Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Tư, 2024, 03:53:55 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Thiếu tướng Nguyễn Bá Phát - Vị tướng tài trí  (Đọc 15626 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
loiho000
Thành viên
*
Bài viết: 162


« Trả lời #30 vào lúc: 11 Tháng Hai, 2017, 10:38:28 pm »

III

                 Khác với những lần nhận nhiệm vụ trước đây, lần này Nguyễn Bá Phát được báo phái đến Bộ chỉ huy Khu 5 để gặp các đồng chí Nguyễn Chánh - Chính trị ủy viên, Cao Văn Khánh - Khu trưởng. Thị xã Quảng Ngãi lúc bấy giờ là trung tâm hành chính quân sự của Khu 5 rất đông vui, nhiều bộ đội, nhiều đoàn quân được điều động đi khắp các mặt trận đang sôi động, đều qua lại ở đây.

                  Các đồng chí trong Bộ chỉ huy Khu 5 niềm nở đón tiếp anh. Chính trị ủy viên Nguyễn Chánh đã biểu dương người cán bộ xông xáo, năng động trên khắp các chiến trường và chỉ rõ cho anh thấy nhiệm vụ quan trọng cùng anh Đàm Quang Trung chỉ huy một địa bàn chiến lược vào bậc nhất Khu 5: Quảng Nam - Đà Nẵng. Đồng chí Chính trị ủy viên nói:
   
                  - Anh được về Quảng Nam - Đà Nẵng khác nào như hổ được thả về rừng, tha hồ mà đánh địch, nhưng không nên chủ quan, tình hình gay go đó. Nó vừa mới tăng quân. So sánh lực lượng chủ quan ta và địch, thì chúng mạnh hơn ta gấp 4-5 lần. Nhưng ta có lực lượng dân quân tự vệ, có nhân dân, thế mạnh ta hơn nó.
   
                  Đồng chí Khu trưởng Cao Văn Khánh cũng nhắc nhở người chỉ huy mới trưởng thành vượt bậc không đầy một năm qua. Tưởng anh là thủy quân của Pháp tất biết được nhiều tiếng Pháp, cho nên đã nói với anh một câu rất dài bằng tiếng nước ngoài mà anh chỉ nghe lõm bõm vài chữ, không hiểu được gì nhiều. Nhưng cả ba người đã vui vẻ chấm dứt cuộc trao đổi thân mật, thực ra đối với anh đó là mệnh lệnh chiến đấu mà anh phải chấp hành nghiêm túc.
   
                  Liền sau đó đồng chí Nguyễn Chánh đã đích thân đưa anh qua gặp đồng chí Phạm Văn Đồng mà cách đây không lâu đã từ Việt Bắc vào làm đại diện Chính phủ ở miền Nam Trung Bộ. Sau khi bắt tay anh rất chặt, đồng chí đại diện Chính phủ với giọng Quảng Ngãi sang Sảng đã nói với anh:
   
                  - Tôi đã gửi cho anh một bức thư, anh đã nhận được chưa?
   
                  - Thưa anh chưa - Anh trả lời bồi hồi xúc động vì sự quan tâm của đồng chí lãnh đạo cao nhất của Đảng và Chính phủ ở miền Nam Trung Bộ lúc bấy giờ.
   
                  - Thư sẽ đến, bây giờ chúng ta có dịp nói chuyện trực tiếp với nhau. Vừa qua tôi đã đi kiểm tra tình hình ở Quảng Nam - Đà Nẵng. Chúng tôi thấy cần bố trí anh về đó, ở đó rất thích hợp với anh, quen đất, quen người.
   
                  Vị đại diện Chính phủ nói rất ít lời đủ làm cho anh hiểu rõ tầm quan trọng của Quảng Nam - Đà Nẵng là một cảng lớn mà địch cố chiếm cho kỳ được để làm đầu cầu mở rộng chiến tranh ra khắp Trung Trung Bộ, sang cả Hạ Lào. Cuộc chiến đấu sẽ rất ác liệt. Đồng chí cũng cho biết địch đã gây ra những vụ thảm sát đẫm máu ở Hải Phòng và Hà Nội. Ngay tại Đà Nẵng chúng không để ta yên. Cuộc kháng chiến của ta sẽ nổ ra trong những ngày sắp đến. Tình hình rất khẩn trương.
   
                  Những cuộc tiếp xúc ngắn ngủi, những lời đưa tiên ân cần và nhất là những chỉ thị rất cô đọng ý nghĩa đó đã thúc giục anh biết chừng nào. Dọc đường anh đã nhanh chóng xem lại việc bố trí phá hoại các cây cầu lớn, việc mà anh đã làm trong chuyến đi công tác mới đây với các anh Nguyễn Ích Cam, Thái Văn Túc, chỉ huy các đơn vị công bình ở địa phương. Anh thấy hài lòng. Cả phía bắc tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng đang sôi sục chuẩn bị kháng chiến, đã cuốn hút anh lao vào công việc.
   
                  Anh gặp ngay các đồng chí Đàm Quang Trung và Trương Quang Giao, Chỉ huy trưởng và Chính trị ủy viên của mặt trận để báo cáo và để nắm tình hình, kế hoạch tác chiến. Đồng chí Trương Quang Giao là Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẳng, người chiến sĩ cách mạng tham gia lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa Ba Tơ ở Quảng Ngãi, đã để lại cho anh ấn tượng khó quên. Giọng nhỏ nhẹ, từ tốn nhưng nhận định và sự phân tích của người Bí thư rất sâu sắc về truyền thống cách mạng của nhân dân Quảng Nam - Đà Nẵng, về tinh thần chiến đấu của họ, nếu được phát huy sẽ là sức mạnh để đánh bại quân thù.
   
                  Nguyễn Bá Phát sang trụ sở Ủy ban hành chính thành phố Đà Nẵng (tại tòa Đốc lý cũ) để thăm anh Trần Đình Tri, Chủ tịch. Anh Tri đã thiết cơm anh. Bát đĩa rất sang trọng do bọn Pháp để lại, nhưng thức ăn thì chỉ có ít cá và canh rau muống. Nhưng bữa ăn đạm bạc đó thật có ý nghĩa và thắm tình quân dân khi chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc.
   
                  Ngay hôm sau, anh Đàm Quang Trung đã đưa anh đi kiểm tra tình hình trên thực địa. Bọn Pháp vừa được tăng viện thêm 2 trung đoàn Lê dương. Giữa tháng 12 năm 1946, chúng lại đưa cả cơ quan chỉ huy hành quân do đại tá La-rốt-cơ (Laroque) từ Sài Gòn ra Đà Nẵng. Chúng gây xô xát với quân đội và nhân dân ta ở một số nơi trong thành phố. Tình hình đang đi đến chỗ bùng nổ.
   
                  Ở đèo Hải Vân, hai anh gặp anh Giáp Văn Cương, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 19 vừa ở Quảng Ngãi ra. Vào trung tâm thành phố các anh đi thăm các Tiểu đoàn 17 và 18, do các anh Lê Kích và Võ Quang Hồ chỉ huy. Làm nhiệm vụ tiếp phòng quân, các anh đều mang quân hàm thiếu tá. Cán bộ và chiến sĩ của hai Tiểu đoàn này phần đông là học sinh, thanh niên thành thị đã Nam tiến chiến đấu ở các mặt trận phía Nam. Đến lúc bấy giờ thì kế hoạch tác chiến của bộ đội, kế hoạch phá hoại, dựng chướng ngại vật của dân quân và đồng bào đã hoàn chỉnh đâu vào đấy.
   
                  Anh Phát chú ý nhất là kế hoạch chủ động đánh địch của ta, đưa các tổ mang theo mìn, chất nổ đêm đêm bí mật vào ém quân sẵn trong các mục tiêu quan trọng, kể cả nơi để máy bay địch ở sân bay Đà Nẵng, để nắm tình hình khi có hiệu lệnh chung, là có thể bất ngờ diệt địch ngay. Tình báo ta cũng đã bố trí người vào làm trong các cơ quan chỉ huy của địch, sẵn sàng trừng trị bọn đầu sỏ.
   
                  Lực lượng dân quân tự vệ do anh Lê Tiền - Thành đội trưởng, chỉ huy đã phối hợp với bộ đội, nhận những nhiệm vụ đánh địch sâu trong các cụm đóng quân ở vùng Trẹm (tên gọi vùng từ bưu điện ra tận bờ biển).
   
                  Người phó chỉ huy mặt trận với kinh nghiệm vốn có không quên góp ý kiến đánh địch ở sân bay. Không nên bao vây bắn vào địch, và bất ngờ cho người vào diệt tên lính gác mở đường cho đơn vị đột nhập vào trong, không cho chúng kịp trở tay. Anh Phát cũng đề nghị với Ban chỉ huy mặt trận nên chọn những chỗ địch sơ khoáng nhiều như sân bay quá rộng. Nên chọn nơi tập trung của Tây “xi-vin” ở gần ngã năm để đánh úp nếu chúng tiến công từng bộ phận các vị trí của ta. Anh đã tỏ rõ một tinh thần năng nổ tiến công tiêu diệt địch.


*
*   *

                 Vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng với quân đội, với sự nghiệp kháng chiến đã được khẳng định ngay từ đầu. Với đường lối chủ trương của Trung ương, của các cấp Khu, tỉnh. Nhưng ở cơ sở lúc bấy giờ tổ chức của Đảng chỉ mới có ở cấp trung đoàn một vài chi bộ, hay lẻ tẻ ở cấp tiểu đoàn. Cho nên vai trò của các Ban chỉ huy, nhất là của thủ trưởng quân sự của đơn vị, hiểu rõ nắm được các quan điểm chỉ đạo của Đảng về chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích, dũng cảm kiên cường, năng nổ sáng tạo trong chiến đấu, rất là quan trọng. Nguyễn Bá Phát bắt đầu có những phẩm chất đó qua các mặt trận Tây Nguyên, Bình Định, An Khê và nay ở chính quê hương mình.
   
                  Nói như vậy không phải là anh không có khuyết điểm, có khi là tác phong anh có lúc nóng nảy, chưa kịp nắm hết những vấn đề của chiến tranh nhân dân như quan hệ với địa phương, xây dựng cơ sở nhân dân trong vùng địch, điều này cũng dễ hiểu thôi trong thời kỳ mới bắt đầu kháng chiến. Nhưng trong thành tích tập thể, phần của anh đóng góp là quan trọng. Nhất là khi anh có điều kiện để phát huy hết khả năng và tính cách của mình, khi tình hình yêu cầu của những người như anh, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 96.

Logged
loiho000
Thành viên
*
Bài viết: 162


« Trả lời #31 vào lúc: 11 Tháng Hai, 2017, 10:41:20 pm »

IV

                 Ngày 19 tháng 12 năm 1946 chiến sự bùng nổ. Đến 20 giờ đêm đã có điện của Bộ chỉ huy Khu 5 cho nổ súng. Cả hai anh Nguyễn Chánh và Cao Văn Khánh có mặt ở đầu dây nói. Túc trực ở chỉ huy sở tại ngã tư Yên Khê, trong các doanh trại của Nhật để lại, Các đồng chí trong Ban chỉ huy mặt trận (lúc bấy giờ anh Huỳnh Ngọc Huệ làm chính trị viên), anh Trương Quang Giao - Bí thư Tỉnh ủy. Có cả anh Trần Đình Tri - Chủ tịch và Vũ Khương Ninh - Bí thư Thành ủy Đà Nẵng. Đêm ấy vào mùa đông trời se se lạnh, nhưng ai cũng nóng ran lên khi biết rằng Trung ương Đảng đã có chỉ thị. Đồng chí Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Quốc phòng và Tổng Chỉ huy đã cho lệnh đánh. Anh Hà Văn Lâu - Trung đoàn trưởng Trung đoàn Trần Cao Vân, Huế, chốc chốc gọi điện vào hỏi Đà Nẵng đã đánh chưa, Huế đã đánh vào nhà hàng Mo-ranh, nơi đóng quân của Pháp, làm cho mọi người thêm bồn chồn sốt ruột.

                   Giờ nổ súng quy định cho toàn thành phố là 2 giờ ngày 20 tháng 12 năm 1946. Hiệu lệnh là tiếng súng tiến công sân bay của Tiểu đoàn 19 và tiếng bom nổ phá nhà máy điện (Sở Điện lực, đường Phan Đình Phùng hiện nay). Anh Trần Thùy, Trung đoàn trưởng 96 được chỉ thị đến sân bay để tổ chức chiến đấu nhưng lại về Điện Bàn đưa gia đình đi tản cư. Mệnh lệnh chiến đấu không được thi hành, mặc dù toàn thành phố đã lên vị trí chiến đấu, thấy sáng chưa có lệnh nổ súng bộ đội phải rút ra. Nhân dân đã đốn cây phá đường, làm chướng ngại vật. Cuộc tiến công được chuẩn bị sẵn sàng khá chu đáo đã bất thành.
   
                   Anh Trần Thùy bị cách chức, anh Phát, phó chỉ huy được cử kiêm nhiệm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 96, anh có điều kiện để thực hiện tốt các chỉ thị, mệnh lệnh của Đảng và quân đội, sống chết với quê hương Quảng Nam - Đà Nẵng.
   
                   Người chỉ huy có bản lĩnh trong những tình huống khó khăn, phức tạp nhất của cuộc chiến đấu phải bình tĩnh vững vàng trong cương vị của mình, đưa ra những mệnh lệnh đúng đắn, phù hợp với tình hình, vừa có sức mạnh quyền lực, vừa có khả năng thuyết phục mọi người chấp hành.
   
                   Nguyễn Bá Phát - Trung đoàn trưởng mới của Trung đoàn 96, đã có ít nhiều phẩm cách của người chỉ huy đó ngay từ những trận chiến đầu tiên.
   
                   Việc ta bỏ lỡ thời cơ chủ động đánh phủ đầu địch tiêu hao và tiêu diệt một phần sinh lực của chúng, đã làm ảnh hưởng lớn đến tinh thần hăng hái đánh và thắng của bộ đội và nhân dân ta, được chuẩn bị đầy đủ, động viên và tổ chức tốt. Nó làm giảm hẳn lòng tin ở chỉ huy cấp trên. Tai hại nhất là nó đã giúp cho địch xoay được tình thế chuyển sang tiến công ta trên các hướng phía nam và phía tây thành phố, hòng đánh bật ta ra khỏi Đà Nẵng và nhanh chóng ứng cứu cho đồng bọn ở sân bay đang ở trong thế bị bao vây và tiêu diệt. Ban chỉ huy Trung đoàn cũ không nắm trọn quyền chỉ huy, nhưng các đơn vị Tiểu đoàn 17, 18, dân quân tự vệ đã chủ động chiến đấu hết sức ngoan cường, nhiều phân đội nhỏ đã hy sinh để chặn bước tiến của địch, có đơn vị bố trí sát nách địch đã đánh đến viên đạn cuối cùng, như tiểu đội anh Cầy ở Đại đội 3, Tiểu đoàn 17. Có đơn vị giành giật với địch nhiều lần một mục tiêu quan trọng, như Đại đội 4 của hai anh Vị và Duyên thuộc Tiểu đoàn 18 ở ga Đà Nẵng. Nhân dân trên các tuyến đường đã đem cả bàn ghế, giường tủ, chặt đốn cây làm chướng ngại vật, lấy gạch đá làm ụ chiến đấu.
   
                   Nhưng rõ ràng cả Trung đoàn chưa hiệp đồng được chiến đấu trong lúc bị tiến công với một lực lượng tinh nhuệ áp đảo của địch. Nguyễn Bá Phát đã nhận trách nhiệm chỉ huy Trung đoàn 96 trong tình hình khẩn trương đó và trong tay không có phương tiện chỉ huy nào ngoài 2 cán bộ giúp việc, một là người viết bài này và một liên lạc viên.
   
                   Trong lúc Bộ chỉ huy mặt trận và các đồng chí lãnh đạo ở tỉnh đã chuyển vị trí về phía nam sông Cẩm Lệ, anh vẫn ở lại chỉ huy sở cũ để cố tìm cách liên lạc với các đồng chí khác trong Ban chỉ huy và các tiểu đoàn. Cho đến khi thấy đầu máy xe lửa cuối cùng ra khỏi ga Đà Nẵng chạy về hướng cầu Thủy Tú và nghe tiếng bom nổ phá cầu này, anh Phát mới chuyển bộ phận chỉ huy theo anh ra ngay ngã tư Yên Khê để tiện liên lạc với các đơn vị đang đánh nhau với địch trong thành phố.
   
                   Liền sau đó dưới làn đạn đại bác của địch, anh đã xuống ngay Tiểu đoàn 18 gặp Tiểu đoàn trưởng Võ Quang Hồ. Hai người cùng đi với nhau xuống Đại đội đang giành giật với địch ở ga Đà Nẵng. Sự xuất hiện của hai vị chỉ huy đã cổ vũ tinh thần cán bộ và chiến sĩ giữ vững trận địa. Và Trung đoàn trưởng đã đi hết đơn vị này qua đơn vị khác cùng các Tiểu đoàn trưởng tổ chức chiến đấu.
   
                   Đến trưa hôm sau, ngày 21 tháng 12 năm 1946, anh Phát triệu tập hội nghị các Ban chỉ huy Trung đoàn tại Yên Khê, trong lúc tiếng súng đang nổ ran trên các hướng của thành phố. Mệnh lệnh đầu tiên các anh là điều chỉnh lại đội hình của Trung đoàn, phân công lại các Tiểu đoàn cho hợp lý hơn, lên phương án lập tuyến phòng ngự tiếp theo để các đơn vị có thể chủ động lui về làm nhiệm vụ mới, không lúng túng bị động phải chạy dài.
   
                   Mệnh lệnh thứ hai của anh là trong chiến đấu ban chỉ huy, trước hết là cấp trưởng, phải ở ngay với đơn vị có nhiệm vụ chiến đấu quan trọng nhất, ác liệt nhất. Trung đoàn trưởng nói:
   
                   - Muốn đánh được giặc phải thấy mặt thằng giặc, phải cùng chiến sĩ ở vị trí tiền tiêu. Trước mặt các anh tôi xin hứa sẽ làm như vậy.
   
                   Những lời giản dị ấy được nêu lên như một nguyên tắc chiến đấu. Các đồng chí Tiểu đoàn trưởng đã thấy anh trong những ngày sau đó đã hành động như anh nói lúc bấy giờ.
   
                   Sau ba ngày bị địch tiến công quyết liệt nhưng các đơn vị đã đánh trả có kết quả bảo tồn được lực lượng rút về tuyến phòng ngự mới mà Trung đoàn trưởng đã quy định từ Đa Phước, Thanh Khê (Tiểu đoàn 17). Bộ phận chỉ huy tiền phương của Trung đoàn ở Hòa Mỹ ngay sau lưng Tiểu đoàn 19. Suốt nửa tháng ta và địch giằng co trên trận địa hai bên chỉ cách nhau chừng 100 - 150 mét. Ban đêm theo chỉ thị của Trung đoàn trưởng, các tiểu đoàn cho những phân đội nhỏ luồn sau lưng địch để đánh vào ga, chợ Cồn hay Cổ Viện Chàm, sân bay Đà Nẵng.
   
                   Toàn Trung đoàn đứng vững trên tuyến phòng ngự mới và người Trung đoàn trưởng đã bước đầu xác lập được vị trí chỉ huy của mình, sẵn sàng cùng đơn vị đến những thử thách ác liệt hơn. Một sự cổ vũ lớn đối với anh Phát: Khoảng đầu tháng 1 năm 1947, đồng chí Nguyễn Chánh, Chính trị ủy viên Khu 5, đã ra tận Hòa Mỹ kiếm tra Trung đoàn 96. Anh đã uốn nắn tư tưởng phòng ngự nặng về trận địa, thiếu sự cơ động linh hoạt. Anh động viên anh Phát cố gắng phấn đấu để trở thành người đảng viên cộng sản. Anh chỉ thị cho các đảng viên ở Trung đoàn giúp đỡ và kết nạp anh Phát vào Đảng. Anh Phát phấn chấn với lời chỉ giáo động viên ấy.
   
                   Chính trị ủy viên ra về. Ngày 7 tháng 1 năm 1947, địch mở cuộc tiến công lớn đánh theo nhiều hướng, dọc bờ biển Hòa An, theo quốc lộ 1 có xe tăng yểm trợ nhằm đột phá vào Hòa Mỹ và từ sân bay lên Nghi An, Phước Tường nhằm chia cắt Trung đoàn ra nhiều mảnh. Đúng như anh Phát đã lưu ý Tiểu đoàn 18, địch cho một cánh quân lớn từ tàu chiến đổ bộ vào Đa Phước, bí mật men theo chân núi lên chiếm đèo Đại La. Đại đội cảnh giới bờ biển đã sơ suất để cho địch đột nhập vào đất liền từ tờ mờ sáng không hay biết, khiến cho cả Trung đoàn đã trong thế bị bao vây, bị tiến công nhiều mặt, có nguy cơ bị tiêu diệt.
   
                   Trong giờ phút gay go quyết liệt đó, Trung đoàn trưởng ra lệnh cho các Tiểu đoàn quyết tử giữ vững trận địa, không cho chúng tiến lên chiếm ngã ba Hòa Mỹ một địa điểm chiến lược, chia cắt Trung đoàn thành nhiều mảnh để tiêu diệt. Mặt khác, anh dùng một đại đội của Tiểu đoàn 18 làm dự bị đội chặn đánh địch đột phá vào trung tâm. Tiểu đoàn 19 đã quyết tử giữ Hòa Mỹ và đón đánh địch từ đèo Đại La đánh xuống sau lưng đội hình Trung đoàn. Anh em chiến đấu với một tinh thần dũng cảm tuyệt vời, khi hết đạn đánh giáp lá cà với địch bằng lưỡi lê, kiếm và báng súng.
   
                   Người Trung đoàn trưởng luôn có mặt tại nơi sôi động nhất, dựa vào tinh thần quyết tử của chiến sĩ để nêu lên khẩu hiệu động viên kịp thời: “cố gắng giữ vững trận địa đến chiều tối là địch thất bại không thể nào tiêu diệt ta”. Và mọi việc đã diễn biến theo ý chí kiên quyết và sáng suốt của người chỉ huy trung đoàn. Đến 16 giờ, Trung đoàn trưởng sau khi nghiên cứu trên bản đồ, ra lệnh cho một cán bộ đi xoi đường rút lui qua đèo Đồng Môn xuyên núi Khi Hai. Cuộc lui quân đã diễn ra trật tự, kỷ luật theo đội hình định sẵn. Trung đoàn trưởng là người đi sau cùng với đội hậu vệ và cho bắn một loạt súng cối vào địch ở đèo Đại La.
   
                   Vừa về đến nơi tập kết quân vào tờ mờ sáng, Trung đoàn trưởng đã kịp thời họp với các Tiểu đoàn trưởng dựa vào bản đồ và sự am hiểu thực địa, phổ biến kế hoạch phòng ngự đánh địch từ đèo Hải Vân qua Trường Định, Quan Nam (Tiểu đoàn 19) đến An Ngãi, Phú Thượng (Tiểu đoàn 18), từ Phú Hạ đến Thạch Nham, Túy Loan (Tiểu đoàn 17).
   
                   Thời gian này địch luôn sưu sách đánh vào các đơn vị của ta, nhưng không kết quả. Trong khi đó, ta đã tổ chức những đợt hoạt động sâu trong lòng địch. Bộ đội và dân quân mở những đợt quấy rối bắn tỉa địch hay cắt dây diện thoại phá hoại thông tin liên lạc của chúng. Tiểu đoàn 18 đã tiến công địch đóng trên đồi Đa Phước diệt 4 lều trú quân, có 4 tiểu đội địch. Trung đoàn trưởng cũng tham gia phục kích đánh mìn trên quốc lộ 1 ở Xuân Thiều. Ông đã cùng Tiểu đoàn trưởng Võ Quang Hồ nghiên cứu cách bố trí mìn trên đường bằng đầu đạn pháo, cho nổ ngòi nổ bằng điện bình ắc-quy. Kinh nghiệm này được đem áp dụng trong trận phục kích điển hình của Tiểu đoàn 19 ở Hải Vân ngày 28 tháng 2, phá hủy 8 xe địch, diệt khoảng 100 tên địch, thu nhiều súng có trung liên. Trận đánh thắng lớn đầu tiên của cả Trung đoàn.
   
                   Đến lúc này đã xác lập sự chỉ huy tập thể của Ban chỉ huy Trung đoàn (có đồng chí Nguyễn Hữu Thành - Chính trị viên và Bế Kim Doanh - Trung đoàn phó), Trung đoàn trưởng và các Tiếu đoàn trưởng đã mến phục và tin yêu lẫn nhau như anh em trong một gia đình, mà Nguyễn Bá Phát là người anh lớn mặc dù họ thuộc các thành phần xuất thân là công chức, có người xuất thân nông dân, cố nông hay trung nông. Cho đến hàng chục năm sau họ vẫn cùng nhau giữ những kỷ niệm đẹp đẽ trong đời cách mạng khi họ đã trở thành Thứ trưởng Bộ Thủy sản hay Đô đốc Hải quân, Thiếu tướng hay Đại tá ở Học viện Quân sự.

Logged
loiho000
Thành viên
*
Bài viết: 162


« Trả lời #32 vào lúc: 11 Tháng Hai, 2017, 10:43:03 pm »

V

                 Cuộc chiến đấu quyết liệt giữa các Tiểu đoàn của Trung đoàn 96 ở ngã ba Hòa Mỹ và Rừng Cấm ngay gần đó, và quân đội Pháp mới được tăng cường lên đến khoảng 7.000 quân với sự phối hợp của không quân và hải quân. Cuộc chiến đấu ác liệt suốt cả ngày 7 tháng 1 năm 1947, đã đánh dấu một sự nỗ lực và tiến bộ rõ rệt của bộ đội ta. Tiến công chính diện và vu hồi theo 3 mặt nhưng quân Pháp đã bị chặn đứng lại, không tiêu diệt được lực lượng chính của quân ta, chúng cũng không đẩy lùi được Tiểu đoàn 17 trên chiến tuyến giữ các điểm cao Nghi An và Phước Tường.

                  Nguyễn Bá Phát đã luôn có mặt tại chỉ huy sở tiền phương ở Hòa Mỹ để phối hợp chiến đấu giữa Tiểu đoàn 18, Tiểu đoàn 19 và liên lạc với Tiểu đoàn 17. Ý đồ của Trung đoàn trưởng đã xác định rõ:
   
                  Các đơn vị phải quyết tử giữ vững dải phòng ngự của mình, dù phải hy sinh đến mấy cũng không cho quân Pháp đột phá vào trung tâm, chiếm ngã ba Hòa Mỹ. Phải tiêu hao lực lượng địch, kéo dài cuộc chiến đấu đến tối, để tổ chức cuộc rút lui, bảo toàn lực lượng, tiếp tục đánh lâu dài.
   
                  Quyết tâm này đã được các Tiểu đoàn trưởng Giáp Văn Cương và Võ Quang Hồ quán triệt, khi cùng đứng ở đại đội nhiều lần đánh giáp lá cà với địch. Không đủ súng đạn thì dùng lưỡi lê, mã tấu, khi địch tập trung hỏa lực đánh vào tuyến phòng ngự không hơn 1 ki-lô-mét. Đã xuất hiện nhiều gương chiến đấu dũng cảm ngoan cường. Tiểu đội của Hoàng Khứng ba lần xung phong bằng lưỡi lê, mã tấu, lựu đạn, 3 lần đánh lui quân địch. Yểm hộ cho tiểu đội Hoàng Khứng, tiểu đội của Trương Công Hoành hy sinh đến người cuối cùng. Lần đầu tiên vai trò chiến đấu của Đảng ở tiểu đoàn thể hiện rõ nét. Trong những giờ phút chiến đấu căng thẳng nhất, chi bộ của Tiểu đoàn 19 họp chớp nhoáng. Bí thư là chính trị viên Nguyễn Văn Trình đã kiên quyết động viên đảng viên nêu gương oanh liệt dũng cảm: “Một là đánh lui địch giữ vững trận địa, hai là hy sinh vì Tổ quốc”. Bên phía Tiểu đoàn 17, nhiều chiến sĩ và cán bộ đã nhảy ra khỏi công sự giáp lá cà với địch. Đồng chí Võ Ngân, đại đội phó, một trí thức yêu nước trong giờ phút nguy kịch anh vẫn bình tĩnh chỉ huy, cùng anh em chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và anh dũng hy sinh.
   
                  Chính sự có mặt của các chỉ huy Trung đoàn và Tiểu đoàn ở ngay đầu tuyến chiến đấu đã cổ vũ động viên sức chiến đấu của Trung đoàn 96 được nhân lên gấp bội. Sự đoàn kết phối hợp chiến đấu giữa các tiểu đoàn khá chặt chẽ. Địch đã không đột phá vào sâu trận địa ta ở ngã ba Hòa Mỹ, phải dừng lại. Trung đoàn trưởng Nguyễn Bá Phát sát cánh cùng Tiếu đoàn trưởng Giáp Văn Cương ở ngay Đại đội 2, đã ra mệnh lệnh mới: “Địch dừng lại là để chuẩn bị những đợt công kích mới, dù phải hy sinh cũng không rời trận địa. Nếu kìm được chân địch một lần nữa, đến tối chúng ta sẽ rút lui an toàn. Chúng ta nhất quyết không lùi một bước”. Mệnh lệnh được viết ngay trên trận địa để truyền đi các tiểu đoàn khác. Và đúng như dự kiến, 15 giờ, địch tiếp tục những đợt xung phong mới. Cán bộ và chiến sĩ ta sẵn sàng đón địch bằng giáp lá cà. Từ công sự họ ném những trái lựu đạn cuối cùng rồi xung phong lên với mã tấu, giáo mác. Địch hoảng hốt tháo lui. Đến ngày hôm ấy, cuộc chiến đấu ở ngã tư Yên Khê đã kéo dài được hơn nửa tháng.
   
                  Ở mặt trận Nghi An, Phước Tường cũng vậy, ta chặn được bước tiến của địch, tiêu hao được một bộ phận sinh lực địch địch, bảo tồn được lực lượng của trung đoàn, giúp cho đồng bào ở ngoại vi thành phố tản cư có trật tự, cho các huyện khác của tỉnh có thời giờ tổ chức kháng chiến. Đồng chí Trung đoàn trưởng đã nhận định như vậy với hai đồng chí tiểu đoàn trưởng Giáp Văn Cương và Võ Quang Hồ và ra lệnh rút Trung đoàn về phía sau theo đường qua eo núi Phước Tường. Khi bóng đêm phủ trên khắp chiến trường, hai Tiểu đoàn 18 và 19 theo đội hình quy định sẵn đàng hoàng rút lui theo đường đèo Đồng Môn về phía tây. Một đại đội của Tiểu đoàn 17 do đồng chí Đoàn Phong làm đại đội trưởng từ phía Nghi An cũng được lệnh rút theo hai đơn vị tiểu đoàn bạn.
   
                  Trung đoàn trưởng Nguyễn Bá Phát cùng các phụ tá đi với đơn vị sau cùng. Khi trăng hạ tuần sáng vằng vặc thì đơn vị đã lên đến đỉnh đèo Đồng Môn. Trung đoàn trưởng ra lệnh cho khẩu đội cối 60 ly bắn vào quân Pháp đang nằm im thin thít ở chân đèo Đại La. Trong khi đó đại bộ phận của Tiểu đoàn 17 ung dung rời bỏ các trận địa trên núi Phước Tường rút về phía Thạch Nham - Túy Loan, phía bắc sông Cẩm Lệ, nối liền với tuyến phòng thủ mới của Trung đoàn chạy dọc theo chân núi Phước Tường ra đến Phú Hòa đường đèo Đại La đổ xuống Phú Hạ.
   
                  Ngay trong đêm, Tiểu đoàn 18 chiếm lĩnh vùng đất từ An Ngãi đến Tùng Sơn chặn đứng con đường tỉnh lộ từ Đà Nẳng lên Bà Nà, núi Chúa, trung tâm nghỉ mát nổi tiếng của Bà Nà bấy giờ vẫn còn nguyên vẹn. Đây cũng là vùng công giáo nổi tiếng đến lúc đó vẫn im lìm trong các khu nhà thờ cổ kính. Tiểu đoàn 19 làm cuộc hành quân xa hơn lên Quan Nam, qua sông Trường Định, Thủy Tú và đèo Hải Vân. Chỉ huy của sở tiền phương của Trung đoàn đóng ở Trúc Bàu. Ban chỉ huy dân quân tự vệ thành phố Đà Nẵng do anh Lê Tiền chỉ huy đóng ở Đông Sơn, An Lợi, thiết lập sự liên lạc chặt chẽ với bộ đội chủ lực.
   
                  Với kinh nghiệm bản thân trải qua trên các chiến trường Tây Nguyên và nhất là tiếp thu được sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Chính trị ủy viên Liên khu 5, Nguyễn Chánh, sau khi bố trí tuyến phòng thủ mới phía tây thành phố Đà Nẵng bên kia dãy núi Phước Tường, Nguyễn Bá Phát và các đồng chí tiểu đoàn trưởng không nằm yên. Trong lúc địch tranh thủ thời gian củng cố vùng mới chiếm được, thiết lập hệ thống cai trị mới, thì Trung đoàn 96, một mặt chống đỡ với các cuộc hành quân củng cố và mở rộng vùng mới chiếm đóng, nhất là ở phía bắc, hai bên bờ sông Trường Định. Mặt khác tiến hành đánh phá vùng sau lưng địch, trước hết là trong thành phố Đà Nẵng mà lực lượng của hai Tiểu đoàn 17 và 18 rất quen thuộc. Ban đêm súng vẫn nổ qua những đợt “tổng nhiễu loạn”. Nhân dân phấn khởi, bọn Việt gian bị trừng trị. Du kích đốt cháy cầu gỗ Thạch Nham, bộ đội tập kích các đồn lẻ ven thành phố, cắt và thu dây điện thoại nối liền các đồn địch. Biệt động thành phố đặt mìn hẹn giờ trên đầu máy xe lửa và cho mìn nổ tung giữa Sân bay. Trong khi bộ đội đặt đại bác 75 ly từ bến Đò Xu bắn vào trung tâm hàng không lớn nhất miền Trung này.
   
                  Đứng trên ngọn đồi ở đầu làng Trúc Bàu, người Trung đoàn trưởng sinh trưởng tại Hòa Vang, ngoại vi thành phố Đà Nẵng, chỉ những đồi núi, làng mạc Chạy mãi lên phía tây tận An Lợi, Bà Nà và nói với các đồng chí khác trong Ban chỉ huy và trong cơ quan tác chiến: “Đây là chiến trường tuyệt vời cho chiến tranh du kích, chúng ta có bàn đạp để tiến công về đến tận Đà Nẵng. Chúng ta lui có nơi trú ẩn”.
   
                  Chính tại Trúc Bàu, Ban chỉ huy Trung đoàn đã cùng các Tiểu đoàn lên phương án đánh địch không cho chúng nghỉ ngơi. Ở đây anh trực tiếp trao những kinh nghiệm đánh địa lôi, phục kích thu được ở bắc Tây Nguyên cho bộ phận công binh của Trung đoàn và anh em Tiểu đoàn 19 để mở ra thắng lợi cho trận phục kích đầu tiên trên đèo Hải Vân ngày 28 tháng 2 năm 1947, ta đã tiêu diệt 1 đại đội địch, phá hủy 2 xe quân sự, thu 2 trung liên Bren, 4 tiểu liên, 10 súng trường. Tên quan hai Hân-ri-ét bỏ mạng. Chiến thắng đầu tiên của ta trên đỉnh đèo lịch sử có tiếng vang lớn.
   
                  Quân Pháp đối phó lại khi có viện binh tập trung 5 tiểu đoàn từ Nam Ô lên Nam Yên bằng đường bộ. Cánh đường thủy theo sông Trường Định lên Nam Yên. Các phân đội của Tiểu đoàn 19 linh hoạt, ngoan cường chống địch trong suốt 8 ngày. Địch phải rút lui sau khi bỏ 50 xác chết. Ta bảo vệ được hậu cứ và làm chủ đường lên đèo Hải Vân để ghi tiếp các chiến công oanh liệt hơn.
   
                  Từ ngày 14 tháng 3, quân Pháp lại tấn công vào các trận địa của các Tiểu đoàn. Nhưng các đơn vị của ta đã linh hoạt vừa chặn đánh địch, vừa vận động thoát ra khỏi vòng vây của chúng kể cả nhảy dù xuống Phò Nam Yên để bao vây ta. Hay dùng xe thiết giáp, xe tăng đột phá như ở Phú Thượng, Tùng Sơn. Sau khi tiêu hao lực lượng địch, các tiểu đoàn ta ung dung, chủ động, rút về các chiến khu đã định sẵn. Riêng Tiểu đoàn 17 của Tiểu đoàn trưởng Lê Kích, 1 đại đội do đồng chí Phạm Ân Sơn chỉ huy chặn đứng địch lại, dùng toàn bộ hỏa lực đánh vào đội hình của chúng. Địch bỏ chạy, ta truy kích từ Phú Hạ lên sát đèo Đại La, ta thu được 1 trung liên, 18 tiểu liên và súng trường, 1 máy vô tuyến điện, địch bỏ lại 10 xác chết.

Logged
loiho000
Thành viên
*
Bài viết: 162


« Trả lời #33 vào lúc: 11 Tháng Hai, 2017, 10:45:22 pm »

                 Cuộc tiến quân dài ngày của địch theo quốc lộ đánh vào các trận địa của Trung đoàn 93, mặt khác theo quốc lộ đẩy lùi các đơn vị của Trung đoàn 96. Điểm gặp mặt nhau của 2 cánh quân là thị trấn Ái Nghĩa và chúng sẽ tiến lên Hà Tân rồi Bến Giằng để gặp cánh quân từ Kon Tum xuống, hoàn thành việc chiếm đóng vùng chiến lược bắc tỉnh Quảng Nam tiếp giáp với vùng phía đông tỉnh Kon Tum trên cao nguyên chiến lược. Những trận của Tiểu đoàn 17 và một bộ phận của Tiểu đoàn 18 ở vùng Ba Khe, Động Hà Sống dùng chiến thuật vừa phòng ngự trận địa kết hợp với vận động linh hoạt đã giáng cho quân địch một đòn đau. Địch phải bỏ lại 20 xác chết. Ta thu được 15 súng, có 3 Thompson. Sự xuất hiện và hoạt động mạnh của ta ngay trên đường tiến của địch khiến cho chúng khi lên đến Bến Giằng vẫn không dám ở lại chờ bọn từ Kon Tum xuống. Chúng phải rút lui một mạch trở về Ái Nghĩa. Ta giữ được vùng tự do rộng lớn phía tây Đại Lộc, giữ được con đường liên lạc có ý nghĩa chiến lược với Khu 4 và Trung ương. Đó cũng là con đường khởi đầu cho việc mở đường qua Hạ Lào Sang nước bạn anh em.

                   Địch có mở rộng vùng chiếm đóng ở phía bắc sông Thu Bồn, nhưng lại chịu sơ khoáng lớn ở vùng tạm chiếm. Trận đánh ở đồi Đa Phước, ta diệt được một số quân đóng trong 4 lều vải, ghi chiến công cho Tiểu đoàn 18. Nhiều lần tập kích sân bay bằng hỏa lực, ghi chiến tích cho Tiểu đoàn 17.
   
                   Nhưng có tiếng vang lớn nhất là trận đánh tiêu diệt, đoàn xe địch trên đèo Hải Vân ngày 25 tháng 5 năm 1947, mừng ngày sinh thứ 57 của Hồ Chủ tịch. Trận đánh phối hợp giữa bộ phận lớn của Tiểu đoàn 19 và một bộ phận nhỏ của Tiểu đoàn 18, bắn cháy và phá hủy một đoàn xe 7 chiếc của địch, tịch thu nhiều vũ khí, diệt nhiều địch trong đó có đại tá Roger chỉ huy quân khu Đà Nẵng của Pháp. Chiến thắng Hải Vân lần thứ 2 có tiếng vang trong cả nước ta và gây chấn động mạnh trong hàng ngũ địch. Bộ Quốc phòng và Tổng Chỉ huy đánh giá rất cao chiến công này. Tiểu đoàn trưởng Giáp Văn Cương được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhì. Đồng chí Phạm Bỉ, tiểu đội trưởng đã tiêu diệt tên quan năm Roger, được tặng Huân chương Quân công hạng Ba.
   
                   Nhưng đánh đổi lại, Trung đoàn 96 phải chịu đựng những thử thách to lớn không lường trước được. Đó là những cố gắng cuối cùng của quân Pháp để mở rộng và củng cố vùng bị chiếm, gây ra không ít khó khăn gian khổ cho nhân dân và bộ đội ta. Chính sách tàn bạo “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” đã gây ra cho đồng bào ta bao nhiêu khó khăn thảm họa. Sốt rét rừng và các bệnh tật khác trong điều kiện thiếu thốn không thể tưởng tượng nối của đời sống núi rừng bị bao vây, phá hoại. Nhưng nhân dân và bộ đội với tinh thần yêu nước rất cao có sự lãnh đạo của Đảng ta đã anh dũng vượt qua. Có thể nói nhân dân, cán bộ và bộ đội đã cắn răng chịu đựng gian khổ. Nói chung, bộ đội không có người đào ngũ. Nhân dân có nhiều người không chịu đựng gian khổ phải quay về vùng bị chiếm, nhưng vẫn giữ được lòng trung thành với Tổ quốc. Trong khi nhân dân đang ở vùng địch vẫn hướng về các chiến khu, tìm mọi cách tiếp tế cho bộ đội, cán bộ dù phải đổ máu, phải hy sinh.
   
                   Trong khi đó các chiến khu của Trung đoàn 96 của tây bắc Hòa Vang đồng thời cũng là chỗ dựa cho lãnh đạo và lực lượng kháng chiến của tỉnh bạn nam Thừa Thiên. Lá lành đùm lá rách, chúng ta đã chi viện cho bạn hết mình. Bộ đội gốc người Thừa Thiên được điều ra chiến đấu cứu quê hương mình. Cả Đại đội 2 của Tiểu đoàn 19 cũng được ra làm nòng cốt cho lực lượng địa phương đánh địch, lập được chiến công như ở Nước Ngọt ngày 26 tháng 7 năm 1947.
   
                   Khi cả nước ta mở chiến dịch Thu Đông 1947 đánh bại chiến dịch tiến công lên Việt Bắc của thực dân Pháp, vào tháng 9 năm 1947, Trung đoàn nhận được lệnh rút về Quảng Ngãi để củng cố, sau hơn 8 tháng đánh địch liên tục không một ngày nghỉ. Nhân dân hai huyện Bình Sơn và Sơn Tịnh của tỉnh bạn đã mở rộng tấm lòng đón hơn 1000 cán bộ và chiến sĩ Trung đoàn 96 về nuôi dưỡng và tổ chức lại để đi vào cuộc chiến đấu mới.
   
                   Tiểu đoàn 19 được tăng cường các đơn vị mạnh của tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định để hình thành một Tiểu đoàn chủ lực đầu tiên của Khu 5 về sau là Liên khu 5. Hai Tiểu đoàn 17 và 18 tổ chức lại thành Tiểu đoàn 79. Tiếp theo là cả 2 Tiểu đoàn 19 và 79 đã trở thành lực lượng nòng cốt, hình thành nên Trung đoàn 210 và sau đổi thành Trung đoàn chủ lực 108, trung đoàn chủ lực đầu tiên của Liên khu 5.
   
                   Khi viết bài hồi ký ngắn ngủi này, như một người em cùng đi theo chiến đấu với anh Nguyễn Bá Phát suốt những năm tháng đầu tiên ở mặt trận Quảng Nam - Đà Nẵng với anh, tôi hỏi anh: Anh nhớ gì nhất trong cuộc đời anh. Trả lời: Mình nhớ nhất là trong cuộc mít tinh ở Lâm Viêng, tây nam Hòa Vang đêm 4 tháng 4 năm 1947, thay mặt cho Trung đoàn 96 hứa với đồng bào: “Mãi mãi sống chết bên đồng bào”, trước đó còn có phiên hiệu là Chi đội 2 độc lập, rồi Trung đoàn 7 tiếp phòng quân đã làm đúng như lời đã hứa. Tôi cũng nhớ nhất là lời khen ngợi của đồng chí Phạm Văn Đồng, Đại diện Trung ương Đảng và Chính phủ tặng cờ “Giữ vững” cho Trung đoàn 96 và khen ngợi vào tháng 5 năm 1947: “So sánh với toàn quốc, mặt trận Quảng Nam - Đà Nẵng được liệt vào hàng đánh mạnh nhất. Thành tích đó do đâu mà có? Do sức chiến đấu của mỗi người trong Trung đoàn, do sự đoàn kết thân ái đi đôi với kỷ luật nghiêm minh, trong đội ngũ, do năng lực lãnh đạo của các cấp chỉ huy quân sự, chính trị, do Sự rèn luyện hàng ngày trong khói lửa. Anh em đã xứng đáng với Tổ quốc Việt Nam. Tôi xin tỏ lòng biết ơn và khâm phục”.
Trong đợt trao tặng cờ được tổ chức tại Trúc Hà, huyện Đại Lộc, người viết bài này đã thấy Nguyễn Bá Phát, người cán bộ khá dày dạn trong chiến đấu từ Tây Nguyên đến Quảng Nam - Đà Nẵng lúc bấy giờ, tay run run nhận lấy ngọn cờ và mắt đẫm lệ. Tôi chưa bao giờ thấy anh xúc động đến như vậy. Ngay lúc đó tôi đã hiểu ra: Vì anh là người cán bộ quân đội, Vì anh là Hội viên nghiên cứu chủ nghĩa Mác mới được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (tên cũ) và anh cũng là người lính chiến đấu ngay trên đất quê nhà anh Quảng Nam - Đà Nẵng.


                                 
T.X.L






Logged
loiho000
Thành viên
*
Bài viết: 162


« Trả lời #34 vào lúc: 12 Tháng Hai, 2017, 10:28:57 pm »

TỪ NGƯỜI NÔNG DÂN ĐẾN VỊ TƯ LỆNH QUÂN CHỦNG
Trung tá Nguyễn Bá Ninh(1)

                 Thôn Trung Sơn, xã Hòa Liên, huyện Hòa Vang tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, nay thuộc quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, có một gia đình trọng tộc Nguyễn Bá. Ông Nguyễn Bá Hoành và bà Trần Thị Tùng sinh hạ được 9 người con. Hai người chết sớm. Bảy người, gồm 3 gái, 4 nam, có thể kể theo trật tự lớn nhỏ là: Nguyễn Thị Hạt, Nguyễn Thị Hợi, Nguyễn Bá Trình, Nguyễn Bá Thiệp, Nguyễn Bá Phước, Nguyễn Thị Liên, Nguyễn Bá Ninh.

                 Các chị Nguyễn Thị Hạt, Nguyễn Thị Hợi đã qua đời. Nếu còn đến nay người đã 100 tuổi, người 97 tuổi. Người em út đang còn sống với tuổi 82. Cả 2 chị lớn đều ở vùng tạm chiếm và tham gia kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Riêng chị Nguyễn Thị Liên tham gia kháng chiến chống Pháp và tập kết ra Bắc. Chị Liên là người có công đáng được chú ý: Người anh của chị là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 96 chỉ huy T cả Trung đoàn ra đánh thắng lợi lớn ở đèo Hải Vân. Khi trở về bị quân Pháp chặn đường độc đạo lui quân, chị Liên đã tìm cách liên lạc với người anh mình, rồi chị dũng cảm truyền đạt yêu cầu của người trung đoàn trưởng chỉ huy đoàn quân chiến thắng, đến chính quyền xã bí mật huy động thuyền đang được cất giấu khắp nơi dọc theo Trường Định, con sông lớn của quê hương, để lần lượt chở cả đoàn quân gần 2.000 người, kể cả dân quân du kích phục vụ chiến đấu vượt qua vòng vây của địch rút về chiến khu an toàn. Chiến thắng đèo Hải Vân lần thứ 3 được trọn vẹn, có tiếng vang lớn trong cả nước.
   
                 Bốn người con trai của gia đình Nguyễn Bá đều gia nhập lực lượng vũ trang ngay từ đầu kháng chiến chống Pháp, tất cả đã trưởng thành nhanh chóng, thành sĩ quan cao cấp của quân đội qua hai cuộc kháng chiến. Nguyễn Bá Trình và Nguyễn Bá Phước, 2 người con trai lớn nhất và thứ 3 của gia đình là Đại tá. Người con trai út, Nguyễn Bá Ninh là Trung tá. Người con trai thứ hai, chính tên “cúng cơm” Nguyễn Bá Thiệp, sau này là Nguyễn Bá Phát. Cuối cuộc kháng chiến chống Pháp anh được nhận quân hàm Đại tá. Đến giữa cuộc kháng chiến chống Mỹ là Thiếu tướng, người đã mở đầu cho việc xây dựng Quân chủng Hải quân nhân dân và trở thành người Tư lệnh của lực lượng vũ trang trên biển cả của nhân dân ta. Năm 1977, trải qua 32 năm chinh chiến, Nguyễn Bá Phát được điều động sang xây dựng ngành thủy sản ở nước ta cho đến khi nghỉ hưu và mất năm 1993, thọ 72 tuổi. Mộ anh và cả mộ vợ anh, bà Nguyễn Thị Điểm, một cán bộ phụ nữ có công với dân với nước được an táng ngay chính quê hương anh, nơi mà ngày xưa anh đã nhiều lần đưa quân đi phục kích đánh Pháp thắng lợi, với những địa danh gần gũi thân mật như: đèo Hải Vân, Xuân Thiều, Quan Nam, Gò Cà, Thanh Quýt.
   
                 Thời thơ ấu, Nguyễn Bá Thiệp ở nhà với cha mẹ tại quê hương Trung Sơn. Cái làng quê ấy cho tới cuối hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, chưa ai nghĩ tới nó sẽ nằm sát khu công nghiệp Hòa Khánh, một khu kỹ nghệ lớn của thành phố Đà Nẵng. Cũng chưa ai nghĩ năm bảy năm trở lại đây đã có một con đường tráng nhựa chạy từ quốc lộ 1, qua khu công nghiệp nổi tiếng nói trên, chạy mãi lên đến tận trung tâm làng quê ông, con đường ấy mang tên Nguyễn Bá Phát, rất hãnh diện của người dân tây bắc Hòa Vang thuộc thành phố Đà Nẵng. Bom đạn của hai thời kỳ kháng chiến đã tàn phá ngay chính quê hương ông và cả nhà cha mẹ ông năm xưa. Bây giờ thì mọi người rất sung sướng hàng ngày trông thấy trước ngôi nhà cũ của thầy giáo nho học Nguyễn Bá Hoành đã có một tượng đài ghi công của ông và vợ ông bà Trần Thị Tùng với phần thưởng “Bảng vàng danh dự” và Huân chương Kháng chiến hạng Nhì, do đã tạo ra một gia đình hiếm có với 7 người con tham gia hai cuộc kháng chiến và có công lớn với nhân dân, với quân đội. Đã có một vị tướng hàng đầu trong quân đội khi về thăm gia đình Nguyễn Bá Phát ở tại Trung Sơn đã có nhận xét: Ở Việt Nam ta, nhất là ở vùng tạm chiến mà có một gia đình có 7 người con, đều tham gia kháng chiến mà nhất là có 4 người con trai tham gia quân đội trở thành tướng lĩnh hay cán bộ cao cấp là điều khá hiếm có và đáng tự hào biết bao!
   
                 Ngay từ khi còn nhỏ, Nguyễn Bá Thiệp phải chăn trâu giúp cha mẹ. Nhưng ngay từ lúc bấy giờ, anh đã tỏ rõ sự thông minh, nhanh nhẹn so với bạn bè cùng lứa tuổi, nhất là anh tỏ rõ sự quyết đoán. Anh và các bạn chăn trâu, chăn bò thường tổ chức đánh trận giả. Có trận anh và các bạn để trâu bò phá hoa màu, bà con xóm làng đến báo với cha mẹ anh. Anh bị đòn khá nặng. Có vết roi vẫn để lại khá to trên đùi. Nhưng anh lại vẫn tiếp tục cùng bạn bè tổ chức đánh trận giả. Phe anh thường thắng trận. Sự ham thích này về sau đã trở thành bản chất vốn có của con người anh Thiệp.
   
                 Cha anh là một nhà Nho, dạy chữ Hán cho người trong vùng, nhưng anh không học chữ nho mà chỉ ham học chữ quốc ngữ. Mãi đến năm 15 tuổi anh mới được đi học lớp năm (tức lớp một bây giờ). Chỉ học đến lớp bốn, cha mẹ anh lại muốn giữ anh ở nhà vì hoàn cảnh nhà sa sút. Nhưng thấy Thiệp học quá giỏi, thầy giáo anh đã tìm mọi cách xin cho anh thi Sơ học yếu lược. Thiệp đỗ cao, cả trường thầy giáo cũng như bạn bè rất tự hào về anh.
   
                 Đầu năm 1941, anh bị Pháp bắt đi lính thợ (còn gọi là lính ONS) tập trung ra Huế rồi sang Mac-xây, một hải cảng lớn của Pháp. Sau hai năm, anh bị điều qua làm lính thủy. Theo chúng tôi biết, anh chỉ là lính trơn, thường làm công việc nấu ăn và lau sàn tàu. Lúc này anh được tiếp xúc với một số người có đầu óc cách mạng và có nhận thức ít nhiều về nước Việt Nam bị Pháp chiếm làm thuộc địa, nhân dân ta bị bóc lột bần cùng.
   
                 Hàng ngày anh cũng nhận ra và bất bình về việc phân biệt đối xử với lính thủy người Pháp và lính thủy người Việt Nam. Bọn Pháp xem rẻ người lính Việt Nam. Anh luôn nghĩ phải bỏ hàng ngũ lính Pháp, nhưng đi đâu về đâu thì chưa tìm ra phương hướng. Mãi đến năm 1945, nghe ở quê hương có Việt Minh làm cách mạng giải phóng dân tộc, anh đã bỏ hàng ngũ lính thủy của Pháp về Đà Nẵng để giành chính quyền về tay nhân dân.
   
                 Một tối tháng 4 năm 1945, anh đã cùng người anh là Nguyễn Bá Trình, và em là Nguyễn Bá Phước ra nỗng cát sau nhà chia tay nhau. Anh nói: Tôi đi làm cách mạng, nếu không thành công thì tôi không trở về. Từ đêm hôm đó anh đi mãi. Trước khi anh đi lính thợ, cha anh đã mất năm 1940. Ba năm sau, năm 1943 khi anh đi lính thủy thì mẹ anh mất. Anh quá đau buồn. Vì mất mẹ mà anh không hay biết, đây cũng là một lý do mà Nguyễn Bá Thiệp không muốn ở nhà nữa mà cương quyết ra đi hoạt động để thay đổi số phận cho mình.

                 Sau khi nhân dân ta giành được chính quyền ở Đà Nẵng, anh tham gia thủy đội Bạch Đằng, gồm hầu hết những người bị bắt đi lính thủy cho Pháp trước đây. Cuộc đời quân ngũ và cách mạng của anh có thể tóm tắt như sau:
   
                 Anh Nguyễn Bá Phát xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo, nhưng sau này nhờ sự giáo dục và giác ngộ của Đảng ta, anh đã sớm đi đến với cách mạng. Anh đã sớm tham gia “Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác”, tên gọi công khai của Đảng ta sau khi Đảng tuyên bố tự “giải tán” năm 1946. Tháng 6 năm 1947, anh được kết nạp vào Đảng Cộng sản tại chiến trường Quảng Nam - Đà Nẵng. Anh đã có sự tiến bộ vượt bậc về mọi mặt trong đó có sự nâng cao về mặt tri thức văn hóa.
   
                 Trong kháng chiến chống Mỹ, anh trở thành Tư lệnh Hải quân. Ngoài những thành tích chung về chiến đấu của Hải quân, anh đã góp công không nhỏ trong việc phát hiện và rà phá thủy lôi, bom từ trường của Mỹ. Anh đã góp phần quan trọng trong việc chế tạo vũ khí đánh trả tàu chiến, máy bay Mỹ trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc nước ta. Với thành tích đó, cùng với các đơn vị anh hùng Hải quân, anh đã đứng hàng đầu trong danh sách 11 cá nhân được tặng Giải thưởng “Hồ Chí Minh về khoa học kỹ thuật” của nước ta(2).
   
                 Nguyễn Bá Phát là một con người năng động, sáng tạo và rất dũng cảm, ngoan cường, có nhiều sáng tạo trong việc chỉ huy chiến đấu. Từ một đội viên của thủy đội Bạch Đằng, anh đã đóng góp sáng kiến rất có hiệu quả góp phần tiến công vào quân Nhật cố thủ trong nhà băng Đông Dương, thành phố Quy Nhơn, dùng búa đóng vào đạn đại bác không có kim hỏa, do ta lấy được của quân Pháp trước đó. Anh đã được đề bạt từ Chi đội phó Chi đội Phan Đình Phùng của Khu 5, lên đến Tham mưu phó Liên khu 5. Khi chuyển sang Hải quân, anh nhận chức vụ Phó Tư lệnh rồi Tư lệnh Hải quân nhân dân Việt Nam.
   
                 Các cán bộ quân sự của Liên khu 5 còn nhắc đến việc anh vận dụng, sáng tạo ra nhiều chiến thuật, kỹ thuật trong các trận chiến đấu để chống quân thù, thắm đượm tinh thần chiến tranh nhân dân và chiến tranh du kích. Chỉ huy cả một trung đoàn vào địch hậu sát thành phố Đà Nẵng, bí mật ém quân trong nhà dân đế rồi bất ngờ xuất kích tiêu diệt cả đoàn xe 14 chiếc ở Thanh Quýt. Hay chỉ huy 2 tiểu đoàn quân ta, bố trí ngụy trang giữa vùng đất trống, trên quốc lộ 14 ở Gò Cà, huyện Hòa Vang để bất ngờ đứng lên rũ bỏ áo ngụy trang, từ trong các hố đất trũng, xông lên tiêu diệt cả một đoàn quân địch hơn một đại đội. Trong trận tiêu diệt đồn ở Konplong, lúc này ta chưa có đại bác để tiêu diệt địch cố thủ trong công sự kiên cố. Nguyễn Bá Phát đã học tập kinh nghiệm ngày xưa: Đặt ĐKZ lên trên một xe lăn, được che chắn bằng bao cát, có người lái đẩy vào sát công sự địch để tiêu diệt các lô cốt của địch như một “thần thoại”. Khi về Hải quân, ta chưa có phương tiện để đánh các tàu chiến Mỹ xâm nhập miền Bắc nước ta, anh Phát cùng anh em nghĩ ra việc đặt ĐKZ lên các bè mảng, bí mật tiến sát tàu địch để đánh chúng... tuy kết quả còn rất hạn chế, nhưng tất cả đều nói lên ý chí quyết liệt, tìm đủ mọi cách để tiêu diệt được quân thù. Anh đã góp phần không nhỏ trong việc xây dựng các “Đội đặc công nước” để đánh địch bằng các đội quân tinh nhuệ đặc biệt như thời kỳ anh còn ở Liên khu 5.
   
                 Anh Phát được vinh dự chiến đấu trên các chiến trướng của Liên khu 5 thời chống Pháp từ Tây Nguyên đến Đà Nẵng. Anh đã tham dự và chỉ huy chiến đấu trên các sông biển miền Bắc thời kỳ chiến tranh phá hoại của Mỹ. Và vinh dự thay, anh được tham gia chỉ huy cánh phía Đông của chiến dịch Hồ Chí Minh, tham gia chỉ huy giải phóng một số đảo biển phía Nam của đất nước ta và cùng với các đơn vị khác vào tiếp quản thành phố Sài Gòn, trong đó có hang ổ của hải quân ngụy.
   Các đồng chí ở Bộ Hải sản, nơi anh Phát chuyển ngành qua nhận chức vụ Thứ trưởng thứ nhất, còn nhắc lại đến ngày nay, về một người thủ trưởng của mình đã phát huy một cách sinh động truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam trong lĩnh vực công tác mới. Không những anh đi sâu đi sát từ biển cả lên tới tận nhiều nguồn sông suối nước ta, kể cả những vùng bị kẻ thù gài, thả bom mìn để sát hại nhân dân. Anh chăm lo việc giải quyết đời sống đồng bào các dân tộc bằng nghề thủy sản. Anh tham gia chỉ đạo và tổ chức việc đưa “Ao cá Bác Hồ” lên mạn ngược có kết quả, được đồng bào các dân tộc miền núi phía Bắc hoan nghênh. Đã có nhiều nguồn tin cho biết, khi Trung ương điều vị Tư lệnh Hải quân có nhiều thành tích về Bộ Thủy sản là để nhận trọng trách là Bộ trưởng. Nhưng anh không chịu nhận mà giới thiệu một vị Thứ trưởng có văn bằng Tiến sĩ từ nước ngoài về, còn anh với tinh thần trách nhiệm cao chỉ làm Thứ trưởng thứ nhất, kiêm Bí thư Đảng ủy của Bộ. Phẩm chất đạo đức của anh đến mãi tận bây giờ vẫn còn được nhiều người nhất là trong Bộ Thủy sản nhắc đến như là một hành vi đáng kính trọng của một người Tư lệnh Quân chủng, phát huy truyền thống tốt đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam, một chiến sĩ Hải quân anh hùng.


                                 
N.B.N




(1). Với sự tham gia của bà Nguyễn Thị Dây và nhà báo Công Trình.
(2). Lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam (1955-2005), Nxb QĐND, H.2006, tr. 367.
Logged
loiho000
Thành viên
*
Bài viết: 162


« Trả lời #35 vào lúc: 12 Tháng Hai, 2017, 10:33:34 pm »

NGƯỜI TRUNG ĐOÀN TRƯỞNG TRUNG ĐOÀN 96
Đại tá Phan Viên(1)

                 Nhớ lại cách đây 60 năm, sau khi khóa I Võ bị Trần Quốc Tuấn bế giảng, tôi là huấn luyện viên được về phép ở Quảng Nam để thăm nhà thì đêm 19 tháng 12 năm 1946 tiếng súng toàn quốc kháng chiến bùng nổ. Là một quân nhân, tôi vào ngay Quảng Ngãi, đến Bộ Tư lệnh Khu 5 lúc bấy giờ Khu trưởng là anh Cao Văn Khánh(2) bạn Thanh niên tiên tuyến với tôi để trình diện và xin ra mặt trận chiến đấu. Nhanh chóng hàn huyên tình bạn cũ, anh viết giấy giới thiệu ra Trung đoàn 96 của anh Nguyễn Bá Phát nhận nhiệm vụ.

                 Tôi cấp tốc trở ra Đà Nẵng. Đúng là “Thành Thái Phiên (Đà Nẵng) tắm mình trong khói lửa”. Các đơn vị của các Tiểu đoàn 17-18-19 của Trung đoàn 96 cùng tự vệ thành đang anh dũng chiến đấu với Pháp ở hải cảng, trụ sở Uy ban Thành phố, bưu điện, cổ viện Chàm, ngã năm, chợ Mới, sân bay, cầu Vồng, ga Đà Nẵng, ngã tư Yên Khê, yểm hộ cho nhân dân trong thành phố sơ tán. Tiếng súng trường, súng máy, súng cối... nổ vang, nhiều cột khói nổi lên làm tôi nóng lòng ra chiến đấu.
   
                 Ở ngã tư Yên Khê, tôi gặp một người cao lớn, mắt to và sáng, da ngăm đen, giọng nói hơi rồ, có dáng vẻ quân sự, đó là Trung đoàn trưởng Nguyễn Bá Phát. Tôi được biết anh là Chỉ huy phó mặt trận Quảng Nam - Đà Nẵng vừa được chỉ định làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 96 thay ông Trần Thùy, Trung đoàn trưởng cũ đã phạm khuyết điểm trong việc phát lệnh nổ súng tiến công quân Pháp.
   
                 Đầu tiên anh hỏi tôi đã chiến đấu chưa? Tôi báo cáo anh tôi mới học kỹ thuật chiến thuật ở Thanh niên tiên tuyến Huế và Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn chứ chưa chiến đấu. Anh nói không có gì đáng sợ đâu, đầu chưa quen sau sẽ quen, miễn là có tinh thần yêu nước, dám cầm súng chống ngoại xâm. Bây giờ anh sẽ đến chỗ anh Võ Quang Hồ, Tiểu đoàn 18 để thay anh Vỵ là Đại đội trưởng Đại đội 4. Và anh nói thêm Đại đội 4 đang chặn địch ở ngã tư Yên Khê, không cho địch nống ra phía bắc. Ra đấy cậu cứ tổ chức đào chiến hào thành nhiều tuyến để chiến đấu với bộ binh và xe thiết giáp Pháp, tuyến trước thủng thì lui về tuyến sau dần về phía tây, phía bắc ra đỉnh đèo Hải Vân đã có Tiểu đoàn 19. Lần đầu tiên tôi được anh Nguyễn Bá Phát lãnh đạo tư tưởng không sợ địch và bày cho cách đánh lại địch nên tôi rất phấn khởi và yên tâm nhận nhiệm vụ Đại đội trưởng Đại đội 4. Tiểu đoàn 18 tiến hành phòng ngự ở ngã tư Yên Khê và giữ được phòng tuyến gần 10 ngày. Rồi từ đó tôi chiến đấu liên tục, lên Tiểu đoàn phó rồi Tiểu đoàn trưởng của Trung đoàn 96, Trung đoàn 108 Liên khu 5 và chiến đấu trong những trận chiến đấu lớn hay chiến dịch dưới sự chỉ huy của anh Nguyễn Bá Phát. Từ đấy, trong những khi đi chuẩn bị chiến trường cho trận đánh cùng anh, trong lúc huấn luyện bộ đội, khi nghỉ sau các trận đánh... nói chuyện tâm sự với anh, tôi mới hiểu biết được nhiều về anh.
   
                 Đức tính khiêm tốn ở anh biểu lộ rõ. Trước khi về làm Chỉ huy phó mặt trận Quảng Nam - Đà Nẵng anh đã từng chỉ huy nhiều trận ở Buôn Ma Thuột, đường 14, 19 kéo dài, đã từng được giao các chức vụ Chỉ huy trưởng, Chỉ huy phó mặt trận, Chi đội trưởng, Chi đội phó và trước khi về Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam. Anh là Tham mưu trưởng Đại đoàn 23, nhưng anh tự cho mình trước đây là một anh Matelot (lính thủy) trong Hải quân Pháp, lênh đênh trong sóng ngàn nhiều đại dương, nhiều tàu chiến, nhưng cũng chỉ là anh lính thủy quân, nay được Đảng và Chính phủ giao cho các trọng trách như vậy là quá lắm rồi, anh chỉ ước ao được làm người chiến sĩ chiến đấu trên quê hương mình (anh quê ở Trung Sơn, cách Đà Nẵng 10 ki-lô-mét về phía bắc).
   
                 Anh đã chỉ huy Trung đoàn 96 và Trung đoàn 108 đánh nhiều trận lớn ở Khu 5, có thể nói của miền Nam như trận Hải Vân 2 ngày 25 tháng 5 năm 1947 tiêu diệt một đại đội lê dương trong đó có tên đại tá Roger chỉ huy quân Pháp ở Đà Nẵng và Trung Việt Nam, thu vũ khí, bắt tù binh. Tiếp theo, ngày 24 tháng 1 năm 1948, chỉ huy trận Hải Vân 3 đánh trên cả hai trục đường xe hơi số 1A và đường xe lửa tiêu diệt 2 đại đội địch và một đoàn tàu quân sự, làm tê liệt trục đường giao thông giữa Huế và Đà Nẵng trong một thời gian. Hai chiến công ở đèo Hải Vân “Đệ nhất hùng quan” cùng với thành tích vây chặn quân Pháp hơn 100 ngày đêm trong thành phố Đà Nẵng, bảo vệ được tính mạng và tài sản của nhân dân, Trung đoàn 96 xứng đáng với lá cờ “Giữ vững” do đại diện Chính phủ Phạm Văn Đồng trao tặng. Liền sau trận Hải Vân 3 anh chỉ huy trận Gò Cà ngày 2 tháng 2 năm 1949, một trận đánh đầy mưu mẹo, táo bạo và gan dạ, diệt đại đội Ta-bo của địch trong chiến dịch Võ Nguyên Giáp, chiến thắng của chiến tranh nhân dân phát triển cao ở sau lưng địch trong Đông Xuân 1949-1950, diệt 450 tên, có tên thiếu tá Lơ-tu-léc (Lectulec), làm bị thương gần 300 tên phần lớn là Âu Phi, thu 203 súng các loại. Tiếp đến chiến dịch Hoàng Diệu ngày 3 tháng 11 năm 1950 mục đích bảo vệ mùa lúa đang chín của huyện Điện Bàn, phá âm mưu dồn dân bắt lính trở thành một trận chống càn của 1500 quân địch kết thúc thắng lợi. Địch phải rút 5 Tiểu đoàn Âu Phi vào tăng cường cho mặt trận Quảng Nam - Đà Nẵng thực hiện ý định của cấp trên về phân tán lực lượng địch trên chiến chính Bắc Bộ. Rồi đến trận Konplong ngày 6 tháng 8 năm 1951, lúc này anh là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 108 chủ lực Khu 5, trận công kiên đầu tiên của Khu 5, diệt 90 tên địch, bắt 195 tên, thu 20 tấn đạn, hơn 200 súng các loại, 2000 lít xăng, bước đầu giải tỏa được vướng mắc về chiến thuật tiến công cứ điểm cỡ đại đội có công sự vững chắc, tạo điều kiện cho chủ lực đánh điểm diệt viện, thu được nhiều chiến lợi phẩm bổ sung cơ sở vật chất để đánh lâu dài. Sang năm 1952, trên cương vị Tham mưu phó Liên khu 5, anh chỉ huy chiến dịch Hè - Thu ở bắc Quảng Nam - Đà Nẵng, tiêu diệt các cứ điểm Xuân Đài, Văn Ly, Túy Loan thu 1 đại bác 94 ly, và một số căn cứ nhỏ, tiêu diệt 1.200 tên, thu nhiều vũ khí quân trang quân dụng, khôi phục, củng cố và mở rộng vùng du kích ở bắc Quảng Nam - Đà Nẵng có thế phát triển mạnh mẽ cho đến khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp năm 1954. Chiến công nối tiếp chiến công, nhưng anh Nguyễn Bá Phát không khi nào nhận đó là công của mình mà cho đó là do tinh thần yêu nước, sự chiến đấu dũng cảm tuyệt vời của anh em cán bộ của Trung đoàn và chiến sĩ làm nên.
   
                 Giản dị không phô trương, cần cù chu đáo, bản chất của người nông dân vẫn còn ở trong anh mặc dù đã 6 năm anh đã sống và làm việc cùng với các thủy thủ trong hải quân Pháp. Trong các cuộc hành quân, anh luôn luôn mặc một cái áo bà ba đen, quần cụt, đầu đội nón lá dân gặp cũng không biết anh là chỉ huy trưởng đơn vị. Đi chiến đấu anh chỉ mang theo một số liên lạc, 3-4 vệ binh, một bí thư làm nhiệm vụ tác chiến và một đài vô tuyến điện để liên lạc với cấp trên, còn để lại hậu phương Trung đoàn cho Tham mưu trưởng và Chủ nhiệm Hậu cần chỉ huy ở phía sau. Trận Hải Vân 3, Tiểu đoàn 19 và Tiểu đoàn 79 hành quân từ Quảng Ngãi ra Quảng Nam qua Đèo Le, Trung Phước, ngược lên Phú Gia bằng thuyền, vượt dốc Giảm Thọ ra tây Đại Lộc lên Trung Man, CK của Trung đoàn, rồi lại xuống Dốc Kiền, Dốc Giong qua Đá Hang lên Dàn Bí thẳng ra đèo Hải Vân trong rừng nguyên sinh, mang mỗi người 10 ngày gạo trong một ruột nghé. Chẳng hiểu sao anh Phát lại am hiểu địa hình rừng núi của Quảng Nam như vậy và đã làm kế hoạch rồi hướng dẫn cho 2 Tiểu đoàn hành quân như vậy. Rồi anh đi với Tiểu đoàn 79, mang theo mỗi ngày 2 vắt cơm nắm như anh em, tối đến cùng trải lá rừng ra ngủ trên mặt đất giá lạnh. Trận này ngoài kết quả tiêu diệt địch, cắt đứt đường giao thông chiến lược Đà Nẵng - Huế, còn làm được một chuyện thần kỳ: rút toàn Trung đoàn khỏi vòng vây ngay trong lòng địch!

« Sửa lần cuối: 12 Tháng Hai, 2017, 10:40:38 pm gửi bởi loiho000 » Logged
loiho000
Thành viên
*
Bài viết: 162


« Trả lời #36 vào lúc: 12 Tháng Hai, 2017, 10:38:34 pm »

                 Đánh và giải quyết chiến trường xong và rút ngay lên chỗ trú quân trước khi xuất kích thì được tin quân báo cho biết địch đã rải 1.000 quân trên đường quốc lộ 1A và cho một lực lượng lớn theo hữu ngạn sông Cu Đê (sông Trường Định) từ Quan Nam lên Phò Nam, Khe Sô, Eo Ngựa bịt kín đường về của bộ đội ta. Trong khi gạo ăn của các đơn vị chỉ còn có 2 ngày! Anh Phát bình tĩnh cho bộ đội trú lại 2 ngày và đặt kế hoạch liên lạc với địa phương vượt sông Trường Định đêm 27 tháng 1 về tây bắc Hòa Vang, ở đây đã có gạo ém sẵn. May mắn thay, có chị Nguyễn Thị Liên, em gái út của anh Nguyễn Bá Phát cùng bạn vượt sông xuyên rừng lên gặp anh. Chị được giao nhiệm vụ đem ý đồ của anh mình về báo cáo với các lãnh đạo xã Hòa Liên thực hiện ứng cứu. Thế là trên 30 chiếc ghe bị nhận chìm dưới sông được vớt lên, khiêng đến bãi cát cách 5 - 6 ki-lô-mét để đưa bộ đội qua sông. Một bộ phận du kích quấy rối đồn Nam Ô, du kích Hòa Vang phối hợp quấy rối các đồn bốt khác, nhân dân cả huyện nổi dậy đánh trống gõ mõ, thanh viện nghi binh để không cho địch biết đường lui quân của Trung đoàn. Đêm hôm ấy, lực lượng gồm 1.800 người với 28 cáng thương binh và hàng chục tù binh đã đàng hoàng qua sông về tây bắc Hòa Vang, thoát khỏi vòng vây của địch. Nhân dân đứng hai bên đường tiếp tế cơm nước, chỉ đường cho bộ đội đi trong đêm tối trong khi súng các đồn bắn vu vơ bừa bãi. Đúng là một cuộc rút lui thần kỳ, một cuộc lui quân đi giữa lòng dân vùng tạm chiếm mà địch không thể ngờ được. Sáng hôm sau, khi bộ đội đã đi xa, bà con đổ ra dắt trâu bò đi lại xóa dấu vết, tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp của chiến tranh nhân dân lúc bấy giờ. Bộ chỉ huy Pháp ở Đà Nẵng lồng lộn vì bị một thất bại nặng nề. Địch không hiểu nổi đối phương, một lực lượng lớn từ đâu đến và đi đường nào mà nhanh thế!

                Chiến đấu dưới quyền chỉ huy của anh Nguyễn Bá Phát nếu không hiểu thì cho anh là một chỉ huy không có kế hoạch và thiếu tin vào thắng lợi, nhưng thật ra anh là một người chỉ huy rất có kế hoạch, một kế hoạch hoàn chỉnh, tỉ mỉ, nắm rất chắc địch và phán đoán đầy đủ các tình huống với các cách xử trí, nhưng kế hoạch đó để trong đầu óc, không viết thành văn bản và chỉ phổ biến cho cấp dưới ngay tại thực địa. Chỉ trong các chiến dịch, lực lượng lớn, có đầy đủ Bộ chỉ huy, tham mưu, chính trị, hậu cần và các đơn vị trực thuộc tham gia anh mới làm kế hoạch văn bản đầy đủ.
   
                Trong trận Gò Cà, anh đã đưa cán bộ tiểu đoàn và đại đội của Tiểu đoàn 79 đến một địa điểm đồng bằng trống trải trên đường Túy Loan đi Ái Nghĩa phổ biến kế hoạch phục kích 1 đoàn xe địch, hướng dẫn chúng tôi bố trí trong những mương nước khô cách đường 1,5 mét, lấy cỏ khô phủ lên trên người. Ngày 1 tháng 2 năm 1949, Tiểu đoàn triển khai bố trí theo kế hoạch nhưng do tề điệp phát hiện, địch không đi. Anh cho Tiểu đoàn rút lên Phú Túc. Sáng hôm sau lại xuống bố trí sau khi đoàn xe đã đi qua trận địa đoạn phục kích lên Ái Nghĩa. Đến trưa đoàn xe trở về Đà Nẵng, chủ quan không đề phòng thì bị chúng tôi tiêu diệt. Sau thất bại, tên thiếu tá chỉ huy phân khu Ái Nghĩa ra thị sát và phải thốt lên: “Đối phương thông minh, đầy thao lược, táo bạo, nắm địch một cách vững chắc mới dám đánh như thế này”.
   
                Đến trận Konplong, anh Nguyễn Bá Phát làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 108. Yêu cầu của Liên khu là bộ đội chủ lực phải học tập cách đánh công đồn bằng cường tập để thực hiện đánh điểm diệt viện với phương châm vận động chiến. Lúc này Liên khu đã chế tạo được súng SKZ và súng phóng bom. Anh Nguyễn Bá Phát có công lớn nghiên cứu tìm ra những biện pháp thích hợp về kỹ thuật, chiến thuật để đánh bằng được cứ điểm theo hình thức cường tập. Như dùng bao cát lăn gần vào công sự địch, xe sắt trên để SKZ chất bao cát xung quanh đẩy vào gần lô cốt (vì tầm bắn có hiệu quả của SKZ mới chỉ từ 30 - 50 mét) bộ đội gọi “xe tăng SKZ”, có thể tháo lắp được và hành quân với bộ đội. Từ đấy các đơn vị trong Liên khu học tập công đồn bằng lăn bao cát, cắt hàng rào mở đột phá khẩu bằng bộc phá, hỏa lực trọng liên phối hợp với “xe tăng SKZ” diệt các lô cốt. Kết hợp Với kinh nghiệm của chiến dịch Biên giới, bộ đội chủ lực Liên khu đã tiêu diệt một loạt cứ điểm địch ở An Khê, Mang Đen… sau đó.
   
                Liên hệ chặt chẽ với địa phương, với các đoàn thể nhân dân và đồng bào trước trận đánh để nắm tình hình địch và tìm sự giúp đỡ cho trận đánh. Khi ở Trung đoàn 96, anh Nguyễn Bá Phát thường quan hệ chặt chẽ với các huyện Hòa Vang, Điện Bàn, Đại Lộc, do đó mà nhân dân đã mang gạo từ đồng bằng lên chân đèo Hải Vân, lên Trung Man cho bộ đội. Không có trận đánh hay chiến dịch nào bộ đội thiếu gạo ăn, trong những thời gian về nghỉ giữa hai trận đánh hai chiến dịch, anh huy động được đoàn thể phụ nữ “Hội mẹ chị chiến sĩ” giúp đỡ việc ăn ở, tặng quà động viên bộ đội luyện tập. Với tác phong giản dị, thật thà, anh luôn luôn hòa mình vào quần chúng, hay kể chuyện về đời tư của mình trước đây và hay nói chuyện tiếu lâm. Anh kể lại sinh hoạt các thủy thủ trên các tàu của Pháp, các việc chơi bời phá phách của thủy thủ, khi tàu neo lại ở một hải cảng nào đó và thủy thủ được lên bờ. Tôi nói đùa với anh bây giờ anh là “Matelot sans bateau” (lính thủy không có tàu), anh có tiếc sinh hoạt trước đây như thế không? Anh bảo lại tôi là “tiểu tư sâu dỏm” (nghĩa là tư sản) vì lúc đó là 1948 mà tôi chưa được vào Đảng. Những khi bộ đội liên hoan, biểu diễn văn nghệ tổ chức các trò chơi anh cũng lăn vào tham gia chơi với anh em. Đặc biệt anh rất thương yêu cán bộ và chiến sĩ dưới quyền chỉ huy, rất lo việc ăn ở cho anh em. Đi chiến đấu, anh đề nghị Trung đoàn phó và Chủ nhiệm hậu cần ở lại hậu phương lo sản xuất tự túc để cải thiện cho bộ đội. Có lần Trung đoàn 96 về nghỉ ở Đại Mỹ, Trúc Hà, Chấn Sơn để lên Trung Man chiến đấu, anh thấy bộ đội ăn uống khố quá, hàng ngày chỉ cơm với canh rau tàu bay. Anh đã cho lấy bộc phá đánh cá ở sông Hiếu được một thuyền cá về cho bộ đội liên hoan, anh đã tự phê bình như thế là phạm kỷ luật với Liên khu. Nhưng trong tình thế khó khăn này cũng phải làm.
   
                Anh Nguyễn Bá Phát nguyên Trung đoàn trưởng Trung đoàn 96 và Trung đoàn 108 Liên khu 5 là như thế đấy. Năm 1998, khi một số cựu chiến binh Trung đoàn 108 viết lịch sử của Trung đoàn có làm đề nghị phong anh hùng cho 2 Trung đoàn 96 và 108 cùng với Trung đoàn trưởng là anh, sau đó thì chỉ 2 Trung đoàn được phong Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Anh em cán bộ và chiến sĩ ở cả 2 Trung đoàn đều ấm ức, băn khoăn nhớ anh mãi.


                                 
P.V



(1). Nguyên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 79, Trung đoàn 108, Liên khu 5.
(2). Về sau là Trung tướng, Phó Tổng tham mưu trưởng.
Logged
loiho000
Thành viên
*
Bài viết: 162


« Trả lời #37 vào lúc: 12 Tháng Hai, 2017, 10:43:16 pm »

TỪ TRẬN CHIẾN THẮNG ĐẦU TIÊN CỦA “THỦY ĐỘI BẠCH ĐẰNG”
Đại tá Cao Hùng

                 Tôi cũng không biết gọi tên của đơn vị chiến thắng đầu tiên này là gì cho thật chính xác. Nhưng họ phần lớn là những người dân mất nước đã vì những lý do khác nhau, đã đi làm lính đánh thuê trên biển (lính thủy) và trên bộ (lính ONS). Trận đánh diễn ra trong thành phố cảng Qui Nhơn. Lực lượng tiến công không có tàu bè gì, tất cả đều đi chân đất. Phân đội lại nằm trong Chi đội giải phóng quân với tên gọi Phan Đình Phùng, do ông Nguyễn Giáo là Chi đội trưởng, ông Nguyễn Chính Cầu làm Chính trị ủy viên. Về sau đơn vị có anh Nguyễn Bá Phát, đại diện cho số những thành phần vừa làm lính đánh thuê giác ngộ quay về với Tổ quốc, tham gia khởi nghĩa và có mặt ngay trong Chi đội giải phóng đầu tiên của tỉnh Bình Định. Những người lính thủy trước đây, thuộc nhiều tỉnh ở Trung Trung Bộ tập trung về đây. Anh Phát có tên cúng cơm là Nguyễn Bá Thiệp, trước ngày vùng lên giành chính quyền của dân tộc, đã tham gia Thanh niên cứu quốc và tự vệ bí mật ở quê anh, xã Trung Sơn, tổng Thái Hòa, huyện Hòa Vang.
Sau này anh Phát tham gia Vệ Quốc đoàn tại Đà Nẵng và tình nguyện vào Thủy đội Bạch Đằng tại hải cảng miền Trung này. Lúc này quân Pháp và Anh đã gây hấn ở miền Nam nước ta. Phong trào Nam tiến đánh giặc cứu nước, xao động non sông. Thủy đội Bạch Đằng cũng lên đường vào Nam kháng chiến, và dừng lại vừa tổ chức, vừa luyện tập ở Qui Nhơn, tự nhiên cũng đứng vào tổ chức của Chi đội giải phóng mới hình thành của địa phương.

                Tại hải cảng này, đang có 50 tên lính Nhật, nói là đầu hàng quân Đồng Minh, nhưng vẫn không chịu khuất phục chính quyền cách mạng. Chúng chiếm giữ tòa nhà nhiều tầng, đồ sộ, kiên cố, có tường cao vây quanh. Giữa tháng 12 năm 1945, nghĩa là sau Nam Bộ kháng chiến (23-9-1945), bọn Pháp và Anh, nhân danh quân Đồng minh vẫn cho một tàu chiến chở 150 quân đổ bộ lên Cù Lao Xanh, đối diện với Qui Nhơn, định tiến vào hải cảng quan trọng này, phối hợp với bọn đang bị bao vây tại chỗ, chiếm vị trí có tầm chiến lược có thể làm đầu cầu tiến lên đánh chiếm cao nguyên miền Tây.
   
                Ngay trong đêm 12 tháng 12, Ban chỉ huy Chi đội Phan Đình Phùng đã ra lệnh cho đơn vị, trong đó Có Thủy đội Bạch Đằng, tiến công quân Nhật ở nhà băng Đông Dương cũ. Chi đội mới hình thành, súng đạn rất thiếu thốn, phần nhiều là vũ khí thô sơ. Đơn vị đã tổ chức bao vây quân địch tại chỗ. Với tất cả sự quyết tâm đánh địch, anh em đã xoay xở tìm mọi cách để tiêu diệt quân địch cho bằng được. Tất nhiên súng trường và súng máy đang có trong tay, cũng như giáo mác không thể tiến công quân địch trong công sự kiên cố. Anh em đã tìm ra một khẩu đại bác 75 ly của bọn Pháp để lại. Nhưng tiếc thay súng lại không kim hỏa. Làm sao bây giờ? Chưa ai nghĩ ra được cách khắc phục, thì Nguyễn Bá Phát xuất hiện. Anh có ý kiến vô cùng quý báu làm ngạc nhiên mọi người.
   
                “Dùng đinh hình chữ T và lấy búa đánh vào hột nổ đuôi đạn thay kim hỏa và trước khi bắn hãy nhìn thông nòng súng, ngắm đúng mục tiêu, để khắc phục cản ngại lớn là không có máy ngắm”. Đông đảo mọi người thở dài nhẹ nhõm. Nhưng có người không tán thành: “Từ thuở cha ông đến giờ có ai làm như thế?”. Riêng anh Từ Công Khế không nói, không rằng chạy đi tìm đinh chữ T và anh là người tán thành ý kiến của anh Phát đầu tiên, cũng là người đã từng làm lính thuê trong hải quân Pháp. Đơn vị đã hì hục kéo pháo đến và nhìn qua nòng súng để xác định mục tiêu. Từ Công Khế trong nhóm Nguyễn Bá Phát đã không nề nguy hiểm cầm đinh chữ T đặt đúng vào đuôi đạn và dùng búa đóng thẳng vào hạt nổ.
   
                Bắn! Ba phát nổ vang trời. Bọn địch hốt hoảng chạy tứ tán. Cái công sự nhà băng Đông Dương của chúng không còn an toàn nữa. Chỉ huy của ta ra lệnh xung phong. Bọn Nhật nhanh chóng kéo cờ trắng đầu hàng. Còn một số địch ở Cù Lao Xanh, nghe tiếng đại bác gầm lên trong đất liền cũng cao chạy xa bay. Phải chăng đây là tiếng đại bác đầu tiên của quân đội cách mạng chúng ta, tiếng pháo gầm lên từ Thủy đội Bạch Đằng và Chi đội giải phóng Phan Đình Phùng, Chi đội mang tên nhà yêu nước Cần Vương khởi nghĩa từ núi Vụ Quang. Mọi người đều ghi công sáng kiến của Nguyễn Bá Phát trong giờ phút khó khăn. Cũng từ trận đánh của Thủy đội Bạch Đằng và Chi đội Phan Đình Phùng, anh đã nhanh chóng đi lên những chức vụ khá cao trong lực lượng vũ trang giải phóng, Vệ Quốc đoàn, đến Quân đội nhân dân Việt Nam. Không qua các cấp bậc Đại đội rồi Tiểu đoàn, anh làm Chi đội phó rồi Chi đội trưởng, Trung đoàn trưởng, Tham mưu trưởng Đại đoàn 23, khi cuộc chiến tranh giải phóng đất nước diễn ra kết thúc thắng lợi vĩ đại vào năm 1975.

Theo “Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm”
Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Bình Định 1992   
 

Logged
loiho000
Thành viên
*
Bài viết: 162


« Trả lời #38 vào lúc: 12 Tháng Hai, 2017, 10:47:07 pm »

NGUYỄN BÁ PHÁT VỞI NHỮNG CÔNG TRÌNH KHOA HỌC TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC
                        
Nguyễn Sỹ Trinh                       
                 Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học - kỹ thuật

                 Tôi được sống và làm việc với đồng chí Nguyễn Bá Phát, qua nhiều giai đoạn chiến tranh, cả những lúc gặp thuận lợi, gặp khó khăn. Qua nhiều bạn bè thôi thúc, tôi muốn viết về anh “Một con người đậm nét công lao, thành tích chiến đấu, xây dựng và trưởng thành của Quân chủng Hải quân” khi anh đã gần hai mươi năm từ Đại tá Cục trưởng đến Thiếu tướng Tư lệnh Hải quân nhân dân Việt Nam. Anh sống chan hòa, giản dị với cán bộ, đảng viên nên rất dễ gần, dễ mến, không có phân biệt về tuổi tác, chức vụ. Trong những năm tháng sống với anh, chúng tôi vẫn thân mật gọi là anh có lúc gọi là anh Hai. Viết về anh không phải là sự mong muốn được phát thảo đôi nét nổi bật chân dung tiêu biểu của anh trong cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, mà còn muốn nêu lên từ những con số và sự kiện trải dài trong nhiều năm chiến đấu. Anh luôn luôn quan tâm khám phá và nhiệt tình ủng hộ cái mới, cộng với cái tác phong cởi mở, khiêm tốn nên càng làm cho cán bộ xung quanh có một chỗ dựa và một niềm tin vững vàng đối với người đứng đầu Quân chủng.

                   Trên cương vị Trung đoàn trưởng Trung đoàn 96, Trung đoàn chủ lực 108 rồi Tham mưu phó Liên khu 5, đồng chí Nguyễn Bá Phát đã có những đóng góp công lao lớn vào sự nghiệp cách mạng giải phóng quê hương. Năm 1955, rời khỏi chiến trường Liên khu 5 ra Hà Nội theo lệnh điều động của Bộ Quốc phòng.
   
                   Đi trên đường giao liên, giữa tháng 5 nắng nóng oi ả về nhận nhiệm vụ do đồng chí Hoàng Văn Thái Tổng Tham mưu trưởng Bộ Quốc phòng trực tiếp giao, cùng với 7 đồng chí ở từ các đơn vị khác được tuyển chọn trở về đơn vị tập trung tại trụ sở nhà máy bia Hommel trên đường Hoàng Hoa Thám, Hà Nội. Từ 7 đồng chí được gộp lại thành Ban nghiên cứu chuyên trách vùng biển do đồng chí Nguyễn Bá Phát làm Trưởng ban. Tuy ít người, nhưng hẳn không khỏi có những băn khoăn suy nghĩ. Sau khi ổn định về tổ chức, nơi ăn ở, tất cả đều bắt tay ngay vào làm việc theo nhiệm vụ được giao, với một cố gắng bước đầu đang còn nhiều khó khăn bỡ ngỡ. Những tư liệu có được trong tay chỉ là những tấm bản đồ về biển (hải đồ) của Pháp trước đây để lại. Đồng chí trưởng ban vốn là người chỉ huy cầm quân đánh giặc, không quen với tác phong ngồi bàn nghiên cứu sổ sách, phương án chằng chịt trên tấm hải đồ. Nhưng với những cố gắng nhiệt tình, bước đầu Ban chuyên trách có nhiệm vụ theo dõi hoạt động của Hải quân Pháp tại khu vực 300 ngày và tình hình trên biển, chuẩn bị tiếp quản các căn cứ Hải quân Pháp tại Hải Phòng. Đồng chí Trưởng ban đi ngay vào tổ chức phân công giao nhiệm vụ cho từng người, từng bộ phận, cùng với một số đồng chí đi nghiên cứu, khảo sát cơ sở tàu Pháp tại bến phà Đen trên sông Hồng, Hà Nội. Trên cơ sở đó nghiên cứu tổ chức lực lượng, tổ chức công tác bảo đảm hậu cần, kỹ thuật và lập phương án bố phòng bờ biển. Đây là nhiệm vụ rất nặng nề, vượt qua khả năng trong Ban, nhưng dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của Cục Tác chiến Bộ Quốc phòng, anh và các đồng chí trong Ban đã tự tin hơn, mọi người đều bắt tay vào công việc vừa đi khảo sát thực tế vừa nghiên cứu tài liệu, vừa phát thảo đề cương, phương án tổ chức. Tuy phải làm đi, làm lại nhiều lần, nhưng được sự động viên của anh, mọi cố gắng cũng đáp ứng được, hình thành bản phương án trình lên cấp trên, và được Tổng Quân ủy thông qua ngày 13 và 14 tháng 4 năm 1955.
   
                   Trước hết là phương án tổ chức Cục phòng thủ bờ biển, và một số đơn vị trực thuộc. Quân số cũng được điều về nhiều hơn, từ một ban có 7 người lúc này đã lên 140.
   
                   Để triển khai nhanh chóng, ngày 7 tháng 5 năm 1955, Bộ Quốc phòng đã ra quyết định thành lập Cục phòng thủ bờ biển do đồng chí Nguyễn Bá Phát làm Cục trưởng. Sau khi có quyết định Cục phòng thủ bờ biển, đồng chí Hoàng Văn Thái - Tổng Tham mưu trưởng Bộ Quốc phòng xuống truyền đạt nghị quyết Tổng Quân ủy và trực tiếp giao nhiệm vụ. Đồng chí Cục trưởng Nguyễn Bá Phát thay mặt cho Cục phát biểu đáp từ cảm ơn sự quan tâm chu đáo của Bộ Quốc phòng và hứa hẹn quyết tâm khắc phục khó khăn hoàn thành tốt nhiệm vụ. Một luồng không khí mới đã đến, một lực lượng mới đã ra đời chỉ sau 3 tháng, ngày 24 tháng 8 năm 1955, ngày lễ thành lập 2 Thuỷ đội Sông Lô và ngày Hải Phòng giải phóng. Đại tướng Võ Nguyên Giáp tới dự và duyệt đội hình, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Cục trưởng Nguyễn Bá Phát, 2 thủy đội triển khai đội hình thao diễn để báo cáo với Đại tướng, với nhân dân thành phố Cảng. Đó là một ngày thu mát mẻ, trở nên náo nhiệt đông vui để chứng kiến một tương lai tốt đẹp, một niềm tin mới cho sự nghiệp an ninh quốc phòng, là sự khởi đầu đặt nền móng cho quá trình phát triển vững mạnh của Hải quân nhân dân Việt Nam.
   
                   Đại tướng đã nhấn mạnh: “Các đồng chí là những người được lựa chọn trong toàn quân về đây để thành lập Binh chủng mới của Quân đội nhân dân Việt Nam. Hai thủy đội này là những viên gạch đầu tiên, là tiền thân của lực lượng tàu chiến đấu của Hải quân nhân dân Việt Nam sau này”. Đại tướng nhắc nhở: “Bờ biển nước ta dài, trên bờ có đông dân cư dưới biển có nhiều tài nguyên quý giá, kẻ địch còn len lút phá hoại, các đồng chí từ con em của nhân dân mà ra nên phải ra sức phát huy truyền thống quân đội, hãy dũng cảm khắc phục mọi khó khăn để làm nhiệm vụ bảo vệ bờ biển của Tổ quốc, bảo vệ cuộc sống lao động hòa bình của nhân dân ta.”. Đại tướng còn nhắc nhở việc giữ gìn bảo vệ con tàu cần phải đi sâu học tập, thực tập thường xuyên để nâng cao trình độ sử dụng thành thạo các loại trang thiết bị máy móc và vũ khí trên tàu.
   
                   Để phát huy thuận lợi bước đầu, toàn Cục đã nhanh chóng phát triển và xây dựng lực lượng đồng bộ, từ bộ máy cơ quan đến các đơn vị trực thuộc với quy mô ngày càng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. Đầu tháng 8 năm 1955, đồng chí Cục trưởng cho đóng 20 canô có trang bị súng trọng liên 12.7 ly và đại liên. Ngày 30 tháng 10 năm 1956, có thêm 4 tàu sắt tuần tiễu chiến đấu và tiếp theo các năm sau là những đoàn tàu 130, 135, 140, 200... ra đời từ sự chi viện của Hải quân Trung Quốc, Liên Xô. Cũng từ đó lực lượng Hải quân ta đã nhanh chóng phát triển đồng bộ cả phía trước và phía sau. Mới chỉ hơn 3 năm đầu xây dựng mà trong tay người chỉ huy Hải quân đã có 60 con tàu lớn nhỏ, ngoài ra còn có các cơ sở vật chất, kỹ thuật, hậu cần cũng từng bước hoàn chỉnh. Nếu chỉ nhìn từ ngày đầu được thành lập Cục phòng thủ bờ biển và sau gọi là Cục Hải quân, thì nay đã thành lập Bộ Tư lệnh Hải quân. Suốt 10 năm đầu từ 1955 - 1964, Hải quân nhân dân Việt Nam đã vượt mọi khó khăn thiếu thốn, anh dũng trong chiến đấu, cần cù trong lao động xây dựng, chăm chỉ trong luyện tập, cán bộ chiến sĩ một lòng tin tưởng, xây dựng từng bước trưởng thành lên chính quy hiện đại, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ Bộ Quốc phòng giao. Với thành tích và công trạng đó, Hải quân đã được Đảng và Nhà nước tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Đặc biệt trong trận chiến đấu đánh tàu khu trục Ma-đốc của Mỹ dựng lên “sự kiện vịnh Bắc Bộ” vu cáo Hải quân Việt Nam cố ý tiến công tàu chiến Mỹ ở vùng biển quốc tế.
   
                   Tôi lại nhớ một câu hát của nhạc sĩ Doãn Nho là “Biển của ta đâu phải ao nhà của chúng”. Cùng lúc đó, đồng chí Tư lệnh Hải quân ra lệnh cho các tàu và các căn cứ hải quân chuẩn bị sẵn sàng đánh trả máy bay Mỹ. Đúng sáng ngày 5 tháng 8 năm 1964, Mỹ đã cho máy bay tập kích vào 4 căn cứ của Hải quân ta. Phối hợp với các đơn vị pháo phòng không, Hải quân ta đã bắn rơi 8 máy bay và bắn bị thương nhiều chiếc khác, bắt sống tên trung úy giặc lái An-vơ-ret.
   
                   Bộ đội Hải quân được Thủ tướng Phạm Văn Đồng biểu dương. Tại lễ tuyên dương các đơn vị Phòng không và Hải quân, Bác Hồ khen ngợi: “Các chú đã chiến đấu rất dũng cảm, đã bắn rơi tám chiếc máy bay Mỹ và bắn hỏng ba chiếc, vừa rồi lại nghe tin bốn chiếc máy bay Mỹ đến Biên Hòa bị hỏng. Các chú đã bắt sống phi công Mỹ, đánh đuối tàu chiến Mỹ ra khỏi vùng biển nước ta. Như vậy là rất tốt”(1). Ngày 5 tháng 8 năm 1964, mãi mãi là ngày truyền thống đánh thắng trận đầu của Hải quân nhân dân Việt Nam. Thành tích và công lao đó không những có sự đóng góp quan trọng của người chỉ huy biết địch biết ta quyết đánh và quyết thắng mà còn là nhân tố có tính chất quyết định về chiến thuật và chiến lược của người Tư lệnh cầm quân.
   
                   Là người cùng công tác và chiến đấu gần 20 năm với đồng chí Nguyễn Bá Phát từ những ngày đầu Hải quân, cũng như nhiều cán bộ trong Quân chủng, chúng tôi đều có chung nhận xét: Anh Nguyễn Bá Phát từ Đại tá Cục trưởng Cục phòng thủ bờ biển rồi đến Thiếu tướng Tư lệnh Hải quân, là người chỉ huy có tài năng và sáng tạo trong chiến đấu, mẫu mực trong cách sống, giản dị trong tác phong, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư trong đạo đức, gần gũi với mọi người, sâu sắc trong thực tế, tận tụy với công việc, rất quan tâm tới công tác tổ chức thực hiện, khi giao nhiệm vụ cho cấp dưới đều có kiểm tra và tạo điều kiện thuận lợi cho cấp dưới hoàn thành tốt nhiệm vụ. Anh là một người con ưu tú của đất Quảng Nam, suốt cuộc đời binh nghiệp của mình chỉ nghĩ đến hoạt động chiến đấu, không quản ngại gian khổ hy sinh, mang hết bầu nhiệt huyết xông xáo đi khắp chiến trường từ bắc Quảng Trị trở ra trong thời chiến tranh phá hoại miền Bắc. Đồng chí đã có những cống hiến quan trọng trong 2 cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, đã có những đóng góp tích cực đánh bại chiến tranh xâm lược Mỹ ngụy, giành thắng lợi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Nói về anh là muốn mọi người hiểu biết kỹ về đời binh nghiệp của anh, mà nổi bật nhất trong những năm anh làm Tư lệnh Quân chủng Hải quân.

Logged
loiho000
Thành viên
*
Bài viết: 162


« Trả lời #39 vào lúc: 12 Tháng Hai, 2017, 10:55:54 pm »

                Từ sau khi có Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (ngày 13 tháng 1 năm 1959) về nhiệm vụ chiến lược cách mạng miền Nam, Tổng Quân ủy đã quán triệt và ra chỉ thị chi viện cho chiến trường miền Nam, mở đường vận tải trên bộ, xuyên dọc Trường Sơn, và mở đường vận tải trên biển, xuyên dọc biển Đông từ Bắc vào Nam.

                 Con đường Trường Sơn có Đoàn vận tải 559 (tháng 5 năm 1959) tiền thân của con đường mang tên Hồ Chí Minh. Còn con đường vận tải miền Bắc lúc đầu là Tập đoàn đánh cá sông Gianh, sau lấy phiên hiệu Đoàn 759 (7-1959) tiền thân của con đường Hồ Chí Minh trên biển. Con đường này chính đồng chí Tư lệnh Hải quân Nguyễn Bá Phát là người dáng lập, tổ chức và chỉ đạo thực hiện. Tại sông Gianh (Quảng Bình) anh đã lập trạm đóng mới và cải thiện các tàu gỗ giả dạng thành tàu đánh cá. Để giữ bí mật các tàu trước khi xuất phát chở hàng vào miền - Nam còn phải xóa hết số hiệu tàu, kể cả tàu gỗ và tàu sắt, do vậy, anh em quen gọi là Đoàn tàu không số sau này cũng được lưu truyền chính thức trong lịch sử của đoàn vận tải 125. Tàu được ngụy trang giả dạng tàu đánh cá, kết cấu gồm 2 lớp boong (sàn), mặt boong dưới để vũ khí, boong trên là để lưới đánh cá. Chuyến hàng đầu tiên để thử nghiệm là chở 5 tấn vũ khí và thuốc men cho Khu 5 vào cập bến chân đèo Hải Vân, xuất phát đêm 30 tết Canh Tỵ (1960).
   
                 Một đêm chia tay lặng lẽ mà cảm động giữa những người tiễn đưa, với sự có mặt của đồng chí Tư lệnh Nguyễn Bá Phát càng làm cho không khí tiễn đưa thêm thiêng liêng và quan trọng. Mục tiêu của chiếc tàu đầu tiên không những vừa để thử nghiệm trong tình hình thời tiết đang trong mùa sóng lớn, mà còn để trinh sát mọi hoạt động trên biển. Qua đó để tìm các chuyến vận tải tiếp theo, do đó Bộ Chỉ huy và người ra lệnh phải tính đến yếu tố thời cơ và thời tiết trên biển để bảo đảm an toàn cho chuyến đầu tiên. Mặc dù cả bộ máy cơ quan chỉ huy làm việc liên tục cả ngày đêm theo dõi nghe báo cáo thông tin 3 chiều (tại cơ sở bãi nơi đến, tại tàu và Bộ chỉ huy). Sau một ngày ra đi, thật không may tàu đã gặp Sóng to gió lớn, con tàu trôi dạt vào vùng biển Quảng Ngãi, tàu lái hỏng, gãy cột buồm, con tàu trôi dạt ngày càng xa, sợ bị lộ, anh em thủy thủ và thuyền trưởng đã phải hủy số vũ khí trên tàu theo phương án đã định. Tuy chuyến đi này không thành công, nhưng cũng rút ra nhiều kinh nghiệm quý giá. Sau một thời gian chuẩn bị chu đáo, đồng chí Tư lệnh chỉ thị đêm ngày 8 tháng 4 năm 1963, chiếc thuyền Bạc Liêu do đồng chí Bông Văn Đĩa làm thuyền trưởng rời cửa sông Nhật Lệ (Quảng Bình) theo đường biển vào phía Nam. Sau 10 ngày đi nghiên cứu mở đường, tàu Bạc Liêu đã cập vào bến Vàm Lũng (Cà Mau). Con đường biển nối liền Bắc Nam thành hiện thực.
   
                 Vào những năm 1961, 1962 trở đi các tàu vận tải biển hoạt động phải vượt qua nhiều khó khăn trở ngại nhưng chở hàng được nhiều hơn và liên tục hơn. Chỉ tính trong 10 năm đầu Đoàn 125 đã đi được 168 chuyến kể cả tàu gỗ và tàu sắt, vận chuyển vào 19 bến của 9 tỉnh miền Nam, chở được 6.105 tấn vũ khí và hàng ngàn lượt người. Tuy phải vượt qua vòng phong tỏa của Hạm đội 7 Mỹ ngoài khơi và vòng trong của quân ngụy Sài Gòn. Nhưng các tàu đã hoạt động hết sức khôn khéo, bí mật bất ngờ, dũng cảm nắm vững thời cơ, xử lý linh hoạt, bảo đảm hàng hóa an toàn và đưa hàng đến đúng vị trí quy định, tạo được điều kiện thuận lợi cho chiến trường miền Nam chiến đấu giành thắng lợi. Từ đây con đường vận chuyển trên biển đã trở nên “con đường huyền thoại”. Thật tự hào cho trang sử vẻ vang của Hải quân nhân dân Việt Nam, được bắt nguồn từ sự quan tâm và công lao đóng góp to lớn của đồng chí Tư lệnh Nguyễn Bá Phát, cứ mỗi chuyến đi của mỗi con tàu lúc nào anh cũng có mặt ra bến tiễn đưa, dặn dò chu đáo. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích lớn lao cũng không tránh khỏi có những tổn thất hy sinh. Vào đầu năm 1965, công tác thực hiện vận chuyển vũ khí vào chiến trường miền Nam đang phát triển thuận lợi, thì xảy ra sự kiện tàu 143 bị địch phát hiện ở vịnh Vũng Rô (Phú Yên). Trên tàu chở 63 tấn vũ khí. Do bị lộ, cán bộ và chiến sĩ trên tàu đã phối hợp với địa phương và quân dân du kích nhanh chóng bốc dỡ, cất hết số vũ khí lên bờ. Khi tàu quay ra thì cũng là lúc tời neo hỏng, anh em sửa chữa xong thì trời đã sáng, chưa kịp phá hủy tàu để phi tang thì máy bay Mỹ đã phát hiện và bắn phá liên tục làm cho tàu bị chìm nghiêng một nửa tàu. Sau đó Mỹ ngụy tổ chức tháo dỡ một số dụng cụ, máy móc thiết bị trên tàu chở về Sài Gòn triển lãm và quảng cáo rùm beng cái gọi là “chiến dịch thu hồi vũ khí Bắc Việt tiếp tế cho Việt Cộng ở miền Nam bằng đường biển”. Sự kiện tàu 143 ở Vũng Rô (Phú Yên) đã trở thành cái cớ cho Mỹ xúc tiến kế hoạch ngăn chặn chi viện của miền Bắc vào miền Nam, kể cả đường bộ và đường thủy. Chúng lập kế hoạch 34A, sau 2 ngày chúng lập tiếp kế hoạch Desoto đưa Hạm đội 7 vào sâu vùng biển miền Bắc để đánh phá và ngăn chặn việc chi viện vận chuyển đường biển của ta vào chiến trường miền Nam. Chúng đưa tàu có tốc độ cao tuần tra và tập kích vào vùng biển miền Bắc, đánh phá các căn cứ của ta trên đảo. Chúng còn dùng tàu, thuyền ca nô, thả biệt kích vào miền Bắc để liên lạc chỉ điểm mục tiêu cho máy bay Mỹ đánh phá. Từ sự kiện ta đánh tàu Ma-đốc xâm phạm vùng biển miền Bắc Việt Nam, chúng rùm beng về “sự kiện vịnh Bắc Bộ”, và sự kiện tàu 143 chở vũ khí bị lộ ở Vũng Rô. Tất nhiên, tổng thống Mỹ Giôn-xơn còn viện ra nhiều cớ, nào là quân ta tấn công vào doanh trại quân Mỹ ở Pleiku, nào quân ta tiến công vào khu nhà lính Mỹ ở Quy Nhơn (ngày 11 tháng 2 năm 1965). Chúng đưa ra cớ để thực hiện âm mưu leo thang đánh phá miền Bắc, gây cho ta gặp nhiều khó khăn, nhất là việc vận chuyển đường biển từ Bắc vào Nam, nhưng ta đã chủ động cách đối phó nắm vững thời cơ tìm đường vận chuyển, bảo đảm chi viện kịp thời.
   
                 Trong những năm 1965 trở đi Quân chủng Hải quân không những tham gia chiến đấu bắn rơi máy bay Mỹ mà còn thực hiện quyết tâm của Tư lệnh Nguyễn Bá Phát “đánh địch mà đi, mở đường mà tiến”, trong chống địch phong tỏa bờ biển. Đây là một trong những nét sáng tạo mà đồng chí Tư lệnh đã sử dụng thành công các tàu chiến của Quân chủng trong vận chuyển vũ khí vào chiến trường miền Nam. Kết hợp song song với việc bảo vệ miền Bắc, nét nổi bật của giai đoạn này là Hải quân đã dùng thuyền thủy lôi phục kích đánh tàu chiến Mỹ của Phân đội 23 trên Vùng biển miền Bắc và kết hợp chặt chẽ với các lực lượng pháo bờ biển, không quân ra-đa và tàu chiến đấu để đánh tàu chiến Mỹ xâm phạm. Kết quả trong 2 năm 1967, 1968 quân và dân ta đánh bị thương 45 lần chiếc tàu chiến Mỹ trong đó có khu trục tên lửa Can-be-ra, tàu tuần dương hạm Niu-po-niu, tàu tên lửa Oa-sinh-tơn, tàu Bớc-cơ-lây... của Mỹ bị trọng thương loại ra ngoài vòng chiến đấu một bước trưởng thành của Hải quân nhân dân Việt Nam. Đặc biệt là Phân đội 23 đã thả thủy lôi xuống ven biến đánh tàu địch hoạt động đi lại vùng biến Quảng Bình, Vĩnh Linh, vùng Cửa Tùng và biển Gio Linh (Quảng Trị), đã được Đảng và Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
   
                 Hải quân thành lập đoàn 126 Đặc công để đánh tàu Mỹ ngụy vận chuyển đi lại trên sông và ven biển. Vốn là người am hiểu về biển, đồng chí Tư lệnh Nguyễn Bá Phát luôn coi biển là quê hương, tàu là nhà. Vì vậy, việc bảo vệ lãnh hải không chỉ là nhiệm vụ cao cả mà còn bảo vệ tình hình chính trị của đất nước gắn liền với tình cảm cao quý của người lính biển. Để thực hiện chủ trương phát triển lực lượng đặc công Hải quân, ngày 13 tháng 4 năm 1966 Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Đoàn 126 trực thuộc Bộ Tư lệnh Hải quân. Đoàn 126 là cấp Trung đoàn, dưới có 5 đội: đội 1, đội 2, đội 3, 4, 5, các đội tương đương cấp tiểu đoàn. Sau khi thành lập, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Tư lệnh Nguyễn Bá Phát, Đoàn 126 đã đi ngay vào chương trình huấn luyện. Cuối năm 1966, đoàn lên đường đi chiến đấu tại khu vực Quảng Trị, Đà Nẵng, Quy Nhơn và Nam Bộ.
   
                 Tại khu vực Cửa Việt, Đông Hà thuộc Gio Linh, một con sông từ biển nối liền với cảng Đông Hà, chiều dài khoảng 9 ki-lô-mét. Nơi đây thường xuyên có tới 15 tàu và ca nô hải quân ngụy và một số tàu vận tải chở vũ khí, xe tăng và hàng hậu cần của Mỹ, phía ngoài cửa biển có khoảng 10 - 12 tàu chiến cỡ lớn của hạm đội Mỹ hoạt động.
   
                 Tuyến sông này là cửa ngõ chi viện lớn cho mặt trận Quảng Trị, Đường 9, Khe Sanh và Lao Bảo. Địa hình phía trên đường số 1 là rừng núi hiểm trở, phía dưới là đồng bằng, cát biển. Khu vực này là khu đệm giáp ranh giữa hai miền. Vì vậy Đoàn 126 ngoài nhiệm vụ của Bộ Tư lệnh Hải quân giao, còn có Bộ Tư lệnh Mặt trận B5 (Mặt trận Trị Thiên) giao cho đoàn nhiệm vụ đánh tàu địch vận chuyến trên sông từ cảng Cửa Việt lên Đông Hà. Trong những năm 1967 - 1972, Đoàn 126 đã dùng các loại vũ khí đánh tàu địch như thủy lôi cảm ứng từ trường, thủy lôi tiếng động âm thanh, được ta cải tiến để tiện dùng sức người mang vác. Đoàn còn dùng loại máy thủy lôi áp suất do Xưởng 48 và Xưởng 28 Hải quân sản xuất chế tạo. Ngoài các loại thủy lôi này, còn có loại mìn rùa nam châm để người nhái bơi trực tiếp gắn vào tàu địch, phá hủy tàu. Mỗi khi có số lượng tàu địch đi lại nhiều, đoàn còn sử dụng cả súng B40, B41, phục kích bắn tàu và ca nô đi lại vận chuyển tuần tra trên sông. Trong những năm đoàn làm nhiệm vụ chiến đấu, đồng chí Tư lệnh Nguyễn Bá Phát thường xuyên sâu Sát kiểm tra, đôn đốc tận khu vực đoàn xuất phát và Có những chỉ thị cụ thể nhiệm vụ cho từng đội trong đoàn. Mỗi lần đồng chí Tư lệnh tới Quảng Bình, Vĩnh Linh, đi đến đâu thì đài địch (BBC) đưa tin ông xuống “đốc chiến”. Hành trang dã chiến của đồng chí Tư lệnh thường là một cái đài National nhỏ xách tay, một chiếc bi đông trên vai, với một cây gậy chống để đi trên vùng cát biển được anh em gọi là “cây kiếm lệnh”. Anh là người rất ưa thực tế, mặc dù máy bay Mỹ thả bom bắn phá, cả những lúc anh đi trong vùng tâm của B52 ném bom ác liệt khu vực Vĩnh Linh, Quảng Bình, anh không hề ngần ngại gian khổ hy sinh mà còn hăng hái dũng cảm quyết tâm đánh thắng địch trong mọi điều kiện, mọi hoàn cảnh mỗi khi có thời cơ. Như có lần đội 1 Đoàn 126 đánh tàu Mỹ 15.000 tấn bốc cháy tại phía ngoài cảng Cửa Việt 1ki-lô-mét vào đêm 3 tháng 9 năm 1969, trong lúc toàn quốc được lệnh Chính phủ ta ngừng bắn để tang Bác Hồ, thì anh vẫn xin phép cấp trên cho đánh tàu dầu này vào đúng thời cơ không bỏ lỡ.

Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM