. Trên đường đi, với bệnh nghề nghiệp, tôi đoán là vấn đề này có liên quan Đoàn 125, Đoàn A1, vậy ý thức trước cho mình, phải làm đến nơi đến chốn. Đưa thư cho anh Kỳ, may cho tôi quá, anh gọi anh Tước đến gặp tôi và giao cho anh Tước dẫn tôi vào kho hai để tìm lấy bản đồ cần thiết. Anh Tước trước đây là : cán bộ Hải quân, chuyển ngành ra Bộ Giao thông và về làm bí thư cho Cục trưởng Cục vận tải đường biển. Vì đã từng quen biết nhau khi tôi còn là Thuyền trưởng tàu chiến đấu Hải quân, tin nhau nên anh Tước bảo: “Mày tự tìm, chọn thứ hải đồ nào dùng được thì lấy mà dùng”. Và anh bỏ mặc tôi, may là vậy. Tôi lục lọi, tìm kiếm. May quá, tôi tìm được đầy đủ cả hải đồ loại tỉ lệ lớn, dùng đi biển, loại tỉ lệ nhỏ - tổng đồ dùng cho người nghiên cứu, kế hoạch. Khu vực quần đảo Trường Sa và cả vùng biển các nước Đông Nam Á tiếp giáp với biến Đông, cho đến vịnh Thái Lan... Trở về gặp anh Phát, báo cáo kết quả, anh rất mừng và đến lúc ấy anh mới cho biết ý định tổ chức chuyến đi trinh sát. Ta tìm đường đi vu hồi xa bờ để tránh theo dõi trước khi tàu chuyển hướng vào bờ và có thể sẽ chọn một số nơi nào thích hợp để làm bến giấu hàng cho miền Nam đến lấy có thể cũng tìm được những nơi cho tàu cơ động, lẩn tránh “chờ cơ hội” đột nhập vào bờ miền Nam. Sau đó tôi được giao làm kế hoạch đi biển và trực tiếp đi với vai trò cán bộ tham mưu.

                 Trên biển miền Nam và biển Đông, những năm này để ngăn chặn tàu miền Bắc chở vũ khí đột nhập ven biển miền Nam, địch bố trí lực lượng kín trên 3 hải lý (1 hải lý = 1.852m) trở vào do tàu cao tốc, hải thuyền, máy bay L19 phụ trách, cách bờ 3 đến 15 hải lý do tàu chiến đấu hải quân ngụy phụ trách, cách bờ 15 đến 45 hải lý (khoảng 85 ki-lô-mét) do tàu chiến đấu (Khu trục, quét mìn, cảnh sát biển), máy bay trinh sát của Hải quân Mỹ phụ trách. Ngoài ra còn những chuyến bay trinh sát, thám không bay theo chiều Đông - Tây và “treo” cố định do Mỹ đặc biệt phụ trách. Trên đất có 16 trạm ra đa đặt ở núi, đồi cao ven bờ, quan sát đến bán kính một khu vực 150 ki-lô-mét, chồng nhau phủ kín ven biển. Những nơi nghi ta đặt cơ sở tiếp nhận vũ khí, thì chúng thường xuyên đánh phá, rải chất độc hoá học làm trụi cây lá. Hoạt động của tàu ta vô cùng khó khăn. Nhưng biển dài và rộng, thường xuyên có hàng vạn tàu thuyền các loại, các cở của quốc tế và trong nước đi lại làm ăn, buôn bán, khai thác hải sản, và hoạt động khác... địch không thể phát hiện hết, càng không thể phân biệt hết để ngăn chặn ta. Đó cũng là chỗ sơ hở của địch mà bằng nhiều đường đi, nhiều dạng tàu của nhiều nước và biện pháp thông minh khôn khéo ngụy trang che dấu lừa địch, ta sẽ đột nhập vào bờ được. Trên bờ có vùng giải phóng rộng, xen kẻ vùng địch kiểm soát, bến đón chắc, dân chở che, nhất định vũ khí đến được miền Nam.
   
                 Tàu “42” đi trinh sát với dạng tàu câu biển khơi của Đài Loan, mang biển số “nguyên xương nhất hiệu” bằng chữ Hán và chữ Anh. Thuyền trưởng giỏi, thủy thủ đoàn lão luyện, lành nghề. Đội tàu được cán bộ cấp trên, Tham mưu tác chiến, Quân báo tăng cường giúp đỡ kết hợp làm nhiệm vụ chuyên ngành của họ. Ra đi với niềm tin thắng lợi. Ngày 21 tháng 8 năm 1969, Tư lệnh Nguyễn Bá Phát và Chính ủy Hoàng Trà cùng Thủ trưởng Đoàn 125 và cơ quan kiểm tra mọi công việc, động viên căn dặn. 1 giờ sáng ngày 22 tháng 8 năm 1969, tàu xuất phát từ cầu Đá Bạc, Thủy Nguyên, Hải Phòng. Hành trình qua phía Nam đảo Hải Nam (Trung Quốc), ra đông Hoàng Sa, xuôi theo đường hàng hải quốc tế xuống quần đảo Na-tu-na, bắc hải đăng Mang Kai. Quan sát quần đảo A-nam-bát một đêm một ngày, địch bỏ đi. Tàu rời Lin Côn đi lên phía Đông đảo Hải Nam vào eo Quỳnh Châu (bắc đảo Hải Nam). Tàu về vịnh Hạ Long “thay hình đổi dạng” xong, thì về lại cầu Đá Bạc. Một cuộc hành trình dài đến trên 4.000 hải lý, xuyên khắp biển Đông, đến vịnh Thái Lan. Với thời gian 20 ngày đêm, quan sát 20 đảo và quần đảo, theo dõi và tránh trú tàu chiến, máy bay Hải quân Mỹ suốt quãng đường 1.000 hải lý, với hơn 5 ngày đêm, cung cấp nhiều tình hình, tài liệu có giá trị sử dụng trước mắt và lâu dài.
   
                 Về tình hình liên quan nhiệm vụ vận tải chi viện miền Nam, qua chuyến trinh sát của tàu 42, Bộ Tư lệnh Hải quân nhận định: Trên biển có rất nhiều tàu thuyền đi lại, làm ăn. Tàu khai thác hải sản, đánh cá, có tàu cỡ trung, cỡ nhỏ đi lại, hoạt động số lượng rất đông. Máy bay, tàu chiến Mỹ có theo dõi thường xuyên, khi nghi ngờ là chúng bám sát đến cùng, nhưng chưa thấy có dấu hiệu tấn công vào tàu lạ ngay trên biển khơi.
   
                 Phát huy kết quả chuyến trinh sát, Bộ Tư lệnh Hải quân và Đoàn 125 tổ chức đi vào Nam Bộ tiếp ngay 1 chuyến cuối năm 1969 thành công. Và năm 1970, 4 chuyến thành công. Đặc biệt trong đó có chuyến vũ khí đi vào tháng 10 năm 1970 vào Bến Tre do đồng chí Dương Tấn Kịch làm Thuyền trưởng. Để thực hiện được quyết tâm của Bộ: bằng mọi cách phải đưa được vũ khí vào đến bến vì chiến trường đang quá “khát”. Tư lệnh Nguyễn Bá Phát ngoài việc chỉ đạo làm kế hoạch đi, chọn Đội tàu, giáo dục huấn luyện, Xây dựng quyết tâm, quyết chí còn giao cho Cục Kỹ thuật hiệp đồng với các chuyên gia nguyên cứu, làm khung nhôm ống bọc đỡ xuồng cao su cỡ đại, lắp máy đẩy tốc độ nhanh để chở được vũ khí lao vào bờ giao cho bến tận tay. Kết quả là xuồng cao su cỡ đại, chở đầy hàng, máy đẩy nhanh, vượt trên biển sóng, xuồng không bị vỡ, hàng và người lái rất an toàn. Chuyến đi thành công, Nam Bắc mừng vui. Tàu về tới nơi, anh Phát và Bộ Tư lệnh đến tận tàu đón mừng. Ngay ngày hôm sau, Đại tướng Võ Nguyên Giáp gặp cả tàu biểu dương và khen ngợi.
   
                 Vào thời kỳ này kẻ địch đánh giá Hải quân miền Bắc thực hiện nhiệm vụ vận chuyển chi viện vũ khí cho miền Nam qua bài viết của Phó đô đốc Hải quân ngụy Sài Gòn trên sách Một số quan điểm chiến lược đế bảo vệ duyên hải Việt Nam cộng hoà: “...Trên phương diện quân sự, Bắc Việt đã biết khai thác biển khơi một cách thực tiễn hơn ta (Mỹ - ngụy). Họ có một Trung đoàn viễn dương (Đoàn 125) gồm một số ngư thuyền ngụy trang cho mục đích thâm nhập vào Nam, giá trị của Hải quân Bắc Việt đã nói lên trước dư luận quốc tế...” và “... Trên thực tế, đối phương đã sử dụng biển khơi một cách thành thạo, mà việc di hành vào điểm đến, càng tỏ ra đặc sắc hơn, làm kinh ngạc không ít chuyên viên đi biển.” “... họ có kinh nghiệm đi biển hơn Hải quân Sài Gòn 20 năm.”
   
                 Điểm tiêu biểu, xuất sắc của Hải quân nhân dân, Đoàn 125 thời kỳ này, đúng như kẻ địch đã đánh giá như vậy. Còn ta, người Tư lệnh Hải quân, người cầm quân, xây dựng chỉ huy lực lượng trên biển, chỉ huy Đoàn 125 hẳn đã góp công lớn để làm nên những chiến tích tiêu biểu, xuất sắc đó.
   
                 Với tư tưởng tiến công, cũng trong thời kỳ này, cùng với tàu 605 với vỏ tàu là chở dầu giả dạng, trọng tải 200 tấn đi trinh sát mở đường về Nam theo luồng Palawan nằm giữa Phi-líp-pin và đông quần đảo Trường Sa. Tàu 621 được Tư lệnh Nguyễn Bá Phát chỉ đạo trinh sát, thăm dò, nghiên cứu quần đảo Trường Sa.
   
                 Kết luận được quần đảo Trường Sa là khu vực sử dụng tốt cho ta, hoàn toàn bất ngờ đối với địch. Có một điều rất lạ lúc bấy giờ là, khi tàu 621 trên đường về gặp phải bão, chạy vào đảo Phú Lâm đậu nhờ, bạn Trung Quốc giúp đỡ rất nhiệt tình.
   
                 Phát huy kết quả trinh sát, thời gian sau đó Trường Sa trở thành khu biển và đường quen thuộc của Đoàn 125. Con đường xuyên dọc giữa quần đảo khí tượng, hải văn vô cùng phức tạp, có tên gọi là: “quần đảo bão tố”. Nhưng đi qua đây lại tránh được địch theo dõi, phát hiện, ngăn chặn sớm, tranh thủ được bí mật bất ngờ cao. Nhiều tàu xuyên quần đảo Trường Sa rồi bất ngờ vào Bạc Liêu. Năm 1972, tàu 56 có đồng chí Võ Hán tăng cường, giúp đỡ, trưởng tàu Nguyễn Sơn đã xuyên quần đảo Trường Sa, xuống tiếp các đảo của In-đô-nê-xia (đường đi “H2” trinh sát tháng 8 năm 1969)... đưa vũ khí đến Sa-Mít, Kô Công, Campuchia thắng lợi và an toàn.
   
                 Đặc biệt nhờ kết quả trinh sát từ 1970 - 1971 và hoạt động quen thuộc quần đảo Trường Sa mà mùa xuân 1975 trong chiến dịch Hồ Chí Minh, tàu của đoàn 125 đã chở quân đi giải phóng quần đảo Trường Sa một cách chính xác và an toàn tuyệt đối. Trong vòng 15 ngày từ 4 giờ sáng ngày 14 tháng 4 giải phóng đảo Song Tử, cực Bắc đến 9 giờ sáng ngày 29 tháng 4, giải phóng đảo Trường Sa là đảo cuối cùng và cực Nam quần đảo do quân ngụy Sài Gòn đóng giữ, đã góp phần vào thắng lợi trọn vẹn non sông đất nước Việt Nam. Điều đó rất có ý nghĩa nữa là Xuân 1975, anh Phát ở Bộ Tổng Tham mưu được Bộ điều về Hải quân, phụ trách Tư lệnh, chỉ huy ở Tiền phương. Bây giờ tôi là Tham mưu trưởng Đoàn 125 (tạm quyền), ở sở chỉ huy (Đà Nẵng) bên cạnh đồng chí Hoàng Hữu Thái, Phó Tư lệnh Hải quân để theo dõi chỉ đạo lực lượng tàu Đoàn 125 hoạt động vận tải chiến đấu cách ven bờ biển miền Nam và cánh chở quân giải phóng quần đảo Trường Sa. Từ Tiền phương phía Nam, ở Nha Trang trong hoàn cảnh liên lạc không thường xuyên được với Sở chỉ huy ở Hải Phòng và Đà Nẵng, Tư lệnh Nguyễn Bá Phát chủ động xin ý kiến trực tiếp của chỉ huy Tiền phương Bộ, tổ chức lực lượng tàu và quân của Khánh Hòa, có đồng chí Võ Hán cán bộ Đoàn 125 ở đó tham gia chỉ huy, ra giải phóng quần đảo Trường Sa. Nhưng ở Đà Nẵng đã có lực lượng tàu Đoàn 125 từ Hải Phòng và Hải quân đánh bộ - Lữ đoàn 126, cùng với Đặc công Quân khu 5 cơ động tấn công sớm, đã giải phóng được đảo trước, nên lực lượng của Mặt trận được điều sang tiếp tục cơ động tham gia nhiệm vụ giải phóng tuyến đảo gần bờ.
   
                 Đến đây có thể khẳng định rằng anh Nguyễn Bá Phát là một tướng rất hiểu biển, say sưa đam mê biển, đặc biệt là đối với miền Nam và các quần đảo, hải đảo xa bờ. Trinh sát để sử dụng Trường Sa từ đầu thập kỷ 70 của thế kỷ 20, để một dấu ấn về tầm nhìn chiến lược của người Tư lệnh Hải quân ngay khi cuộc kháng chiến chống Mỹ giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc đang gặp rất nhiều khó khăn, thách thức và cả khi có được thời cơ ngàn năm chỉ có một không hai.
   
                 Anh Nguyễn Bá Phát xứng đáng là tấm gương sáng cho mọi người dân, quân nhân, thủy thủ, đặc biệt là tướng lĩnh và người chỉ huy Hải quân Việt Nam - một quốc gia biển, “bờ biển dài, với biển rộng, giàu tài nguyên, đứng ở vị trí chiến lược Châu Á và thế giới. Anh là người anh, người thầy, người chiến hữu của “lính xita” (lính Liên khu 5) tập kết, của binh Đoàn “tàu không số” của Hải quân chúng tôi!


                           
TP. Hồ Chí Minh
                               
Xuân Đinh Hợi 2007
                              
T.P


Logged
loiho000
Thành viên
*
Bài viết: 162


« Trả lời #51 vào lúc: 13 Tháng Hai, 2017, 11:37:13 pm »

NHỮNG LỜI TÂM SỰ KHI SẮP CHIA TAY
Đại tá Nguyễn Xáng(1)

                Đầu năm 1955, đồng chí Nguyễn Bá Phát được cấp trên điều về Bộ nhận nhiệm vụ cùng một số cán bộ nghiên cứu lập đề án xây dựng Hải quân nhân dân Việt Nam, hình thành Quân chủng mới của Quân đội nhân dân Việt Nam.

                  Ngày 7 tháng 5 năm 1955 Cục Hải Quân ra đời, đồng chí Nguyễn Bá Phát được bổ nhiệm làm Cục phó Cục Hải quân (đồng chí Tạ Xuân Thu là Cục trưởng kiêm Chính ủy). Năm 1964, Cục Hải quân chuyển thành Bộ Tư lệnh Hải quân, đồng chí Nguyễn Bá Phát được giao nhiệm vụ Tư lệnh Hải quân, đồng chí Tạ Xuân Thu, Chính ủy. (Đồng chí Tạ Xuân Thu và đồng chí Nguyễn Bá Phát được thăng quân hàm Đại tá trong đợt đầu của Quân đội theo luật sĩ quan). Năm 1961, đồng chí Tạ Xuân Thu được thăng hàm Thiếu tướng, năm 1974 đồng chí Nguyễn Bá Phát mới được thăng quân hàm Thiếu tướng. Cuối năm 1974 đồng chí Nguyễn Bá Phát được điều về làm ủy viên Hội đồng Khoa học Quân sự Viện Khoa học Quân sự (Đồng chí Lê Trọng Tấn - Phó Tổng Tham mưu trưởng kiêm Viện trưởng).
   
                  Hạ tuần tháng 3 năm 1975, đồng chí Nguyễn Bá Phát được giao nhiệm vụ Phó Tư lệnh mặt trận cánh ; đông (Đồng chí Lê Trọng Tấn làm Tư lệnh, đồng chí Lê Quang Hòa làm Chính ủy) kéo dài từ Huế - Đà Nẵng - Bà Rịa - Vũng Tàu, tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh. Sau chiến thắng 30 tháng 4 năm 1975, đồng chí Nguyễn Bá Phát trở lại giữ chức vụ Tư lệnh Hải quân nhân dân Việt Nam của nước Việt Nam thống nhất. Cuối năm 1977, đồng chí được điều về làm Thứ trưởng Bộ Hải sản.
   
                  Trong thời gian bàn giao công việc, đồng chí Nguyễn Bá Phát tranh thủ giành ít thời gian thăm và chia tay với một số đơn vị, gặp gỡ một số đồng chí đã gắn bó với nhau trong bao năm tháng, thảnh thơi trao đổi những suy nghĩ tâm tình với nhau. Đồng chí tâm sự:
   
                  “Thật ra với kinh nghiệm bao năm ở Hải quân được tích lũy trên nhiều vấn đề, nếu được cùng ở với các đồng chí tiếp tục xây dựng Quân chủng Hải quân thì hay biết mấy, đó cũng là ý muốn riêng của mình, nhưng trên đã điều động, phải chấp nhận vui vẻ, tuy về thủy sản là vô cùng khó khăn và phức tạp, việc mới không dễ làm, rồi mình sẽ có cách khắc phục.
   
                  Đã hơn 20 chục năm, tôi đã dồn hết sức lực, trí tuệ hết lòng phục vụ Quân chủng Hải quân, tôi chưa bao giờ cũng không bao giờ lùi bước trước khó khăn và gian khổ nào. Tôi luôn bám sát và theo dõi từng bước đi của từng đơn vị nhất là lúc mới hình thành, lúc có những khó khăn, khi chuẩn bị chiến đấu... luôn lắng nghe ý kiến của cán bộ cơ sở, cùng thực địa, cùng trao đổi nhiều vấn đề... và tôi rất vui khi anh em hớn hở thoải mái thực hiện các đồng thuận với nhau.
   
                  Bên cạnh đó, cũng có những tổn thất, sự chưa thành công của một số công tác cụ thể, hay trận đánh cụ thể. Là Tư lệnh tôi chịu trách nhiệm không đỗ lỗi cho ai. Tôi muốn cảm ơn tất cả các đồng chí cán bộ, chiến sĩ ở đơn vị và cơ quan chung sức, chung lòng, gian khổ buồn vui có nhau, cùng chung vai gánh vác, cùng góp sức trong xây dựng hoạt động, chiến đấu của Hải quân những năm qua”.
   
                  Dừng lại để ngẫm nghĩ, đồng chí nói tiếp: “Tôi cũng rất may mắn được làm việc bên các đồng chí Tạ Xuân Thu - Cục trưởng kiêm Chính ủy Cục Hải quân sau là Chính ủy Quân chủng, đồng chí Đoàn Phụng - Chính ủy Bộ Tư lệnh Hải quân kiêm Quân khu Đông Bắc, đồng chí Lương Tuấn Khang - Chính ủy Quân chủng. Tôi cũng học hỏi được nhiều từ các đồng chí ấy. Rất mẫu mực, chân tình đồng chí, biết và thông cảm bản tính cho nhau. Nguyên tắc nhưng rất cởi mở, nhẹ nhàng nhưng có tính thuyết phục, luôn tin cậy và ủng hộ nhau làm việc có hiệu quả cao. Cùng chia sẻ trách nhiệm, ủng hộ sự tìm tòi sáng tạo.”
   
                  Đã nhiều năm công tác cùng đồng chí Nguyễn Bá Phát, hiểu cả sự chân thành và thẳn thắng của đồng chí. Tôi thấy đồng chí cởi mở tấm lòng, với tính cách của người lính, người xứ Quảng: “Chúng ta phải luôn ghi nhớ sự giúp đỡ tận tình, có hiệu quả của các quân khu trong quá trình xây dựng hoạt động, chiến đấu của Quân chủng, Quân khu như là hậu phương trực tiếp của các đơn vị Hải quân đóng trên địa bàn. Các đồng chí Đàm Quang Trung - Tư lệnh Quân khu 4, đồng chí Giáp Văn Cương - Phó Tư lệnh Quân khu 4 (sau này đồng chí Cương về làm Phó Tổng Tham mưu trưởng và Tư lệnh Hải quân), đồng chí Đặng Kinh - Tư lệnh Quân khu 3, có sự gắn bó với Hải quân, hàng năm có nhiều cuộc gặp gỡ trao đổi những việc cần hỗ trợ cho nhau, đưa ra những kế hoạch giúp đỡ cụ thể, thiết thực, kịp thời cả về con người và vật chất. Đối với chiến trường miền Nam là sự quan tâm hàng ngày của tôi, cùng với Thường vụ Đảng ủy Quân chủng, đã cử người đi nghiên cứu chiến trường và kế hoạch của trên giao hàng năm và đột xuất.”
   
                  Về cuộc sống hàng ngày, tôi thấy đồng chí Tư lệnh cũng bình thường như mọi người, không xa hoa, không vụ lợi, không ganh tỵ, không chấp vặt, cởi mở và chân tình. Đối với đồng đội của mình, đồng chí không bao che cũng không định kiến, nghiêm khắc và rộng lượng, có chính kiến rõ ràng, minh bạch, luôn bên vực cho cái đúng và sự thật. Có những lần nặng lời bực tức với một số đồng chí, đồng chí Tư lệnh cũng nhanh chóng thấy mình sai, cho nên sau đó đã xin lỗi. Là người hiểu Tư lệnh đến tận tấm lòng, tôi rất xúc động khi nghe anh nói lời sau cùng trước lúc chia tay:
   
                  “Tôi ân hận là chưa có một kế hoạch, dành thời gian chăm lo sắp xếp được sự ổn định hậu phương của cán bộ Hải quân ta. Sau giải phóng có điều kiện tạo được nơi ăn chốn ở cho cán bộ phía Nam. Còn ở phía Bắc nhất là cán bộ cơ quan Bộ Tư lệnh (Hải Phòng) nhà cửa còn quá chật hẹp, nhiều khó khăn, thiếu thốn. Rồi đây với sự phát triển của đất nước, cuộc sống dần dần thay đổi trong đó có cuộc sống của cán bộ Hải quân ta ngày được cải thiện và tốt đẹp hơn. Tôi mong mỏi ngày đêm như thế!”


                                 
N.X



(1). Nguyên Bí thư Tư lệnh.
Logged
loiho000
Thành viên
*
Bài viết: 162


« Trả lời #52 vào lúc: 15 Tháng Hai, 2017, 08:57:02 pm »

TÔI THEO ANH VÀO HẢI QUÂN
Trung tá Lê Đình Kiến

                Anh Nguyễn Bá Phát rủ tôi sang Hải quân. Trong một dịp lễ về thăm nhà trước khi chuẩn bị vào chiến trường B, tôi đến thăm anh Phát. Nhà tôi và nhà anh cùng trên đường phố Trần Quang Khải, Hải Phòng.

                  Cứ mỗi lần gặp, dù biết tôi không uống được rượu, anh Phát vẫn mang ra chai rượu và hai cái cốc. Cầm chai rượu trong tay anh hỏi: chú biết đây là rượu gì không, rồi anh trả lời luôn: quà tặng của chuyên gia Liên Xô đấy! Uống rồi sẽ biết, không khéo chú uống một cốc rồi muốn thêm cốc nữa! “Nam vô tửu như kỳ vô phong!”.
   
                  Trong không khí vui vẻ tôi tiếp một câu: những người nghiện thuốc lào dám nói: thà bỏ vợ chứ không bỏ thuốc lào! Còn anh thì phạm quy mà chị Điểm đã giao ước với anh là với rượu mạnh chỉ uống được một cốc nhỏ trong bữa ăn thôi. Anh cười.
      
                  Cao hứng anh vỗ vai tôi bảo: “Hay Kiến chuyển qua Hải quân với anh đi! Hải quân có nhiều cái hay lắm, ít ra là giải phóng tầm nhìn của đôi mắt!”. Anh lại cười giòn dã.
   
                  Tôi trở lại Sư Đoàn 338 ngày tập hành quân mang vác nặng. Hơn ba tháng tôi được xếp vào đội hình một Tiểu đoàn thực binh chuẩn bị vào Nam. Một hôm, Chính ủy Lập gọi tôi sau bữa cơm chiều lên và bảo: “Ngày mai xe của Sư đoàn sẽ đưa đồng chí về Bộ nhận nhiệm vụ mới, chú ý nhớ mang theo hết đồ đạc cá nhân! Hôm sau liên lạc đưa tôi vào cơ quan Bộ - Tổng tham mưu. Trước mặt tôi là đồng chí Cục trưởng Cục Tác chiến. Đồng chí cầm cây chỉ lên tấm bản đồ treo trên tường: đây sẽ là địa bàn đơn vị đồng chí sẽ hoạt động ở chiến trường miền Nam, luôn luôn phải ghi nhớ nhiệm vụ này là tuyệt mật! Tuyệt mật! Nếu không có gì phải hỏi thêm cho rõ, đồng chí về nghỉ, mai có xe đưa đi.
   
                  Xuống đến Hải Phòng, chỗ ở tạm cách nhà tôi vài con phố, nhưng cấm trại hoàn toàn do yêu cầu bí mật cuộc đi. Một cán bộ Hải quân đến phổ biến và kiểm tra đồ đạc cá nhân mang theo, những gì mà có thể để lộ là người từ miền Bắc xâm nhập vào Nam thì phải bỏ lại hết. Xe con đưa sang đơn vị X, sau này tôi biết được đó là Đoàn 125 chuyên trách vận tải chỉ viện cho chiến trường miền Nam theo “đường mòn Hồ Chí Minh trên biển”.
   
                  Đi biển vào mùa đông, và những đợt gió mùa , đông bắc là thích hợp cho hành quân bí mật vào Nam, tàu nhỏ sóng to, lần đầu tiên đi biển dài ngày nên để giải phóng tầm mắt trông trời biển bao la và kiểm nghiệm cái hay bên Hải quân, như anh Phát quảng bá. Tôi ít có cơ hội, mà nhiều ngày phải vùi đầu vào tấm khăn để ngăn nôn oẹ, say sóng. Sau nhiều ngày lênh đênh trên biển, khoái nhất là lúc đặt chân lên bờ, người lâng lâng như mất trọng lượng.
   
                  Và từ hôm đó vào cuối năm 1964, tôi tự coi mình là chiến sĩ của binh chủng “thủy quân lục chiến”. Và từ đấy làm theo lời anh Phát, tôi đã lập được nhiều thành tích cho cuộc đời tôi cả trên bộ lẫn trên biển.


                              
L.Đ.K
Logged
loiho000
Thành viên
*
Bài viết: 162


« Trả lời #53 vào lúc: 15 Tháng Hai, 2017, 09:01:43 pm »

BỎ RƯỢU
Đại tá Nguyễn Xáng

                 Anh Nguyễn Bá Phát có thói quen hay uống rượu và uống nhiều, nhưng lại không mấy khi say. Khi công tác ở các đơn vị Hải quân có các đồng chí cùng chiến trường Khu 5 trong chống Pháp như anh Huỳnh Kim (chỉ huy trưởng căn cứ 1, sau này là Thiếu tướng - Phó Tư lệnh Hải quân) thường đặt một bi đông và một bát sắt cạnh chỗ anh Phát ngồi. Thỉnh thoảng anh rót uống vài ngụm cứ thế suốt cả ngày họp, có một số đồng chí không biết tưởng là uống nước. Hằng ngày anh Phát ăn rất ít, buổi sáng chỉ húp một hai quả trứng gà với một ly sữa, trưa tối mỗi bữa cố gắng lắm mới hết chén cơm, dĩ nhiên phải kèm vài ly rượu, nhưng làm việc cả ngày không bao giờ anh kêu đói. Có bi đông rượu mang theo thì anh có thể chống gậy đi nghiên cứu thực địa sục hết chỗ này tới chỗ khác, nhiều cán bộ theo không kịp, nếu không thúc nhắc thì anh quên dừng nghỉ để đoàn ăn trưa.

                    Một số bạn bè và gia đình muốn luôn khuyên anh bớt uống hoặc bỏ rượu để ăn nhiều có sức khỏe. Anh bảo: “Rượu nấu từ gạo ra, uống rượu cũng là thay cơm thôi”.
   
                   Đầu năm 1973, trong một bữa cơm tối sau một ngày làm việc ở Hà Nội về, vừa ngồi vào mâm cơm  tay cầm cốc rượu đưa lên ngắm nghía, anh nói: “Việc này khó quá, ta phải làm sao đây? Phải bỏ rượu bỏ luôn cả thuốc lá”. Cả nhà cũng đang ngơ ngác, chị Liên (em gái của anh Phát): “Anh mà bỏ được rượu và thuốc lá thì gia đình mừng quá đi chứ, chị, chúng em, các cháu và các anh em ở đây hoan hô ngay, cần gì để phục vụ anh bỏ rượu, bỏ thuốc, vợ chồng em sẵn sàng lo toan chu đáo”.
   
                   Chị Nguyễn Thị Điểm (vợ anh Phát) âu yếm tiếp theo: “Thôi đi, bao lần nói bỏ nhưng có bỏ được đâu, “chỉ” được vài ngày lại uống lại càng uống nhiều hơn”.
   
                   Vừa vân vê xoay ly rượu trên bàn, anh Phát nhỏ nhẹ cho biết: “Hôm nay sau khi làm việc xong, anh Văn (Đại tướng Võ Nguyên Giáp) hỏi thăm sức khỏe và khuyên tôi ít uống rượu hay bỏ đi thì tốt cho công việc và sức khỏe. Qua lời nói và ánh mắt của anh Văn mình thấy chứa ẩn một sự chăm sóc ân cần, vừa trìu mến thân thiết, vừa động viên khích lệ lại vừa nghiêm khắc. Coi đây là mệnh lệnh, cả nhà và anh em có mặt ở đây tin tôi và giúp tôi nhất định thực hiện đúng lời hứa”.
   
                   Ngày nghỉ cuối tuần đó gia đình tổ chức bữa cơm có mời mấy đồng chí thân thiết cùng dự. Trên bàn có sẵn hai chai rượu trắng và anh bảo đồng chí cần vu đem tất cả thuốc lá còn lại để lên bàn. Vừa ăn, vừa uống rượu, vừa hút thuốc lá và vui vẻ hàn thuyên như mọi ngày. Trước khi kết thúc bữa cơm trưa có ý nghĩa này, anh Phát đứng dậy, bảo rót rượu đầy lại các ly, cùng nâng cốc cạn chén để từ giã rượu và thuốc lá. Vừa uống xong, anh đập ly và chai đựng rượu xuống đất kêu một tiếng choảng, các mảnh thủy tinh và rượu tung tóe. Vừa ngỡ ngàng, vừa bất ngờ, mọi người cùng vứt ly xuống đất theo sự thúc giục của anh. Mọi người thấy có gì thương thương cho anh, cảm động mà không nói ra được, tay anh hình như vừa run run. Anh bắt tay những người có mặt và nói: “Dứt khoát từ nay trở đi tôi không uống rượu, không hút thuốc nữa”. Anh lấy những bao thuốc còn ở trên bàn đưa cho các đồng chí có mặt, dặn hãy cầm lấy hút hoặc cho anh em khác, xé bỏ thì phí.
   
                   Sau hơn hai tuần có phần vất vả cố vượt qua những cơn thèm nhớ rượu, thuốc lá, có lúc anh Phát như thẫn thờ, đôi mắt lim dim, chép miệng nuốt nước miếng, đứng lên ngồi xuống không yên. Sau khi hết giờ làm việc vào buổi chiều, có lúc anh nấn ná ngồi lại ở phòng làm việc nghiên cứu tài liệu, đọc bản tin hoặc đi quanh cơ quan Bộ Tư lệnh, gặp gỡ trò chuyện với các đồng chí ở các nhà tập thể, có lúc anh ra vườn cùng xới đất tưới rau, làm vệ sinh cùng anh em phục vụ, đôi khi đi dạo quanh ngoại thành đến tối mới về nhà ăn cơm và hay ngủ sớm hơn thường ngày. Mọi việc rồi cũng qua đi, những cơn ho, bệnh viêm họng hay đến với anh trước đó cũng mất dần, những lần làm việc với cơ quan, đơn vị trong những ngày này anh thường kể việc bỏ rượu và thuốc lá của anh... và anh đã thành công.
   
                   Trong một tối cuối tháng 5 năm 1975, ở tại sân nhà số 5 Tôn Đức Thắng ngày nay, sau khi giao xong nhiệm vụ cho tôi ngày hôm sau tổ chức chu đáo đưa vợ chồng và con cái chị Lê Thị Hồng Minh ra Côn Đảo viếng mộ bố mẹ là đồng chí Lê Hồng Phong và đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai, Đại tướng Võ Nguyên Giáp hỏi tôi: “Kỳ này anh Phát có lúc nào uống rượu không?”. Tôi báo cáo với Đại tướng: “Anh Phát đã bỏ rượu hơn hai năm nay rồi và cả thuốc lá nữa, chỉ khi nào có tiệc tùng, có gì vui đặc biệt uống vài ly nhỏ”. Đại tướng dặn lại tôi: “Đồng chí là người thân cận thường xuyên gần gũi anh ấy, thỉnh thoảng nhắc anh ấy về việc này, khi cần đồng chí cứ nói anh Văn dặn đấy”. Tôi càng nghĩ thêm về lời của Đại tướng đây là bản lĩnh, nghị lực của một vị tướng, ý thức tổ chức, tổ chức kỷ luật của một người lính.


                                 
N.X

Logged
loiho000
Thành viên
*
Bài viết: 162


« Trả lời #54 vào lúc: 15 Tháng Hai, 2017, 09:07:20 pm »

NGUYỄN BÁ PHÁT HỒI ỨC VỀ CON NGƯỜI ANH
Đại tá Võ Hành(1)

                Nguyễn Bá Phát, con người rất quen thuộc với anh em ở Khu 5 và nhất là Hải quân. Người tầm thước, nước da ngăm đen, hay chép miệng. Nụ cười luôn mở trên môi, khi gặp anh em đã cùng nhau công tác. Anh rất gần gũi với anh em, thích uống rượu trong những lúc vui.

                 Trước bữa ăn chỉ một ly, sau giờ làm việc căng thẳng, làm một ly, vừa uống vừa chép miệng, ngẫm nghĩ. Trong giờ làm việc không bao giờ uống rượu, chỉ uống nước trà, rượu nồng độ cao càng tốt, cũng chỉ uống một ly. Nồng độ thấp không uống, cho là như uống xi-rô. Trong các buổi liên hoan vui vẻ, có nhiều anh em đến chúc mừng, mỗi người một cốc, sẵn sàng tất, không bao giờ say.
   
                 Làm việc có trách nhiệm, làm liên tục, cho đến khi xong việc mới nghỉ, có khi quên cả ăn ngủ. Đi công tác, thường đi trước anh em, hay đốc thúc anh em cố làm xong việc nhanh rồi về. Sẵn sàng xuống tàu, đi dài ngày trên biến, không say sóng, cần thiết lội xuống nước, không ngại, cùng anh em nghiên cứu địa hình dưới đáy biển xem có đúng như ghi trong hải đồ.
   
                 Ở Hải quân, một số anh em khi đi công tác với anh Phát, thường hay nhớ đến câu “ăn không kịp xỉa” để nói lên tác phong luôn khẩn trương. Rất ghét rề rà, nói nhiều làm ít rất thẳng thắn, không bao giờ úp mở.
   
                 Anh Phát với anh em cấp dưới, luôn luôn là “cậu mình”. Số đông anh em rất thích, mến, sẵn sàng châm chước, tha thứ những khi va vấp. Cũng có một số ít không thích, ít muốn gần do cá tính khác nhau.
   
                 Tôi biết đồng chí Phát khi còn ở Liên khu 5, nhưng không thân quen lắm, vì ở khác đơn vị, chưa cùng nhau cộng tác, nên chưa hiểu nhau. Chỉ gặp anh ở các cuộc họp Bộ Tư lệnh Liên khu. Ít có cuộc tiếp xúc riêng tư.
   
                 Ra Bắc, khi tôi công tác ở cơ quan Tổng Thanh tra Quân đội thì đồng chí Phát là Cục phó Cục phòng thủ bờ biển - hai cơ quan đóng gần nhau, chỉ cách nhau một bức tường cùng đi chung một bậc thềm mỗi khi ra vào, lên, xuống. Tôi công tác ở Đoàn 125 (Đoàn tàu không số) vốn là một đơn vị trực thuộc Bộ Quốc phòng. Khi Bộ quyết định giao Đoàn 125 về cho Bộ Tư lệnh Hải quân, thì tôi mới gặp lại anh Phát. Lúc này, anh Phát là Phó Tư lệnh, sau đó mới là Tư lệnh, được phân công đặc trách làm nhiệm vụ vận chuyển vũ khí vào chiến trường miền Nam. Để giữ bí mật cho đơn vị làm nhiệm vụ đặc biệt này, Bộ quy định Hải quân chỉ có 3 người được quan hệ tiếp xúc làm việc với Đoàn 125 là đồng chí Phát - Tư lệnh, đồng chí Hoàng Trà - Chính ủy, đồng chí Kim Sang - Trưởng phòng Quân báo, ngoài ra không một ai được quan hệ, tiếp xúc. Các vấn đề trực thuộc Đoàn 125 do Bộ giải quyết thông qua Bộ Tư lệnh Hải quân báo cáo với Bộ các vấn đề có liên quan. Do đó, tôi và đồng chí Phát hay gặp gỡ, trong những lúc có công việc cần thiết.
   
                 Khi tôi về phụ trách Chính ủy Cục Hậu cần, Bộ Tư lệnh Hải quân, thì mối quan hệ với đồng chí Phát càng gần gũi, mật thiết hơn, nhất là những vấn đề thuộc về chiến trường miền Nam (công tác B). Ngoài việc giúp đồng chí Phát trong việc chỉ huy việc vận chuyển vũ khí vào miền Nam, do đơn vị cũ của tôi phụ trách, còn giúp trong việc động viên cán bộ kỹ thuật Cục Hậu cần sản xuất các loại vũ khí đặc dụng cho Đặc công Hải quân, do đồng chí Phát suy nghĩ, nghiên cứu đề xuất ra. Cục Hậu cần phụ trách sản xuất, cơ quan Tác chiến thuộc Bộ Tham mưu tổ chức đơn vị mang những loại vũ khí này vào chiến trường B tác chiến, dưới sự chỉ huy của đồng chí Phát, do đó mối quan hệ giữa tôi và đồng chí Phát càng thân quen khăng khít hơn.
   
                 Sau miền Nam giải phóng, tôi về phụ trách Chính ủy Vùng 3 Hải quân, đóng ở Đà Nẵng, thì đồng chí Phát làm Thứ trưởng Bộ Hải sản. Những lúc đồng chí Phát đi công tác ghé qua nhà ở Đà Nẵng, đều báo cho tôi đến nhà chơi, động viên cán bộ Sở Hải sản của Quảng Nam - Đà Nẵng, cử cán bộ đến đơn vị của tôi giúp đỡ tổ chức đánh cá biển, trong công tác Hải quân kết hợp với kinh tế biển. Qua những lần đến chơi, tôi thấy gia đình 2 người chị của đồng chí Phát rất neo đơn, vất vả, khó khăn trong cuộc sống, tôi đã chủ động đề xuất đơn vị làm kinh tế Cửa Tùng, bán cá chịu cho 2 chị đem ra bán ở chợ lấy lời, trả vốn cho đơn vị sau.
   
                 Tôi về hưu sống ở Nha Trang, đồng chí Phát cũng về hưu sống ở Đà Nẵng. Tuy rất xa nhau, nhưng luôn có quan hệ nhờ những đồng chí đang còn công tác, thường đến tôi và đồng chí Phát thông báo tình hình cho nhau nên chúng tôi có tin tức đều đặn.
   
                 Có điều, tôi rất ân hận, khi đồng chí Phát ốm, chữa bệnh ở Bệnh viện Đa khoa Đà Nẵng và mất ở đó, mà không có một ai báo cho tôi biết, để đến viếng anh, lúc anh vĩnh biệt cuộc đời. Khi anh em Đoàn 125, tổ chức cuộc gặp mặt ở Đà Nẵng, có mời chị Điểm, vợ anh Phát, và một số chị có chồng công tác ở đơn vị đề nghị chị Điểm đưa anh em đến mộ anh Phát để thắp hương.
   
                 Khi chị Điểm đưa tôi đến mộ anh Phát để viếng Và thắp hương, lúc cầm nhang chị Điểm mắt đỏ hoe nói một câu làm tôi nhớ mãi: “Ông ơi, anh Hành và các anh ở 125 đến thăm ông, mà sao ông không nói một lời với anh em”. Nói xong chị sụp xuống trước mộ, trong vòng vây của anh em đang cầm nhang, chờ đến lượt mình vào cắm. Anh em đã đến thắp nhang tất cả các mộ của họ nhà anh Phát thì mới biết có người đã là nghĩa quân của Nguyễn Tri Phương chống lại quân thực dân Pháp, lúc chúng đánh chiếm Đà Nẵng.
   
                 Về Thành phố Hồ Chí Minh, chị Điểm đưa tôi đến tận nhà do chị thuê để ở, tôi đến thắp nhang trên bàn thờ anh Phát.
   
                 Khi được tin chị Điểm đau nặng đang điều trị ở Bệnh viện 175, tôi đến thăm, thì thấy chị không còn thần sắc nữa. Tôi cúi gần mặt, động viên chị: “Cố gắng với anh em và các cháu”. Sau đó mấy ngày, bệnh viện báo cho biết, chị đã qua đời, thi hài được đưa ra Đà Nẵng an táng bên cạnh mộ anh Phát.
   
                 Viết những dòng này để nhớ lại mối thân tình giữa tôi và anh Phát, người đồng chí, đồng đội, người anh, đã để lại trong tôi tình nghĩa sâu lắng, khó phai mờ.
   
                 Với cương vị là Tư lệnh Hải quân, anh Nguyễn Bá Phát được phân công chuyên trách về công tác đối với miền Nam một cách an toàn, bí mật như thời kỳ Đoàn còn dưới sự lãnh đạo, chỉ huy trực tiếp của Bộ, giúp cho Khu 8, Khu 9 có đủ vũ khí phát triển lực lượng, liên tục tác chiến thắng lợi.
   
                 Tạo được các điều kiện để Đoàn 125 đưa tàu xuyên qua Vũng Tàu lên đến Lộc An giao vũ khí cho Bộ Tư lệnh Miền và Quân khu 7 mở chiến dịch Bình Giã, tác chiến thắng lợi. Một vấn đề từ trước chưa làm được.
   
                 Tranh thủ được sự giúp đỡ của Khu ủy và Bộ Tư lệnh Khu 5, Đoàn 125 đã mở được 2 bến để đưa vào tiếp tế vũ khí cho Khu 5 là bến Lộ Giao ở Bình Định, Vũng Rô ở Phú Yên, tạo điều kiện cho Khu 5 tác chiến mở rộng vùng giải phóng, khu du kích, ép địch rút chạy, giải phóng 2 huyện Hoài Nhơn, Tam Quan ở ven quốc lộ 1 và huyện An Lão ở miền núi.
   
                 Từ những kinh nghiệm của đặc công bộ binh, anh Phát đã sáng tạo xây dựng lực lượng đặc công Hải quân. Đồng thời anh trực tiếp tổ chức sản xuất các loại vũ khí đặc dụng cho lực lượng này, bơi lặn dưới nước vừa mang vũ khí, vừa tiếp cận tàu địch một cách bí mật, gài mìn nam châm, hẹn giờ gắn vào đáy tàu. Đồng thời Hải quân tổ chức huấn luyện loại binh chủng đặc biệt này, đưa lực lượng này tác chiến thắng lợi, đánh chìm tàu địch ở Cửa Việt. Có thể nói lực lượng này là một binh chủng đặc biệt của Hải quân được Bộ cho phép, tổ chức, xây dựng thành một Trung đoàn với phiên hiệu Đoàn 126 trở thành đơn vị anh hùng trong tác chiến. Cũng từ thành công này, Bộ chỉ thị cho Hải quân tổ chức huấn luyện 2 tiểu đoàn với đầy đủ vũ khí đặc dụng để Bộ điều vào giao các Quân khu miền Nam tác chiến trên sông, trên biển. Trong tổng tiến công nổi dậy 1975, đồng chí Mai Năng đã chỉ huy lực lượng đặc công này, tiếp cận giải phóng đảo Song Tử Tây bên cạnh đảo Song Tử Đông do Philippin chiếm giữ, mở đường giải phóng tất cả các đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Từ chiến công này, đồng chí Mai Năng đã được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
   
                 Đồng chí Nguyễn Bá Phát rất có trách nhiệm đối với nhiệm vụ, công tác, nhất là nhiệm vụ tác chiến. Suy nghĩ, động viên cán bộ cấp dưới cùng suy nghĩ để giải quyết những khó khăn, tạo được thắng lợi trong công tác, cho nên có thể nói anh là một Tư lệnh có tài. Đồng chí có tác phong quần chúng tốt, được đa số anh em mến. Có nhược điểm là nóng tính, khi đã nóng tính dễ phạm sai lầm trong các mối quan hệ. Một số anh em khó tính ít thích, nhưng với ưu điểm của đồng chí Phát, anh em thông cảm dễ bỏ qua, tha thứ, nên luôn luôn giữ được mối quan hệ tốt.
   
                 Viết những dòng này, tôi càng nhớ nhiều đến đồng chí Phát, một đảng viên, một cán bộ, một đồng chí, một đồng đội, một người anh tốt.


                                 
V.H



(1). Nguyên Chính ủy Cục Hậu cần - Quân chủng Hải quân.
Logged
loiho000
Thành viên
*
Bài viết: 162


« Trả lời #55 vào lúc: 15 Tháng Hai, 2017, 09:13:05 pm »

GẶP NGƯỜI ĐÀN BÀ CẦN THƠ
Đại tá Nguyễn Xáng

                Sau giải phóng độ vài chục ngày, tại nhà số 1 Bạch Đằng (nay là đường Tôn Đức Thắng, Thành phố Hồ Chí Minh) tôi đang ăn trưa thì anh Hạ - Trưởng phòng Bảo vệ Quân chủng đến tìm gặp tôi để trao đổi công việc. Có vẻ gì quan trọng nên anh Hạ kéo tôi ra ngồi ghế ở sân trước để nói chuyện. Tiếng nói nhỏ vừa đủ nghe: “Có một bà ở Cần Thơ dẫn theo cháu gái độ 20 tuổi, từ qua nay đã vài lần đến nằng nặc xin gặp cho bằng được thủ trưởng Phát của ta. Bà ấy bảo cô gái là con của người có tên là Phát đấy”. Tôi đã báo cáo xin ý kiến và được Chính ủy bảo tôi báo cáo cho Tư lệnh biết và tổ chức cuộc gặp xác minh rõ ràng, làm sáng tỏ vụ việc.

                 Tôi nói ngay với anh Hạ: “Không biết anh nghĩ thế nào về việc này, theo tôi rất đơn giản, chắc bà ta nhầm lẫn gì đó, chứ từ năm 1945 đến ngày 30-4-1975 nay Tư lệnh của ta đều ở Khu 5 rồi ra Bắc, chưa lúc nào đặt chân lên đồng bằng sông Cửu Long. Tôi sẽ báo cáo với Tư lệnh về việc tổ chức cuộc gặp mặt để thỏa lòng của mẹ con bà ấy và để rõ ràng, dứt khoát chấm dứt việc này, để anh khỏi bận tâm. Chắc anh Phát đồng ý với kế hoạch của ta, nếu anh Phát có ý kiến gì khác. Tôi sẽ báo cáo với anh rồi ta làm theo ý Tư lệnh”. Đồng chí Hạ hoàn toàn nhất trí đề xuất của tôi.
   
                Sau khi nghe báo cáo nội dung và tổ chức cuộc gặp mặt xong, trước khi đi công tác xuống Vùng 5 Hải quân, anh Phát cười và nói ở đời cũng lắm chuyện vui nhỉ. Anh đồng ý với kế hoạch và dặn thêm tôi nói với anh Hạ là phải chú ý động viên mẹ con bà ấy, và tiếp đón chu đáo.
   
                Đúng một giờ rưỡi chiều, đồng chí Hạ đưa hai mẹ con vào phòng khách. Anh Phát vào đáp lời chào và mời hai mẹ con ngồi xuống, anh chủ động nói ngay: “Tôi là Nguyễn Bá Phát, hiện là Tư lệnh Hải quân nhân dân Việt Nam, hai mẹ con chị muốn tìm gặp tôi có việc gì và cần gì thì cứ nói, nếu được tôi và cơ quan sẽ giúp chị và cháu được mãn nguyện”. Cháu gái có vẻ căng thẳng hết nhìn mẹ, lại nhìn anh Phát, vẻ bẽn  lẽn vì sự việc diễn ra không đáp ứng sự mong chờ. Người đàn bà đứng dậy, chắp tay biết lỗi. Anh Phát mời bà cứ ngồi nói chuyện tự nhiên. Bà nói: “Mẹ con tôi xin cảm ơn và xin lỗi ông và các bác ở đây vì đã làm phiền đến các bác. Tôi muốn tìm một anh tên là Phát, bố của cháu này, nghe nói anh ấy vẫn ở bộ đội hay công an vũ trang gì đó. Có người cho tôi biết có ông Phát - Hải quân ở đây nên tôi cũng cố xin tìm gặp, nhưng ông không phải là người mẹ con tôi cần tìm gặp, xin ông và các bác hiểu thấu cho”.
   
                Anh Phát bảo: “Chiến tranh đã để lại bao hậu quả đau thương, bao mất mát, bao phức tạp... trong đó có việc tìm người thân đoàn tụ gia đình. Chị là một trong những trường hợp đó. Sau bao năm chiến tranh tôi cũng mới được gặp lại các anh, các chị của tôi nên tôi rất thông cảm với chị và cháu. Tôi cầu mong chị và cháu sẽ sớm được gặp lại anh ấy. Cần gì chị cứ nói anh Hạ sẽ giúp đỡ. Tôi bận phải đi công tác, anh Hạ sẽ tiếp đón chị”. Anh dặn anh Hạ lo xe đưa hai mẹ con chị về nhà nghỉ, nếu chị và cháu chưa có chỗ nghỉ thì thu xếp chỗ ở chu đáo. Và anh hỏi kỹ xem có cách nào thì giúp chị ta đi tìm cho nhanh.
   
                Ngồi trên xe, anh em chúng tôi đem câu chuyện ra tiếu lâm. Đồng chí lái xe nhanh nhẩu: “Lần này về nhà chúng em có chuyện để trình với bác gái rồi, không biết chúng em sẽ nghe bác gái ca những bài gì? Có cao giọng không? Sẽ vui đây”.
   
                Anh Phát bảo: “Có gì mà các cậu không biết, trong lúc này biết bao nhiêu người khăn gói đi tìm người thân, gặp những trường hợp như vậy, các cậu phải giúp đỡ, chia sẻ sự chờ đợi và hy vọng của người ta, không nên đùa trước sự đau khổ của người khác”. Dừng một chút, anh lại nói tiếp: “Các cậu chưa hiểu biết bà Điểm (vợ của anh Phát) đâu. Bà ấy đã làm công tác phụ nữ trong suốt 9 năm chống Pháp ở miền Nam và tiếp tục nhận các công tác khác đến nay, không phải là người mềm yếu dễ nghe như các cậu tưởng. Vui vẻ, hòa nhã, tận tụy, chu đáo với mọi người. Bà đã gánh vác hết mọi việc gia đình, lo toan tất cả, đảm đang, quan tâm chăm lo chồng con... nên mình mới được nhẹ gánh để làm việc như thế này. Mình cũng có ít thời gian nghĩ đến việc nhà, khi trong nhà có chuyện gì, hoặc có khách khứa mình cũng chỉ hô hào rồi mọi việc bà đều lo liệu đâu vào đấy cả, cần nữa thì có các cậu giúp cho một tay, mọi việc đều xong cả, không chê vào đâu được. Nói việc này thì bà Điểm cho là các cậu bịa chuyện để làm trò cười cho vui thôi, có khi bà lại cười bảo sao các cậu không đưa mẹ con bà ấy ra chơi mấy ngày cho biết”.


                                 
N.X
Logged
loiho000
Thành viên
*
Bài viết: 162


« Trả lời #56 vào lúc: 15 Tháng Hai, 2017, 09:31:57 pm »

TƯ LỆNH CỦA CHÚNG TÔI NGƯỜI LÍNH HẢI QUÂN SỐ MỘT
Trung tá Đặng Ngọc Chỉnh

                Mỗi cán bộ chiến sĩ Hải quân đã hoạt động chiến đấu trong thời kỳ đầu mới thành lập, nhất là thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chắc , đều lưu lại trong ký ức một hình ảnh thân thương, kính trọng về người chỉ huy của mình, đó là Tư lệnh Nguyễn Bá Phát.

                  Anh là Tham mưu phó Quân khu 5 trong cuộc kháng chiến chống Pháp, người con của vùng biển Quảng Nam, có am hiểu ít về kỹ thuật tàu thuyền và hoạt động trên biển. Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ (20-7- 1954), anh tập kết ra Bắc. Trước yêu cầu cấp bách về nhiệm vụ bảo vệ vùng biển miền Bắc vừa được giải phóng. Quân ủy Trung ương triệu tập một tổ cán bộ, nghiên cứu xây dựng lực lượng phòng thủ bờ biển, trong đó có anh và anh được giao nhiệm vụ làm tổ trưởng. Người con của biển lại về với biển, chẳng khác nào nắng hạn gặp mưa rào. Anh hăm hở bắt tay vào công việc, cùng với cả tổ khẩn trương nghiên cứu tài liệu, khảo sát thực địa khắp nơi. Một đề án sơ bộ đã hình thành và được trên chấp thuận. Trọng tâm của đề án là phải khắc phục mọi khó khăn, xây dựng cho bằng được một lực lượng tàu thuyền chiến đấu trên biển. Nhiệm vụ thì nặng nề cấp bách, nhưng điều kiện cần và đủ để lực lượng đó hình thành là 2 yếu tố: con người và trang bị vũ khí là con số không!
   
                  Để khắc phục trở ngại đó, ngày 26 tháng 4 năm 1955, hai đơn vị tiên phong ra đời, đó là Trường huấn luyện 45 và Xưởng 46. Với tốc độ phi mã, Trường huấn luyện 45 khẩn trương thu thập tài liệu, biên soạn giáo án, vừa chiêu sinh mở các lớp đào tạo thuyền trưởng và các ngành kỹ thuật. Xưởng 45 lo thu gom máy móc, vũ khí, trục vớt tàu thuyền của quân Pháp bỏ lại sau khi rút khỏi miền Bắc nước ta. Đơn vị liên hệ chặt chẽ với các cơ sở sửa chửa thuyền bên ngoài, chế tạo đóng mới 20 canô chiến đấu.
   
                  Ngày 24 tháng 8 năm 1955, Hải đội Sông Lô và Hải đội Bạch Đằng ra đời (mỗi Hải đội 10 canô). Đây là lực lượng chiến đấu đầu tiên của Quân chủng, tuy trang bị còn thô sơ, nhưng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tiễu phỉ ở vùng biển Đông Bắc và ngăn chặn làn sóng địch đưa người di cư ồ ạt từ các tỉnh ven biển miền Bắc và Nam. Đây chính là thành tích bước đầu rất lớn của Quân chủng Hải quân, trong đó có một phần công sức không nhỏ của anh Phát.
   
                  Trước yêu cầu phát triển của Quân chủng theo hướng chính quy, hiện đại, giữa năm 1956 anh Phát dẫn đầu đoàn lưu học sinh Hải quân Việt Nam gần 300 người sang Trung Quốc học tập theo sự thỏa thuận của Chính phủ hai nước. Đoàn phân ra nhiều bộ phận, học ở nhiều trường, nhiều chuyên ngành khác nhau: từ thủ trưởng, cơ quan Bộ Tư lệnh, cán bộ chỉ huy tàu, pháo binh bờ biển, các chuyên gia chuyên ngành kỹ thuật và bảo đảm. Thời gian này, anh Phát đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ là học viên được đào tạo cấp Tư lệnh, anh say sưa nghiên cứu, nắm vững kỹ thuật Hải quân và kinh nghiệm xây dựng Hải quân của bạn.
   
                  Mặt khác anh còn lãnh đạo, chỉ đạo tất cả các đoàn học sinh ở các trường khắc phục mọi khó khăn học tập đạt thành tích cao nhất, đồng thời xây dựng tốt tình đoàn kết anh em giữa ta và các đồng chí Trung Quốc. Anh còn thường xuyên giữ chặt mối quan hệ, nắm bắt kịp thời tình hình trong nước, đề xuất ý kiến tham mưu cho Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng đề ra kế hoạch phát triển Hải quân tiếp theo.
   
                  Từ năm 1956 - 1962, các đoàn lần lượt tốt nghiệp và trở về nước, kết hợp với anh em đào tạo trong nước, tạo nên bước ngoặt đột biến về phát triển lực lượng Hải quân. Được sự chi viện chí tình của Hải quân Liên Xô, Trung Quốc, các đoàn tàu tuần tiễu, phóng lôi, săn ngầm, pháo binh bờ biển và các tàu bảo đảm lần lượt ra đời, sức mạnh chiến đấu của Quân chủng được tăng cường vượt bậc. Từ đó trên vùng biển miền Bắc nước ta, suốt từ Mũi Ngọc đến Cửa Tùng, suốt ngày đêm không khi nào vắng bóng tàu thuyền Hải quân hoạt động. Nhân dân ta vô cùng phấn khởi, cuộc sống làm ăn người dân ven biến thật thanh bình. Có thể nói, thời kỳ 1959 - 1964 là thời kỳ Hải quân ta phát triển rực rỡ nhất, đồng bộ nhất, thay đổi cơ bản về chất, cả cơ quan đơn vị, cả lực lượng chiến đấu và phục vụ chiến đấu, cả lực lượng trên bờ và lực lượng trên sông dưới nước. Toàn Quân chủng đoàn kết thống nhất dấy lên cao trào thi đua 3 nhất với khẩu hiệu: “Tàu là nhà, biển là quê hương, mỗi người làm việc bằng hai, vì đồng bào miền Nam ruột thịt”, sẵn sàng nhận và thực hiện bất cứ nhiệm vụ nào mà Đảng và Tổ quốc giao cho.
   
                  Với cương vị là Tư lệnh, anh Phát luôn sâu sát đơn vị, có thể nói ở nơi nào có bộ đội đóng quân, dù ở Hải đảo xa xôi hay những trạm ra-đa, đài quan sát, trên đỉnh núi cao hay trong rừng thẳm đều in dấu chân anh. Anh đem tình thương và trách nhiệm đến với bộ đội, đến đơn vị nào anh cũng cùng cán bộ cơ sở nghiên cứu nắm chắc tình hình, gợi ý giúp đỡ đơn vị xây dựng chương trình công tác, kế hoạch, phương án huấn luyện và chiến đấu phù hợp với thực tế của từng đơn vị. Chính sự giúp đỡ thiết thực của anh đã gắn kết quyết tâm của người chỉ huy với hành động chiến đấu của bộ đội thành một khối thống nhất tạo thành sức mạnh to lớn, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Sức mạnh chiến đấu đó đã được phát huy cao độ ngay từ trận đầu đánh trả tàu chiến Mỹ ngày 2 tháng 8 và ngày 5 tháng 8 năm 1964, Hải quân ta đánh đuổi tàu khu trục Ma-đốc, bắn rơi 8 máy bay, bắt sống giặc lái Mỹ, lập công xuất sắc. Đây là đòn mạnh đánh vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, chứng minh cho thế giới biết rằng: Tàu chiến và máy bay hiện đại của Mỹ chỉ là con ngáo ộp, đụng đến Việt Nam là đâm đầu vào lửa. “Biến của ta đâu phải là ao nhà của chúng”. Chiến thắng trận đầu của Hải quân làm nức lòng nhân dân cả nước và bạn bè khắp năm châu. Cả nước hoan hô Hải quân, cả nước hướng về Hải quân, có hạnh phúc nào hơn những chiến sĩ Hải quân thời bấy giờ.
   
                  Từ đó, Quân chủng Hải quân đã hiệp đồng chặt chẽ với các lực lượng vũ trang khác và nhân dân, liên tục chiến đấu, lập nhiều chiến công và cũng không tránh khỏi những tổn thất đau thương theo quy luật khắc nghiệt của chiến tranh.
   
                  Bước sang năm 1966, vì sự thất bại nặng nề ở chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ này còn điên cuồng đánh phá ác liệt trên toàn miền Bắc nước ta. Đặc biệt ở Khu 4, chúng tập trung đánh vào tàu thuyền Hải quân trú đậu trên các sông rạch, chúng bắt đầu dùng thủy lôi phong tỏa các cửa sông, gây cho ta rất nhiều khó khăn trong hoạt động chiến đấu. Cuối 1966, theo lệnh của trên, tất cả các tàu thuyền Hải quân phải rút hết khỏi vùng biển Khu 4 về Quảng Ninh. Thế rồi Hải Phòng, Quảng Ninh cũng bị đánh ác liệt có lúc tưởng chừng như không còn đất để lui. Đã có ý kiến đề xuất nên đưa tàu Hải quân ngược sông Hồng vừa tham gia chiến đấu, bảo vệ Thủ đô vừa bảo toàn lực lượng. Tàu ngược sông Hồng ư? Tàu rời biển, đồng nghĩa với người lính phải rời khỏi trận địa!
   
                  Chính anh Phát là người trăn trở nhất, anh bàn bạc nhiều lần với cán bộ lãnh đạo, đồng thời tranh thủ ý kiến cấp dưới, cuối cùng Đảng ủy và Bộ Tư lệnh đưa ra một quyết định rất sáng suốt là: Dựa hẳn vào địa hình hiểm trở của vịnh Hạ Long và vịnh Bái Tử Long, tổ chức tốt phòng tránh và đánh địch. Người bám tàu bám biển, một tấc không đi một ly không rời. Quyết định này rất phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của cán bộ chiến sĩ, nên ai cũng phấn khởi đồng tình, thề với nhau sống với biển và chết với biển. Anh Phát xắn quần cùng nhiều đoàn cán bộ lặn lội khắp nơi, qua hàng trăm hòn đảo để tìm ra những luồng lạch mới, những nơi neo đậu tàu bí mật an toàn, những hang hầm, triền núi có thể cải tạo thành nơi cất giấu vũ khí, máy móc, xây dựng triền đà dã chiến sửa chữa tàu thuyền. Hình thành nhiều phương án phòng tránh và đánh địch hiệu quả. Vì thế mà trong cả một thời gian dài, các đơn vị không những bảo toàn được lực lượng mà còn tham gia chiến đấu lập nhiều chiến công. Tuy thế trận và phương thức hoạt động chiến đấu của bộ đội tạm ổn, nhưng chưa bao giờ vừa lòng, anh Phát luôn day dứt theo đuổi một ý nghĩ, thấy mình còn mắc nợ với đồng bào Khu 4, với đồng bào miền Nam. Nhất định bằng mọi giá Hải quân phải có mặt hoạt động chiến đấu trên khắp các chiến trường toàn quốc. Suy nghĩ của anh cũng là suy nghĩ của nhiều cán bộ lãnh đạo trong Quân ủy. Nhiều cuộc họp bàn bạc hiến kế đánh địch, không những ở cấp lãnh đạo mà còn mở rộng ở đến các đơn vị. Chưa bao giờ Hải quân ta gặp khó khăn như lúc này. Nhưng cũng chưa bao giờ, tình đoàn kết nhất trí cao, ý thức trách nhiệm quyết tâm chiến đấu và sức sáng tạo của con người lại được phát huy cao độ như lúc này. Nhiều phương thức hoạt động, phương án đánh địch độc đáo, sáng tạo; nhiều đề xuất cải tiến chế tạo phương tiện, vũ khí mới phù hợp với cách đánh và từng chiến trường đã được hình thành, mở ra một tiền đồ lớn cho Quân chủng Hải quân trưởng thành, phát triển và nhất định sẽ lập nhiều chiến công mới.
   
                  Một lực lượng mới hình thành và phát triển rất nhanh là Đặc công nước 126. Đoàn trực tiếp hoạt động chiến đấu liên tục trên mặt trận Đông Hà, Cửa Việt, đánh chìm hàng trăm tàu địch, lập nhiều chiến công xuất sắc. Đoàn còn huấn luyện xây dựng nhiều đội đặc công độc lập, bổ sung cho các Quân khu miền Nam, hoạt động chiến đấu trên khắp sông, rạch. Đã đánh chìm, đánh bị thương hàng trăm tàu thuyền của Mỹ ngụy, làm cho chúng khiếp đảm kinh hồn. Các đơn vị chiến đấu cải dạng do Xưởng 48 sản xuất, được trang bị bom phóng, vũ khí chống tăng, thủy lôi, trở lại vùng biển Khu 4, lấy bãi Ngang làm căn cứ hoạt động đánh địch. Bằng cách hoạt động khôn khéo, các đơn vị đã đánh chìm đánh bị thương nhiều tàu địch, trong đó đánh bị thương cả tàu khu trục và tuần dương của Mỹ. Đoàn 125 được tăng cường đóng mới nhiều tàu vận tải có tải trọng đến vài trăm tấn, chịu được sóng to gió lớn. Tàu hoạt động dài ngày trên biển, bí mật chuyên chở nhiều vũ khí, đạn dược chi viện cho khắp các chiến trường miền Nam, kể cả vùng xa tận đất mũi Cà Mau, Kiên Giang.
   
                  Sự trưởng thành nhanh chóng của bộ đội, những chiến công dồn dập khắp các chiến trường báo về làm nức lòng mọi người. Tư lệnh Nguyễn Bá Phát vui lắm, đến đâu cũng thấy anh cười rất tươi, và với một cử chỉ rất độc đáo của riêng anh, gặp người lính nào anh cũng dùng ngón tay ấn lên trán chính mình và dặn anh em: “Các đồng chí nhớ phải luôn luôn đóng chặt cái mỏ neo vào chỗ này” một sự nhắc nhở đầy tình yêu và trách nhiệm của người lính Hải quân đối với biển, thật tế nhị và sâu sắc.
   
                  Nhờ Quân ủy Trung ương phát triển lực lượng nhanh, đứng chân hoạt động trên khắp chiến trường toàn quốc, nên năm 1975 khi thời cơ giải phóng miền Nam tới, Hải quân ta đủ sức cùng với toàn quân, toàn dân giải phóng kịp thời toàn bộ vùng biển và hải đảo phía nam Tổ quốc, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất nước nhà.
   
                  Hải quân nhân dân Việt Nam hình thành phát triển ngày càng vững mạnh, lập nhiều chiến công hiển hách, được Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Thành tích chiến công là công lao, xương máu chung của bao thế hệ chiến sĩ Hải Quân ta. Nhưng Tư lệnh Nguyễn Bá Phát xứng đáng là người chiến sĩ Hải quân số một, trọn đời hiến dâng trái tim và toàn bộ sức lực cho biển cả và sự nghiệp Hải quân nhân dân Việt Nam anh hùng.


                              
Đ.N.C

Logged
loiho000
Thành viên
*
Bài viết: 162


« Trả lời #57 vào lúc: 15 Tháng Hai, 2017, 09:37:48 pm »

NHỚ ANH BẢY PHÁT, MỘT VỊ TƯỚNG TÀI BA
Phạm Minh Tuấn (Phạm Phú Lộ)(1)

                    Tôi là một cán bộ cũ của bộ đội Liên khu 5, miền Nam Trung Bộ, nên biết anh Phát từ lâu. Biết anh ấy là một chỉ huy tài giỏi nổi tiếng từ trận đánh đèo Hải Vân tiêu diệt tên quan năm Pháp Roger; biết anh là một trong những cán bộ đầu tiên được tặng thưởng Huân chương Quân công (Huân chương cao nhất trong quân đội); biết anh từng được giao nhiều trọng trách trong bộ đội Liên khu 5.

                Năm 1959, tôi đang là chính trị viên Tiểu đoàn 40 Trung đoàn 96 Sư đoàn 305, thì được điều động về Cục Hải quân, tiền thân của Quân chủng Hải quân sau này. Anh Phát đã là Cục trưởng ở đấy. Tuy cùng đơn vị nhưng tôi là cán bộ chính trị nên rất ít gặp Cục trưởng. Khi Cục Hải quân được tổ chức thành Quân chủng Hải quân, anh Phát là Tư lệnh Quân chủng Hải quân. Tôi vẫn là cán bộ chính trị, luân chuyển qua nhiều công tác, nhưng cũng rất ít gặp Tư lệnh. Tuy vậy, qua công việc của mình, tôi được biết Tư lệnh là một vị tướng rất được kính trọng về năng lực và đạo đức.
   
                Anh Phát đóng góp một phần rất quan trọng trong việc xây dựng lực lượng Hải quân trưởng thành. Nước ta còn nghèo, lực lượng Hải quân nhỏ bé, không có một chiếc tàu lớn nào làm sao để phát huy tối đa vào công việc chiến đấu vĩ đại của dân tộc: Giải phóng miền Nam, bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Là Cục trưởng hoặc Tư lệnh, lúc nào anh cũng trăn trở suy nghĩ tìm hướng sử dụng lực lượng Hải quân sao cho đạt hiểu quả cao nhất.
   
                Tháng 8 năm 1963, thường trực Quân ủy Trung ương giao nhiệm vụ cho Hải quân vận chuyển chiến lược trên biển. Phải đưa bằng được vũ khí, hàng hóa thiết yếu vào sâu trong chiến trường Nam Bộ (vận chuyển đường bộ mới được đến Liên khu 5).
   
                Một nhiệm vụ tuyệt mật vô cùng khó khăn nguy hiểm nhưng rất vẻ vang, đã mở hướng cho hải quân. Anh Phát cùng một số cán bộ lao vào nghiên cứu chuẩn bị lực lượng và nắm địch, nhất là công tác bố phòng trên biển. Sau khi đi thử thành công, Hải quân đã xây dựng được một trung đoàn chuyên trách thực hiện nhiệm vụ này (Trung đoàn 125 hai lần được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân).
   
                Mười năm lăn lộn trên biển, trải qua biết bao gian nan nguy hiểm. Có lúc đành phải hy sinh cả tàu thuyền và cán bộ, chiến sĩ để giữ bí mật. Cuối cùng địch phải cay đắng chịu thất bại thảm hại. Ta vượt qua sự bố phòng nghiêm mật, dày đặc tàu thuyền của chúng để chi viện gần 30 vạn tấn vũ khí và hàng hóa thiết yếu, góp một phần quan trọng làm tăng sức mạnh chiến đấu cho bộ đội miền Nam.
   
                Khi đã thực hiện tốt nhiệm vụ chi viện cho miền Nam bằng đường biển, anh Phát lại suy nghĩ cách đánh địch trên biển, trên sông. Một trung đoàn “đặc công nước” của hải quân đã gây kinh hoàng cho địch ra đời từ đó (Trung đoàn 126 hai lần được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân). Ta đánh chìm hàng trăm tàu thuyền các loại, có tàu vận tải 1 vạn rưỡi tấn, đánh bị thương nhiều tàu khác, có tàu tuần dương, tàu khu trục hiện đại như Niu-pô-niu, Oa-sinh-ton, Bri-bon.
   
                Trong cuộc tổng tấn công nổi dậy lịch sử giải phóng miền Nam, Hải quân đã tích cực cùng các mũi tiến công tham gia chiến đấu, rà phá thủy lôi, bom mìn, tiếp quản các căn cứ hải quân địch, giải phóng các đả0 Sinh Tồn, Song Tử Tây, Nam Yết, Sơn Ca, Trường Sa.
   
                Ở miền Bắc, Hải quân kiên quyết anh dũng bảo vệ chủ quyền trên biển tham gia đánh thắng chiến tranh phá hoại của Mỹ. Ngay trận đầu đã đánh đuổi tàu khu trục ra khỏi hải phận, bắn rơi 1 máy bay và bắn bị thương 1 chiếc khác. Trong chiến tranh phá hoại, Hải quân đã bắn rơi 118 máy bay các loại và tháo gỡ hàng ngàn bom mìn, thủy lôi bảo đảm thông suốt luồng lạch.
   
                Hải quân còn tham gia làm kinh tế, đánh bắt hàng vạn tấn cá biển và sản xuất hàng triệu lít nước mắm góp phần giải quyết khó khăn về đời sống.
   
                Lực lượng nhỏ bé nhưng thành tích đạt được rất vẻ vang. Hải quân đã có gần 50 đơn vị và cán bộ (46) được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, có trung đoàn được tuyên dương 2 lần, được tặng thưởng hơn 3000 huân chương các loại, trong đó có 51 Huân chương Quân Công, 1 Huân Chương Độc lập và 1 Huân chương Hồ Chí Minh. Những thành tích vẻ vang ấy không thể không có dấu ấn của Tư lệnh Nguyễn Bá Phát.
   
                Tháng 7 năm 1976, anh Phát được trên điều về làm Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản thay thế đồng chí Tổng cục trưởng cũ (nguyên là Bí thư Thành ủy Hải Phòng). Một số cán bộ ở Bộ thường gọi thân mật là anh Bảy Phát. Lúc bấy giờ tình hình Tổng cục rất bê bối, lãnh đạo mâu thuẫn đấu đá liên miên. Sự bê bối đó lan đến cơ quan và đơn vị dưới. Tổng cục lại được nâng cấp làm Bộ, do đồng chí Võ Chí Công làm Bộ trưởng (sau này đồng chí Võ Chí Công là Chủ tịch nước), anh Phát làm Thứ trưởng thứ nhất.
   
                Năm 1977, tôi cũng được điều về Bộ Hải sản và được bổ nhiệm làm Phó chánh Văn phòng, chuyên trách công tác tổng hợp về Đảng làm Bí thư Đảng bộ văn phòng, Đảng ủy viên Đảng bộ của Bộ. Chính vì công tác chính quyền và Đảng như vậy nên tôi rất gần anh Phát và càng cảm nhận được những đức tính cao quý của anh.
   
                Phải nói rằng về Bộ Hải sản không có chút gì thuận lợi với anh. Công việc không quen, người không quen, lương thấp, không thể “quân lệnh như sơn” như trong quân đội, lại xa gia đình, xa vợ con. Cấp dưới của anh đã lên trung tướng, thượng tướng. Nhiều thứ trưởng không phải là thứ nhất đã lần lượt lên làm Bộ trưởng... còn anh vẫn cứ là Thứ trưởng thứ nhất cho đến khi về nghỉ hưu. Nỗi niềm ấy không biết trong thâm tâm anh có suy nghĩ gì? Nhưng gần anh, tôi chỉ thấy ở anh một tinh thần trách nhiệm rất cao, luôn tận tụy với công việc và đoàn kết với các Bộ trưởng. Đối với Nghị quyết Trung ương, anh luôn trăn trở suy nghĩ để quán triệt vào nghị quyết của Ban cán sự và vào chương trình hành động của Bộ. Đọc báo nghe đài thấy có ý gì mới liên quan, thì dù giữa đêm cũng ghi chép lại để sáng hôm sau làm việc với tôi hoặc thư ký riêng. Anh thường nói vui “nhất dạ sinh bá kê” kia mà!
   
                Đối với một Tư lệnh quân sự phải làm những công việc chính trị như thế thật chẳng dễ dàng và thích thú gì, nhưng anh vẫn siêng năng và cần mẫn như con ong hút mật, mỗi hoa một ít để tạo nên những giọt mật cho đời.
   
                Anh sinh hoạt giản dị, được phân một căn hộ tập thể, anh chủ động nhường cho một cán bộ khác có nhu cầu cấp thiết hơn, còn mình thì ở một phòng nhỏ trong cơ quan.
   
                Tuy tôi có điểm chưa thích cách làm việc của anh. Tôi thiên về cách làm việc có giờ giấc, đến đúng giờ, về đúng giờ. Còn anh Phát, việc chưa xong chưa về. Có việc cần thì làm lu bu, bám riết lấy, gần như quên ăn, quên ngủ, quên nghỉ ngơi, làm bằng xong mới thôi. Có việc đã xong, văn bản đã đem đánh máy, nhưng có ý mới, anh lại yêu cầu bổ sung. Tôi không thích như thế nhưng tôi rất cảm phục cách làm việc quên mình của anh.
   
                Ý kiến riêng của tôi là nếu để anh Phát ở Hải quân chắc anh sẽ cống hiến được nhiều và tốt hơn cho quân đội.
   
                Để tưởng nhớ anh, tôi cố gắng phản ánh một số nét về anh trong thời gian tôi được gần gũi. Tuy nhiên tôi là cán bộ chính trị thời gian ở Hải quân gần như không có quan hệ gì với Tư lệnh. Tuổi cũng đã thuộc loại U80, sức khỏe, sức viết có hạn chắc rằng còn nhiều thiếu sót, chưa khái quát được đầy đủ những nét chính về tầm vóc của anh. Mong sẽ được các bài viết khác bổ sung.


                                 
P.M.T


(1). Nguyên chính trị viên Đại đội 4 Tiểu đoàn 19 Liên khu 5. Phó Chính ủy Đoàn 172.
Logged
loiho000
Thành viên
*
Bài viết: 162


« Trả lời #58 vào lúc: 15 Tháng Hai, 2017, 09:56:31 pm »

ĐỒNG CHÍ NGUYỄN BÁ PHÁT VỞI SỰ NGHIỆP THỦY SẢN
Tiến sĩ Tạ Quang Ngọc(1)

                 Đồng chí Nguyễn Bá Phát, bí danh Hồng Hải, sinh ngày 2 tháng 5 năm 1921; quê ở thôn Trung Sơn, xã Hoà Liên, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, nay thuộc thành phố Đà Nẵng.

                  Là một Đảng viên ưu tú, kiên cường; một vị tướng chỉ huy quân sự mưu lược dũng cảm; một cán bộ cấp cao của Đảng và Nhà nước, đồng chí đã cống hiến trọn cuộc đời cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng, thống nhất đất nước, bảo vệ xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
   
                  32 năm hoạt động trong lĩnh vực lực lượng Vũ trang cách mạng, đồng chí đã trải qua nhiều nhiệm vụ, công tác khác nhau. Đồng chí là Thiếu tướng, Tư lệnh Hải quân, Quân chủng gắn bó máu thịt với bà con ngư dân trong mọi hoạt động bám biển sản xuất suốt thời kỳ chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của Mỹ tại miền Bắc, chi viện cho chiến trường miền Nam. Sau chiến thắng năm 1975, miền Nam giải phóng, đất nước thống nhất, Tổng cục Thủy sản trước đây trở thành Bộ Hải sản (6-1976), đồng chí là thế hệ đầu tiên của lãnh đạo Bộ lúc đó. Đồng chí giữ chức vụ Thứ trưởng từ năm 1976 liên tục đến khi nghỉ hưu năm 1987. Trong suốt thời kỳ này, đồng chí Nguyễn Bá Phát đã có những công lao đóng góp xứng đáng cho sự nghiệp xây dựng và phát triển ngành thủy sản, bắt đầu từ những năm sau giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ngành thủy sản trong giai đoạn này.
   
                  Đồng chí Nguyễn Bá Phát có công lao khởi xướng và để lại những dấu ấn đậm nét đối với tuyến đảo và vùng nước ven bờ, trong cuộc cải tạo, hợp tác hóa nghề cá và xây dựng cấp huyện, trong chỉ đạo nuôi cá và phát triển phong trào: “Ao cá Bác Hồ” rộng khắp trong cả nước. Có thể nói, sự chỉ đạo quyết liệt, sâu sát thực tiễn của một vị tướng trên mặt trận kinh tế đã góp phần tạo nên phong trào “Ao cá Bác Hồ” được triển khai sâu rộng, có sức lôi cuốn lớn trong mọi tầng lớp, mọi ngành sản xuất, đồng thời góp phần tạo ra những vùng nuôi cá tập trung cung cấp nguồn thực phẩm thủy sản tươi sống cho người dân vào thời kỳ bao cấp đầy khó khăn. Với những trọng trách đảm nhận trong ngành, trong đó có những năm làm Thứ trưởng Thường trực, Bí thư Ban Cán sự Đảng Bộ Thủy sản, đồng chí Nguyễn Bá Phát luôn là một trong những nhân tố chủ chốt trong việc duy trì và giữ vững mối quan hệ gắn bó quân dân, sự gần gũi giữa bà con ngư dân, lao động ngành thủy sản với cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang trong sự nghiệp xây dựng ngành thủy sản và tham gia bảo vệ vững chắc chủ quyền, biên giới quốc gia của Tổ Quốc.
   
                  Là cán bộ chỉ huy quân sự lâu năm, tác phong, tư tưởng và hành động của “Bộ đội Cụ Hồ” đã đi theo đồng chí Nguyễn Bá Phát trong suốt cuộc đời tôi, kể cả khi chuyển sang lãnh đạo ngành kinh tế thủy sản. Có thể nói, đồng chí là người cán bộ lãnh đạo quan trọng trong một giai đoạn quan trọng phát triển ngành thủy sản nước ta.
   
                  Toàn thể lao động nghề cá và cán bộ công chức, viên chức ngành thủy sản luôn nhớ tới hình ảnh Nguyễn Bá Phát - một cán bộ lãnh đạo cao cấp có tác phong sâu sát thực tiễn, quyết đoán và kỷ cương, gần gũi với bà con ngư dân, được mọi người yêu mến nể trọng.
   
                  Những cống hiến của đồng chí Nguyễn Bá Phát - mà những người có dịp sống và làm việc cùng đồng chí gọi một cách trìu mến: Anh Bảy với ngành thủy sản là vô cùng to lớn và thật đáng trân trọng. Biết bao công sức, trí tuệ của một người anh lớn đã đóng góp từ những ngày đầu tiên của Bộ Hải sản cho đến khi nghỉ hưu, biết bao câu chuyện và kỷ niệm đẹp về  anh Bảy vẫn còn đọng lại với những người làm nghề cá chúng tôi - những người ở thế hệ sau anh xây dựng ngành thủy sản ngày càng phát triển, cùng với đà lớn mạnh của đất nước trên con đường đối mới.


                              
T.Q.N



(1). Nguyên Bí thư Ban cán sự - Bộ trưởng Bộ Thủy sản.

Logged
loiho000
Thành viên
*
Bài viết: 162


« Trả lời #59 vào lúc: 15 Tháng Hai, 2017, 10:12:44 pm »

THEO BƯỚC CHÂN ANH
Nguyễn Văn Lan(1)

                Là kỹ sư nuôi trồng thủy sản, sau ngày tốt nghiệp, tôi tình nguyện nhập ngũ và vào chiến trường miền Đông Nam Bộ chiến đấu cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30-4-1975). Sau đó tôi được chuyển ngành về công tác tại Bộ Thủy sản. Theo sự phân công của tổ chức và thật may mắn cho tôi, khoảng thời gian từ năm 1978 - 1983 tôi được làm thư ký riêng cho đồng chí Nguyễn Bá Phát, Thứ trưởng thường trực, Bí thư Ban cán sự Đảng Bộ Thủy sản (Nguyên là Thiếu tướng, Tư lệnh Hải quân, Quân đội nhân dân Việt Nam).

                  Qua quá trình công tác, được gần gũi hàng ngày với đồng chí Nguyễn Bá Phát, tôi thật sự cảm nhận sâu sắc rằng đây là khoảng thời gian có ý nghĩa nhất đối với cuộc đời của tôi. Đặc biệt tôi được đồng chí giúp đỡ, chỉ bảo tận tình chu đáo trong công tác cũng như trong cuộc sống. Đối với tôi đồng chí Nguyễn Bá Phát vừa là người thầy, vừa là đồng chí thân thiết, vừa là tấm gương sáng ngời cho tôi học tập noi theo trong suốt cuộc đời.
   
                  Lãnh đạo Bộ Thủy sản đã có đánh giá những kết quả, thành tích công tác của đồng chí Nguyễn Bá Phát là rất to lớn và góp phần quan trọng trong qua trình phát triển ngành Thủy sản. C đây với tư cách cá nhân, tôi xin nêu một số vấn đề trong ký ức của mình để góp thêm tư liệu và hiểu biết về con người đồng chí Nguyễn Bá Phát.
   
                  Qua tìm hiểu và trực tiếp chứng kiến trong công việc hàng ngày với đồng chí, tôi thấy ấn tượng nhất ở đồng chí là đức tính, phẩm chất cách mạng “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư” thường xuyên được tu dưỡng và biểu hiện trong cuộc sống, nhất là trong khi thi hành công vụ. Cụ thể đó là:


                 1. Tinh thần trách nhiệm cao, hăng say quên mình vì công việc.

                 Từ cương vị thiếu tướng, Tư lệnh Hải quân, được Đảng và Nhà nước điều động sang công tác ở một ngành kinh tế kỹ thuật, với chức vụ Thứ trưởng thường trực, Bí thư Ban cán sự Đảng Bộ Thủy sản và phụ trách công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nghề cá ở các tỉnh phía Nam, tổ chức lại sản xuất nghề khai thác cá biển (Nghề cá nhân dân), phát triển nuôi trồng thủy sản... là một lĩnh vực mới nhưngđồng chí đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, đi vào thực tiễn cuộc sống, sản xuất của nông - ngư dân, tìm tòi suy nghĩ, tổng kết kinh nghiệm đề xuất những chủ trương, chính sách góp phần đưa ngành Thủy sản phát triển. Điểm nổi bật của con người đồng chí là sức bền bỉ, dẻo dai, không ngại khó khăn gian khổ, toàn tâm toàn ý hết mình vì công việc.
   
                  Gia đình đồng chí Nguyễn Bá Phát sinh sống ở thành phố Hải Phòng, khi được điều về công tác ở Hà Nội, Bộ Thuỷ sản phân cho đồng chí một căn hộ khép kín, nhưng đồng chí không nhận vì có một mình, nên chỉ xin Bộ bố trí một phòng nhỏ ở bên cạnh phòng làm việc, đỡ tốn kém cho Nhà nước. Chính vì vậy mà toàn bộ thời gian ở Hà Nội, dù trong hay ngoài giờ hành chính đồng chí đều dành cho công việc.
   
                  Nhiều buổi tối đồng chí yêu cầu tôi đến làm việc tiếp các phần việc mà ban ngày còn làm dang dở hoặc những việc phải làm gấp cho kịp với yêu cầu. Tôi nhớ nhất những lần chuẩn bị cho các Hội nghị lớn của ngành, đồng chí tập trung suy nghĩ cao độ, dồn sức chỉ đạo các đơn vị như Văn phòng Bộ, Vụ Nuôi trồng thủy sản, Vụ hợp tác xã... xây dựng các văn bản báo cáo rất công phu không kể ngày đêm. Đó là chuẩn bị cho hội nghị phát triển phong trào thi đua xây dựng “Ao cá Bác Hồ” tháng 11 năm 1978; Hội nghị đẩy mạnh công tác cải tạo và phát triển nghề cá tháng 2 năm 1981; Hội nghị phát triển Nuôi trồng thủy sản toàn quốc tháng 6 năm 1982.
   
                  Ngay cả khi bị ốm đau, đồng chí vẫn nêu cao tinh thần trách nhiệm, tiếp tục hăng say, quên mình vì công việc. Ngày 4 tháng 11 năm 1981, đồng chí bị cảm đột ngột, xuất huyết não, phải đi cấp cứu tại Bệnh viện Hữu nghị Việt - Xô. Trong thời gian nằm viện đồng chí vẫn yêu cầu tôi hàng ngày nắm tình hình và báo cáo để đồng chí giải quyết kịp thời các công việc, tránh làm ảnh hưởng các hoạt động chung của ngành. Sau khi được ra viện, đồng chí lại tích cực chỉ đạo và trực tiếp chuẩn bị cho Hội nghị phát triển Nuôi trồng thủy sản toàn quốc. Mặc dù biết ngày khai mạc Hội nghị (1-6-1982) cũng là ngày đồng chí được Đảng và Nhà nước cho đi chữa bệnh ở Cộng hòa dân chủ Đức, nhưng đồng chí vẫn mang hết tâm sức dồn cho công tác chuẩn bị hội nghị một cách rất chu đáo rồi mới yên tâm đi nước ngoài chữa bệnh. Sau 5 tháng chữa bệnh ở nước ngoài về (từ 1-6 đến 30-101982) đồng chí tiếp tục làm việc hết sức mình cho đến khi nghỉ hưu. Trong suốt quá trình công tác, đồng chí Nguyễn Bá Phát làm việc không biết mệt mỏi và suốt đời vì công việc, vì sự nghiệp cách mạng mà Đảng và Nhà nước đã giao cho đồng chí.


                 2. Tính khoa học và nguyên tắc khi làm việc.

                 Tôi đã học tập được rất nhiều ở đồng chí Nguyễn Bá Phát về tính khoa học và nguyên tắc khi làm việc. Đó là khoa học về thời gian làm việc, về quy trình giải quyết những vấn đề lớn, là nguyên tắc và ý thức tổ chức kỷ luật trong công tác. Đồng chí thường căn dặn tôi làm bất kỳ công việc gì cũng phải biết rõ mục đích, nội dung và có chương trình cụ thể.
   
                  Về thời gian làm việc phải thực hiện theo kế hoạch cho từng tháng, từng tuần và từng ngày. Trong một ngày cũng phải sắp xếp theo thứ tự ưu tiên công việc cụ thể và thực hiện nghiêm chỉnh, không nên tùy tiện phá vỡ kế hoạch. Đồng thời phải tôn trọng làm việc đúng giờ, kết thúc đúng giờ, nếu vấn đề nào chưa xong thì bố trí làm việc tiếp vào buổi khác. Không nên kéo dài quá thời gian quy định để các cuộc làm việc sau đó bị ảnh hưởng. Đối với các chuyến đi công tác về các địa phương, đồng chí yêu cầu phải chuẩn bị chu đáo, phải trao đổi với các địa phương và bố trí thời gian làm việc cho hợp lý, thuận tiện. Khi đã có chương trình kế hoạch chuyến đi rồi thì phải thực hiện đúng để các địa phương không phải chờ đợi, tránh gây phiền hà, lãng phí. Khi đi công tác cùng ngồi trên xe ô tô, đồng chí thường nhắc nhở mọi người phải chú ý quan sát tình hình xã hội, sản xuất và cuộc sống của nhân dân để khi nghe địa phương báo cáo mới có thể so sánh kiểm chứng được và hiểu được sâu sắc, bản chất, thực tiễn sinh động. Đồng thời tranh thủ trao đổi, thảo luận những vấn đề sẽ làm việc địa phương, cơ sở để khi đến làm việc được nhanh chóng và hiệu quả.
   
                  Về quy trình giải quyết những vấn đề lớn, phải tuân thủ theo các bước sau:
   
                  1. Công tác chuẩn bị, nắm tình hình thông qua báo cáo và đi kiểm tra thực tiễn.
   
                  2. Tổng kết rút kinh nghiệm và đề ra phương hướng tiếp theo.
   
                  3. Các biện pháp cụ thể, thiết thực và tổ chức triển khai thực hiện. Muốn vậy phải có đủ thời gian cần thiết đệ thực hiện các bước trên và tùy theo từng vấn đề mà thời gian có khác nhau. Hội nghị phát triển phong trào thi đua xây dựng “Ao cá Bác Hồ” (11-1978) thời gian chuẩn bị gần một năm; Hội nghị đẩy mạnh công tác cải tạo và phát triển nghề cá biển (2- 1981) thời gian chuẩn bị gần 4 năm; Hội nghị phát triển nuôi trồng thủy sản toàn quốc (6-1982) thời gian chuẩn bị là 2 năm.
   
                  Tính nguyên tắc và ý thức tổ chức kỷ luật đã trở thành bản chất của con người đồng chí, đó là “Quân lệnh như sơn”. Với tác phong là Tướng chỉ huy trong quân đội, nay ra công tác ở một ngành kinh tế đồng chí vẫn giữ tác phong quân sự nên lúc đầu có một số ít cán bộ còn bỡ ngỡ, nhưng sau đó họ hiểu ra thì thấy làm như vậy là đúng, là khoa học và phù hợp với tác phong công nghiệp. Đối với đồng chí Bộ trưởng thì đồng chí luôn giữ đúng nguyên tắc “Đi báo cáo, về báo công”. Khi đi công tác các địa phương về đồng chí đều tranh thủ báo cáo Bộ trưởng trước rồi mới làm các công việc khác. Nhiều lần, đồng chí đi công tác ở miền Nam ra, mặc dù là ngày thứ 7 và đã hết giờ làm việc nhưng đồng chí vẫn đợi gặp được Bộ trưởng để báo cáo rồi mới về nhà. Ngay cả ngày đi chữa bệnh ở Cộng hòa dân chủ Đức về (31-10-1982) vào chiều chủ nhật, nhưng đồng chí vẫn về Bộ để sáng thứ hai gặp báo cáo Bộ trưởng rồi mới về nhà ở Hải Phòng để nghỉ ngơi. Bất kỳ giải quyết công việc gì, đồng chí đều tìm hiểu tình hình cụ thể, thu thập các thông tin có liên quan rồi mới đưa ra họp thảo luận, bàn bạc kỹ, sau đó đi đến quyết định và khi đã quyết định rồi thì quyết tâm thực hiện cho bằng được, với tinh thần chỉ tiến không lui, coi đó như là tổ chức một trận đánh giặc. Đồng chí thường nói khi lãnh đạo chưa quyết định thì mọi người tự do bàn luận, nói hết mọi lý lẽ ngược xuôi của vấn đề. Đến khi đã quyết định rồi thì triển khai thực hiện với quyết tâm cao nhất. Khi kết thúc công việc sẽ cùng nhau đánh giá kết quả và rút kinh nghiệm. Điều quan trọng là phải trên dưới một lòng, đồng tâm hiệp lực thì mọi việc nhất định sẽ thành công.

Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM