Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 11:44:29 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Thiếu tướng Nguyễn Bá Phát - Vị tướng tài trí  (Đọc 15619 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
loiho000
Thành viên
*
Bài viết: 162


« Trả lời #10 vào lúc: 10 Tháng Hai, 2017, 08:18:55 pm »

                 Đợt hoạt động quân sự mạnh trên chiến trường Quảng Nam - Đà Nẵng đã góp phần thực hiện mục đích của Liên khu đề ra vừa tiêu diệt một phần sinh lực địch, vừa thúc đẩy phong trào nhân dân du kích chiến tranh vùng sau lưng địch phát triển lên một bước. Lực lượng bộ đội địa phương tuy mới thành lập nhưng đã trưởng thành vượt bậc, tiêu biểu là trận đánh độc lập, phục kích độn thổ giữa ban ngày của đại đội 8, bộ đội địa phương huyện Điện Bàn vào ngày 6 tháng 3 năm 1949, diệt 2 tiểu đội địch và trận tiêu diệt đồn núi Lở, san bằng 1 lô cốt, diệt gọn 1 trung đội địch của bộ đội địa phương và du kích huyện Đại Lộc. Đây là trận đánh có cơ sở nội ứng của binh vận và giành thắng lợi đầu tiên ở chiến trường Quảng Nam - Đà Nẵng.

                 Từ kinh nghiệm của đợt hoạt động Đông Xuân 1948-1949, Liên khu ủy và Bộ Tư lệnh Liên khu 5 quyết định mở chiến dịch hè thu 1949 tại chiến trường Quảng Nam - Đà Nẵng mang tên Phạm Văn Đồng. Lực lượng tham gia gồm Trung đoàn 108 cùng bộ đội địa phương, dân quân du kích tỉnh. Chiến dịch nhằm mục đích phối hợp với chiến trường toàn quốc, tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta, phá tan âm mưu chiếm vùng tự do phía tây huyện Đại Lộc của địch, nối liền từ Đà Nẵng đi Kon Tum, đẩy mạnh chiến tranh du kích... tạo thế chiến trường cho hoạt động Đông Xuân 1949-1950. Mục tiêu chủ yếu trước mắt là cứ điểm Thu Bồn, một cứ điểm then chốt của địch trên tuyến phòng thủ phía nam do 1 đại đội Âu Phi có nhiệm vụ chiếm giữ, ngăn chặn ta tiến công, đồng thời làm chỗ dựa cho ngụy quân, ngụy quyền kìm kẹp, đàn áp nhân dân vùng xung quanh.
   
                Đúng 16 giờ ngày 18 tháng 8 năm 1949, được sự giúp đỡ của cơ sở trong bộ máy ngụy quyền xã và nhân dân địa phương, 1 đại đội của Tiểu đoàn 39 phối hợp với Đại đội 7 của huyện Duy Xuyên và một trung đội trinh sát cải trang hướng dẫn, nổ súng tiêu diệt cứ điểm địch ở Kiểm Lâm, La Tháp, Giao Thủy, Phú Mỹ, An Khương. Trận đánh diễn ra quá nhanh đến nỗi bọn địch còn sống sót bàng hoàng trước mọi diễn biến. Kết quả, ta tiêu diệt và bắt sống 1 đại đội Âu Phi, thu toàn bộ vũ khí. Sau đó, ta lại phối hợp với cơ sở binh vận tiêu diệt các đồn Cẩm Lệ, Núi Lở.
   
                Để đối phó với sự tiến công của ta, địch tập trung lực lượng càn quét dữ dội, liên tục ở vùng nam - bắc sông Thu Bồn. Đảng ủy, Ban chỉ huy chiến dịch quyết định sử dụng lực lượng đánh vào cơ quan đầu não của địch ở Đà Nẵng, đồng thời, bộ đội địa phương và dân quân du kích các huyện và thị xã Hội An liên tục quấy rối, nghi binh, đánh giao thông, tập kích, phục kích, chống càn, làm cho địch lúng túng đối phó khắp nơi.
   
                Kết thúc chiến dịch, ta loại khỏi vòng chiến đấu 1.200 tên địch, đánh phá 34 cơ quan ngụy quyền, giải tán 17 ban tề, bắt cải tạo 487 tên tay sai, địch bị diệt và rút bỏ 18 đồn bốt. Vùng giải phóng của ta được mở rộng thêm ở các xã tây nam Đại Lộc và tây Duy Xuyên.
   
                Tuy chiến dịch hoạt động trong thời gian ngắn, quân số ít, nhưng đạt hiệu quả chiến đấu cao, giành thế chủ động chiến trường. Thắng lợi của chiến dịch ảnh hưởng đáng kể đến phong trào du kích chiến tranh ở Liên khu 5. Nó thể hiện sự kết hợp chặt chẽ giữa bộ đội chủ lực với bộ đội địa phương, dân quân du kích, công an và nhân dân trên địa bàn toàn tỉnh, bước đầu kết hợp quân sự với chính trị, binh vận, tạo thành sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân Vùng sau lưng địch, đánh dấu bước trưởng thành của cả chủ lực và bộ đội địa phương về kỹ thuật tác chiến và xây dựng lực lượng.


*
*   *
             Sau 2 năm, kể từ tháng 4 năm 1948, với trách nhiệm chiến đấu tại địa bàn Quảng Nam - Đà Nẵng, chiến trường chính của Liên khu 5, Trung đoàn 108 đã làm trọn nhiệm vụ được giao, dẫn dắt, giúp đỡ bộ đội địa phương và dân quân du kích trưởng thành, góp phần quan trọng phát triển phong trào chiến tranh du kích, chiến tranh nhân dân, bảo vệ vững chắc vùng tự do, đưa chiến tranh vào vùng sau lưng địch, biến hậu phương địch thành tiền phương ta, làm thất bại âm mưu lấn chiếm, bình định của địch. Cũng qua những năm chiến đấu ở Quảng Nam - Đà Nẵng, Trung đoàn đã trưởng thành lên một bước về kỹ thuật, chiến thuật, về chỉ huy tác chiến, từ đánh du kích lên vận động chiến, từ quy mô chiến thuật đến quy mô chiến dịch, tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch hơn, lập được nhiều chiến công vang dội, được nhân dân tin yêu, quân thù khiếp sợ, trong đó, đồng chí Nguyễn Bá Phát, Trung đoàn trưởng đóng vai trò rất quan trọng.
   
                Sau khi xây dựng lực lượng địa phương mạnh, đủ sức tự bảo vệ, tháng 5 năm 1950, Trung đoàn 108 được rút về làm nhiệm vụ cơ động của Quân khu - vẫn do đồng chí Nguyễn Bá Phát làm Trung đoàn trưởng, tôi làm Chính ủy. Nhiệm vụ đầu tiên được giao là tham gia giải quyết tiếp vụ bạo loạn ở Sơn Hà (miền tây Quảng Ngãi).
   
                Từ khi trở lại xâm lược nước ta, thực dân Pháp không bao giờ từ bỏ âm mưu đánh chiếm vùng tự do Liên khu 5. Từ năm 1949, lợi dụng một số sai lầm, khuyết điểm của cán bộ ta trong việc thực hiện chính sách dân tộc và một số cuộc vận động không phù hợp với trình độ, phong tục, tập quán của nhân dân miền núi, thực dân Pháp ở Kon Tum đã móc nối với bọn tù trưởng phản động, kích động quần chúng nổi lên chống lại cán bộ người Kinh, gây hận thù dân tộc, tổ chức và trang bị vũ khí cho bọn phiến loạn gồm hàng ngàn tên, hòng chiếm miền tây Quảng Ngãi làm bàn đạp đánh chiếm đồng bằng vùng tự do.
   
                Tháng 4 năm 1950, lực lượng chủ lực của Quân khu 5 đã đánh bại cuộc hành quân lấn chiếm của quân Pháp xuống Sơn Hà, buộc chúng phải rút về Kon Tum, nhưng bọn phiến loạn và vấn đề ổn định chính trị (chủ yếu là ở Sơn Hà và Ba Tơ) vẫn chưa giải quyết được. Bọn phản động địa phương vẫn ngấm ngầm hoạt động, bí mật nhận súng của Pháp đưa về phát cho dân, đánh bật cán bộ ta ra phần lớn huyện Sơn Hà và gây mất ổn định nhiều vùng thuộc miền tây Quảng Ngãi. Đồng bào H’Re, một mặt vẫn thành kiến với cán bộ ta trong thực hiện chính sách trước đây cộng thêm những sai lầm mới trong thái độ và hành động của cán bộ và bộ đội ta trong thời kỳ đầu xử lý cuộc nổi loạn, nên vẫn chưa tin vào cách mạng, mặt khác, trong nhân dân, nhiều gia đình có con em tham gia lực lượng phiến loạn, bị bọn tù trưởng phản động khống chế nên vẫn lén lút tiếp tế, phục vụ cho chúng.
   
                Sau khi kiểm điểm những sai lầm, thiếu sót, Liên khu ủy đã quyết định lấy công tác vận động nhân dân làm căn bản. Cán bộ và bộ đội phải phân tán làm công tác tuyên truyền, giải thích chính sách trong cả đồng bào dân tộc Kinh, chăm lo giải quyết đời sống nhân dân, vận động tầng lớp trên, cô lập bọn cầm đầu phản động ngoan cố nhất.
   
                Được cán bộ cơ sở và một số người H’Re tiến bộ công tác, giúp đỡ, công tác vận động nhân dân đi đôi với truy lùng và gọi hàng bọn “Chí xẻng” bắt đầu có kết quả. Sau 3 tháng, ta đã tranh thủ được phần lớn nhân dân và một số tù trưởng tiến bộ. Các toán “Chí xẻng” bị truy lùng ráo riết, mất dần sự tiếp tế của dân, không còn chỗ đứng an toàn nữa; một số được thuyết phục trở về đầu thú, số còn lại chạy lên Konplong (một căn cứ bàn đạp ở Kon Tum để địch tung về đánh vùng tự do Quảng Ngãi) nhập với bọn đã chạy trước. Trong điều kiện cụ thể đó, để giải quyết vấn đề Sơn Hà, ngoài việc chủ yếu là đi sâu giáo dục quần chúng, vạch mặt, cô lập bọn phản động, làm cho quần chúng đứng về phía cách mạng, đồng tình với ta trong việc tiến công tiêu diệt bọn đầu sỏ phản động, còn phải tiêu diệt căn cứ bàn đạp chỉ huy tiếp tế cho bọn phản động và loạn quân ở Konplong.
   
                Konplong là một vị trí phân chi khu (sous-quartier) kiên cố của địch ở bắc Kon Tum, thường xuyên do hơn 200 quân đóng giữ. Đánh hơi thấy hoạt động của ta, địch thường xuyên đưa quân ra ngoài sục sạo và tăng quân lên đến 300 tên. Tên quan ba Đuy-sê, đồn trưởng huênh hoang tuyên bố “Khi nào rừng Konplong hết cây, Việt Minh mới lấy được đồn này”
   
                4 giờ 30 phút ngày 6 tháng 8, Trung đoàn bắt đầu nổ súng. Địch ngoan cố chống cự để chờ tiếp viện. Sau 8 giờ chiến đấu quyết liệt, quân ta làm chủ trận địa. Tên đồn trưởng và 90 lính bị diệt, 195 tên bị bắt. Ta thu 200 súng các loại, 20 tấn đạn và nhiều quân trang, quân dụng. Đây là trận đánh lớn thể hiện tinh thần tự lực, sáng tạo, khắc phục khó khăn trong điều kiện không có vũ khí lớn, mở ra bước ngoặt về đánh địch trong công sự vững chắc, bước đầu giải quyết khủng hoảng về chiến thuật đánh công kiên ở chiến trường Liên khu 5, nhờ học tập kinh nghiệm của chiến dịch Biên giới và các chiến trường toàn quốc. Từ kinh nghiệm đó, ta tiêu diệt cứ điểm Konplong lần thứ hai (15-8) và cứ điểm Tà Mực, hang ổ cuối cùng của bọn phản động đầu sỏ ở Konplong vào tháng 12 năm 1951. Chiến thắng Konplong có ý nghĩa lớn tạo tiền đề thắng lợi to lớn rực rỡ trong chiến dịch Đông Xuân 1952-1953 và đông xuân hè 1953-1954.
   
                Sau 8 năm liên tiếp bị thất bại, để chuyển bại thành thắng, thực dân Pháp can thiệp và Mỹ chủ trương phòng ngự chiến lược ở miền Bắc, tập trung 40 tiểu đoàn tinh nhuệ mở chiến dịch Atlăng nhằm bình định miền Nam mà trọng điểm là vùng tự do Liên khu 5 để vơ vét sức người, sức của và làm bàn đạp tiến công ra miền Bắc giành thắng lợi quyết định trước khi kết thúc chiến tranh. Mở chiến dịch này, tướng Nava ôm mộng tưởng loại trừ Liên khu 5 mà chúng cho là một hiểm họa lớn thường xuyên đe dọa miền Nam Đông Dương bao gồm Nam Bộ, Lào và Campuchia.
   
                Không bị động với âm mưu của địch, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt của Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch, của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh, Liên khu 5 tập trung lực lượng chủ lực lên Tây Nguyên, coi Tây Nguyên là chiến trường chính, giao cho bộ đội địa phương và dân quân du kích cùng nhân dân chiến đấu bảo vệ vùng tự do, đồng thời đẩy mạnh chiến tranh du kích ở vùng tạm bị chiếm, đẩy địch vào thế bị động phải phân tán lực lượng đối phó.
   
                Liên khu ủy phân công đồng chí Nguyễn Chánh, Bí thư Liên khu ủy, Chính ủy kiêm Tư lệnh Bộ Tư lệnh Liên khu 5 làm Bí thư Đảng ủy kiêm Chính ủy và Tư lệnh trực tiếp chỉ huy mặt trận Tây Nguyên. Tôi - Chủ nhiệm Chính trị và đồng chí Nguyễn Đôn, Tham mưu trưởng Quân khu lo thường trực chỉ huy ở Bộ Tư lệnh Quân khu và phụ trách chống chiến dịch Atlăng ở vùng tự do. Đồng chí Nguyễn Bá Phát, Tham mưu phó Quân khu phụ trách tham mưu trưởng mặt trận Tây Nguyên. Một thời gian sau, đồng chí Nguyễn Đôn cũng lên Tây Nguyên cùng với đồng chí Nguyễn Chánh.
   
                Qua 7 tháng chiến đấu, với tinh thần anh dũng tuyệt vời của lực lượng vũ trang 3 thứ quân và nhân dân, có thể nói lấy tinh thần chống chọi với boong ke, thiết giáp và vũ khí tối tân của địch, với tài đấu trí thông minh, sáng tạo của lãnh đạo, chỉ huy, kết quả đem lại thật rực rỡ: phá vỡ một mảng phòng ngự lớn ở bắc Tây Nguyên, giải phóng hoàn toàn tỉnh Kon Tum, gần hết tỉnh Gia Lai, tiếp tục phát triển chiến dịch xuống phía nam, tiêu diệt binh đoàn tinh nhuệ 100 (GM100) của địch, giữ vững vùng tự do, giải phóng nhiều khu vực rộng lớn ở vùng bị chiếm, góp phần cùng quân và dân 2 nước bạn giải phóng một vùng rộng lớn ở Hạ Lào và đông bắc Campuchia.
   
                Chiến thắng chiến dịch Atlăng ở Liên khu 5 cùng với chiến thắng ở Hạ Lào và đông bắc Campuchia đã phá vỡ 2 thế mạnh của địch: phá cụm phòng ngự mạnh nhất, phá lực lượng cơ động mạnh nhất góp phần tạo bước ngoặt lịch sử của cuộc chiến tranh Đông Dương, phá âm mưu cao nhất và cũng là âm mưu cuối cùng của địch muốn chuyển “bại thành thắng”.
   
                Trong đợt hoạt động này, với trách nhiệm là tham mưu trưởng mặt trận Tây Nguyên, đồng chí Nguyễn Bá Phát đã phát huy và nhân lên cao độ những kinh nghiệm ở chiến trường Quảng Nam - Đà Nẵng và nhất là những kinh nghiệm đánh cứ điểm Konplong (1951), cùng Bộ chỉ huy chiến dịch lập nên những chiến công Vang dội ở Liên khu 5, góp phần cùng cả nước chiến thắng thực dân Pháp, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương.

Logged
loiho000
Thành viên
*
Bài viết: 162


« Trả lời #11 vào lúc: 10 Tháng Hai, 2017, 08:23:10 pm »

                Đồng chí Nguyễn Bá Phát là một trong những cán bộ chỉ huy có đức, có tài, một trong những cán bộ quân sự tiêu biểu của Liên khu 5. Trải qua 3 giai đoạn của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đồng chí luôn luôn thể hiện lập trường kiên định, tinh thần cách mạng tiến công, nghiêm chỉnh chấp hành đường lối chủ trương của Đảng, mệnh lệnh của cấp trên, tự lực, sáng tạo, biết lợi dụng địa hình địa vật, dựa vào tập thể, dựa vào dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, càng chiến đấu càng trưởng thành, lập được nhiều chiến công vang dội, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

                 Riêng đối với tôi, đồng chí Nguyễn Bá Phát là người bạn chiến đấu thân thiết và gắn bó với nhau nhiều năm từ kháng chiến toàn quốc đến kết thúc chiến tranh chống Pháp ở Liên khu 5. Trong 8 năm đó, trong công tác, chiến đấu cũng như cuộc sống riêng tư, giữa chúng tôi có nhiều kỷ niệm sâu sắc, khó quên.
   
                 Kết thúc giai đoạn I trên chiến trường Quảng Nam - Đà Nẵng, trước những cống hiến và đạo đức của đồng chí, với tư cách là Bí thư Đảng ủy Mặt trận, tôi đã ký quyết định kết nạp đồng chí vào Đảng. Cũng chính trong thời gian này, tôi cũng là người “chủ hôn” tác thành cho hạnh phúc trăm năm giữa đồng chí và đồng chí Điểm, cũng là người con gái, người cán bộ tốt của phụ nữ quê hương Quảng Nam - Đà Nẵng. Trong chiến đấu, trước những giờ phút căng thẳng nhất, trái tim và khối óc chúng tôi đã hòa cùng nhịp đập, cùng đấu trí để chiến thắng quân thù. Những mẩu chuyện như trên có nhiều, ở đây tôi chỉ nêu ra một vài ví dụ:
   
                 Trận đánh lần thứ ba trên đèo Hải Vân (24-1- 1949), quân ta thắng lớn. Tên chỉ huy Pháp ở Đà Nẵng cay cú. Chúng cho rằng với địa hình hiểm trở này, quân ta chưa rút ra được. Lập tức chúng tập trung 8 tiểu đoàn cơ động Âu Phi rải ra bao vây trên một diện rộng từ Eo Ngựa đến Khe Xô, qua đèo Mũi Trâu và suốt hữu ngạn sông Trường Định hòng tiêu diệt lực lượng ta ở vùng núi tây bắc Hòa Vang. Để triệt đường quân ta vượt sông Trường Định, chúng tịch thu hết ghe thuyền tập trung về đồn bốt và phá hủy, nhận chìm một số khác ở sông Cửa Cấm. Chúng ra lệnh thiết quân luật cả vùng tây bắc Hòa Vang, không cho bất kỳ ai được qua sông và khoác lác tuyên bố “chuyến này quan lớn chặn quân Nguyễn Bá Phát đói lả rồi phải ra hàng”.
   
                 Đêm 26 tháng 1 năm 1949, một số đồng chí ở huyện ủy Hòa Vang và chi ủy xã vùng tây bắc Hòa Vang bí mật sang sông gặp Ban chỉ huy Trung đoàn chúng tôi bàn biện pháp lui quân an toàn cho đơn vị. Trao đổi, phân tích khá kỹ về 3 phương án, cuối cùng đã thống nhất “vượt sông Trường Định, lui quân giữa lòng dân”.
   
                 Tối ngày 27 tháng 1 năm 1949, một bộ phận lực lượng ta bí mật bơi qua sông, tập kích cứ điểm Nam O để nghi binh. Cùng đêm đó, đồng bào vùng tây bắc Hòa Vang huy động trên 30 chiếc thuyền từ xa đưa đến, bí mật đưa bộ đội qua sông Trường Định. Các mẹ, các chị lo việc tiếp tế, các em thiếu nhi dẫn đường, dân quân du kích cảnh giới, canh gác, nhân dân rải ra đứng theo hành lang lui quân, vừa làm lộ tiêu chỉ đường, vừa tiếp tế cơm nước cho bộ đội. Nhân dân toàn huyện nổi trống mõ, thanh la, vừa phô trương thanh thế, vừa đánh lạc hướng địch. Các đội du kích Hòa Vang nổ súng vào các đồn bốt xung quanh, kiềm chế địch.
   
                 Trên 1.800 cán bộ, chiến sĩ, 28 cáng thương binh, cùng hàng chục tù binh địch đã lui quân thắng lợi, vượt khỏi vòng vây của địch. Mờ sáng hôm sau (28-1-1949) nhân dân còn lùa trâu, bò ra đường, xóa hết dấu vết để kẻ địch không thể biết đường lui quân của bộ đội ta.
   
                 Tháng 8 năm 1950, Bộ Tư lệnh Liên khu 5 quyết định mở chiến dịch thu đông ở Quảng Nam - Đà Nẵng mang tên chiến dịch Hoàng Diệu nhằm bảo vệ mùa lúa tháng 8 (trọng điểm là Điện Bàn), phá âm mưu bình định dồn dân, bắt lính của địch, diệt một số cứ điểm, hỗ trợ nhân dân chống địch chiêu an, đưa phong trào du kích chiến tranh vượt qua khó khăn, giữ vững phong trào kháng chiến ở vùng bị tạm chiếm.
   
                 Chiến dịch chia làm 2 đợt: đợt 1 do Tiểu đoàn 29 của tỉnh và lực lượng vũ trang các huyện đảm nhiệm. Giữa tháng 10 năm 1950, Trung đoàn 108 chủ lực của Quân khu (chỉ có Tiểu đoàn 19 và Tiểu đoàn 79, còn Tiểu đoàn 50 vẫn ở lại dẹp loạn ở Sơn Hà - Quảng Ngãi) tham gia đợt hai, cũng do đồng chí Nguyễn Bá Phát và tôi chỉ huy.
   
                 Chiến dịch kết thúc, lực lượng chủ lực Quân khu đã phối hợp với địa phương chống càn, chống chiêu an, bình định, bảo vệ được mùa màng cho nhân dân, góp phần củng cố một bước chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích vùng sau lưng địch. Nhưng do ta không dự kiến đúng âm mưu thủ đoạn của địch, nên ngày 4 tháng 11 năm 1950, ta ở vào thế bị bao vây ở xã Điện Hòa. Lực lượng địch cậy đông, bằng 5 lần của ta, gồm 1.500 quân cơ động cộng với các cứ điểm Bình Long, Phong Thử, Ngũ Giáp, Quá Giáng, lại có máy bay, đại bác yểm trợ, đã ào ạt tràn lên bao vây chính diện và hai cạnh sườn đội hình của ta.
   
                 Anh Phan Hoan, huyện đội trưởng Điện Bàn (sau này là Trung tướng, Tư lệnh Quân khu 5) đã lo lắng Và liên tưởng “Chiến dịch Biên Giới, ta bao vây đánh tan 2 binh đoàn cơ động mạnh và bắt sống 2 viên chỉ huy binh đoàn sừng sỏ của quân Pháp là Lơ Pa-gi-ơ và Sác-tông, chẳng lẽ ở đây, Trung đoàn 108 và Ban chỉ huy Trung đoàn lại để cho địch đánh bại và bắt sống ban chỉ huy thì coi bằng hòa”.
   
                 Tiểu đoàn 19 và Tiểu đoàn 79 phân tán thành từng tiểu đội, trung đội phối hợp cùng bộ đội địa phương và dân quân du kích bám từng bờ tre, mương nước, gò mả chiến đấu chặn địch. Nhiều cán bộ, chiến sĩ ta đã nêu cao tấm gương tuyệt vời của lòng ủng hộ giúp đỡ bộ đội và dân quân du kích, không ngần ngại gian khổ hy sinh, dẫn đường cho bộ đội, tiếp tế cơm nước, di chuyển và chăm sóc thương binh, liệt sĩ, tổ chức đốt khói nghi binh đánh lạc hướng cho bộ đội chiến đấu và rút lui an toàn.
   
                 Mỗi lần nhớ lại trận đánh ở đèo Hải Vân ngày 24 tháng 1 năm 1949, trận Điện Hòa (4-11-1950), cũng như nhiều trận khác trên chiến trường Quảng Nam - Đà Nẵng, lòng tôi không khỏi bồi hồi xúc động, càng thấy rõ lòng dân mạnh hơn máy bay, đại bác của địch. Chiến tranh nhân dân thực sự là vô địch. Trong hoàn cảnh địch khủng bố ác liệt, đời sống nhân dân vô cùng cơ cực nhưng dưới sự lãnh đạo của các Đảng bộ địa phương, nhân dân đã không ngại hiểm nguy, gian khổ, tự lực sản xuất nuôi quân và cùng tham gia với bộ đội đánh giặc, giờ đây nhân dân lại giúp cho bộ đội rút lui thắng lợi.
   
                 Đúng như lời Hồ Chủ tịch đã dạy: “Phải dựa vào dân, có dân là có tất cả”.

                                 
N.Q


(1). Nguyên Bí thư Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch HĐNN, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Nguyên Chính ủy Mặt trận Quảng Nam - Đà Nẵng.


Logged
loiho000
Thành viên
*
Bài viết: 162


« Trả lời #12 vào lúc: 10 Tháng Hai, 2017, 08:28:25 pm »

NGUYÊN BÁ PHÁT DŨNG CẢM, MƯU TRÍ, TÁO BẠO
Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh(1)

                 Thị xã Quy Nhơn, tỉnh lỵ Bình Định, sau ngày giành chính quyền thắng lợi tháng 8 năm 1945 vẫn còn 50 lính Nhật đóng tại Ngân hàng Pháp, đặt dưới sự chỉ huy của cái gọi là “đồng minh” quân Anh ở Nha Trang.

                  Ngày 15 tháng 10 năm 1945, một tàu chiến Nhật tiến vào đảo Cù Lao Xanh với âm mưu giải vây cho binh lính Nhật đang bị ta bao vây ở thị xã Quy Nhơn và phối hợp cùng bọn này làm đầu cầu dọn đường cho thực dân Pháp trở lại chiếm đóng tỉnh Bình Định.
   
                  Bọn chỉ huy Nhật trên tàu viết thư xin chính quyền cách mạng tỉnh Bình Định cho phép chúng được lên bờ để liên hệ số lính Nhật đang đóng trên thị xã Quy Nhơn. Hiểu rõ ý đồ của giặc, lãnh đạo tỉnh Bình Định chỉ cho một viên Sĩ quan và 3 lính được phép lên bờ nhưng không ai được mang vũ khí. Mặt khác chỉ đạo lực lượng vũ trang tỉnh xóa bỏ cái “gai” này sớm ngày nào hay ngày ấy. Lực lượng tham gia đánh trận này gồm có Chi đội Mai Xuân Thưởng chúng tôi và Chi đội Phan Đình Phùng do Vi Dân làm Chi đội trưởng, Nguyễn Chính Cầu làm Chính ủy, Nguyễn Bá Phát làm Chi đội phó đảm nhiệm chủ công của trận đánh này.
   
                  50 lính Nhật có đầy đủ vũ khí, lại ở trong ngôi nhà kiên cố. Quân ta ngoài một số vũ khí cầm tay chỉ có 1 khẩu pháo 75 ly vừa lấy được của Nhật nhưng không có kim tỏa. Trước khi bắt đầu trận đánh đã thảo luận khá lâu trong cuộc bàn cách đánh tưởng chừng bế tắc, thì đồng chí Nguyễn Bá Phát nêu sáng kiến: dùng đinh chữ T và búa thay cho kim hỏa. Thoạt nghe thấy “ngồ ngộ thế nào ấy!”. Qua thảo luận thấy có lý và được mọi người chấp nhận và cử người chuẩn bị thao tác và đưa pháo 75 ly vào cách địch 200 mét ngắm bắn trực tiếp. Trận đánh triển khai trong đêm 12 tháng 12 năm 1945, chiến sĩ Từ Công Khế được huấn luyện kỹ năng đã cầm đinh chữ T đặt đúng hạt nổ, dùng búa đập mạnh vào, quả đạn 75 ly đã nổ trúng bức tường phá một mảng lớn, địch chỉ bắn lẻ tẻ và im tiếng súng.
   
                  Thấy thành công, chiến sĩ Từ Công Khế cho nổ quả đạn thứ 2, 3 và thứ 4, địch chống cự yếu dần. Ta lệnh bộ đội ta xung phong vào mục tiêu, quân địch kéo cờ trắng đầu hàng. Trận đánh kết thúc nhanh, ta diệt và bắt sống 50 tên địch, thu toàn bộ vũ khí và trang bị. Về quân sự, tháng 12 năm 1946, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng lập Ủy ban Quân sự để thống nhất chỉ huy lực lượng quân dân chính do:
   
                  - Đàm Quang Trung, chỉ huy trưởng.
                  - Nguyễn Bá Phát, chỉ huy phó.
                  - Huỳnh Ngọc Huệ, chính trị viên.
   
                  Về bộ đội gồm có 2 Trung đoàn 93 và 96 (sau thành Trung đoàn 210 - Trung đoàn 108).
   
                  Đồng chí Nguyễn Bá Phát có sáng kiến mở đợt hoạt động “Tổng phá tề” trong Đông Xuân 1948-1949; ngày 5 tháng 11 năm 1949, bắt tỉnh trưởng bù nhìn Hồ Ngận.
   
                  Ngày 24 tháng 1 năm 1949, đồng chí Nguyễn Bá Phát tổ chức Trung đoàn 108 và đánh giao thông trên đèo Hải Vân diệt 1 đoàn tàu lửa quân sự và 16 xe ô tô.
   
                  Ngày 31 tháng 3 năm 1949, Trung đoàn 108 đánh vận động phục kích diệt 1 đại đội Pháp chiếm đóng bình định vùng Gò Cà. Hè 1949, Trung đoàn 108 và dân quân du kích diệt cứ điểm Thu Bồn, Cẩm Lệ, Núi Lở, đột nhập thành phố Đà Nẵng, đốt kho Xăng Liên Chiểu.
   
                  Sáng kiến táo bạo nổi bật của đồng chí Phát trong hoạt động đầu năm 1949 là tổ chức lui quân bằng vận động nhân dân dùng thuyền nhỏ chở bộ đội vượt sông Trường Định tập kết ở miền tây tỉnh Quảng Nam.
   
                  Trong các năm 1950-1951, được Mỹ cung cấp nhiều tiền bạc, vũ khí, quân Pháp ở Đông Dương tăng nhanh. Ở Nam Trung Bộ, địch đánh phá ác liệt nhất so với trước, cả vùng tự do và vùng bị chiếm, nhất là vào lúc nhân dân ta bị thiên tai, mất mùa lớn, thêm vào đó là hậu quả nặng nề do những sai lầm trong chỉ đạo như tổng động viên quỹ chuyển mạnh sang tổng phản công; quan liêu mệnh lệnh trong thực hiện chính sách dân tộc, lệch lạc trong công tác xây dựng Đảng. Nhưng với tinh thần trách nhiệm đầy đủ với dân, với Đảng của cán bộ các cấp mà tiêu biểu và dẫn đầu trong cán bộ là đồng chí Nguyễn Bá Phát đã tự phê bình nghiêm túc, quyết tâm khắc phục khuyết điểm và khó khăn, phát huy tinh thần tự lực, tự cường và quyền làm chủ của nhân dân nên vùng tự do sớm được củng cố, lực lượng vũ trang được tăng cường một bước rõ rệt, phong trào vùng địch chiếm cũng được chuyển lên. Toàn Liên khu bắt đầu từng bước giành thế chủ động.
   
                  Đầu tháng 8 năm 1951, ta mở đợt hoạt động ở bắc Kon Tum nhằm phá âm mưu địch củng cố Tây Nguyên, và qua chiến đấu thử nghiệm chiến thuật đánh đồn kiên cố; kiểm tra kết quả rèn cán chỉnh quân, thực hiện chủ trương lấy vũ khí địch bồi dưỡng ta.
   
                  Trong trận đánh cụm cứ điểm Konplong tháng 8 năm 1950, đồng chí Nguyễn Bá Phát đã có sáng kiến khắc phục việc thiếu vũ khí đánh công sự kiên cố là đã khiêng từ miền xuôi lên những tấm sắt để làm công sự (giống xe xích lô) áp sát tường đồn Konplong dùng bộc phá đánh sập tường, mở cửa đột phá để bộ đội ta xung phong vào trận nội từ 4 giờ 30 phút ngày 6 tháng 8 năm 1950 đến 12 giờ 45 phút cùng ngày; diệt tên đồn trưởng và 90 lính, bắt 195 tên, thu 200 súng, 20 tấn đạn. Ngày 15 tháng 8 năm 1950, ta tiêu diệt tiếp đồn Konplong, quân địch ở đồn Konklơn, Konmơha tháo chạy. Cùng lúc, lực lượng địa phương và nhân dân Đakley, Đaktô, An Khê và nhiều nơi khác phối hợp diệt địch, phá nhiều khu dồn dân.
   
                  Chiến thắng Konplong có ảnh hưởng lớn đến tình hình chính trị và quân sự Khu 5. Chiến thắng Konplong đánh dấu bước tiến bộ đáng kể và chiến thuật, chấm dứt tình trạng gần như khủng hoảng về chiến thuật, kỹ thuật của bộ đội chủ lực Khu 5 trước đó, mở đầu khả năng đánh tiêu diệt địch trong công sự vững chắc và từ năm 1952 trở đi đã lần lượt tiêu diệt nhiều chi khu quận lỵ, cụm cứ điểm, tiêu diệt nhiều tiểu đoàn, binh đoàn cơ động địch, giải phóng nhiều vùng rộng lớn như toàn tỉnh Kon Tum đầu năm 1954 là công sức của đồng chí Nguyễn Bá Phát.

                                 
N.N.K



(1). Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị.


« Sửa lần cuối: 10 Tháng Hai, 2017, 09:03:10 pm gửi bởi loiho000 » Logged
loiho000
Thành viên
*
Bài viết: 162


« Trả lời #13 vào lúc: 10 Tháng Hai, 2017, 08:33:06 pm »

THIẾU TƯỚNG NGUYỄN BÁ PHÁT, MỘT VỊ TƯỚNG CÓ TÀI CỦA QUÂN ĐỘI TA
Trung tướng Lê Hữu Đức(1)

                 Trong dịp gặp lại nhau để viết “Lịch sử Trung đoàn 108 - Liên khu 5” (1999), chúng tôi những cán bộ trung sơ cấp, vốn là cấp dưới của anh đều nhất trí: anh Phát là Trung đoàn trưởng có nhiều kinh nghiệm phong phú, vận dụng sáng tạo nghệ thuật chỉ đạo các chiến dịch vừa và nhỏ, đặc biệt là về chiến thuật. Anh luôn luôn nghiên cứu nghiêm túc và ra sức vận dụng sáng tạo các huấn lệnh của Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Tổng chỉ huy, điển hình là các huấn lệnh, “tích cực chuyển mệnh lệnh lên du kích vận động chiến” vào đầu năm 1947. Anh cũng miệt mài học tập một số kinh nghiệm của bộ đội chủ lực trực thuộc Bộ trên chiến trường Bắc Bộ qua thông báo của cấp trên; mặt khác được sự chỉ đạo và sự chỉ huy của Thường vụ, Bộ Tư lệnh Quân khu nên anh đã góp công đầu giải quyết kịp thời, đúng đắn và có hiệu suất chiến đấu cao cả hai chiến thuật cơ bản là công kiên và vận động chiến cho lực lượng vũ trang Quân khu. Cả hai chiến thuật trên đây, nhiều trận do anh trực tiếp chuẩn bị và chỉ huy không chỉ giành thắng lợi trên chiến trường miền núi, kín đáo, hiểm hóc, “quan hà bách nhị” mà trên chiến trường đồng bằng trống trải, giữa vòng vây hệ thống đồn bót và tề điệp của địch. Có những trận bọn địch rất lo lắng, khiếp sợ, hết lời ca ngợi người chỉ huy đối đầu với chúng.

                Nổi bật về đánh địch đang vận chuyển và càn quét có các trận: Hải Vân 2 (25-5-1947), hai trận ở Hương An - Mông Nghệ (7-1947), trận Hải Vân 3 (24-1-1949), Gò Cà (31-3-1949) và trận Thanh Quýt (2-2-1950). Về đánh công kiên thì nổi bật là trận Konplong, tiêu diệt hoàn toàn địch, làm chủ trận địa, diệt và bắt 200 tên sau 8 giờ chiến đấu, thu 200 súng và trên 200 tấn đạn ĐAM, thứ đạn mà lúc bấy giờ còn rất khan hiếm, ta lại chưa sản xuất được.
   
                Tôi nhớ một buổi sáng đầu tháng 4 năm 1947, anh từ Tiểu đoàn 18 ở vùng Tùng Sơn - Đa Phước (tây bắc Đà Nẵng chừng 15 ki-lô-mét) sang Tiểu đoàn 17 đang chặn địch trên quốc lộ 14B ở nam Túy Loan và bắc thị trấn Ái Nghĩa (cách tây nam Đà Nẵng chừng 15 ki-lô-mét). Lúc này anh Võ Quang Hồ, nguyên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 18, vì sức khỏe giảm sút được điều về nhận nhiệm vụ Trưởng ban Quân huấn Quân khu, anh Lê Kích - Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 17 thay anh Hồ, và tôi được thay vị trí anh Kích. Anh phổ biến cho chúng tôi huấn luyện “du kích vận động chiến” của Bộ Tổng tham mưu (đầu tháng 2 năm 1947) đặc biệt huấn lệnh của Bộ Tổng chỉ huy về sự cần thiết chuyển sang du kích vận động chiến ngày 6 tháng 6 năm 1947: “Tổng Chỉ huy đã phê phán nghiêm khắc những lệch lạc, thiếu sót của các mặt trận và nhấn mạnh: Phải dùng ngay chiến thuật du kích một cách bạo dạn; phải tập trung bộ đội, củng cố tinh thần bộ đội, dùng cách hành binh rất nhanh, rất bí mật mà đánh vào chỗ địch tương đối yếu hay mới chiếm đóng mà chưa củng cố vị trí; tập trung bộ đội đánh những trận lớn, tổ chức những đội quân chiến xa...”(2). Anh giải thích và nhấn mạnh: “Đây là bó đuốc soi đường cho quân đội ta tiến dần lên đánh vận động. Hay quá các đồng chí ạ! Chỉ thị của đồng chí Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái đã rõ, nhưng chỉ thị của đồng chí Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp còn rõ ràng hơn, cụ thể hơn. Tôi tâm đắc lắm, bấy lâu nay loay hoay mãi nay có ánh sáng rồi, mừng hết sức. Vấn đề lúc này là ở Quân khu 5 mà sát sườn hơn là Trung đoàn 96 chúng ta vận dụng thế nào cho phù hợp và sát đúng nhất. Chúng ta không thể tập trung cả Trung đoàn vì như vậy lấy ai sẽ thay chúng ta giữ vững trận địa trên hướng chủ yếu từ tây sông Cẩm Lệ, tức giáp ranh giữa Trung đoàn ta với Trung đoàn bạn 93 đến đèo Hải Vân. Hoàn toàn không được. Mặt khác còn phải nghiên cứu nắm thật chắc quy luật vận động của địch nhất là những thủ đoạn đối phó của chúng. Nên trước mắt tôi đã bàn kỹ với Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 19 Giáp Văn Cương phải gấp rút tổ chức tiểu đoàn, sao cho đủ quân số và trang bị, phải tập trung cán bộ và chiến sĩ có tinh thần chiến đấu tốt và có kinh nghiệm, phải tập trung vũ khí tốt nhất cho tiểu đoàn. Trung đoàn sẽ bổ sung quân số và điều thêm cho một ít vũ khí. Ở Tiểu đoàn 18, tôi cũng bàn kỹ với anh Lê Kích chuẩn bị 1 đại đội đầy đủ quân số, vũ khí, tập trung cán bộ và vũ khí tốt nhất cho đại đội. Còn các anh ở Tiểu đoàn 17, nhiệm vụ vẫn vậy, không được phép rút hẹp trận địa dù chỉ 1 mét, và vẫn phải chuẩn bị một đại đội đầy đủ như Tiểu đoàn 18. Phải chuẩn bị gấp, để chậm sẽ không kịp. Sau khi chuẩn bị trên đường về, Trung đoàn sẽ có kế hoạch sử dụng cả Tiểu đoàn 19 cùng 1 đại đội của Tiểu đoàn 18 và 1 đại đội của Tiểu đoàn 17, cố gắng đánh một trận thật giòn giã, nhanh gọn, bắt tù binh, thu vũ khí mà ta thì ít thương vong nhất. Đặc biệt không để lại tử sĩ và thương binh”.
   
                Đúng như kế hoạch của anh, ngày 22 tháng 5 năm 1947, Tiểu đoàn 19 cũng 1 đại đội của Tiểu đoàn 18 tiêu diệt hoàn toàn một đoàn xe chở tên đại tá Roger, chỉ huy quân Pháp ở Đà Nẵng cùng toàn bộ tham mưu của y, diệt trên 100 tên lính Âu Phi tinh nhuệ. “Trận đánh này gây chấn động mạnh trong binh lính địch ở Đà Nẵng, nhiều lính Âu Phi tự thương để tránh đi càn”(3). Đơn vị và người chỉ huy trực tiếp được khen thưởng rất cao. Tiếu đoàn 19 được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba, đồng chí Tiểu đoàn trưởng Giáp Văn Cương: Huân chương Quân công hạng Nhì. Thưởng tổng kết cuộc kháng chiến chống Pháp, toàn quân chỉ có 4 đồng chí được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhì là các đồng chí Tổng Tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần và đồng chí Nguyễn Chánh: Tư lệnh kiêm Chính ủy Liên khu 5, Bí thư Liên khu ủy. Nhắc lại để thấy Bộ đánh giá rất cao trận đánh tiêu diệt gọn 1 đại đội Âu Phi và nhiều Sĩ quan trung cao cấp toàn trung đoàn, chúng tôi hỏi anh sao không trực tiếp chỉ huy mà lại giao cho anh Cương?. “Căn cứ tình hình địch thường chỉ có một đại đội, địa hình thì rất thuận lợi nên tôi giao cho anh Cương sau khi cùng đoàn cán bộ tiểu đoàn nghiên cứu địa hình, bàn kỹ cách đánh. Tôi còn có nhiệm vụ với cả trung đoàn nữa chứ!”. Riêng tôi thầm nghĩ: “Với trình độ của anh Cương thì anh mới mạnh bạo giao; còn với anh Kích, một du kích Ba Tơ chiến đấu rất dũng cảm nhưng trình độ kế hoạch thì còn có chỗ chưa thật kín kẽ. Còn với tôi là một bạch diện thư sinh, vốn là học sinh cấp 3, còn kém hai anh một bậc. Chắn chắn là khó được sự tin cậy đấy”. Nhưng tất cả chúng tôi đều nhất trí công đầu của trận đánh thuộc về anh Phát, từ chuẩn bị chiến trường, tổ chức lực lượng đến kế hoạch tác chiến đều do anh Phát chủ trì, vạch ra rất cụ thể, tỉ mỉ, chặt chẽ và toàn diện.
   
                Nếu như các trận phục kích trên đèo Hải Vân đều diễn ra ở miền núi rất có thuận lợi cho ta thì hai trận vận động chống càn ở Hương An - Mông Nghệ (huyện Duy Xuyên) ở vùng tự do nhưng sát với vùng địch kiểm soát ở bắc sông Bà Rén - Thu Bồn, đều diễn ra trên địa hình trống trải, qua nhiều bãi cát. Trận thứ nhất vào ngày 14 tháng 4 năm 1948 và trận thứ 2 vào tháng 6 năm 1948 tức gần 3 tháng sau. Tài cầm quân nổi bật là nắm chắc tình hình địch, kết hợp nghi binh khéo léo, đặc biệt có kế hoạch dẫn dắt địch đưa chúng vào khu vực ta chuẩn bị mà chúng không hề hay biết, hoàn toàn bị bất ngờ, đúng như Tôn Ngô binh pháp: “Người giỏi đánh giặc là biết bắt địch tới mà không bị địch bắt tới”, nên trận đầu ta nhanh chóng đánh thiệt hại 1 tiểu đoàn địch, bắt địch phải bỏ lại 180 xác. Cái hay của trận thứ 2 là từ vận động phục kích đã kiên quyết linh hoạt, dũng cảm chuyển qua đánh vận động trên các bãi cát trắng trống, dưới hỏa lực của phi pháo địch, trải qua hai ngày đêm chiến đấu ta đã đánh bại 3 tiểu đoàn địch, thu nhiều vũ khí. Chiến thắng 2 trận Hương An - Mông Nghệ tăng thêm tin tưởng cho nhân dân vùng giáp ranh vì “từ đấy địch không còn dám tấn công, càn quét ra Vùng tự do và cố thủ ở cứ điểm Bà Rén cho đến ngày kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp”(4). Trận đầu do Tiểu đoàn 39 của tỉnh còn được Quân khu tăng thêm 2 tiểu đoàn chủ lực: 19 và 79. Cả hai trận đều do Trung đoàn trưởng Nguyễn Bá Phát chỉ huy

Logged
loiho000
Thành viên
*
Bài viết: 162


« Trả lời #14 vào lúc: 10 Tháng Hai, 2017, 08:40:02 pm »

                 Tiếp đến trận Hải Vân 3 (24-1-1948). Rút kinh nghiệm các trận Hải Vân 1, 2, nắm chắc quy luật hoạt động của địch trên đường xe hơi, xe lửa nên trận này anh Phát đã dũng cảm, mưu trí, táo bạo đánh địch trên cả hai đường cùng một thời gian. Kết quả ta phá hủy 1 đầu máy, 15 xe cơ giới, diệt gần 300 tên phần lớn là bọn Âu Phi tinh nhuệ. Nếu kế hoạch không chặt chẽ, không toàn diện thì tiểu đoàn ta đánh địch trên đường xe lửa khó vượt qua đường xe hơi để rút lui an toàn; càng khó qua sông Trường Định khi địch đã tập trung 8 tiểu đoàn chủ lực muốn khóa chặt phía hữu ngạn sông từ đèo Eo Ngựa xuống Khe Sô đến Mũi Trâu (tây bắc Đà Nẵng 20 ki-lô-mét) vì chúng biết mỗi lần đánh trên đèo Hải Vân thì toàn lực lượng của ta đều qua sông ở khu vực này để về khu căn cứ tự do. Đặc biệt, nếu người chỉ huy không được cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa phương tín nhiệm thì không thể huy động nổi trên 30 thuyền chở gọn 1.800 cán bộ chiến sĩ cùng 28 thương binh qua sông an toàn mặc dù địch giăng bẫy và đánh chìm mọi thuyền bè và cấm nhân dân không được qua lại. Anh Phát sinh ra ở thôn Trung Sơn, xã Hòa Liên - huyện Hòa Vang, mọi người đều hưởng ứng yêu cầu giúp đỡ cho Trung đoàn 96, đơn vị do anh chỉ huy. Ngoài ra, nhân dân còn nổi trống mõ thị uy để nghi binh đánh lạc hướng cho bộ đội. Công lao to lớn của nhân dân Hòa Vang là mò cua, bắt cá bán lấy tiền mua lương thực, len lỏi vào vùng chiếm đóng sát ngoại ô Đà Nẵng mua thuốc men đủ cho đoàn cán bộ chuẩn bị chiến trường gần 1 tháng liền và đủ 7 tấn gạo chuyển lên tận chân đèo cho trận đánh. Có thể nói trận Hải Vân 3 là công lao xương máu của nhân dân Hòa Vang cùng tinh thần chiến đấu của nhân dân, bộ đội hòa chung tầm chỉ huy sáng tạo, quả cảm của một Trung đoàn trưởng giỏi: đồng chí Nguyễn Bá Phát.

                 Chỉ một thời gian ngắn, sau trận Hải Vân 3, Trung đoàn trưởng Nguyễn Bá Phát sử dụng Tiểu đoàn 79 và 1 đại đội của Tiểu đoàn 19 thực hiện trận đánh vận động Gò Cà trên đường 14A đoạn giữa Túy Loan - Ái Nghĩa (tây nam Đà Nẵng 25 ki-lô-mét) ngày 31 tháng 3 năm 1949. Đây là hành lang khá mạnh của giặc Pháp bảo vệ căn cứ quân sự tổng hợp Đà Nẵng, nơi có cơ quan chỉ huy các lực lượng chiếm đóng Pháp ở Trung Đông Dương gồm Nam Trung Bộ - Tây Nguyên và Trung Hạ Lào. Ta diệt gọn rất nhanh 1 đại đội Âu Phi. Sau trận đánh tên thiếu tá chỉ huy tiểu khu Ái Nghĩa tới thị sát trận đánh đã phải thốt lên: “Đối phương thông minh táo bạo, thao lược, biết nắm địch một cách vững chắc mới dám đánh như thế này”(5). Hồi đó những cán bộ trẻ như chúng tôi hiểu biết còn quá mờ mịt về những nhân tố cơ bản của nghệ thuật quân sự của Đảng và của ông cha ta như: thế, thời và lực nhưng anh Phát lại nắm khá chắc. Nên anh không chủ trương đánh địch xuất phát từ Đà Nẵng lúc chúng còn cảnh giác, mà đánh lúc chúng về, vừa càn quét xong, mệt mỏi lại có phần chủ quan. Đó là thời, còn thế thì anh không bố trí phần lớn lực lượng ở phía tây đường có nhiều sườn núi của dãy Mông Gà chạy sát gần đường, khá kín đáo, hướng mà địch luôn đề phòng. Anh chỉ bố trí ở hướng tây một bộ phận nhỏ, chặn đầu khóa đuôi, còn đại bộ phận lực lượng bố trí ở hướng đông nhưng không dựa vào một số nhà dân rải rác gần đường (trên dưới 200 mét), mà “độn thổ” nằm sát đường khoảng trên dưới 50 mét. Chính nhờ vậy, mà khi ta nổ súng thì gần như toàn bộ lực lượng địch trên xe nhảy xuống quay lưng về phía đông lo đối phó phía tây nên chúng hoàn toàn bất ngờ và bị ta tiêu diệt nhanh. Trận Gò Cà cho tôi một bài học rất sâu về vận dụng thời, thế và lực khi tôi chuẩn bị chiến trường đánh trận vận động phục kích trên đường 104, đoạn Bà Rén - Cầu Chìm ngày 17 tháng 5 năm 1953.
   
                 Cuối năm 1949 đầu năm 1950, cuộc kháng chiến của nhân dân ta đang trên đà phát triển. Thành tích nổi bật là biến hậu phương địch thành tiền phương của ta và giữ vững 3 khu cách mạng lớn: Việt Bắc, ba tỉnh rưỡi Liên khu 4, ba tỉnh rưỡi Liên khu 5. Toàn quân đang ra sức thực hiện nghị quyết Trung ương 6 (1-1949): “Quyết đẩy mạnh vận động chiến tiến tới”. Lưc lượng vũ trang ta bắt đầu mở những chiến dịch nhỏ, quy mô 3-5 tiểu đoàn cùng lực lượng tại chỗ như các chiến dịch sông Thao (5-1949), Sông Lô (5-1949), Lê Lợi (Hòa Bình) và Lê Hồng Phong I (đầu 1950), Mỹ Tho (11-1949), Cầu Kè (12-1949), Lê Lai: Quảng Trị (11-1949). Hòa cùng thắng lợi chung, ở Liên khu 5 thành lập trung đoàn cơ động đầu tiên: Trung đoàn 210 sau đổi thành Trung đoàn 108, vào đúng ngày sinh nhật lần thứ 59 của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Thường vụ và Bộ Tư lệnh Quân khu chủ trương mở 2 chiến dịch nhỏ ở Quảng Nam - Đà Nẵng và bắc Khánh Hòa vào mùa xuân 1950. Ở Quảng Nam lấy tên là Võ Nguyên Giáp, ở bắc Khánh Hòa lấy tên là Trường Chinh, trong đó Quảng Nam là hướng chính tập trung cả 2 trung đoàn: Trung đoàn 210 của khu và Trung đoàn 108 của tỉnh. Ban chỉ huy chiến dịch gồm đồng chí Đàm Quang Trung - Tư lệnh phó Liên khu kiêm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 210 là chỉ huy trưởng, đồng chí Phan Hàm - Tham mưu trưởng Quân khu, đồng chí Nguyễn Bá Phát - Trung đoàn trưởng tỉnh là chỉ huy phó. Các anh Nguyễn Đôn là Chính ủy và Nguyễn Quyết - Phó Chính ủy. Kế hoạch lúc đầu là dùng Trung đoàn 210 đánh địch trên đèo Hải Vân cả trên đường xe hơi và đường xe lửa, còn Trung đoàn 108 thọc sâu vào huyện Điện Bàn đánh địch vận chuyển và càn quét. Nhưng vì quá trình chuẩn bị chiến trường kế hoạch bị lộ nên Trung đoàn 210 chuyển qua huyện Hòa Vang.
   
                 Tối 2 tháng 2 năm 1950, Trung đoàn 108 từ căn cứ Đồng Xanh - Đồng Nghệ - Phú Túc, bí mật hành quân xuống Điện Tiến - Điện Bàn bám sát đường quốc lộ 1A khu vực Thanh Quýt. Cuộc hành quân này không gian khổ như các trận trên đèo Hải Vân vì không phải qua đèo cao, dốc hiểm mà khó khăn chính là làm sao giữ vững được an toàn hệ thống đồn bót và mạng lưới gián điệp của địch. Kết quả ta diệt gọn 1 đại đội Âu Phi, phá hủy 14 xe, bắt 50 tên, thu trên 100 súng, chỉ cách Đà Nẵng gần 20 ki-lô-mét, địch rất hoảng sợ. Có thế nói đây là lần đầu tiên một chiến dịch nhỏ bước đầu mang dấu ấn của một chiến dịch tổng hợp sau này vì đi đôi với kế hoạch quân sự, phải có kế hoạch phối hợp với lực lượng địa phương, dân quân du kích, và đặc biệt phối hợp với nhân dân từ chở quân qua sông an toàn, đưa đường, ém quân trong nhà dân. Có thể nói bộ đội đầy ắp nhà dân mà địch không hay biết, thậm chí có bộ phận trinh sát vào tận sân nhà dân mà vẫn mù tịt, ăn uống và sinh hoạt của bộ đội đều do dân ta bảo đảm nhất là sau trận Thanh Quýt, tiếp đến trận chống càn. Trận này cũng do anh Phát và anh Quyết chỉ huy. Tâm sự với chúng tôi sau trận đánh, anh bộc lộ: “Lo nhất là bí mật, chỉ một sơ suất nhỏ của nhân dân không tránh khỏi cặp mắt cú vọ của bọn thám báo, nên hàng ngày nhân dân vẫn ra làm ruộng như thường, vừa xóa dấu vết, vừa theo dõi địch vì vậy mỗi hành động và bước đi của địch đều không qua được con mắt của nhân dân. Qua trận đánh càng thấy nhân dân ta dù ở đâu, vùng tự do hay vùng địch tạm chiếm vẫn trung thành với cách mạng, một lòng theo Đảng, theo Bác Hồ, hễ thấy bộ đội chủ lực tới như mở cờ trong bụng, sẳn sàng chịu mọi gian khổ hy sinh, quyết cùng bộ đội diệt địch để cho quê hương sớm được giải phóng. Thật là vĩ đại, có gần dân, sát với dân, càng chiến đấu hết mình đáp lại tấm lòng cao cả ấy, nhất là quê hương nơi mà mình sinh ra và nuôi dưỡng mình đến khôn lớn”. Vừa nói, anh vừa liên tục quệt nước mắt bằng hai ống tay áo bà ba.
   
                 Còn cách đánh địch trong công sự vững chắc, trước trận Konplong ở Quảng Nam - Đà Nẵng ta đã có một số trận tiêu diệt gọn, làm chủ chiến trường, thu vũ khí, bắt tù binh. Nhưng đó là những trận ta vận dụng hình thức chiến thuật kỳ tập, nghĩa là cơ sở nội ứng phối hợp. “Sáng 18 tháng 8 năm 1949, được cơ sở nội ứng hàng ngày dẫn vào làm trong đồn, một trung đội trinh sát do trung đội trưởng Hoàng Đại Hải chỉ huy lọt được vào đồn, phối hợp với 1 đại đội của Tiểu đoàn 39 chủ lực tỉnh, lợi dụng lúc dân lần lượt đi về, ta nổ súng đánh đồn Thu Bồn nhanh gọn, diệt 1 đại đội Âu Phi, thu toàn bộ vũ khí”(6). Hoặc “19 tháng 8 năm 1950, được cơ sở binh vận làm nội ứng, 1 đại đội bộ đội địa phương cùng dân quân du kích tấn công đồn Ngũ Giáp giữa ban ngày, diệt gọn 2 trung đội địch, thu hết vũ khí”(7). Riêng đánh địch bằng sức mạnh trong công sự vững chắc theo hình thức chiến thuật công kiên chưa có kinh nghiệm và chưa đủ sức. Những ngày đầu toàn quốc kháng chiến ở bắc Khánh Hòa, ta dùng 2 trung đoàn do Trung đoàn trưởng Hữu Thành chỉ huy tấn công cùng một lúc 3 cứ điểm: Vạn Giã, Hiền Lương và Đồn Điền. Kết quả chỉ phá hủy được gần 2/3 đồn Vạn Giã, đánh thiệt hại các đồn Hiền Lương và Đồn Điền, diệt và làm bị thương gần 150 tên, ta thương vong khá nặng không làm chủ được chiến trường. Còn trận Thủy Tú, bắc An Khê thuộc tỉnh Gia Lai (14-3-1947) “do kế hoạch bị lộ nên Trung đoàn trưởng Vi Dân cùng một số lớn cán bộ hy sinh... trận thất bại nghiêm trọng này làm trung đoàn mất hẳn sức chiến đấu, phải về củng cố”(8.). Rõ ràng mấy trận trên đây để lại cho ta rất ít kinh nghiệm về đánh công kiên. Xa Trung ương Đảng, xa Bộ Tổng tư lệnh, quân dân Liên khu 5 vẫn được Trung ương, Bác Hồ, Bộ Tổng tư lệnh chỉ đạo chặt chẽ, phải tự lực giải quyết nhiều vấn đề. Trước hết là tăng gia sản xuất đủ lương thực cho 2 triệu dân đến quần áo, thuốc men, vũ khí thô sơ, v.v... Về quân sự, cụ thể cách đánh địch trong công sự vững chắc còn là một vấn đề rất khó khăn: kinh nghiệm của giải phóng quân Trung Quốc, của các đại đoàn chủ lực của Bộ về đánh công kiên như: Tứ tổ nhất đội, thang mê thiết giáp, bộc phá, súng ĐKZ còn rất xa lạ. Về vũ khí diệt công sự địch, ở Liên khu 5 hồi đó mới có 3 mìn càng, súng ĐKZ và súng phóng bom. Súng phóng bom do quân giới Liên khu 5 tự sản xuất theo tài liệu hướng dẫn của Cục Quân giới Bộ Quốc phòng.

Logged
loiho000
Thành viên
*
Bài viết: 162


« Trả lời #15 vào lúc: 10 Tháng Hai, 2017, 08:45:41 pm »

                 Trong điều kiện khó khăn ấy, Trung đoàn trưởng Nguyễn Bá Phát đã dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước sự trưởng thành rất bức xúc lực lượng của Quân khu 5. Anh đã nghĩ ra cách dùng bao cát lăn dần từ ngoài vào sát hàng rào địch để xây dựng các ụ súng cho các hỏa lực trung, đại liên và trọng liên 12,7 ly. Anh đã cùng quân giới Liên khu 5 chế ra loại xe thiết giáp dày 20 cm, trên xe thiết giáp đặt súng SKZ. Xe thiết giáp nặng từ 3-4 tấn, được tháo lắp vận chuyển theo bộ đội hành quân từ đồng bằng đến sát vị trí địch mới lắp ráp lại. Thực tế trong trận Konplong 2 chiến thuật “lăn bao cát” và “xe thiết giáp” không có điều kiện áp dụng, nhưng quá trình tập luyện đã gieo tư tưởng chắc thắng cho cán bộ và chiến sĩ. Trận Konplong thành công được Thường vụ - Bộ Tư lệnh Liên khu 5 đánh giá rất cao: “Trận đánh mở ra bước ngoặt về đánh địch trong công sự vững chắc của lực lượng vũ trang Quân khu 5”(9).

                 Sau Đại hội Đại biểu Đảng bộ Quân khu 5 (11-19 tháng 2 năm 1951), Bộ Tư lệnh Liên khu 5 có sự điều chỉnh. Anh Nguyễn Đôn vừa trúng Ủy viên dự khuyết Liên khu ủy, nguyên Chính ủy Trung đoàn 84 được bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng Liên khu thay đồng chí Phan Hàm đi nhận nhiệm vụ Trung đoàn trưởng Trung đoàn 83. Như vậy cả Thường vụ và Quân khu đều là những đồng chí xuất thân từ cán bộ chính trị nắm vững đường lối tư tưởng quân sự, nghệ thuật chính trị, nhưng trực tiếp cầm quân chiến đấu từ cơ sở trưởng thành lên thì có phần hạn chế, cụ thể là mặt chiến thuật và chiến đấu. Trong điều kiện đó, anh Phát đã được điều về làm Tham mưu phó Liên khu. Sự bổ sung đúng đắn ấy đã được chứng minh ngay trong Đông Xuân 1951-1952, Liên khu tập trung cả 2 trung đoàn chủ lực: 108 và 83 mở chiến dịch vào khu vực bắc và đông bắc An Khê trên đường 19. Tôi nhớ hôm anh Lư Giang (từ Trung đoàn 83 chuyển qua Trung đoàn 108) cùng tôi là Tham mưu trưởng Trung đoàn lên nhận nhiệm vụ. Anh Phát hướng dẫn và nói rõ: “Lần này Trung đoàn 108 đánh Cửu An có phần dễ hơn vì đã qua kinh nghiệm trận Konplong, mặt khác địa hình và cấu trúc quân sự địch ở đây cũng giảm đơn hơn. Riêng trận đánh vận động trên đường Hoàng Hoa Thám (đường nhỏ nối từ đường 19) thì đề nghị các anh nên để địch vào gần Cửu An hãy bắt đầu nổ súng vì lúc này địch bắt đầu chủ quan hơn”. Tôi đã nghĩ đến thời, thế và lực mà anh Phát nắm chắc vận dụng vào điều kiện cụ thể của trận phục kích này. Đúng như phán đoán của anh, trận công kiên diệt gọn đồn Cửu An chỉ diễn ra trong 2 giờ đồng hồ, ta thu toàn bộ vũ khí có 1 khẩu đại bác 88 ly. Trận vận động phục kích cũng diễn ra thuận lợi, địch hoàn toàn bị bất ngờ.
   
                 Tiếp đến Đông Xuân 1953-1954, chiến trường Quân khu 5 là hướng thứ 4 theo bàn tay xoè ra của Bác Hồ khi phe duyệt kế hoạch tác chiến chiến lược của Tổng Quân ủy - Bộ Tổng tư lệnh: “Địch tập trung quân cơ động để tạo nên sức mạnh. Không sợ. Ta buộc chúng phải phân tán binh lực thì sức mạnh ấy không còn”(10). Trong Đông Xuân 1953 - 1954, lần đầu tiên quân dân Liên khu 5 giành thắng lợi to lớn trọn vẹn trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Đó là nhờ sự chỉ đạo đúng đắn sáng suốt, tài tình của Bộ Chính trị, của Bác Hồ và Quân ủy Trung ương; sự nỗ lực của Thường vụ và Bộ Tư lệnh Liên khu cùng sự hy sinh vô bờ bến của nhân dân, cán bộ chiến sĩ lực lượng vũ trang Liên khu 5, một lòng một dạ tin tưởng tuyệt đối Vào sự lãnh đạo của Đảng; riêng anh Phát có công trong việc chuẩn bị chiến trường nhất là những trận then chốt của đợt đầu chiến dịch: Mang Đen, Mang Bút, Kông Brai và các trận đánh trên đường 19.
   
                 Trung đoàn trưởng Nguyễn Bá Phát không chỉ giỏi về chiến thuật mà còn nhiều kinh nghiệm về tổ chức huấn luyện bộ đội, nổi bật trong cuộc thi đua luyện quân bắt đầu từ 15 tháng 2 năm 1948. Đi đôi với những lớp bổ túc chính trị và quân sự cho cán bộ các cấp, thì bộ đội tập trung rèn luyện kỹ 3 kỹ thuật chính: bắn súng, đâm lê, ném lựu đạn và những kỹ thuật cơ bản phục vụ cho 2 cách đánh địch đang vận động và đánh địch trong công sự vững chắc. Lúc này anh Phát được điều từ mặt trận Quảng Nam - Đà Nẵng nhận nhiệm vụ Trung đoàn phó Trung đoàn 126 có nhiệm vụ bảo vệ tỉnh Quảng Ngãi trong vùng tự do Liên khu 5. Ban chỉ huy trung đoàn có anh Phạm Kiệt là Trung đoàn trưởng và anh Đoàn Khuê là Chính trị ủy viên. Trước đó một tuần, anh Khuê bàn giao Tiểu đoàn 77 chủ công của Trung đoàn 126 cho chúng tôi: Lê Hữu Đức và Trần Ren mới lên nhận nhiệm vụ ở trung đoàn. Anh Phát không chỉ thông thuộc và giỏi về 3 kỹ thuật lớn mà còn khả năng tổ chức và kiểm tra giúp cán bộ các cấp nắm chắc tình hình huấn luyện. Ngày đêm nắng cũng như mưa, anh lăn lộn khắp các thao trường, anh còn sáng kiến sát hạch kỹ từng khoa mục. Qua sự hướng dẫn của anh, chúng tôi đều có bước trưởng thành về tổ chức và huấn luyện cho bộ đội, mà trước đó sự hiểu biết chưa hoàn thiện, chưa hệ thống.
   
                 Anh Nguyễn Bá Phát là một trung đoàn trưởng toàn diện không chỉ có trình độ kế hoạch tác chiến tỉ mỉ, cụ thể, toàn diện mà luôn dự kiến những tình huống khó khăn nhất nên rất chủ động, anh còn nhiều kinh nghiệm tổ chức huấn luyện. Đặc biệt anh luôn chăm lo, bồi dưỡng cho cấp dưới, luôn tìm cách truyền đạt kịp thời những kinh nghiệm sốt dẻo của các đơn vị trong Liên khu cũng như các kinh nghiệm của Bộ phổ biến, nên trình độ hiểu biết của chúng tôi về tác chiến và huấn luyện được nâng lên một bước khá rõ. Tính tình của anh là một nông dân chất phác, trung thực, chan hòa, dễ gần, dễ mến, có gì đều tâm sự hết, ít khi “để bụng”, nên anh em cấp dưới không chỉ cán bộ trung cấp mà cán bộ sơ cấp và đông đảo chiến sĩ đều mến anh, quý anh và kính trọng anh. Tất cả chúng tôi đều coi anh như một người anh thực sự, đồng cam cộng khổ, sẻ ngọt chia bùi, một lòng một dạ, chung lưng đấu cật, đoàn kết thực sự, cùng chung một nguyện vọng là làm sao cho trung đoàn giành nhiều thắng lợi, nhiều trận có hiệu suất cao mà thương vong của ta ở mức thấp nhất. Không chỉ có chúng tôi mà cấp ủy Đảng, chính quyền và nhân dân Ở những vùng anh đã chiến đấu đều quý anh, thật lòng cộng tác, cùng nhau vượt muôn vàn khó khăn gian khổ, chung sức chung lòng, hiệp đồng chặt chẽ, phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn dân cùng lực lượng vũ trang giành thắng lợi to nhất. Ở đâu, nhân dân cũng nhắc đến anh một lòng yêu thương. Tập kết ra miền Bắc, anh được điều về Cục Tác chiến Bộ Tổng Tham mưu nhận nhiệm vụ Trưởng ban Nghiên cứu Thủy quân, có nhiệm vụ nghiên cứu và xây dựng quân chủng còn rất non trẻ (1-1955). Ngày 7 tháng 5 năm 1955, Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Cục phòng thủ bờ biển có nhiệm vụ: “Giúp Bộ Tổng Tư lệnh chỉ huy bộ đội phòng cứu bờ biển và trực tiếp đào tạo cán bộ, nhân viên thủy thủ, trực tiếp sản xuất phương tiện dụng cụ thủy và xây dựng các thủy đội phòng thủ bờ biển rồi giao cho các liên khu”(11). Từ đó ngày 7 tháng 5 năm 1955 trở thành ngày truyền thống Hải quân nhân dân Việt Nam.
   
                 Dưới ánh sáng Nghị quyết Hội nghị lần thứ 12 của Trung ương Đảng, quân đội ta đã từng bước triển khai kế hoạch xây dựng dài hạn cơ bản trong đó có lực lượng Hải quân, thời kỳ xây dựng và phát triển nhanh nhất. “Ngày 24 tháng 1 năm 1959, Bộ Quốc phòng ra Nghị quyết 52 thành lập Cục Hải quân thay cho Cục phòng thủ bờ biển, quy định rõ nhiệm vụ của Cục và bổ nhiệm Đại tá Tạ Xuân Thu làm Cục trưởng kiêm chính ủy, Đại tá Nguyễn Bá Phát làm Phó Cục trưởng”. Qua một thời gian xây dựng, huấn luyện và trưởng thành, “ngày 3 tháng 1 năm 1964, Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Bộ Tư lệnh Hải quân có nhiệm vụ: chỉ huy, lãnh đạo, xây dựng Quân chủng Hải quân, từ đảm nhiệm vụ chiến đấu trên không phận, hải phận bờ biến miền Bắc. Thiếu tướng Tạ Xuân Thu được chỉ định làm Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân chủng, Đại tá Nguyễn Bá Phát là Phó Tư lệnh”(12)
   
                 Bước qua năm 1964, nhân dân ta trên cả hai miền giành được nhiều thắng lợi, miền Bắc tiến một bước khá dài trong lịch sử, sản xuất phục hồi, sản lượng lương thực thực phẩm, cây công nghiệp đều vượt năm 1939 là năm kinh tế nông nghiệp phồn vinh nhất nước ta trước thời kỳ chiến tranh, nền nông nghiệp cũng giành được thắng lợi khá lớn. Từ 54 nhà máy nhỏ lẻ tiếp quản năm 1954 đến nay đã có trên một nghìn nhà máy trong đó có một phần tư là vừa và khá lớn, hệ thống giao thông cũng được phát triển nhanh. Còn ở miền Nam có những bước tiến mạnh mẽ, liên tiếp đánh bại và làm phá sản kế hoạch chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ. Trước nguy cơ ấy, Giôn-xơn quyết định đẩy mạnh chiến tranh xâm lược miền Nam, chuẩn bị cho ra đời chiến lược “chiến tranh cục bộ” và tiến hành chiến tranh phá hoại ở miền Bắc.
   
                 Cả dân tộc từ Bắc đến Nam đã sẵn sàng cho cuộc đọ sức mới. Cả miền Bắc, đặc biệt lực lượng Hải quân được lệnh chuyển qua thời chiến: “Phải nhanh chóng chuyển mọi sinh hoạt nền nếp qua thời chiến”.

Logged
loiho000
Thành viên
*
Bài viết: 162


« Trả lời #16 vào lúc: 10 Tháng Hai, 2017, 09:02:15 pm »

                  Để lấy cớ đánh ra miền Bắc, ngày 2 tháng 8 năm 1964, Mỹ dựng lên vụ tàu khu trục Ma-đốc vu cho Hải quân ta đánh chúng trong hải phận quốc tế. Ngày 5 tháng 8 năm 1964, Mỹ huy động lực lượng của Hạm đội 7 đánh phá tất cả các bờ biển miền Bắc từ Quảng Bình đến Quảng Ninh. Hầu hết các căn cứ, khu đậu và lực lượng Hải quân ta đều bị đánh phá. Mỹ ỷ vào trang vũ khí hiện đại và lợi dụng yếu tố bất ngờ hòng tiêu diệt lực lượng Hải quân ta chỉ trong vòng 1 ngày. Nhưng thật trớ trêu chính Mỹ lại là kẻ thất bại thảm hại trước Hải quân ta gần 10 năm xây dựng dũng cảm chiến đấu, hiệp đồng chặt chẽ, được sự giúp đỡ của nhân dân, các lực lượng vũ trang nhân dân trong mạng lưới phòng không của thế trận nhân dân đất đối không.
   
                  Trong trận đọ sức này Mỹ bị thất bại đau đớn: 3 máy bay bị bắn rơi, nhiều chiếc khác bị thương, nhiều phi công chết, 1 phi công bị bắt làm tù binh. Ngày 7 tháng 8 năm 1964, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng tổ chức trọng thể lễ tuyên dương công trạng các đơn vị Phòng không - Không quân và Hải quân đã lập công xuất sắc trong các trận chiến đấu ngày 2 và ngày 5 tháng 8 năm 1964. Bác Hồ đã dành riêng cho hàng vạn cán bộ và chiến sĩ của hai Quân chủng Phòng không - Không quân và Hải quân một tặng phẩm vô giá là cùng chụp ảnh chung với hai đồng chí Tư lệnh Phòng không - Không quân: Đại tá Phùng Thế Tài và Tư lệnh Hải quân: Đại tá Nguyễn Bá Phát.
   
                  Ngày 5 tháng 8 trở thành ngày truyền thống trận thắng đầu của Hải quân nhân dân Việt Nam, cũng là ngày đánh thắng trận đầu của quân và dân toàn miền Bắc.
   
                  Tiếp đó, lực lượng Hải quân đã cùng toàn dân và toàn quân ta đánh thắng chiến tranh phá hoại lần thứ nhất và lần thứ hai của đế quốc Mỹ. Đánh bại các bước leo thang trong chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ trên sông biển ở miền Bắc; thực hiện tuyến vận tải chiến lược đường biển, chi viện vũ khí cho các chiến trường miền Nam; xây dựng lực lượng và nghiên cứu cách đánh địch trên chiến trường sông biển; cuối cùng tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân toàn thắng năm 1975.
   
                  Đầu năm 1974, anh Nguyễn Bá Phát được đề bạt Thiếu tướng cùng đồng chí Hoàng Trà, Chính ủy Quân chủng. Trong chiến thắng vĩ đại toàn vẹn mùa xuân 1975, Quân chủng Hải quân tham gia chiến dịch chiến lược Huế - Đà Nẵng. Mở đầu cuộc tấn công giải phóng Huế - Đà Nẵng, Bộ Tổng Tư lệnh điều phần lớn cơ quan Tham mưu và các đồng chí trong Bộ Tư lệnh Quân chủng vào cùng lực lượng tại chỗ giải phóng Huế - Đà Nẵng.
   
                  Thiếu tướng Nguyễn Bá Phát được chỉ định vào Bộ Tư lệnh và Đảng ủy mặt trận: “Bộ Tư lệnh mặt trận gồm các đồng chí Lê Trọng Tấn - Tư lệnh, Chu Huy Mân - Chính ủy, các phó Tư lệnh: Giáp Văn Cương và Nguyễn Bá Phát (có thêm 1 đồng chí Phó Tư lệnh do các anh đề nghị) Phó Chính ủy là đồng chí Phước. Đảng ủy mặt trận gồm các đồng chí: Chu Huy Mân - Bí thư, Tấn và Phước - Phó Bí thư, Cương và Phát - Ủy viên. Ký tên: Văn(13). Sau đó tiếp quản tổ chức căn cứ Hải quân Đà Nẵng để vừa vận chuyển các lực lượng và khí tài cần thiết cho cuộc tấn công giải phóng Sài Gòn - Gia Định vừa chuẩn bị tấn công giải phóng các đảo, đặc biệt đảo Trường Sa.
   
                  Được sự chỉ đạo đúng đắn, kịp thời của thường trực Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh về nhận định địch, thời cơ chiến lược và phương châm hành động: “Các đơn vị phải hết sức sẵn sàng, có thời cơ là đánh được ngay, bảo đảm chắc thắng đánh phải đúng lúc...”, “... vùng này có tàu chiến của Hạm đội 7 của Mỹ và Hải quân các nước khác hoạt động. Do đó nghệ thuật tác chiến phải kiên quyết, táo bạo, đồng thời phải hết sức mưu trí, sáng tạo bất ngờ.”(14).
   
                  Được Thường vụ Đảng ủy và Quân ủy Liên khu 5 tạo mọi điều kiện thuận lợi, Thiếu tướng Nguyễn Bá Phát đã cùng các đồng chí trong Bộ Tư lệnh Hải quân Sử dụng các tàu của Đoàn 125, bộ phận đặc công nước của Đoàn 126 cùng Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 38 Sư đoàn 2 và một bộ phận hỏa lực của Quân khu 5 để thực hiện nhiệm vụ. Tất cả lực lượng trên đây do đồng chí Mai Năng, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, cán bộ Quân chủng Hải quân trực tiếp chỉ huy. Chỉ trong vòng 18 ngày kể cả ngày vận chuyển trên biển, nếu tính từ ngày chính thức nổ súng thì chỉ 15 ngày (14-29 tháng 4 năm 1975) Hải quân ta đã hoàn toàn làm chủ quần đảo Trường Sa, kết thúc thắng lợi nhiệm vụ chiến đấu đặc biệt quan trọng do Thường trực Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh giao. Trong ngày 28 tháng 4, lực lượng ta trên các tàu đã nhận được điện khen ngợi của Thường trực Quân ủy: “Quân ủy Trung ương rất phấn khởi được tin quân ta đã chiếm đảo Trường Sa, nhiệt liệt khen ngợi các đơn vị đã hoàn thành có ý nghĩa chiến lược”.
   
                  Tiếp đó, lực lượng Hải quân phối hợp với Quân khu 6. Xuất phát từ căn cứ Cam Ranh giải phóng hoàn toàn Cù Lao Thu. Lực lượng tham gia có tàu 143 đoàn 15, một bộ phận đặc công của Hải quân và một bộ phận đặc công nước của Tiểu đoàn 407, 1 đại đội bộ binh của Trung đoàn 95 Sư đoàn 3, một tàu đánh cá của dân ở Nha Trang, 1 thuyền gỗ ở Ninh Thuận. Chỉ huy chung là cán bộ của Hải quân. Chỉ gần một giờ tấn công, ta hoàn toàn làm chủ đảo, bắt 382 tên, thu trên 900 súng các loại.
   
                  Sau ngày đất nước thống nhất, do yêu cầu của nhiệm vụ mới, Thiếu tướng Nguyễn Bá Phát được điều sang Bộ Hải sản với cương vị là Thứ trưởng thường trực. Đồng chí có nhiều công lao đóng góp cho ngành thủy sản thời kỳ non trẻ.
   
                  Do công lao của đồng chí nhất là 9 năm chiến đấu ở Quân khu 5 trong kháng chiến chống Pháp, tập thể cán bộ Trung đoàn 108 hoàn toàn nhất trí đề nghị tổ chức nghiên cứu truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho đồng chí Nguyễn Bá Phát.

                                 
L.H.Đ




(1). Nguyên Cục trưởng Cục Tác chiến, Bộ Tổng tham mưu.
(2). Lịch sử Bộ Tổng tham mưu trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Nxb QĐND, H.1991, tr. 152-153
(3). Quân khu 5, ba mươi năm chiến tranh giải phóng, Tập 1, Nxb QĐND, H. 1986, tr.2
(4). Quảng Nam - Đà Nẵng 30 năm chiến đấu và chiến thắng, Tập 1, 1985, tr. 117.
(5). Lịch sử Trung đoàn 108 của Liên khu 5, Nxb QĐND, H.1999, tr.23
(6). Quảng Nam - Đà Nẵng, 30 năm chiến đấu và chiến thắng. Tập 1, 1985, tr. 198.
(7). Quảng Nam - Đà Nẵng, 30 năm chiến đấu và chiến thắng. Tập 1, 1985, tr. 150.
(Cool. Quân khu 5, ba mươi năm chiến tranh giải phóng. Tập 1, tr.96.
(9). Quân khu 5, ba mươi năm chiến tranh giải phóng. Tập 1, tr.187.
(10). 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ - Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Nxb CTQG, H.2004, tr.53.
(11). Lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam, Nxb QĐND, H.1985 tr.36.
(12). Lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam, Nxb QĐND, H.1985 tr.83.
(13). Điện số 910 TK ngày 26-3-1975 của Thường trực Quân ủy Trung ương gửi anh Hai Mạnh (Chu Huy Mân) và anh Năm Công (Võ Chí Công).
(14). Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng, tr.295-299.


Logged
loiho000
Thành viên
*
Bài viết: 162


« Trả lời #17 vào lúc: 10 Tháng Hai, 2017, 09:14:47 pm »

NGUYỄN BÁ PHÁT – VỊ TƯỚNG TÀI TRÊN BỘ DƯỚI NƯỚC
Nguyễn Bá Thanh(1)

                  Tôi là lớp hậu sinh nên không biết nhiều về đồng chí Nguyễn Bá Phát. Tuy nhiên, cũng như bao người dân Hòa Vang khác, tôi biết về ông như một vị tướng tài, đánh giặc giỏi cả trên bộ và dưới nước. Ngoài một người đồng hương, ông còn là một người bà con xa với gia đình tôi, hơn nữa, cả 4 anh em của ông, là Nguyễn Bá Trinh, Nguyễn Bá Phát, Nguyễn Bá Phước và Nguyễn Bá Ninh (đều là sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam) rất thân thiết với cha tôi - ông Nguyễn Bá Tùng, trong thời kỳ 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp tại Đà Nẵng. Đồng chí Nguyễn Bá Phát sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo tại làng Trung Sơn, xã Hòa Liên, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Xưa kia Vùng tây bắc Hòa Vang là nơi dừng chân hoạt động của các phong trào đấu tranh yêu nước trước khi có Đảng, như phong trào Nghĩa hội Quảng Nam, khởi nghĩa Thái Phiên - Trần Cao Vân... nên người dân nơi đây rất có truyền thống “đuổi giặc Tây, cứu giống nòi”. Lớn lên trong một vùng đất như vậy, nên Nguyễn Bá Phát ảnh hưởng dũng khí kiên cường của cha ông và tư tưởng “bài Tây” có hầu hết trong lớp thanh niên tại Hòa Vang thời ấy. Vì lẽ đó, từ tháng 7 năm 1945, ông đã tình nguyện đứng vào hàng ngũ “Tự vệ bí mật” do Việt Minh lãnh đạo, để chuẩn bị cho công cuộc vận động giành chính quyền trên quê hương mình.

                   Sau Cách mạng tháng Tám thành công, ông được bầu làm Ủy viên Ủy ban Nhân dân lâm thời xã Trung Sơn. Từ tháng 9 năm 1945, nghe theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông gia nhập quân đội và lần lượt giữ các chức vụ: Đội trưởng Thủy đội Bạch Đằng, Chi đội phó Chi đội Phan Đình Phùng, Chỉ huy trưởng Mặt trận Buôn Ma Thuột và đường 14, Phó chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, Trung đoàn trưởng đoàn 96. Tuy nhiên, người dân Đà Nẵng nói chung và Hòa Vang nói riêng nhớ nhiều đến ông là vì những chiến công lẫy lừng của lực lượng bộ đội do chính ông chỉ huy trên mảnh đất quê hương mình.
   
                   Đáng chú ý là trận đánh trên đường đèo Hải Vân ngày 25-5-1947, quân ta gần như tiêu diệt hoàn toàn đoàn xe địch chở đầy lính lê dương, trong đó có tên đại tá Roger, một chỉ huy quan trọng của địch ở miền Trung Đông Dương, gây tiếng vang lớn trên toàn quốc. Dưới sự chỉ huy của Nguyễn Bá Phát và nhiều đồng chí khác, mặt trận Đà Nẵng đã chặn đứng ý đồ “đánh nhanh thắng nhanh” của thực dân Pháp, được đồng chí Phạm Văn Đồng thay mặt Trung ương Đảng tặng lá cờ thêu 2 chữ “Giữ vững”. Trung đoàn 96 do Nguyễn Bá Phát chỉ huy - một đơn vị ghi nhiều chiến công nhất được vinh dự giữ lá cờ đó.
   
                   Nhắc đến tài cầm quân của Nguyễn Bá Phát, cho đến nay, người dân quê tôi vẫn nhớ như in “trận rút quân thần kỳ của ông Phát” vào dịp Tết năm 1949. Số là, sáng 24 tháng 1 năm 1949, dưới sự chỉ huy của Nguyễn Bá Phát, bộ đội ta phục kích chặn đánh một đoàn xe lửa và một đoàn xe quân sự Pháp gồm 18 chiếc, có một chiếc thiết giáp dẫn đầu và máy bay yểm trợ trên đường đèo Hải Vân. Đến 12 giờ trưa cùng ngày, ta chặn đánh một đoàn xe khác gồm 12 chiếc từ Huế chạy vào. Sau một ngày chiến đấu quyết liệt ta tiêu diệt trên 200 tên địch, phá hủy 15 xe quân sự và thu nhiều súng trung liên, đại liên và súng trường. Biết quân ta chưa kịp rút lui, quân Pháp huy động 8 tiểu đoàn kéo lên ngả ba Khe Sô, rải quân từ Eo Ngựa và đèo Mũi Trâu đến dọc hữu ngạn sông Trường Định, hòng bao vây tiêu diệt quân chủ lực của ta. Thâm độc hơn, địch còn cho thu hoặc phá hỏng tất cả ghe thuyền của nhân dân tây bắc Hòa Vang và ban lệnh thiết quân luật trên toàn vùng. Đồng thời chúng phong tỏa hết các ngả đường. Trước tình hình đó, Nguyễn Bá Phát đã đưa ra một quyết định cực kỳ sáng suốt, ông bàn với Huyện ủy Hòa Vang thực hiện một phương án rất táo bạo là: đưa quân chủ lực vượt sông Trường Định về ở lẫn trong dân vùng địch tạm chiến.
   
                   Đêm 27 tháng 1 năm 1949, gần như toàn thể đồng bào tây bắc Hòa Vang được huy động vào cuộc rút quân có một không hai này. Để phối hợp với cuộc lui quân, nhằm đánh lạc hướng quân địch, đêm đó các đội du kích Hòa Vang và Hòa Liên nổ súng vào các đồn bót chung quanh kiềm chế địch. Nhân dân các xã cánh bắc huyện Hòa Vang còn đánh mõ, phèng la phô trương thanh thế nhằm đánh lạc hướng địch. Các mẹ, các chị lo tiếp tế; các em thiếu nhi canh gác, dẫn đường; thanh niên, dân quân đi lấy thuyền. Hơn 30 chiến thuyền được khiêng qua bãi cát dài 3 ki-lô-mét chuyển về sông Trường Định đưa bộ đội bí mật qua sông. Đồng bào hai bên đường đón bộ đội đi qua, tiếp tế lương thực, tặng nhiều quà bánh, thuốc lá, bánh tét. Kết quả, ta đã đưa gần 1.800 bộ đội, du kích, 28 thương binh vượt qua sông an toàn ngay trước vòng vây dày đặc của kẻ thù.
   
                   Sáng hôm sau, bọn Pháp vẫn tưởng quân ta còn trong vòng vây, nên tiến hành khép chặt, sau khi biết chắc ta đã rút lui an toàn, chúng phải thừa nhận “Việt minh tài thật”. Chiến công trên có một ý nghĩa vô cùng to lớn, nó thể hiện tài thao lược của Nguyễn Bá Phát và tình thương yêu của nhân dân tây bắc Hòa Vang dành cho ông và bộ đội ta.
   
                   Từ năm 1950, ông lần lượt giữ các chức vụ Trung đoàn trưởng Trung đoàn 108, Tham mưu trưởng mặt trận bắc Tây Nguyên, Chỉ huy trưởng Sư đoàn 305, Tham mưu phó, rồi Tham mưu trưởng Liên khu 5. Ở bất cứ cương vị nào, bất kỳ chiến trường nào, Nguyễn Bá Phát luôn nhận được sự kính trọng của cấp dưới và nhân dân nơi lực lượng ông đứng chân hoạt động. Tháng 10 năm 1954, ông tập kết ra Bắc, được giữ chức vụ Sư đoàn phó Sư đoàn 305, sau đó được điều về Ban nghiên cứu Thủy quân, giữ chức Trưởng ban.
   
                   Năm 1955, ông giữ chức Cục phó Cục phòng thủ bờ biển (sau này là Cục Hải quân) vừa mới thành lập, được phong quân hàm Đại tá. Sau khi Quân chủng Hải quân được thành lập, tháng 1 năm 1964, ông giữ chức Phó Tư lệnh Quân chủng. Tháng 12 năm đó, ông là Tư lệnh Quân chủng Hải quân kiêm Tư lệnh Quân khu Đông Bắc (sau khi sáp nhập). Nhiều người từng làm việc với ông nói với tôi rằng: tướng Phát là con người của công việc, ông rất nguyên tắc song là người cương trực, quyết đoán, dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm. Ông luôn hoàn thành tốt công việc được cấp trên giao phó.
   
                   Được biết, dù ông không phải là dân sông nước, Song khi Bác Hồ giao nhiệm vụ Cục phó Cục phòng thủ bờ biển với một huấn lệnh duy nhất: “Vì chú là gốc lính thủy Pháp nên có nhiều kinh nghiệm đi biển.”. Rồi sau này, khi được nhận chức Phó Tư lệnh Quân chủng Hải quân Việt Nam, Bác Hồ lại dặn ông: “Chú đã có công quật ngã thằng Pháp ở dưới biển thì bây giờ chú phải quật ngã thằng Mỹ xâm lược này nữa, có phải không chú Phát?”. Ai cũng biết sự kiện tàu Khu trục Ma-đốc của đế quốc Mỹ gây hấn ở vịnh Bắc Bộ tháng 7 năm 1964 và sự kiện Hải quân nhân dân Việt Nam (dưới sự chỉ huy của Nguyễn Bá Phát) và Phòng không - Không quân của ta bắn rơi 8 chiếc máy bay phản lực, bắt giặc lái Mỹ và đuổi tàu Mỹ chạy dài vào ngày 5 tháng 8 năm 1964 gây chấn động dư luận trong và ngoài nước.
   
                   Từ chiến thắng trên, Nguyễn Bá Phát được Bác Hồ tặng một chiếc đồng hồ đeo tay có khắc tên của Người bằng chữ Hán. Nguyễn Bá Phát cũng là một trong những người có công thiết lập “đường mòn Hồ Chí Minh trên biển” và chỉ huy chi viện đắc lực cho chiến trường miền Nam từ năm 1960 đến 1975. Ngoài ra, ông còn cùng với các đồng nghiệp nghiên cứu phá thành công thủy lôi từ tính của đế quốc Mỹ.
   
                   Từ tháng 2 đến tháng 5 năm 1975, Nguyễn Bá Phát là Tư lệnh Hải quân tiền phương trong chiến dịch tổng tiến công giải phóng miền Nam năm 1975. Tháng 4 năm 1975, ông được phong quân hàm Thiếu tướng, Tư lệnh Hải quân nhân dân; Phó Chủ tịch Ủy ban Quân quản tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng; Ủy viên Hội đồng Khoa học Bộ Quốc phòng.
   
                   Tuy nhiên, từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, quê hương Đà Nẵng - Hòa Vang còn biết đến ông nhiều hơn khi ông chuyển ngành sang làm Thứ trưởng Bộ Hải sản cho đến khi nghỉ hưu.
   
                   Từ năm 1975 đến năm 1985, tình hình vượt biên, vượt biển, xâm nhập quấy phá nền trị an ta của thế lực thù địch bên ngoài tại Đà Nẵng diễn ra rất quyết liệt và cam go.
   
                   Chính trong bối cảnh đó, tướng Phát đã có lý khi chủ trương cho các ngư dân vùng duyên hải miền Trung nói chung và Đà Nẵng nói riêng thực hiện phong trào “tay lưới, tay súng” (nghĩa là vừa đánh bắt thủy hải sản, vừa thực hiện tuần tra, canh gác, bảo vệ vùng trời, vùng biển của Tổ quốc). Hàng chục Hải đội tự vệ của ngư dân Quảng Nam - Đà Nẵng ra đời và đem lại nhiều chiến công lớn. Tình trạng vượt biên, vượt biển từng bước bị chặn đứng. Năng lực đánh bắt thủy hải sản xuất khẩu của tỉnh tăng mạnh, trở thành một trong những địa phương điển hình cả nước.
   
                   Thời gian này, đồng chí Nguyễn Bá Phát với tư cách Thứ trưởng Bộ Hải sản thường xuyên có mặt tại Đà Nẵng và cùng với cấp ủy địa phương thực hiện khá thành công chủ trương “Quốc phòng toàn dân của Đảng” trên quê hương Quảng Nam - Đà Nẵng. Từ những đóng góp trên, nhất là những đóng góp của ông về khoa học quân sự, Nguyễn Bá Phát đã được trao tặng “Giải thưởng Hồ Chí Minh” về Khoa học Quân sự (đợt đầu tiên) năm 1978.
   
                   Khi về hưu, đồng chí Nguyễn Bá Phát về ở hẳn tại Đà Nẵng cho đến khi qua đời. Ông mất tại Đà Nẵng năm 1993. Với chúng tôi, ông luôn là người đồng chí đáng kính và rất đáng tự hào mỗi khi nhắc đến. Để tưởng nhớ ông, sau khi thiết kế quy hoạch khu đô thị phía tây bắc của Đà Nẵng, thành phố đã thống nhất đặt tên cho con đường từ đường Nguyễn Lương Bằng (tức quốc lộ 1A cũ) vào khu dân cư đến giáp xã Hòa Liên (quê hương của ông) là đường Nguyễn Bá Phát.

                                 
N.B.T


(1). Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy Đà Nẵng.



Logged
loiho000
Thành viên
*
Bài viết: 162


« Trả lời #18 vào lúc: 11 Tháng Hai, 2017, 09:44:25 pm »

NGƯỜI CHỈ HUY MƯU TRÍ, DŨNG CẢM, SÂU SÁT, ĐỒNG CAM CỘNG KHỔ
Thiếu tướng Võ Quang Hồ(1)

                 Hồ Chủ tịch ký Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946, cho Pháp đưa 15.000 quân ra miền Bắc, đẩy 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch ra khỏi đất nước ta. Trung đoàn 96 vào thành phố cảng Đà Nẵng ngày 15 tháng 3 năm 1946, cùng 1.000 quân Pháp, làm tiếp phòng quân thay Tưởng rút đi. Quân Pháp đóng ở hai nơi: Khu vực cảng và sân bay. Cán bộ, chiến sĩ đa số biết tiếng Pháp, từ các đơn vị quân giải phóng Nam tiến, từng đánh Pháp ở mặt trận Nha Trang rút ra Phú Yên củng cố. Trung đoàn 96 lúc đầu có 2 Tiểu đoàn: Tiểu đoàn 17 do anh Lê Kích chiến sĩ Ba Tơ làm Tiểu đoàn trưởng, Tiểu đoàn 18 thiếu một đại đội do Võ Quang Hồ (Thanh niên Tiền tuyến Huế) làm Tiểu đoàn trưởng. Lúc toàn quốc kháng chiến sắp bùng nổ, Trung đoàn 96 được tăng cường Tiểu đoàn 19 Ba Tơ do anh Giáp Văn Cương làm Tiểu đoàn trưởng. Anh Nguyễn Bá Phát được cử làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 96 ngày 21 tháng 12 năm 1946. Trung đoàn trưởng đầu tiên là anh Nam Long (2-1946) rồi đến anh Nguyễn Thế Lâm (3-1946), anh Đàm Quang Trung (4-1946), anh Trần Thùy (5-12-1946). Chiến trường gồm thành phố cảng Đà Nẵng do anh Trần Đình Tri một nhà trí thức làm Chủ tịch, anh Vũ Khương Ninh làm Bí thư. Tỉnh Quảng Nam do đồng chí Nguyễn Thúy làm Chủ tịch, đồng chí Trương Quang Giao làm Bí thư. Trung đoàn 96 phụ trách , thành phố Đà Nẵng và vùng phụ cận, Trung đoàn 93 phụ trách tỉnh Quảng Nam. Ban chỉ huy quân sự mặt trận Quảng Nam - Đà Nẵng do anh Đàm Quang Trung làm chỉ huy trưởng, anh Huỳnh Ngọc Huệ làm chính trị viên. Mặt trận Quảng Nam - Đà Nẵng trực thuộc Khu 5 do anh Cao Văn Khánh làm Khu trưởng, anh Nguyễn Chánh là Chính trị ủy viên.

                 Anh Nguyễn Bá Phát, từ một lính thủy 6 năm trong hải quân Pháp, lênh đênh qua nhiều đại dương, đứng trên nhiều tàu chiến, đã sớm giác ngộ cách mạng giải phóng dân tộc, sớm trưởng thành trên các mặt trận Buôn Ma Thuột, đường 14, đường 19 kéo dài; được giao các chức vụ Chỉ huy trưởng, Chỉ huy phó mặt trận, Chi đội trưởng, Chi đội phó, Tham mưu trưởng Đại đoàn 23. Đồng chí Phạm Văn Đồng đại diện Trung ương Đảng, Chính phủ ở miền Nam Trung Bộ chính thức báo anh Phát, được điều về quê hương Quảng Nam - Đà Nẵng chiến đấu, làm Chỉ huy phó mặt trận; Bộ chỉ huy Khu 5 chính thức giao nhiệm vụ.
   
                 Với trách nhiệm Chỉ huy phó mặt trận Quảng Nam - Đà Nẵng, anh Phát kiểm tra nhiệm vụ giữ đèo Hải Vân có giá trị chiến lược của Tiểu đoàn 19, kiểm tra Tiểu đoàn 17 và Tiếu đoàn 18 đang sẵn sàng chiến đấu ở trung tâm thành phố. Tình hình cuối năm 1946 rất khẩn trương. Địch đã gây ra vụ thảm sát ở Hải Phòng, và chắc ở Đà Nẵng, chúng không để ta yên. Cuộc chiến nhất định sẽ nổ ra. Địch mới tăng quân ở Đà Nẵng. So sánh lực lượng, về chủ lực thì địch mạnh hơn ta 4-5 lần, nhưng ta có dân quân tự vệ, có nhân dân, ta đánh địch trên đất ta. Thế ta mạnh hơn địch. Chúng tôi ráo riết hoàn chỉnh kế hoạch chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng chờ lệnh và tránh bị địch khiêu khích; bổ sung kế hoạch chủ động đánh địch của cấp trên.
   
                 Anh Phát đến Tiểu đoàn bộ Tiểu đoàn 18 ở 18 phố Ga (nay là trụ sở Hội Nông dân tỉnh). Anh rất cởi mở, gần gũi. Tôi báo cáo kế hoạch chủ động nổ súng khi có lệnh: trinh sát bám sát ban đêm, ém sẵn canh các kho đạn, kho xăng ở cảng. Một đại đội tiềm nhập nằm im sát tường bao đồn khố đỏ (nay là Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh), lợi dụng sơ hở bất ngờ diệt lính gác, đại bộ phận đánh thẳng vào đồn, xả súng, ném lựu đạn. Với so sánh lực lượng địch, ta lúc bấy giờ, nếu chủ động nổ súng cũng chỉ phá hủy được một số kho, tiêu hao một bộ phận sinh lực địch, cầm chân chúng trong một thời gian trong trung tâm thành phố và ngoại vi, để cho nhân dân kịp tản cư, và để phía sau tranh thủ thời gian tổ chức kháng chiến. Tôi báo cáo việc giao nhiệm vụ mấy đường phố cho một số trung đội chiến đấu. Anh Phát liền hướng dẫn cho dân quân tự vệ đục tường nhà này sang nhà khác để tiện cơ động an toàn; chuẩn bị sẵn lỗ châu mai để kiểm soát con đường. Tôi tranh thủ báo cáo luôn: vừa qua các đại đội của Tiểu đoàn có giúp huấn luyện dân quân các xã. Tiểu đoàn có cử một tổ do đồng chí Vĩnh Hiếu, cán bộ đại đội, tìm đường mòn vượt qua dãy núi Phước Tường - Nghị An và đi lên Phú Túc tìm hiểu đường sá, tình hình đồng bào các dân tộc. Anh chăm chú nghe, ít nói, chỗ nào đồng tình thì gật đầu. Thời gian làm việc không nhiều, nhưng cảm. giác tiếp xúc đầu tiên, tôi rất mến anh Phát, anh có tác phong gần gũi, có kinh nghiệm chiến đấu, và rất khiêm tốn.
   
                 Ngày 19 tháng 12 năm 1946, toàn quốc kháng chiến bùng nổ; lúc 14 giờ, lãnh đạo tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (thành phố Đà Nẵng sáp nhập với tỉnh Quảng Nam) mở cuộc họp khẩn cấp ở 18 phố Ga, sở chỉ huy phía trước của Tiểu đoàn 18, để thống nhất kế hoạch hành động theo lệnh của Thường vụ Trung ương Đảng, Bộ Quốc phòng. Nhân dân Đà Nẵng từng bước bí mật ra khỏi thành phố. Trung đoàn bộ Trung đoàn 96 từ vùng chợ Mới Hòa Vang dời về khu doanh trại Nhật cũ ở ngã tư Yên Khê, có sở chỉ huy hậu phương của Tiểu đoàn 18 đã ở đó. Ban chỉ huy Mặt trận Quảng Nam - Đà Nẵng mới được thành lập, cũng về đứng bên cạnh Trung đoàn bộ Trung đoàn 96, để sử dụng chung điện đài cơ yếu mật mã.
   
                 Đêm ngày 19 tháng 12 năm 1946, tôi triển khai lực lượng bố trí sát nách địch để thực hiện kế hoạch chủ động nổ súng và chờ hiệu lệnh. Dân quân du kích hiệp đồng chặt cây, làm chướng ngại vật trên suốt con đường từ thành phố ra ngã tư Yên Khê. Hiệu lệnh chủ động tiến công là tiếng súng nổ ở sân bay, tiếng bom nổ ở nhà máy điện. Đồng chí Trần Thùy, Trung đoàn trưởng được lệnh đến ngay sân bay truyền đạt lệnh nổ súng, làm hiệu lệnh chung cho cả thành phố. Thời gian trôi nhanh: 2 giờ, rồi 4 giờ vẫn im lặng, 5 giờ sắp sáng, theo kế hoạch một đại đội của Tiểu đoàn 18 áp sát tường bao đồn khố đỏ, bí mật rút lui về giữ trận địa ở cầu Vồng cách đồn khố đỏ hơn 500 mét. Hiệu lệnh nổ súng không được Trung đoàn trưởng phát ra. Ta không chủ động tiến công địch được, mặc dầu việc chuẩn bị đã khá chu đáo. Việc tập kích đồn khố đó, phá hủy kho tàng khu cảng, không thực hiện được
   
                 Đúng 6 giờ sáng ngày 20 tháng 12 năm 1946, một đơn vị của Pháp ra khỏi doanh trại; Đại đội 3 của Tiểu đoàn 17 nổ súng vào đơn vị này. Lập tức toàn thành phố nổ súng nhất là khu vực sân bay. Tiếng bom nổ ở nhà máy điện, công binh nổ mìn phá sập cầu Thủy Tú ở phía bắc. Đồng thời cũng đánh sập cầu Phong Lệ, Cẩm Lệ ở phía nam. Tiểu đội Nguyễn Đỏ bảo vệ trụ sở Ủy ban hành chính thành phố đã chiến đấu đến người cuối cùng. Tới ngày 21 tháng 12, hết đạn, Tiểu đội trưởng Nguyễn Đỏ từ trên lầu cao nhảy xuống hy sinh, không để cho địch bắt. Về sau tôi được biết Trung đoàn trưởng Trần Thùy đã bỏ vị trí chỉ huy, về quê thu xếp cho vợ đi sơ tán. Trung đoàn bộ và các phương tiện thông tin liên lạc đã dời chỗ mà không thông báo cho Ban chỉ huy Mặt trận. Anh Nguyễn Bá Phát từng nhận xét: “Tội lỗi nghiêm trọng của anh Thùy, khuyết điểm của Ban chỉ huy Trung đoàn 96 nói chung, khuyết điểm của Ban chỉ huy Mặt trận không thể nào bào chữa được trước lịch sử”. Anh Thùy bị cách chức, anh Nguyễn Bá Phát được cử làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 96. Anh Phát đặt cơ quan chỉ huy tiền phương của Trung đoàn tại ngã tư Yên Khê để dễ dàng chỉ huy các Tiểu đoàn 18, Tiểu đoàn 19. Chỉ huy sở của Mặt trận Quảng Nam - Đà Nẵng chuyển về Miếu Bông, phía nam cầu Cẩm Lệ. Các đồng chí Đàm Quang Trung và Huỳnh Ngọc Huệ chỉ huy toàn mặt trận. Trung đoàn 93, tạm thời trực tiếp chỉ huy Tiểu đoàn 17. Anh Phát ra lệnh: “Kiên quyết giữ vững trận địa, kềm chân quân địch để cho đồng bào kịp tản cư”. Anh có ý kiến: người chỉ huy phải ở với đơn vị có nhiệm vụ quan trọng nhất, nơi đánh nhau quyết liệt nhất. Anh cùng tôi xuống tận Đại đội 4, Đại đội 5 đang quần nhau với địch ở sân ga và đường về chợ Cồn. Sự xuất hiện của chỉ huy cấp trên đã làm cho chiến sĩ phấn chấn, tin tưởng.
   
                 Địch khởi đầu cuộc tiến công trong thế bị động, đánh các ổ đề kháng: Ủy ban hành chính thành phố, bưu điện, Nha Thuế quan, Nha Thông tin tuyên truyền, trụ sở Mặt trận Việt Minh, tấn công các trận địa phòng thủ của ta, giải tỏa cho quân Pháp bị vây ở khu vực sân bay, cố mở đường lên ngã tư Yên Khê, đánh thông đường tiến ra đèo Hải Vân, liên lạc với quân Pháp ở Huế. Phải mất 5 ngày chúng mới chiếm được sân bay và ngã tư Yên Khê. Chúng ta đã tạo ra một thế bao vây ngăn chặn mới từ Phong Lệ qua Nghi An Phước Tường lên Hòa Mỹ Đa Phước. Thực chất đó là cuộc đọ sức giữa vũ khí tối tân của quân đội đế quốc Pháp với tinh thần cách mạng và ý chí chiến đấu không hề sợ kẻ thù hung bạo của bộ đội và nhân dân ta. Ta không chỉ đơn thuần dùng chiến thuật trận địa chiến mà còn biết dùng chiến thuật du kích. Ban đêm các tiểu đoàn phái từng tổ, phân đội vòng ra phía sau lưng địch, tiến công vào những bót gác, quấy rối, phá hoại, cắt dây điện thoại. Chúng ta đã áp dụng chiến thuật của Trung đoàn trưởng Nguyễn Bá Phát, gọi nôm na là chiến thuật “cao su đoàn ba tuyến”: tuyến phụ cận thành phố, tuyến trung gian và tuyến chân núi. Tư tưởng chiến thuật là địch có ưu thế về binh hỏa lực, đánh nống ra, ta dùng phòng ngự di động, linh hoạt chặn đánh từng bước rất kiên quyết nhưng không quyết chiến giữ đất đai. Hễ địch hết hơi dừng lại, thì ta lại quay vào sau lưng chúng, phối hợp với dân quân tự vệ, với đồng bào, đánh du kích, phục kích, tập kích tiêu hao địch cả tinh thần và vật chất. Trận tuyến ngăn chặn ở Nghi An, Phước Tường, Yên Khê ngoại vi thành phố, ta giằng co với địch nửa tháng.

Logged
loiho000
Thành viên
*
Bài viết: 162


« Trả lời #19 vào lúc: 11 Tháng Hai, 2017, 09:50:10 pm »

                 Sau khi có viện binh từ Pháp sang, ngày 7 tháng 1 năm 1947, địch mở cuộc tấn công quy mô lớn, nhằm bao vây tiêu diệt lực lượng chủ yếu của Trung đoàn 96 (Tiểu đoàn 18 và Tiểu đoàn 19). Từ chính diện ngã tư Yên Khê, một cánh quân địch chia ba mũi tiến công đột phá mạnh vào trận địa của ta, theo đường ô tô, đường xe lửa, đường ven bãi biển; một cánh quân đổ bộ lên bãi biển Phú Lộc, chiếm đồi Đa Phước, theo chân núi, đánh chiếm đèo Đại La bọc sau lưng bộ đội ta. Một cánh khác đánh chiếm các cao điểm Nghi An, Phước Tường, khống chế sân bay. Trước tình hình khó khăn nghiêm trọng đó, Trung đoàn trưởng Nguyễn Bá Phát đã sát cánh cùng Ban chỉ huy Tiếu đoàn 18 và Tiểu đoàn 19, kiên quyết đánh bại chiến thuật thâm độc bao vây tiêu diệt của giặc: “Giữ vững trận địa đến tối, không lùi bước, bảo đảm rút lui an toàn, bảo toàn lực lượng tiếp tục đánh lâu dài”. Đúng như dự kiến, trời ngã về chiều, địch dừng các cuộc tiến công. Vào đêm, cả Trung đoàn rút qua núi theo đường mòn đèo Đồng Môn. Lúc lên đỉnh đèo, Trung đoàn trưởng Nguyễn Bá Phát đi ở đoạn sau đội hình, anh bàn với tôi cho cối 60 ly bắn vào quân Pháp đóng ở đèo Đại La, gây phấn khởi cho đoàn quân lui về bên kia núi, chủ động bố trí lại đội hình bao vây ngăn chặn địch: Thạch Nham, Phú Hạ, Tùng Sơn, Quan Nam, đèo Hải Vân. Ba tiểu đoàn thống nhất dưới sự chỉ huy của Trung đoàn, chỉ huy sở ở Trúc Bàu. Tuy phòng ngự ngăn chặn, nhưng ta vẫn quán triệt tư tưởng tấn công. Tiểu đoàn 17 vận động phản kích tiêu diệt một bộ phận trên đường đèo Đại La đi Phú Hạ. Tiểu đoàn 18 tập kích tiêu diệt quân địch ban đêm cụm lại trên đồi Đa Phước. Tiểu đoàn 19 phục kích một đoàn xe địch trên đèo Hải Vân, diệt tên thiếu tá Henriette. Tự vệ thành Đà Nẵng hoạt động rầm rộ sâu vào địch hậu, vào thành phố, vào sân bay. Tuyến vây chặn này tồn tại cho đến ngày 14 tháng 3 năm 1947 khi địch mở cuộc tấn công lớn ở phía bắc sông Thu Bồn, đánh mạnh vào cả 2 tuyến vây chặn của Trung đoàn 96 và Trung đoàn 93.

                Địch mở rộng phạm vi chiếm đóng, đẩy ta ra xa để bảo vệ căn cứ Đà Nẵng. Trung đoàn trưởng Nguyễn Bá Phát luôn cùng Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 17, 18, 19 có mặt ở các trận địa ngăn chặn, chiến đấu quyết liệt nhất. Đến ngày 5 tháng 4 năm 1947, địch tiến đến Ái Nghĩa, Hà Tân, tây Đại Lộc, đến bờ bắc Thu Bồn cách Đà Nẵng 40 ki-lô-mét. Tiểu đoàn 17 vận động phục kích tiêu diệt gọn 1 cánh quân địch ở Ba Khe. Các tiểu đoàn rút về tuyến ngăn chặn ở chân núi tây bắc Hòa Vang, tây Đại Lộc. Tiểu đoàn 19 ở căn cứ Thổ Sơn, Tiểu đoàn 18 ở căn cứ Phú Túc, Đồng Xanh, Đồng Nghệ. Tiểu đoàn 17 về Trúc Hà, Chấn Sơn. Trung đoàn bộ tiền phương về Trúc Hà, bảo vệ vùng tây Đại Lộc, giữ con đường liên lạc với Khu 4 và Trung ương. Ta vừa phòng ngự ngăn chặn bước tiến của địch, vừa chủ động tiến công bằng phục kích tập kích bên sườn, sau lưng địch. Không có sự chạy dài vỡ mặt trận. Các anh chỉ huy quân sự, Trung đoàn trưởng, Tiểu đoàn trưởng càng hiểu nhau hơn, đoàn kết chặt chẽ, thực sự tôn trọng nhau, thương yêu nhau như anh em ruột thịt.
   
                Trung đoàn trưởng Nguyễn Bá Phát căn dặn các tiểu đoàn: ở tuyến ngăn chặn cuối cùng, cần giữ vững các căn cứ, cảnh giác đề phòng địch, bí mật bất ngờ thọc sâu tập kích. Từ căn cứ, ta sẽ tổ chức những trận đánh lớn sâu vào sau lưng địch.
   
                Tháng 5 năm 1947, Trung đoàn trưởng Nguyễn Bá Phát chỉ thị tôi đưa Đại đội 4 Tiểu đoàn 18 tăng cường cho Tiểu đoàn 19 phục kích ô tô trên đèo Hải Vân ngày 25 tháng 5 năm 1947 tiêu diệt 1 đại đội Lê dương với đoàn xe 10 chiếc, diệt tên đại tá Roger chỉ huy Phân khu Đà Nẵng gây tiếng vang lớn. Đến đây có sự thay đổi trong hàng ngũ chỉ huy cấp Tiểu đoàn. Đồng chí Lê Kích thay đồng chí Võ Quang Hồ làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 18, đồng chí Hồ được điều động về Khu 5 làm Giám đốc trường cán bộ Đại đội quân sự; đồng chí Lê Hữu Đức chỉ huy Tiểu đoàn 17.
   
                Đồng chí Phạm Văn Đồng, đại diện Đảng và Chính phủ ở Nam Trung Bộ đã tặng là cờ “Giữ vững” và tuyên dương: “So với toàn quốc, Mặt trận Quảng Nam - Đà Nẵng được liệt vào hàng đánh mạnh nhất, dẻo dai nhất. Anh em đã xứng đáng với Tổ quốc Việt Nam. Tôi xin tỏ lòng biết ơn và khâm phục”. Trong lễ nhận phần thưởng cao quý tổ chức trọng thể tại Trúc Hà (xã Đại Lãnh), Trung đoàn trưởng Nguyễn Bá Phát nói lên tiếng nói của cả Trung đoàn, tỏ lòng biết ơn Đảng, chính quyền địa phương, nhân dân Đà Nẵng, Hòa Vang, Đại Lộc, sự hợp đồng tác chiến của lực lượng dân quân tự vệ, của đơn vị bạn Trung đoàn 93.
   
                Tháng 9 năm 1947, Trung đoàn 96 được lệnh rút quân về Quảng Ngãi để bồi dưỡng củng cố. Tiểu đoàn 19 hình thành một Tiểu đoàn chủ lực đầu tiên của Khu 5. Tiểu đoàn 17 và Tiểu đoàn 18 được tổ chức lại thành Tiểu đoàn 79 nằm trong Trung đoàn 126 của tỉnh Quảng Ngãi, do đồng chí Phạm Kiệt làm Trung đoàn trưởng, đồng chí Nguyễn Bá Phát làm Trung đoàn phó, nhưng được Bộ Chỉ huy Khu trực tiếp sử dụng.
   
                Tôi được biết ngày 24 tháng 1 năm 1949, đồng chí Nguyễn Bá Phát, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 108 địa phương tỉnh, trực tiếp chỉ huy 2 tiểu đoàn chủ lực của Khu đánh thắng trận phục kích lớn nhất trên đèo Hải Vân. Tiểu đoàn 19 diệt đoàn xe ô tô 18 chiếc trên quốc lộ 1. Tiểu đoàn 79 diệt đoàn xe lửa quân sự trên đường sắt đều thu quân lên căn cứ an toàn. Nhưng địch đã nhanh chóng rải một lực lượng lớn dọc theo hữu ngạn sông Trường Định, bịt kín đường về của bộ đội ta, hòng tiêu diệt quân ta vượt sông thượng nguồn hoặc hãm chủ lực ta thiếu lương thực. Trong cảnh hiểm nghèo, đồng chí Phát vững tin ở lòng dân, dựa vào dân, táo bạo cho Trung đoàn vượt Trường Định một đêm (27-1-1949) sát cửa sông, gần đồn Quan Nam, nhờ dân chèo 30 chiếc thuyền nan chở bộ đội, nhờ dân quân tiếp tế, dẫn đường, canh gác, cảnh giới. Các trận phục kích tiêu diệt, phá hủy ô tô, tàu lửa, diệt tên quan năm Roger trên đèo Hải Vân, được Hồ Chủ tịch biểu dương: “Những trận chiến đấu đèo Hải Vân, Đồng Tháp Mười, Sài Gòn, Đà Lạt đã làm cho địch kinh hồn, mất vía”.
   
                Trung đoàn 210 chủ lực đầu tiên của Khu 5 gồm Tiểu đoàn 19, Tiểu đoàn 79, Tiểu đoàn 50 do tôi làm Tiểu đoàn trưởng. Đồng chí Nguyễn Bá Phát phó chỉ huy chiến dịch, đưa cán bộ tiểu đoàn, đại đội ra chân đèo Hải Vân định chuẩn bị chiến trường cho trận phục kích lớn, nhưng bị lộ, không thực hiện được. Sau một thời gian chuẩn bị, nắm vững tình hình địch, anh Nguyễn Bá Phát đề nghị ngày 5 tháng 2 năm 1950 đánh trận vận động phục kích ở Thanh Quýt xã Điện Hòa trên quốc lộ 1, nằm giữa 2 đồn địch, vững tin việc nhân dân giữ bí mật tuyệt đối cho bộ đội. Tiểu đoàn 19 chặn đầu nếu địch từ Đà Nẵng vào. Tiểu đoàn 79 chặn đầu nếu địch từ trong ra. Tiểu đoàn 50 làm dự bị, có một đại đội bố trí phía đông đường cái, vít không cho địch chạy thoát. Đồng chí Nguyễn Bá Phát trực tiếp chỉ huy trận đánh. Cả một trung đoàn ta nằm giữa hai đồn địch, ngay cạnh quốc lộ 1 mà vẫn giữ bí mật tuyệt đối. Sau khi nổ súng, đồng chí Phát lệnh cho tôi điều động đại đội hỏa lực của Tiểu đoàn, dùng súng cối 81 bắn dồn dập vào đồn Quá Giang bảo đảm an toàn cho việc thu dọn chiến trường. Ta tiêu diệt hoàn toàn đoàn xe 14 chiếc. Quân Pháp ở Đà Năng cách đó hơn 10 ki-lô-mét đã phải chịu bó tay. Chiến thắng Thanh Quýt đã vang động vùng tạm chiếm đến vùng tự do về sự tài trí dũng cảm của bộ đội Cụ Hồ, về hình ảnh tuyệt vời của chiến tranh nhân dân. Chúng tôi tin tưởng tuyệt đối sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ.
   
                Năm tháng đi qua, nhưng còn đọng mãi trong lòng chúng ta sự biết ơn nhân dân, Đảng bộ các địa phương đã cưu mang, tận tình giúp đỡ tạo điều kiện để Trung đoàn hoàn thành nhiệm vụ trên chiến trường. Chúng ta bùi ngùi nhớ lại anh em đã ngã xuống. Chúng ta tưởng nhớ thương tiếc và biết ơn những đồng chí chỉ huy đã qua đời, Trung đoàn trưởng Nguyễn Bá Phát, Nguyễn Minh Châu, Tiểu đoàn trưởng Giáp Văn Cương, Lê Kích đã có nhiều cống hiến cho chiến thắng vang dội của Trung đoàn 96. Riêng tôi, được chiến đấu nhiều bên cạnh anh Phát. Tôi mến phục anh là một chỉ huy dũng cảm, mưu trí gương mẫu, sâu sát, đồng cam cộng khổ, giàu tư tưởng tiến công, tin tưởng sâu sắc lòng dân, biết dựa vào dân, lắng nghe ý kiến cán bộ cấp dưới.

                                 
V.Q.H



(1). Nguyên Tiểu đoàn trướng Tiểu đoàn 18 Trung đoàn 96 anh hùng.




Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM