Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 04:30:40 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Thiếu tướng Nguyễn Bá Phát - Vị tướng tài trí  (Đọc 15538 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
loiho000
Thành viên
*
Bài viết: 162


« vào lúc: 09 Tháng Hai, 2017, 07:44:37 pm »

         


Thiếu tướng Nguyễn Bá Phát
vị tướng tài trí



* CHỈ ĐẠO NỘI DUNG:
   - Trung tướng Phó Giáo sư LÊ HỮU ĐỨC
   - Thiếu tướng VÕ QUANG HỒ
   - Thiếu tướng HOÀNG KIM

* SƯU TẦM, TUYỂN CHỌN:
   - Nhà báo TẠ XUÂN LINH

* NHÀ XUẤT BẢN:
   QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN

* NĂM XUẤT BẢN: 2008

* SỐ HÓA:
   - Scan: ptlinh
   - Ebook: Cao Trung Hiếu
   https://www.facebook.com/dragunov.svd.16



« Sửa lần cuối: 11 Tháng Năm, 2020, 06:12:45 am gửi bởi Giangtvx » Logged
loiho000
Thành viên
*
Bài viết: 162


« Trả lời #1 vào lúc: 09 Tháng Hai, 2017, 07:46:54 pm »

LỜI GIỚI THIỆU

                  Thiếu tướng Nguyễn Bá Phát (1921 - 1993), tên gọi thân thương là anh Bảy Phát, một người con ưu tú của quê hương xứ Quảng bất khuất, kiên trung. Ông nguyên là Tư lệnh Quân chủng Hải quân kiêm Quân khu Đông Bắc, nguyên Thứ trưởng Bộ Hải sản.

                    Sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng ở xã Hòa Liên, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng, ngay sau ngày Cách mạng tháng Tám 1945 thành Công, ông hăng hái gia nhập hàng ngũ quân đội Cách mạng, trực tiếp cầm súng chiến đấu bảo vệ quê hương.

                    Trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ, khói lửa chiến tranh đã đào luyện ông từ một người lính can trường, trở thành một vị chỉ huy tài trí, mưu lược, quyết đánh và biết thắng kẻ thù. Tên tuối Nguyễn Bá Phát gắn liền với những chiến công vang dội của quân và dân Liên khu 5 thời kỳ chống Pháp, cũng như những chiến công oai hùng của quân và dân miền Bắc thời đánh Mỹ. Những địa danh nối tiếng như: đèo Hải Vân, Xuân Thiều, Gò Cà, Thanh Quýt, sông Trường Định,      v. v…. mãi mãi ghi sâu chiến công, trí thông minh và lòng quả cảm tuyệt vời của Nguyễn Bá Phát.
   
                    Đặc biệt, Thiếu tướng Nguyễn Bá Phát là người có công lớn trong việc đặt nền móng xây dựng Hải quân nhân dân Việt Nam. Chiến công vang dội của bộ đội Hải quân (1964) đánh đuổi tàu khu trục Ma-đốc của Mỹ xâm phạm lãnh hải; huyền thoại đường mòn Hồ Chí Minh trên biển, với những đoàn tàu không số vận chuyến vũ khí cho chiến trường miền Nam; việc rà phá thủy lôi chống phong tỏa cảng Hải Phòng, v. v... Sẽ mãi là niềm tự hào trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta. Thiếu tướng Nguyễn Bá Phát vinh dự được Đảng và Nhà nước ta truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học quân sự đợt đầu tiên. Tên ông đã được đặt cho một đường phố chính ở thành phố Đà Nẵng, quê hương ông.
   
                    Kỷ niệm 14 năm ông đi xa, nhiều tướng lĩnh, đồng chí và bạn bè ông đã phối hợp với Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, tổ chức sưu tầm, biên soạn và xuất bản cuốn sách “Thiếu tướng Nguyễn Bá Phát, vị tướng tài trí”.
   
                    Với tình cảm chân thành, với lối viết mộc mạc, giản dị, các tác giả đã góp phần khắc họa chân dung Thiếu tướng Nguyễn Bá Phát một cách trung thực, sinh động và hấp dẫn.
   
                    Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc!


                                     
 NHÀ XUẤT BẢN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN

Logged
loiho000
Thành viên
*
Bài viết: 162


« Trả lời #2 vào lúc: 09 Tháng Hai, 2017, 07:53:06 pm »

MỘT NGƯỜI CON TIÊU BIỂU CỦA LIÊN KHU 5, MỘT VỊ TƯỚNG TÀI TRÍ
Đại tướng Võ Nguyên Giáp

                 Đồng chí Nguyễn Bá Phát đã giác ngộ cách mạng tham gia tự vệ bí mật của Việt Minh từ tháng 6 năm 1945, tham gia Tổng khởi nghĩa ở quê hương, gia nhập Vệ quốc đoàn, xung phong Nam tiến là đội viên rồi đội trưởng thủy đội Bạch Đằng, Qui Nhơn (9-1945).

                  Sau ngày toàn quốc kháng chiến đồng chí đã lăn lộn chiến đấu ở chiến trường Liên khu 5 qua các cương vị: cán bộ Phòng Tham mưu Liên khu, Phó chỉ huy quân sự mặt trận Quảng Nam - Đà Nẵng, chỉ huy trưởng mặt trận Ban Mê Thuột - Đường 14, là trung đoàn trưởng các trung đoàn 96, 93, 108 chủ lực Liên khu 5. Từ năm 1951 đến 1954 đồng chí là Tham mưu phó, rồi Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Liên khu 5, Tham mưu trưởng Mặt trận bắc Tây Nguyên. Đồng chí đã dũng cảm, mưu trí chỉ huy các đơn vị lập được nhiều chiến công vẻ vang góp phần xứng đáng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
   
                  Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, đồng chí Nguyễn Bá Phát đã trải qua các cương vị: Sư đoàn trưởng Sư đoàn 305 (1954), Cục phó Cục Phòng thủ bờ biển (1955), Cục phó Cục Hải quân (1959), Đại tá Tư lệnh Hải quân (1964), tháng 3 năm 1965 Thiếu tướng Tư lệnh Hải quân cho đến năm 1976. Đồng chí Nguyễn Bá Phát là người có nhiều công lao xây dựng bộ đội Hải quân từ đầu cho đến khi trở thành Quân chủng Hải quân nhân dân Việt Nam phát triển vững mạnh. Đồng chí đã cùng các đồng chí trong Đảng ủy, Bộ Tư lệnh lãnh đạo chỉ huy Quân chủng Hải quân vượt qua mọi khó khăn, nêu cao tinh thần quyết chiến, quyết thắng, tự lực tự cường, chủ động, sáng tạo, chiến đấu dũng cảm và mưu trí, lập được nhiều chiến công oanh liệt, góp phần to lớn vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc.
   
                  Thiếu tướng Nguyễn Bá Phát nguyên Tư lệnh Hải quân là một người cộng sản trung kiên, một người con trung hiếu của Liên khu 5, một vị tướng tài trí của quân đội ta, có nhiều công lao đối với Quân chủng Hải quân nhân dân Việt Nam. Tôi nhớ mãi Thiếu tướng Tư lệnh Hải quân Nguyễn Bá Phát, người đồng chí thân thiết mà tôi luôn tin tưởng mỗi lần trao nhiệm vụ cho đồng chí. Nhân dịp này, tôi thân ái gửi lời thăm hỏi ân cần đến gia đình đồng chí.


Hà Nội, ngày 10 tháng 8 năm 2007
Đại tướng VÕ NGUYÊN GIÁP

Logged
loiho000
Thành viên
*
Bài viết: 162


« Trả lời #3 vào lúc: 09 Tháng Hai, 2017, 08:05:10 pm »

ĐỒNG CHÍ NGUYỄN BÁ PHÁT NÓI VỀ ĐƠN VỊ VÀ BẢN THÂN MÌNH

                 Theo yêu cầu của Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh nhà, với trách nhiệm của một cán bộ bản địa chuyên trách về quân sự tại mặt trận Quảng Nam - Đà Nẵng, trong suối thời kỳ kháng chiến chống xâm lược Pháp, tôi xin cung cấp một số tài liệu quân sự mà tôi biết và bản thân có tham gia. Trước khi đi vào nội dung chủ yếu của vấn đề, tôi xin phác qua quá trình tham gia cách mạng và một số công tác chính của tôi trong thời kỳ đó.

                   Tháng 6 năm 1945, tôi giác ngộ cách mạng được kết nạp vào tổ chức Thanh niên Cứu quốc và tự vệ bí mật địa phương. Sau đó, tôi được cử đi học lớp quân sự. Học xong tôi được cấp trên chỉ định làm chỉ huy trưởng lực lượng tự vệ tổng Thái Hòa.
   
                   Cách mạng tháng Tám năm 1945, tôi tham gia khởi nghĩa cướp chính quyền ở tổng. Chẳng bao lâu sau, tôi về xã làm ủy viên quân sự. Lúc này anh ruột và chị ruột tôi cũng có chân trong Ủy ban nhân dân Cách mạng lâm thời của xã.
   
                   Tháng 9 năm 1945, tôi xin gia nhập Vệ quốc đoàn tại Đà Nẵng và cũng ở đây, tôi tình nguyện tham gia thủy đội Bạch Đằng. Đến tháng 10 năm 1945, cả đơn vị này đi Nam tiến trong khí thế cách mạng đang lên cao.
   
                   Đơn vị của chúng tôi vào đến Qui Nhơn thì dừng lại để luyện tập. Lúc này bọn Nhật còn đóng ở đây để chờ quân Anh ra giải giáp.
   
                   Sự kiện ngày 23 tháng 5 năm 1945 ở Nam Bộ đã cho ta thấy toàn bộ âm mưu của bọn đế quốc. Để ngăn chặn tai họa đó có thể diễn ra ở khu vực này, đơn vị của chúng tôi được lệnh của cấp trên tiến công quân Nhật đóng tại Qui Nhơn. Trận thử lửa đầu tiên này đã đưa đơn vị của chúng tôi vào chi viện cho mặt trận Nha Trang, sau khi mặt trận này bị vỡ, tôi trở ra Bình Định và Phú Yên.
   
                   Lúc này tôi được đề bạt làm chỉ huy phó chi đội Phan Đình Phùng. Khoảng tháng 5 năm 1946, tôi được chỉ định làm Chỉ huy trưởng mặt trận Buôn Ma Thuột. Cũng trong thời gian này tôi gặp Tiểu đoàn Phan Thanh tại mặt trận Bôkeo.
   
                   Trong lúc Hội nghị Phông-ten-nơ-bờ-lô đang họp, thì quân Pháp từ Buôn Ma Thuột tiến công ra Pleiku và Kon Tum - Đại đoàn 23 do đồng chí Đào Văn Trương làm Tư lệnh trưởng, đồng chí Trần Lương làm Chính ủy và tôi làm Tham mưu trưởng được lệnh rút về Bình Định để chỉnh đốn lại lực lượng.
   
                   Do nhu cầu công tác, cấp trên điều tôi về nhận nhiệm vụ tại Ủy ban kháng chiến miền Nam Trung Bộ, chuyên trách công tác phá hoại. Lúc này, tôi có dịp về tỉnh nhà gặp Ủy ban kháng chiến Quảng Nam - Đà Nẵng để bàn kế hoạch phá hoại hệ thống cầu dọc quốc lộ số 1 và đường sắt.
   
                   Khoảng tháng 10 năm 1946, tôi được bổ nhiệm làm chỉ huy mặt trận An Khê.
   
                   Đầu tháng 12 năm 1946, sau khi gặp đồng chí Phạm Văn Đồng tại tỉnh Quảng Ngãi, tôi được điều ra mặt trận Quảng Nam - Đà Nẵng làm chỉ huy phó Ban Quân sự tỉnh. Ủy ban này do đồng chí Đàm Quang Trung làm Chỉ huy trưởng, đồng chí Huỳnh Ngọc Huệ làm Chính ủy.
   
                   Sau tiếng súng kháng chiến nổ, ngoài chức trách Chỉ huy phó Ủy ban Quân sự, tôi còn kiêm nhiệm Chỉ huy trưởng Trung đoàn 96.
   
                   Đến tháng 1 năm 1947, Trung đoàn này được lệnh rút vào Quảng Ngãi để củng cố lực lượng, sau thời gian chiến đấu dũng cảm nhằm ngăn chặn bước tiến của quân thù.
   
                   Mùa hè năm 1948, theo lệnh của cấp trên, tôi đưa 2 Tiểu đoàn khá mạnh của Trung đoàn 96 ra hoạt động Quảng Nam - Đà Nẵng. Khoảng tháng 10 năm 1948, tôi thay đồng chí Đàm Quang Trung làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 108 kiêm Chỉ huy trướng mặt trận Quảng Nam - Đà Nẵng.
   
                   Đầu năm 1950, tôi được bổ nhiệm làm chỉ huy trưởng Trung đoàn 108 (đơn vị chủ lực của Quân khu). Cuối năm 1950, Trung đoàn này được lệnh ra hoạt động ở chiến trường Quảng Nam - Đà Nẵng.
   
                   Sau một thời gian hoạt động ở tỉnh nhà, đơn vị của chúng tôi lại rút vào Quảng Ngãi rồi chuyển lên Tây Nguyên tiêu diệt tiểu khu Konplong, mở đầu chiến thuật đánh công kiên trên chiến trường Liên khu 5. Cũng trong lúc này, Tiểu đoàn 59 được điều ra Quảng Nam - Đà Nẵng đánh sụp một lúc 8 tháp canh, mở ra phương hướng phá vỡ hệ thống tháp canh Đờ La-tua của địch.
   
                   Năm 1951, do nhu cầu công tác, cấp trên điều tôi về làm Tham mưu phó Quân khu. Giữa năm 1952, tôi trở ra Quảng Nam - Đà Nẵng cũng với một Trung đoàn chủ lực mở chiến dịch hè, nhằm tiêu diệt sinh lực địch, và thúc đẩy phong trào du kích chiến tranh ở tỉnh nhà tiến lên. Chiến dịch này do đồng chí Búi San làm chính ủy, đồng chí Trần Lê phụ trách chủ nhiệm chính trị.
   
                   Năm 1954, tôi được đề bạt Tham mưu trưởng Quân khu cho đến khi kết thúc chiến tranh.


                   Một số đặc điểm của tỉnh nhà trước khi tiếng súng kháng chiến bùng nổ
   
                   Quảng Nam - Đà Nẵng là một trong những tỉnh lớn ở Trung Bộ, dân số đông, tài nguyên phong phú. Riêng Đà Nẵng một thành phố nhượng địa của Pháp trước kia - chiếm một vị trí khá quan trọng về mặt quân sự ở miền Trung Đông Dương. Vì nó là hải cảng lớn và là căn cứ đầu cầu để triển khai lực lượng đánh chiếm Trị Thiên, và một số tỉnh của Khu 5, Tây Nguyên và Hạ Lào.
   
                   Một thành phố nằm trên vĩ tuyến 16 này đã chứng kiến bao sự kiện thay đổi: hết Pháp đến Nhật, Nhật đi quân Tưởng rồi bọn Pháp quay trở lại. Một số phần tử phản cách mạng và một số tên tay sai cũng ngo ngoe ngóc đầu dậy, nhưng đều bị ngọn triều cách mạng cuốn phăng đi.
   
                   Nhân dân tỉnh nhà có truyền thống đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm. Sau ngày 19 tháng 8 năm 1945, chính quyền cách mạng được thành lập ở khắp nơi và ngày càng vững mạnh. Chính quyền đó có đầy đủ uy thế và nghị lực để huy động quần chúng bảo vệ thành quả cách mạng vừa mới giành được.
   
                   Trình độ giác ngộ của quần chúng nhân dân khá cao, ai nấy đều gia nhập các tổ chức cứu quốc, tham gia dân quân tự vệ, một lòng một dạ bảo vệ và xây dựng chính quyền của mình.
   
                   Lực lượng quân sự của ta ở đây cũng khá mạnh ngoài Trung đoàn 93 của tỉnh nhà, cấp trên đã điều ra một trung đoàn chủ lực (Trung đoàn 96). Về trang bị và kỹ thuật tác chiến tuy còn kém, nhưng tinh thần chiến đấu thì rất cao.
   
                   Do vị trí rất quan trọng của Quảng Nam – Đà Nẵng (đặc biệt là Đà Nẵng) cho nên về phía địch, chúng tìm cách gia tăng lực lượng, tạo mọi điều kiện để đánh chiếm. Về phía ta thì Trung ương, Xứ ủy và Liên khu ủy cũng đặc biệt coi trọng, tăng cường cán bộ chỉ đạo về chính trị và quân sự, đưa Trung đoàn 96 ra làm nhiệm vụ tiếp phòng quân, hằng ngày, hằng giờ có ý kiến chỉ đạo đối phó với mọi tình huống xảy ra. Qua một số tình hình đặc điểm nói trên, thấy rõ tính chất gay go và quyết liệt của cuộc đấu tranh giữa ta và địch và cũng qua đó làm nổi lên một số điều kiện thuận lợi và một số yếu tố quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân xâm lược Pháp.


*
*     *

                   Tình hình ở những nơi có quân đội Pháp đóng ngày một căng thẳng. Sau Tạm ước 14-9-1946, mức độ căng thẳng lại tăng lên, nghiêm trọng nhất là Hà Nội, Hải Phòng, Lạng Sơn. Đà Nẵng cũng nằm trong tình hình chung đó.
   
                   Sau khi nhận huấn thị của đồng chí Phạm Văn Đồng, đầu tháng 12 năm 1946 tôi nhận lệnh về tỉnh nhà nhận công tác. Qua tìm hiểu tình hình ở Ty Liên kiểm quân sự Việt - Pháp, tôi mới thấy hết trách nhiệm nặng nề của mình.
   
                   Lúc bấy giờ, bọn Pháp đóng quân ở Trẹm, sân bay Tháp Chàm thành phố Đà Nẵng. Bọn Pháp kiều thì ở đồn về phía ngã 5. Quân số của chúng cứ một ngày tăng lên, đến trước ngày tác chiến lực lượng của chúng có khoảng 5.000 tên trang bị vũ khí hiện đại.
   
                   Còn ta thì có quân tiếp phòng đóng xen kẽ với chúng. Tiểu đoàn 17 đóng tại Bình Hòa (giữa sân bay và thành phố). Tiểu đoàn 18 đóng ở phía nhà ga. Tiểu đoàn 19 chia làm hai bộ phận: một bộ phận đóng phía đèo Hải Vân và một bộ phận đóng tại Nghi An (phía tây sân bay). Thế trận đôi bên đều ở tình trạng sẵn sàng chiến đấu.
   
                   Ngoài những âm mưu và thủ đoạn chính trị như: gây cơ sở tình báo, dùng tiền tài mua chuộc, lôi kéo những tên tay sai cũ... chúng còn tăng quân số đòi triển khai lực lượng gây ra nhiều vụ khiêu khích, tạo điều kiện để tiến công tiêu diệt lực lượng ta. Nghiêm trọng nhất là vụ xé cờ của ta tại trụ sở mặt trận Việt Minh thành phố, gây nên sự phẫn uất cao độ trong quần chúng nhân dân.
   
                   Trước tình hình đó, thi hành mật lệnh của cấp trên, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy và Thành ủy, quân và dân Quảng Nam - Đà Nẵng đã khẩn trương và tích cực chuẩn bị mọi điều kiện cho cuộc kháng chiến.
   
                   Ủy ban Quân sự tỉnh được thành lập, đóng tại ngã tư Yên Khê. Ủy ban hành chính thành phố đã dời ra ngoại thành. Một bộ phận nhân dân đã được tản cư. Trên những con đường nhỏ từ chợ Cồn đi chợ Mới, từ ngã năm lên Sở Tám Gian... mọc lên những chướng ngại vật. Các cầu quan trọng Thủy Tú, Kỳ Lam, Cẩm Lệ, Câu Lâu, Vĩnh Điện... đều đã có kế hoạch phá hoại. Những cơ sở sản xuất vũ khí đều được chuyến đến nơi an toàn. Ta cũng đưa một số cán bộ đi chuẩn bị cơ sở hậu phương, xây dựng căn cứ địa.
   
                   Về mặt trận địch vận, ta cũng đã in truyền đơn kêu gọi binh lính địch. Các em thiếu nhi dùng truyền đơn đó gói bánh mì bán cho bọn chúng. Bắt được truyền đơn, bọn sĩ quan địch đã đưa đến kiện tại cơ quan Liên kiểm quân sự Việt - Pháp.
   
                   Về cơ sở ngầm, ta cũng đã đưa người của ta vào làm bồi bếp cho bọn sĩ quan địch để chờ cơ hội ám hại chúng ở ngoại vi thành phố dân chúng đã được lệnh chuẩn bị tản cư, làm vườn không nhà trống.
   
                   Lực lượng vũ trang của ta, Tiểu đoàn 17 và Tiểu đoàn 18 đã phối hợp với tự vệ Thành triển khai đội hình trên các đường phố chính. Ở các công sở quan trọng của ta, ngã năm, nhà máy đèn, nhà ga. Một số bộ phận quân ta, ban đêm đã vào tận sào huyệt địch: sân bay, đồn, trại... và luôn ở tư thế sẵn sàng chiến đấu.
   
                   Tình hình nghiêm trọng như thế, song cơ quan Liên kiểm quân sự vẫn còn hoạt động, bộ đội ta và quân Pháp ban đêm vẫn đi tuần như thường lệ.
   
                   Ngày 15 tháng 12 năm 1946, tôi đi tây bắc Hòa Vang, Nghi An, Cẩm Lệ, Thanh Quýt để kiểm tra kế hoạch tác chiến và kế hoạch phá hoại hệ thống cầu. Đến ngã tư Yên Khê, tôi gặp các đồng chí trong Ủy ban Quân sự đang họp. Cuộc họp quan trọng này có mặt các đồng chí: Trương Quang Giao, Vũ Khương Ninh, Huỳnh Ngọc Huệ, Nguyễn Thúy, Đàm Quang Trung, v.v... đã quyết định một số phương hướng công tác như sau: 
   
                   - Tích cực và khẩn trương chuẩn bị, sẵn sàng đợi lệnh tiến công tiêu diệt địch, nhưng hết sức tránh khiêu khích.
   
                   - Chuẩn bị điều kiện rút về nông thôn xây dựng căn cứ địa để kháng chiến lâu dài.


Logged
loiho000
Thành viên
*
Bài viết: 162


« Trả lời #4 vào lúc: 09 Tháng Hai, 2017, 08:09:49 pm »

                   Diễn biến của quá trình kháng chiến ở Quảng Nam - Đà Nẵng
   
                   Hơn 10 giờ ngày 19 tháng 12 năm 1946, đồng chí Nguyễn Chánh và anh Cao Văn Khánh ở Quân khu nói chuyện bằng điện thoại với chúng tôi đại để ra lệnh nổ súng tấn công địch.
   
                   Ngay sau đó, chúng tôi họp tại ngã tư Yên Khê, có mặt các đồng chí: Huỳnh Ngọc Huệ, Trần Đình Tri, Đàm Quang Trung, Nguyễn Bá Phát, Trần Thùy, Nguyễn Hữu Thành... để quyết định một số vấn đề cụ thể:
   
                   1. Đúng 12 giờ đêm nổ súng đánh chiếm sân bay nhà bọn Pháp kiều tại ngã năm làm hiệu lệnh cho c nơi khác tấn công địch.
   
                   2. Đổi Trung đoàn bộ Trung đoàn 96 lên phía Khánh Sơn, còn Trung đoàn bộ 93 thì vẫn bố trí phía trong Cẩm Lệ.
   
                   3. Ra lệnh phá các cầu quan trọng, chặt cây ngăn đường và sơ tán những ai còn trong thành phố.
   
                   Trong lúc chúng tôi đang họp thì anh Hà Văn Lâu điện vào cho biết Huế đã nổ súng và nhờ phá sập cầu Thủy Tú.
   
                   Thế là mệnh lệnh tấn công tiêu diệt địch đã lan ra, lực lượng của ta đã triển khai và bố trí ở những nơi đã định. Một số bộ phận đã bí mật vào tận sào huyệt địch. Tất cả đều sẵn sàng chờ mệnh lệnh hành động.
   
                   Nhưng mãi đến 6 giờ sáng mà vẫn chưa nghe súng lệnh nổ, các bộ phận vào tận doanh trại, đồn bốt địch đã rút về.
   
                   Sáng ra thấy đường phố vắng bóng người, nhiều chướng ngại vật mọc lên, bọn địch hoảng hốt quay điện thoại gọi cơ quan Liên kiểm quân sự, nhưng ta đã rút đi rồi.
   
                   Lúc này xe lửa không chạy nữa, ta cho ôtô chạy ra dùng địa lôi phá cầu Thủy Tú để làm hiệu lệnh.
   
                   Đến 6 giờ 30 phút ngày 20 tháng 12, tiếng súng nổ ở gần nhà máy đèn cũng trong lúc này tự vệ công nhân đã dùng bom phá hỏng nhà máy đèn. Thế là cuộc kháng chiến bắt đầu.


                     Diễn biến chiến sự trong 3 ngày đầu đánh nhau với địch trong thành phố

                   Trong ngày đầu (20-12-1946) để gỡ thế bao vây, địch tiến đánh ta trên 5 trục lớn: Mũi đánh lên nhà ga, mũi đánh lên cầu vồng, mũi đánh lên đường Con Gà (qua ngã năm), mũi từ nhà máy đèn đánh lên cơ quan Liên kiểm quân sự và mũi từ nhà Morin-surim đánh lên Cổ Viện Chàm, sân bay. Địch tiến đến đâu đều bị quân ta chặn đánh. Quân ta ở trên nhà gác ném lựu đạn xuống đường gây cho địch nhiều thương vong. Tiếng súng, tiếng lựu đạn nổ vang rền trong thành phố, những vật dụng trong nhà như bàn, ghế, giường, tủ... đều được vứt ra đường làm chướng ngại vật.
   
                   Đồng bào ta còn lại trong thành phố đều được đưa đi tản cư theo 4 hướng đã chuẩn bị trước: tây bắc Hòa Vang, Cẩm Lệ, Túy Loan, Điện Ngọc.
   
                   Trong ngày thứ hai (21-12-1946) địch cố giải tỏa thành phố, còn ta thì ra sức giữ chân địch lại. Về phía tây chúng tiến vào nhà ga, chợ Cồn. Mũi phía nam đánh lên chợ Mới Bình Hòa. Chiến sự diễn ra rất ác liệt. Địch chết rất nhiều, ta thương vong cũng khá. Trong lúc đó pháo địch ở hầm tàu bắn để uy hiếp tinh thần của quân và dân ta.
   
                   Qua ngày thứ ba (22-12-1946), địch và ta còn chạm súng ở phía tây thành phố. Chúng tập trung lực lượng đánh lên phía sân bay, gặp Tiểu đoàn 17 chặn đánh rất ác liệt. Sau ngày này, bọn địch ở thành phố đã liên lạc với sân bay, còn ta thì bị dạt ra ngoại vi (từ ngã tư Yên Khê, Nghi An, Phong Lệ xuống phía Đò Xu, An Hải).
   
                   Thế là sau 3 ngày kịch chiến, tuy địch đã giải tỏa thành phố và liên lạc với sân bay, song chúng đã bị tổn thất khá nặng. Đó là điều mà địch không lường trước được.
   
                   Lúc này thế trận của quân ta bố trí lại như sau: Tiểu đoàn 17 đóng ở Phong Lệ, Nghi An; Tiểu đoàn 18 đóng ở Hòa Mỹ, ngã tư Thanh Khê; Tiểu đoàn 19 chia làm hai bộ phận: một đại đội đóng về phía Đa Phước và một đại đội đóng phía đèo Hải Vân.
   
                   Trong thời gian từ 13-12-1946 đến 7-1-1947, ban ngày địch đánh ra phía ngã tư Yên Khê, ta dùng chiến thuật di động phòng ngự địa thế có lợi để chặn đánh địch, tối đến chúng lại rút về thành thì ta lại theo chân địch để tiêu hao sinh lực địch. Có lần ta đã vào nội thành đốt nhà ga, đánh địa lôi diệt xe địch.
   
                   Lúc này viện binh của địch đến Đà Nẵng, máy bay của chúng bắt đầu xuất hiện trên mặt trận, đại bác địch ở hầm tàu bắn lên tới tấp, tình hình chiến Sự thêm gay go ác liệt hơn. Tuy thế, trong suốt 16 ngày qua, ta và địch vẫn còn ở thế trận: địch tiến ta lui, địch lui ta tiến.
   
                   Để phá thế trận giằng co nói trên và bao vây tiêu diệt quân ta, ngày 7 tháng 11 năm 1947, địch đổ bộ lên vùng Phú Lộc, đánh gọng kìm chặn phía Đa Phước vô Đà Sơn, Đại La, đồng thời ở phía chính diện, chúng mở 3 mũi tấn công ta. Một mũi theo đường quốc lộ tiến lên Hòa Mỹ, một mũi đánh lên Nghi An và một mũi về phía Hòa An. Thế là trước mặt và sau lưng ta đều có giặc. Suốt ngày này, chiến sự diễn ra rất ác liệt, địch tiến vào đều bị ta đánh bật ra. Quân ta giữ vững vị trí chiến đấu cho đến khi được lệnh rút.
   
                   Sau trận này, địch đã giải tỏa ngoại vi thành phố, bao gồm: ngã tư Yên Khê, Hòa Mỹ, Phong Lệ, Thạch Nham, núi Phước Tường, Đại La, Đa Phước, Nam Ô, Liên Chiểu, Đồn Nhứt. Bọn địch chiếm giữ ở những nơi này nhằm bảo vệ thành phố đề phòng quân ta đánh vào hậu cứ của chúng, đồng thời chuẩn bị điều kiện đánh ra Thừa Thiên để giải vây cho Huế.
   
                   Hàng ngày, địch nống ra đánh lên các hướng Đại La, Thạch Nham, An Ngãi... còn ta thì sau khi rút ra giữ thế chặn địch lại, Tiểu đoàn 17 đóng từ Cẩm Lệ, Thạch Nham, Nghi An, Phước Tường đến Đại La; Tiểu đoàn 18 ở về phía Tùng Sơn, An Ngãi; Tiểu đoàn 19 vẫn đóng phía đèo Hải Vân, Nam Ô, Trung Sơn, Quan Nam. Một mặt ta lợi dụng địa hình lập những phòng tuyến để chặn địch lại, mặt khác, ban đêm ta cho một số bộ phận thọc vào thành phố, khu tây Hòa Vang để tiêu hao sinh lực địch. Sân bay Đà Nẵng bị ta đánh nhiều lần, có lần ta nã đại bác 75 ly thu được của Pháp vào sân bay, gây cho địch một số thiệt hại. Ta còn lợi dụng đường sắt chạy vào sân bay cho đầu máy chạy kéo theo một toa chở quả thủy lôi đã bấm giờ nổ. Nhưng do trình độ kỹ thuật còn non, tính toán chưa chính xác, cho nên chưa đến nơi thủy lôi đã nổ không gây thiệt hại gì cho địch.
   
                   Số tự vệ công nhân sau khi rút ra ngoài, đã hình thành một tiểu đoàn đóng phía Đông Sơn, An Lợi và thường đột nhập vào thành phố quấy rối địch. Dân quân du kích ngoại vi thành phố phối hợp với bộ đội diệt trừ một số tên tay sai đắc lực của địch.
   
                   Trong thời gian này, đồng bào ở nội thành rút ra và ở vùng Hòa Vang - Điện Bàn đã hăng hái tham gia phá đường, cắt dây điện thoại, tiếp tế cứu thương, ủy lạo bộ đội, v.v... đồng bào còn giúp bộ đội đào giao thông hào, xây dựng công sự dựng chướng ngại vật. Điều đó nói lên, ngay từ đầu, cuộc kháng chiến của ta chống bọn xâm lược Pháp đã mang tính chất nhân dân.
   
                   Đi đôi với các hoạt động trên, ta tiếp tục xây dựng các chiến khu ở miền Tây (Trung Man) mở 3 con đường (một liên lạc với Thừa Thiên, một với Hạ Lào và một đi về phía nam tỉnh nhà).
   
                   Sau khi đã chiếm được các vị trí phía tây và thành phố Đà Nẵng, hoạt động chủ yếu của địch lúc này là dồn lực lượng thông đèo Hải Vân và giải vây cho Huế. Ngày 17 tháng 2 năm 1947, sau khi được tăng quân, địch tiến đánh Thủy Tú, đổ bộ lên Liên Chiểu, Hải Vân. Về sau địch phải mở thêm một mũi nữa ở phía Lăng Cô đánh trở vào mới giải tỏa được đèo Hải Vân. Ngày 28 tháng 2 năm 1947, Tiểu đoàn 19 do đồng chí Cương chỉ huy đã đánh trận giao thông đầu tiên trên đèo tiêu diệt cả đoàn xe địch.
   
                   Ngay sau khi liên lạc với Thừa Thiên, địch huy động hải lục không quân mở cuộc tấn công quy mô nhằm đánh bật ta ra xa thành phố và chiếm vùng đất đai giàu có của tỉnh nhà. Từ tháng 3 năm 1947 đến tháng 6 năm 1947, địch lo củng cố hậu phương, thành lập tòa Đốc lý Đà Nẵng, tổ chức sở mật thám liên bang, ty cảnh sát, lập bang tá ở Hội An, trưởng và phó ban hội tề ở Vĩnh Điện, bắt đồng bào phải đi sửa đường, mua chuộc đồng bào hồi cư. Ta đưa cán bộ trở về củng cố chính quyền, gây lại sự hoạt động của các giới, xây dựng lại dân quân du kích. Các đội biệt động của Hòa Vang, Điện Bàn và dân quân Hội An đã bắt đầu hoạt động.
   
                   Còn lực lượng vũ trang của ta, sau khi rút khỏi thế gọng kìm bao vây của địch, thì hình thành một thế trận khác. Tiểu đoàn 17 ở hướng Đại Mỹ (Đại Lộc), Tiểu đoàn 18 lên khúc An Lợi, Phú Túc, Tiểu đoàn 19 rút lên phía Phó Nam, Nam Yên để uy hiếp lại đường đèo Hải Vân và Nam Ô. Hoạt động chủ yếu cua ta lúc này là đánh giao thông. Nhiều trận phục kích đánh xe địch đã diễn ra trên đường Vĩnh Điện - Bình Long. Trận đánh giao thông trên đèo Hải Vân lần thứ hai (23-6-1947) tiêu diệt đoàn xe địch chở đầy lính lê dương trong đó có tên quan năm Roger (chỉ huy miền Trung Đông Dương) vang dội toàn quốc.
   
                   Do có thành tích tiêu diệt địch, cho nên quân và dân tỉnh nhà được đồng chí Phạm Văn Đồng đại diện Chính phủ Trung ương tặng lá cờ có thêu 2 chữ “Giữ vững” và Trung đoàn 96 được vinh dự giữ lá cờ đó, vì đã lập được nhiều chiến công.
   
                   Đến tháng 8 năm 1947, để tiêu diệt chủ lực ta và đẩy quân ta lên núi, địch tập trung lực lượng tiến công ta trên mấy mũi: mũi tiến lên Phò Nam, Nam Yên; mũi lên phía Ngọc Sơn, Phú Túc, mũi đánh lên huyện Đại Lộc, Hà Nha, qua Phú Gia; mũi từ Tây Nguyên kéo xuống Thạnh Mỹ, Hội Khách; mũi Tây Nguyên về mũi Đại Lộc gặp nhau tại Hội Khách.
   
                   Để đối phó lại, ta chủ trương cho một bộ phận vừa đánh vừa rút lên phía Khe Dong, Phú Túc, Phú Buôn, Đồng Nghệ, An Điềm. Bộ phận còn lại thọc sâu vào vùng địch để hoạt động. Một đơn vị nhỏ của Tiểu đoàn 17 từ phía nam sông Thu Bồn rút về Trúc Hà, Đại Lãnh rồi tiến xuống vùng Ái Nghĩa, Phước Hiệp. Một bộ phận nhỏ của Tiểu đoàn 18 thọc xuống phía Túy Loan, Thạch Nham vùng Xuân Thiều, Quan Nam. Trung đoàn 96 đóng phía tây nam Bà Nà.
   
                   Các bộ phận lên núi đã khắc phục khó khăn, gian khổ làm được một số việc đáng kể, phát rẫy trồng màu, khai thông đường ra Thừa Thiên, giúp đồng bào tản cư, tăng gia sản xuất ổn định đời sống.
   
                   Lúc này, tình hình ở phía nam Thừa Thiên gặp nhiều khó khăn, thi hành chủ trương của Tỉnh ủy, ta đã giúp đỡ tỉnh bạn một số vật dụng cần thiết (quần áo, lương thực, thuốc men...) và nhất là đưa một số cán bộ người gốc Thừa Thiên về quê tham gia chiến đấu.
   
                   Khoảng tháng 10 năm 1947, quân số của địch trên chiến trường Quảng Nam - Đà Nẵng có một trung đoàn, chia ra 4 tiểu khu Tùng Sơn, Liên Chiểu, Vĩnh Điện, Ái Nghĩa. Chúng đã bắt đầu đóng một số đồn lẻ và lập tề ở một số nơi.
   
                   Lúc này, quân ta cũng chia 2 bộ phận, bộ phận lớn dựa vào rừng núi và vùng giáp ranh từ Phò Nam đến Đại Lộc để hoạt động. Bộ phận còn lại thọc xuống vùng Điện Tiến, Hòa Tiến, Trúc Bàu, Hội Vực… phối hợp với lực lượng bán vũ trang để tiêu hao sinh lực địch và diệt tề trừ gian.

Logged
loiho000
Thành viên
*
Bài viết: 162


« Trả lời #5 vào lúc: 09 Tháng Hai, 2017, 08:14:02 pm »

            Đến đây địch dừng lại để quay về bình định vùng đã chiếm được. Chúng mở nhiều cuộc càn quét nhỏ để cướp bóc, thu thuế, bắt lính, tàn sát nhân dân, bắt giết cán bộ, gây cho ta nhiều tổn thất. Chúng ra sức tuyên truyền cho chính quyền bù nhìn, lập tề xung quanh vị trí, tăng cường bảo vệ các trục giao thông quan trọng, nhất là quốc lộ số 1, đoạn đường sắt Đà Nẵng - Huế, lập vành đai bảo vệ thành phố Đà Nẵng.
   
            Đi đôi với âm mưu thủ đoạn trên, địch tăng cường đánh phá vùng giáp ranh và vùng tự do của ta, thọc lên phía Đồng Xanh, Đồng Nghệ, Bến Dầu, thọc vào Phước Chỉ, Hương An; hành quân sưu sách vùng ven biển Thăng Bình, Tam Kỳ; cho máy bay bắn phá các trục giao thông, chợ búa, nơi tập trung đồng bào tản cư, nhằm phá hoại các trục giao thông, chợ búa, phá hoại dự trữ kháng chiến của ta.
   
            Lực lượng quân sự của ta lúc này cũng được chỉnh đốn lại. Ủy ban Quân sự tỉnh đã giải thể. Trung đoàn 96 được lệnh rút vào Quảng Ngãi để củng cố. Trung đoàn 68 ở Quảng Ngãi được điều ra thay thế. Tháng 7 năm 1948, Bộ Tư lệnh Quân khu tăng cường cho mặt trận tỉnh nhà 2 Tiểu đoàn chủ lực (19 và 79 trực thuộc Liên khu). Tôi được lệnh trở về Quảng Nam - Đà Nẵng nhận công tác thì gặp lúc địch mở cuộc càn quét tương đối quy mô vào Hương An (Quế Sơn). Hai Tiểu đoàn 19 và 79 được lệnh phối hợp với Tiểu đoàn 39 (chủ lực của tỉnh) chặn đánh địch rất quyết liệt, gây cho chúng nhiều tổn thất, buộc chúng phải rút chạy, quân ta truy kích chúng đến sát Bà Rén.
   
            Trung đoàn 68 ra hoạt động chẳng được bao lâu phải rút vào vùng tự do để củng cố lại, vì phần đông cán bộ và chiến sĩ bị ốm. Sau đó, Trung đoàn này nhập với Trung đoàn 93 lập ra Trung đoàn 108 (địa phương).
   
            Trong lúc này, hoạt động của bộ đội ta chưa mạnh lắm, hoạt động của dân quân du kích tuy đều khắp, nhưng chưa đủ sức chống lại các cuộc tàn sát của địch; phong trào đấu tranh của quần chúng trên các mặt chính trị, kinh tế... đang còn yếu. Tình hình đó tạo điều kiện cho địch đánh phá ta một cách ác liệt, gây rất nhiều tổn thất và khó khăn cho ta.
   
            Có thể nói thời kỳ này là thời kỳ đau khổ nhất, bi đát nhất. Tuy nhiên phong trào du kích chiến tranh ở một số nơi như: Điện Tiến, Điện Ngọc, tây bắc Hòa Vang, tây Đại Lộc vẫn được giữ vững.
   
            Tháng 10 năm 1948, tôi thay đồng chí Đàm Quang Trung làm Chỉ huy trưởng mặt trận tỉnh nhà. Đồng chí Nguyễn Quyết làm Chính ủy.
   
            Khoảng tháng 10 năm 1948, Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng đã họp tại Phụng Loan (Thăng Bình) để nhận định tình hình và đề ra một số chủ trương công tác.
   
            Đường đèo Hải Vân là mạch máu giao thông của địch, và thành phố Đà Nẵng là vị trí chiến lược quan trọng ở miền Trung Đông Dương. Trong lúc địch tập trung lực lượng để bình định vùng bị chiếm, đánh phá vùng tự do và giáp ranh, chúng rút bộ phận quân ứng chiến ra Việt Bắc, thì tất nhiên ở hậu cứ của chúng sẽ có chỗ sơ hở tạo điều kiện thuận lợi để ta đánh uy hiếp Đà Nẵng, nhằm tiêu hao sinh lực địch, gây thanh thế cho ta, đồng thời phá kế hoạch bình định của địch và bảo vệ vùng tự do của ta.
   
            Để dìu dắt và nâng đỡ phong trào du kích chiến tranh, Tỉnh ủy quyết định thành lập ở mỗi huyện (bị chiếm cũng như tự do) một đại đội độc lập và ở tỉnh 2 tiêu đoàn tập trung (39 và 29).
   
            Thi hành chỉ thị của Liên khu ủy, Hội nghị đã quyết định mở đường sang Hạ Lào và giúp đỡ nước bạn một số điều kiện vật chất, đồng thời chuẩn bị lực lượng để chi viện cho Thừa Thiên.
   
            Việc chuẩn bị chiến trường, xây dựng cơ sở quần chúng, đặc biệt là phục vụ cho chủ lực đánh vào hậu cứ địch được các cấp ủy địa phương và các ngành liên quan xúc tiến rất khẩn trương tích cực, nhờ vậy chỉ trong vòng 2 tháng (11, 12-1948) mọi việc chuẩn bị đều căn bản hoàn thành. Việc mở đường đưa gạo ra đèo Hải Vân là việc lớn, đòi hỏi sự nỗ lực phi thường của quân và dân ta.
   
            Chuẩn bị xong, ngày 24 tháng 1 năm 1949, quân ta đánh trận giao thông lớn trên đèo Hải Vân tiêu diệt đoàn xe lửa và đoàn xe hơi 60 chiếc (diệt 13 xe) ngay đoạn đường ta tiêu diệt tên quan năm Roger năm 1947.
   
            Hoảng hốt trước sự tiến công bất ngờ của quân ta, địch vội vã rút bớt lực lượng ở các dồn phía nam Điện Bàn, Duy Xuyên, Đại Lộc... về chống đỡ, đồng thời, chúng tập trung lực lượng khá mạnh vây bọc chủ lực của ta từ ngã ba Chánh Kế đến Quan Nam, Nam Ô, lấy sông Thủy Tú chặn đường rút lui của ta. Địch chỉ để hở một đoạn đường mà chúng đã bình định. Khúc sông ở đây cũng khá rộng, lại không có thuyền bè. Do đó, địch tưởng rằng quân ta không tài nào vượt qua được. Nhưng bọn xâm lược làm sao hiểu được cuộc rút quân kỳ diệu này. Nhân dân địa phương đã khiêng đến hơn 30 chiếc thuyền và trong lúc đồng bào ta đưa chủ lực sang sông thì dân quân du kích bộ đội địa phương lại hoạt động mạnh sau lưng địch, buộc chúng phải phân tán hỏa lực. Thế là chỉ trong một đêm, nhờ sự giúp đỡ của nhân dân và lực lượng bán vũ trang, bộ đội ta đã vượt sông một cách an toàn, thoát khỏi vòng vây của địch.
   
            Lợi dụng yếu tố bất ngờ, tháng 3 năm 1949, ta phục kích tiêu diệt một “pôlôtông” cơ giới của địch tại Gò Cà, do tên quan ba Pháp chỉ huy. Đây là trận giao thông táo bạo nhất, oanh liệt nhất, bắt được nhiều tù binh nhất (toàn lính lê dương) và thu nhiều vũ khí nhất. Bên ta thương vong rất ít.
   
            Từ đó, khí thế của quần chúng lên cao, phong trào chung phát triển mạnh, bọn tề ngụy mất tinh thần không còn hung hăng như trước. Đến đây đánh dấu mốc quân và dân tỉnh nhà đã làm chủ tình hình. Chính kẻ địch đã thừa nhận Quảng Nam - Đà Nẵng là một trong số chiến trường hoạt động mạnh nhất ở Đông Dương. Đại hội Đảng bộ Liên khu 5 với nội dung chủ yếu “Tích cực cầm cự chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công” đã gửi điện khen ngợi quân và dân tỉnh nhà. Đó là một vinh dự lớn của chúng ta.
   
            Để tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, diệt bọn te ngoan cố, làm tan rã bộ máy ngụy quyền, mở rộng vùng du kích và đẩy thế làm chủ của quân và dân lên mạnh hơn nữa, tháng 6 năm 1949, Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng quyết định dùng lực lượng địa phương (Tiểu đoàn 29, Tiểu đoàn 39) và các đại đội độc lập, (2 tiểu đoàn chủ lực đã rút về Quân khu) mở chiến dịch hè lấy tên là chiến dịch Phạm Văn Đồng. Chiến dịch này mở màn từ tháng 7 năm 1949 đến tháng 9 năm 1949 thì kết thúc. Quân ta đã dùng kỳ tập tiêu diệt cứ điểm Thu Bồn, đánh vào Cẩm Phô, Phước Hiệp, đồng thời cắt các đoạn giao thông quan trọng. Một bộ phận quân ta đã đột kích quấy rối Đà Nẵng, đốt kho xăng dầu Liên Chiểu, đánh giao thông lật nhào một số đoàn tàu trên đèo Hải Vân. Đặc biệt, ta mở cuộc tổng công kích vào bộ máy ngụy quyền, bắt được nhiều tên, số còn lại chui rúc vào một số cứ điểm lớn của địch, nổi nhất là đột nhập thị xã Hội An bắt tên tỉnh trưởng Hồ Ngận.
   
            Sau chiến dịch này, địch bỏ một số đồn ở phía Đại Lộc, Duy Xuyên phía nam sông Thu Bồn, chỉ còn các đồn: Trà Kiệu, Gò Sài, Bà Rén và trong lòng địch chỉ còn những đồn bót giữ quốc lộ số 1. Trong lúc địch co lại thì vùng du kích của ta được mở rộng thêm, tây Đà Nẵng, tây bắc Hòa Vang, Hòa Quý, An Hải, Điện Bàn đều là vùng du kích cả.
   
            Hoạt động hè vừa qua còn có tác dụng về chính trị, làm cho hàng ngũ tề ngụy hoang mang dao động, đồng thời gieo vào lòng dân đô thị và thị trấn niềm tin tưởng phấn khởi đối với kháng chiến, rất nhiều người tìm bắt liên lạc với cán bộ ta.
   
            Phát huy khí thế đang lên, Bộ Tư lệnh Quân khu quyết định đưa ra Quảng Nam - Đà Nẵng một trung đoàn chủ lực, mở chiến dịch Đông Xuân 1949 -1950 lấy tên chiến dịch Võ Nguyên Giáp, nhằm tiêu diệt bộ phận sinh lực địch, giải phóng một số đất đai, mở rộng vùng du kích.
   
            Hướng hoạt động chủ yếu của ta là đánh đèo Hải Vân và uy hiếp thành phố Đà Nẵng.
   
            Hướng phụ là Điện Bàn và nam Hòa Vang. Ý đồ của ta là đánh một trận lớn trên đèo Hải Vân, cắt đường giao thông của địch, đồng thời bố trí một lực lượng khá mạnh để tiêu diệt cánh quân địch hay chặn đường về của ta ở phía Chánh Kế, Phò Nam. Nhưng sự chuẩn bị của ta bị địch phát hiện được, thời tiết xấu, lương thực còn thiếu, cho nên ta phải chuyển hoạt động sang hướng khác mở màn chiến dịch bằng một loạt trận đánh kỳ tập vào một cứ điểm Cẩm Lệ, Thanh Quýt. Đánh đồn An Hải, đột nhập vào thành phố Đà Nẵng (tháp con gà).
   
            Tiếp đến, ta ém quân trong nhà dân, đánh trên giao thông tại Thanh Quýt, tiêu diệt đoàn xe địch từ Đà Nẵng vào Vĩnh Điện do tên quan tư Lơ-tu-léc chỉ huy.
   
            Thừa thắng, quân ta bao vây uy hiếp một số đồn bốt địch, làm cho bọn tề ngụy thêm hoang mang dao động, nhiều tên phải chui vào các phân khu để tránh đòn trừng phạt của quân ta. Sau đó quân ta lại đánh mạnh vào cứ điểm Hòa Vang gây cho địch nhiều thiệt hại.
   
            Sau hoạt động này, địch rút các đồn: Gò Sài, An Tân, Đông Sơn, Phò Nam và trên thực tế về phía Ô Gia (Đại Lộc) và một phần đất của huyện Duy Xuyên được giải phóng. Một số đất đai ở tây Hòa Vang cùng thoát khỏi sự kiểm soát của địch.
   
            Ở ngoại vi lúc này địch chỉ còn Hội An, Phước Trạch, Bà Rén, Trà Kiệu, Vân Ly, Xuân Đài, Ái Nghĩa. Ban ngày chúng lo giữ các trục giao thông quan trọng. Tối đến chúng rút về các đồn bốt chính, vì sợ bị tiêu diệt. Quân và dân ta làm chủ tình hình đến sát ngoại vi thành phố, thị xã.
   
            Vào khoảng hè 1950, về phía địch xuất hiện một loạt chiến thuật mới, đáng chú ý nhất là hệ thống tháp canh Đờ La-tua. Hệ thống tháp canh này cắm trên các trục giao thông quan trọng, rồi lan dần đến các vùng đông dân cư, nhằm từng bước lấn chiếm vùng du kích của ta, đồng thời mở rộng phạm vi kiếm soát của chúng.
   
            Sau chiến dịch này, lực lượng vũ trang của ta củng cố lại. Trung đoàn 108 (chủ lực của tỉnh) được rút vào Quân khu để cùng với 3 Tiểu đoàn chủ lực 19, 50 và 79 thành lập một trung đoàn chủ lực của Quân khu nhưng vẫn giữ phiên hiệu Trung đoàn 108.
   
            Mùa đông 1950, Bộ Tư lệnh Quân khu quyết định điều động Trung đoàn 108 ra lại tỉnh nhà, mở chiến dịch Hoàng Diệu, nhưng do trung đoàn này chưa thạo đánh cứ điểm, tháp canh cho nên quá trình phát triển của chiến dịch gặp nhiều khó khăn và chưa đạt mục đích yêu cầu đã định. Quân ta đánh một số trận giao thông ở Điện Hòa, Trà Kiệu, Bà Rén, song kết quả không lớn lắm.
   
            Sau đợt hoạt động này, nhìn chung phong trào du kích chiến tranh không sôi nổi như trước, và bắt đầu lắng xuống, vùng cơ bản du kích của ta vẫn được giữ vững.
   
            Trung đoàn 108 hoạt động cho đến tháng 10 năm 1950 thì được lệnh rút vào Quảng Ngãi. Sau thời gian luyện tập, nghiên cứu lối đánh công kiên, đông xuân 1950 - 1951, Tiểu đoàn 59 được lệnh ra lại mặt trận tỉnh nhà, đánh hệ thống tháp canh, gây lại phong trào du kích chiến tranh. Trong một đêm quân ta đã nhổ 8 tháp canh, mở ra phương hướng phá vỡ hệ thống tháp canh Đờ La-tua của địch.
   
            Cùng thời gian, 3 tiểu đoàn còn lại của Trung đoàn 108 được lệnh rút vào Tây Nguyên tiêu diệt tiểu khu Konplong, mở đầu chiến thuật công kiên của quân ta trên chiến trường Khu 5.
   
            Sau khi phá vỡ hệ thống tháp canh của địch, phong trào du kích chiến tranh ở tỉnh nhà nhìn chung có chiều hướng đi lên, nhưng chưa mạnh lắm, hình thái chiến tranh vẫn còn tính chất giằng co như cũ.

Logged
loiho000
Thành viên
*
Bài viết: 162


« Trả lời #6 vào lúc: 09 Tháng Hai, 2017, 08:18:48 pm »

                     Khái quát tình hình ở tỉnh nhà từ cuối 1951 đến trước khi ta mở chiến dịch hè năm 1952, nổi lên một số nét như sau:
   
                      Địch ra sức bình định vùng bị chiếm, bóp ép Vùng du kích, củng cố phòng tuyến dọc sông Cẩm Lệ và nam Thu Bồn để đánh phá vùng du kích Điện Bàn, xây dựng vùng an toàn bọc quanh Đà Nẵng, chúng còn mở rộng phạm vi hoạt động ra các bàn đạp và đánh phá vùng giáp ranh, uy hiếp các hành lang quan trọng của ta ở miền Tây tỉnh nhà.
   
                      Còn ta thì do bị thiên tai, bị địch họa, mùa màng bị mất, đời sống rất khó khăn, nạn đói đe dọa nghiêm trọng, tình hình chính trị có phần căng thẳng, tư tưởng của cán bộ và quần chúng có phần dao động, hoạt động của du kích bị thu hẹp, bộ đội địa phương chưa bám chắc địa bàn kiềm chế địch, phong trào chiến tranh du kích giảm sút nhiều.
   
                      Trước tình hình đó, Liên khu ủy chủ trương mở hoạt động hè, nhằm tiêu diệt bộ phận sinh lực địch, phá thế bị uy hiếp, mở rộng vùng du kích, gầy dựng lại cơ sở quần chúng và phong trào du kích chiến tranh, ổn định tư tưởng của cán bộ và nhân dân, nâng cao khí thế của quần chúng để đẩy các mặt công tác khác tiến lên.
   
                      Tôi được cấp trên giao nhiệm vụ Chỉ huy trưởng, đồng chí Bùi San làm Chính ủy, đồng chí Trần Lê làm Chủ nhiệm Chính trị. Trung đoàn 803 được lệnh ra làm nhiệm vụ chủ công. Dùng phía nam sông Thu Bồn làm bàn đạp, trong đêm mở màn quân ta diệt khu hành chính Xuân Đài. Qua đêm thứ 2, ta đánh đồn Vân Ly. Ban ngày quân ta chống càn ở phía Duy Trinh.
   
                      Đêm thứ 3 ta đánh Phú Nông. Sau 3 đêm hoạt động, quân ta nghỉ một thời gian để củng cố lực lượng. Sau đó ta đưa một bộ phận vào lòng địch, một bộ phận lên phía tây Hòa Vang và một bộ phận ra đèo Hải Vân để hoạt động.
   
                      Trong khi ở phía bắc, ta đánh Kỳ Lam, Túy Loan, Bà Du, Lệ Sơn, đèo Hải Vân thì ở phía nam ta đánh Bà Rén và một số đồn bốt khác.
   
                      Một loạt hệ thống cứ điểm bằng công sự cải tiến của địch đều bị phá vỡ. Tình hình chiến trường đã trở lại hình thái như sau chiến dịch Phạm Văn Đồng (1949).
   
                      Từ sau tháng 7 năm 1952, địch không có phản ứng nào mạnh, chúng co lại và bị động đối phó. Tinh thần của bọn ngụy quân, ngụy quyền sút hẳn đi. Hoạt động chủ yếu của địch lúc này là củng cố công sự, ổn định tinh thần bọn tề ngụy, tăng cường bố phòng Đà Nẵng, tranh chấp các vùng chiêu an bị ta phá, tiếp tục bắt lính lẻ tẻ để bù đắp nạn hao hụt quân số.
   
                      Trong lúc bộ đội ta tiêu diệt quân địch thì các đơn vị bộ đội địa phương lại chuyển vào vùng tự do để củng cố lực lượng, trở lại tiểu đoàn tập trung, đại đội độc lập, rồi trở ra vùng bị chiếm để củng cố và phát huy thắng lợi của chiến dịch.
   
                      Đến năm 1953, một mặt địch ra sức xây dựng ngoại ô Đà Nẵng, mở rộng bến tàu, sân bay, làm thêm kho, tăng đồn trại, đồng thời đẩy mạnh các hoạt động gián điệp ra vùng phụ cận. Trong mấy tháng đầu năm, địch mở một số đợt càn quét lớn vào các vùng du kích Hòa Vang, Điện Bàn, đóng thêm cứ điểm, thực hiện kế hoạch lấn chiếm và chia cắt vùng du kích của ta. Địch còn ra sức sửa chữa các công sự phòng ngự theo kiểu mới. Những cứ điểm boong-ke, hầm ngầm... xuất hiện ở nhiều nơi. Mặt khác, chúng tăng cường bắt lính với hình thức trắng trợn, nặng nhất là các đô thị Đà Nẵng, Hội An, phát triển nghĩa dũng đoàn, điều chỉnh lại lực lượng của chúng.
   
                      Đi đôi với các hoạt động trên, địch tăng cường phá vùng tự do, mở nhiều cuộc đổ bộ ven biển, thọc vào các vùng giáp ranh, khủng bố dân tàn nhẫn, cho máy bay bắn phá ác liệt (cả ban đêm) ở các nơi tập trung, các trục giao thông, ghe thuyền, trâu bò, gây cho ta nhiều thiệt hại.
   
                      Về phía ta, sau hoạt động hè, vẫn giữ được thế kiềm chế, bao vây địch ở một số cứ điểm. Du kích và bộ đội địa phương hoạt động đều, tiêu hao nhiều sinh lực địch. Một số cơ sở hậu cần của địch bị ta đốt phá (kho đạn chợ Cồn, kho dầu Liên Chiểu). Lực lượng du kích phát triển mạnh. Nhân dân ở vùng Điện Tiến, Điện Ngọc sử dụng vũ khí thô sơ như hầm chông, bàn chông... để giết giặc. Phong trào đấu tranh chống bắt lính lên cao, nhiều cuộc đấu tranh liên tiếp nổ ra ở Hội An, Đà Nẵng, khá đông thanh niên thoát khỏi tay giặc. Công tác địch ngụy vận được coi trọng hơn trước (trong các đồn bốt đều có cơ sở của ta). Việc bố phòng tự do được xúc tiến mạnh, nhất là các xã ven biển.
   
                      Địch mở chiến dịch Atlăng nhằm gỡ bớt thế bị động và vùng chiếm tự do Liên khu 5.
   
                      Chủ lực của Quân khu tiến lên Tây Nguyên thì địch bắt đầu đánh ra Phú Yên. Ta chỉ để lại một bộ phận nhỏ để chặn địch ở mặt này, còn lại thì hành quân tiến lên Tây Nguyên để giải phóng Kon Tum, chặn địch trên đường 19 tiến qua Đắc Lắc, đồng thời đánh mạnh ở Quảng Nam - Đà Nẵng và Khánh Hòa. Trên toàn quốc lúc này ta đang ở thế tiến công chiến lược: mở chiến dịch Điện Biên Phủ, đánh mạnh ở đồng bằng Bắc Bộ, Nam Bộ. Quân ta ở mặt trận Thượng Lào, Hạ Lào cũng đang thắng lớn. Tôi được lệnh điều động về Bộ Tư lệnh Liên khu 5 đảm nhận chức vụ Tham mưu phó Liên khu. Trong chiến dịch bắc Tây Nguyên tôi được giao nhiệm vụ làm tham mưu cho chiến dịch để phối hợp với các chiến trường chính. Quân và dân Quảng Nam - Đà Nẵng hoạt động khá mạnh, dồn địch vào thế bị động lúng túng hơn, buộc chúng phải bỏ một số cứ điểm nhỏ để tập trung về các cứ điểm lớn như Ái Nghĩa, Vĩnh Điện, Quá Giáng, Túy Loan, Hội An, Đà Nẵng. Các trục giao thông bị du kích cắt đứt và làm chủ, việc tiếp tế của địch phải dùng máy bay một số cứu điểm (Núi Lở, Cầu Tá, v.v...) bị du kích bao vây. Tháng 7 năm 1954, ta đánh tan cuộc càn quét của địch vào vùng căn cứ du kích Điện Bàn diệt 800 tên. Bộ đội địa phương tập kích vào đồn Bồ Bồ diệt 120 tên, bắt hơn 300 tên, phá hủy 2 đại bác 105 ly và 120 xe. Tiếp đến một số cứ điểm chung quanh Đà Nẵng bị diệt (Đồn Giê-ni, đồn số 1 trên đèo Hải Vân) cầu Đờ Lát bị phá, thì có lệnh đình chiến. Từ đây, chuyển sang giai đoạn chuyển quân tập kết.


                  Một số nhận xét sơ bộ

              1. Quảng Nam - Đà Nẵng nói chung, thành phố Đà Nẵng nói riêng chiếm một chiến lược rất quan trọng ở miền Trung Đông Dương. Lực lượng ở đây tuy nhiều, song tinh thần chiến đấu bạc nhược, không có yếu tố thiên thời, địa lợi và nhân hòa, lại gặp phải đối tượng kiên cường, bất khuất, cho nên chúng càng đánh càng suy yếu và tất nhiên dẫn đến chỗ thất bại đau đớn, nhục nhã.
   
               Về phía ta, cũng do vị trí hết sức quan trọng của nó mà Trung ương, Xứ ủy, Liên khu ủy giành cho nó một số điều kiện cần thiết về cán bộ, về lực lượng vũ trang và những nhu cầu thiết yếu cho cuộc kháng chiến. Phát huy truyền thống tốt đẹp của cha ông, dưới sự lãnh đạo của Ban chấp hành tỉnh Đảng bộ, quân và dân tỉnh nhà đã đoàn kết chặt chẽ chiến đấu ngoan cường, chuyển từ không đến có, từ yếu thành mạnh, từ bị động phòng ngự chuyển qua tiến công tiêu diệt địch, góp phần đẩy mạnh cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc đến thắng lợi cuối cùng. Chính tên bại tướng Nava đã phải thừa nhận: “Quảng Nam - Đà Nẵng là một trong những chiến trường đánh mạnh nhất ở Đông Dương, nếu toàn bộ lưc lượng của chiến trường này được huy động thì cả Đông Dương sẽ bị uy hiếp”.
   
               Ngoài nhiệm vụ đánh giặc bảo vệ quê hương, quân và dân tỉnh nhà còn mở đường chi viện Hạ Lào, đi dân công phục vụ chiến trường Tây Nguyên, giúp Thừa Thiên một số điều kiện vật chất, và trong hoàn cảnh khó khăn, một bộ phận quân ta đã chuyển qua phía Nam tỉnh bạn để giúp bạn đánh địch và mở rộng khu căn cứ du kích.
   
               2. Cuộc chiến đấu của quân và dân Quảng Nam - Đà Nẵng là một bộ phận của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Nó phản ánh lợi ích cơ bản và nguyện vọng sâu xa của toàn dân, động viên mạnh mẽ toàn dân đứng lên quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Tính chất toàn dân, toàn diện của cuộc chiến tranh đã thể hiện một cách đầy đủ và sinh động trên mọi lĩnh vực hoạt động của người dân. Nhân dân đã chấp hành triệt để lệnh tản cư, làm vườn không nhà trống, đã giúp bộ đội phá đường, dựng chướng ngại vật, xây phòng tuyến, cắt dây điện thoại trong những ngày đầu kháng chiến. Nhân dân đã giúp bộ đội vượt sông Thủy Tú thoát khỏi vòng vây của địch trong cảnh hết sức khó khăn, nguy hiểm. Nhân dân đã giấu bộ đội trong nhà, tạo điều kiện cho bộ đội ta tiêu diệt đoàn xe địch tại Thanh Quýt. Nhân dân đã hăng hái đi dân công phục vụ chiến trường, tham gia xây dựng ba thứ quân, xây dựng hậu phương vững mạnh để chi viện cho tiền phương đánh giặc.
   
               3. Lực lượng vũ trang của ta được xây dựng trên cơ sở của lực lượng chính trị, do đó, trình độ giác ngộ cách mạng của nó khá cao. Trước khởi nghĩa, một số đội tự vệ được hình thành trong hoàn cảnh hết sức thiếu thốn, khó khăn, nhưng nhờ sự bao bọc giúp đỡ của quần chúng cho nên nó tồn tại và trưởng thành. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, chính quyền của ta được thành lập từ trên xuống dưới có đầy đủ uy tín và hiệu lực, các đoàn thể cứu quốc được tổ chức rộng khắp. Đó là cơ sở chính trị vững chắc để tổ chức và phát triển lực lượng vũ trang.
   
               Trong quá trình kháng chiến, hai lực lượng nói trên đã có mối quan hệ hữu cơ với nhau, tạo điều kiện cho lực lượng vũ trang lớn mạnh, và sự lớn mạnh của lực lượng vũ trang đã có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng chính trị. Khẩu hiệu “toàn dân đi lính” được thực hiện. Quần chúng nhân dân đã tích cực xây dựng nhiệm vụ chính trị mà Tổ quốc và dân tộc đã giao cho. Rõ nét nhất là nhờ các hoạt động quân sự trong chiến dịch hè năm 1952, mà các tổ chức quần chúng trong vùng địch mới được củng cố lại, tư tưởng của cán bộ và nhân dân mới được ổn định, phong trào du kích chiến tranh mới được đấy lên.
   
               4. Chúng ta đã nhận thấy rằng không có hậu phương vững mạnh thì tiền tuyến không thể đánh thắng được, vì hậu phương là nguồn cung cấp sức người, sức của cho chiến tranh, là nguồn động viên, cổ vũ chính trị và tinh thần cho tiền tuyến. Do đó, trong quá trình kháng chiến, căn cứ địa và hậu phương của ta không ngừng được củng cố và mở rộng. Nó bao gồm vùng rừng núi (phía Trung Mang, Tiên Phước...) vùng đồng bằng miền biển thuộc các huyện tự do Quế Sơn, Thăng Bình, Tam Kỳ, Tiên Phước... và ngay trong lòng địch cũng có những khu du kích như vùng Điện Tiến, Điện Ngọc, Hòa Tiến. Đó là chỗ đứng vững chắc cho bộ đội địa phương và quân chủ lực, là bàn đạp đánh vào hậu cứ địch, là nơi bồi dưỡng sức khỏe và luyện quân và là nguồn cung cấp nhân tài, vật lực cho cuộc chiến tranh.
   
               5. Chúng ta đã vận dụng một cách thích hợp nghệ thuật quân sự trong điều kiện và khả năng của ta. Điều đó thể hiện trên nhiều hình thức chiến thuật như sau:
   
               Trong 3 ngày đầu kháng chiến, quân ta kiên quyết giữ chân địch trong thành phố để đồng bào có đủ thời giờ lánh giặc và phân tán tài sản.
   
               Trước sự tấn công ào ạt của địch, quân ta vừa đánh vừa chặn địch, vừa rút lui có mức độ để bảo tồn lực lượng, quân ta vừa đánh địch ở chính diện, vừa cho một số bộ phận chuyển đánh địch ở sau lưng. Khi địch đóng đồn bốt và tiến hành bình định thì quân ta Chuyển sang đánh giao thông, chống càn quét, diệt tề trừ gian ngay sào huyệt địch, rồi tiến lên đánh cứ điểm và các công sự cải tiến.
   
               Nghệ thuật quân sự của ta thể hiện ở chỗ có lúc ta tập trung đánh những trận lớn, nhằm tiêu diệt sinh lực địch, mở rộng căn cứ du kích, giải phóng đất đai. Nhưng cũng có khi ta phân tán thành nhiều bộ phận nhỏ, thọc vào lòng địch để tiêu hao sinh lực địch và hỗ trợ cho phong trào du kích chiến tranh.
   
               Nghệ thuật quân sự của ta thể hiện ở chỗ ta tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, lợi dụng sơ hở của địch, dùng yếu tố bất ngờ đánh những đòn đau vào hậu cứ địch, chẳng hạn như ta không đánh vào hướng Thu Bồn mà chuyển quân ra đánh đèo Hải Vân, uy hiếp thành phố Đà Nẵng, hoặc như ta tiêu diệt một “pôlôtông” cơ giới của địch tại Gò Cà.
   
               Nghệ thuật quân sự của ta còn thể hiện ở chỗ ta đã sử dụng cả 3 thứ quân đánh địch một cách nhịp nhàng, dùng lực lượng du kích và bộ đội địa phương đánh thường xuyên liên tục, từng vùng nhỏ, còn quân chủ lực thì đánh tập trung trong thời gian tương đối dài, với quy mô tương đối rộng.
   
               Nghệ thuật quân sự của ta còn thể hiện ở chỗ ta dùng lực lượng một cách thích hợp, trong đó hết sức chú trọng dùng lực lượng ít mà đạt hiệu quả chiến đấu cao, nhưng lối đánh đặc công là một trong hai nơi ở Liên khu 5 áp dụng đầu tiên lối đánh đó và đã đánh mạnh nhất.
   
               Ngoài ra, nghệ thuật quân sự của ta còn thể hiện trên nhiều hình thức diệt địch khác nhau, như đánh phá các cơ sở hậu cần của địch, vừa đánh địch vừa làm công tác địch vận, tiến công quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị. Kho xăng Liên Chiểu bị ta đốt nhiều lần, trong các đồn bốt địch đều có manh mối của ta, nhiều cuộc đấu tranh bắt lính đã xảy ra trong thành phố Đà Nẵng và thị xã Hội An đã chứng minh điều đó.
   
               Sở dĩ lực lượng quân sự của tỉnh nhà ngày càng trưởng thành và lập nhiều công tích vẻ vang là do một yếu tố quan trọng nhất, đó là sự lãnh đạo sáng tạo sáng suốt của Đảng mà cụ thể là Xứ ủy, Liên khu ủy và Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng.
   
               Đó là sự vận dụng một cách sáng tạo đường lối chiến lược, chiến thuật quân sự của Đảng vào điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của chiến trường tỉnh nhà. Đó là sự hiệp đồng chặt chẽ giữa quân sự và chính trị, giữa các cơ quan quân dân, chính Đảng từ trên xuống dưới. Tinh thần đó được thể hiện rõ nét trong các Nghị quyết quan trọng của Tỉnh ủy, của Ủy ban Quân sự tỉnh nhà và trong quá trình thực hiện các Nghị quyết đó ở các ngành hữu quan và các cấp ủy, địa phương. Nó còn thấm sâu trong quảng đại quần chúng và tiêu biểu nhất là sự gắn bó keo sơn giữa quân đội và nhân dân.


28-2-1976
Theo lời kể của đồng chí Nguyễn Bá Phát
tại nhà 34 Hàng Chuối, Hà Nội.
Trần Cang ghi


Logged
loiho000
Thành viên
*
Bài viết: 162


« Trả lời #7 vào lúc: 10 Tháng Hai, 2017, 08:00:53 pm »

NGUYỄN BÁ PHÁT, NGƯỜI CÁN BỘ QUÂN SỰ ƯU TÚ CỦA LIÊN KHU 5
Trung tướng Nguyễn Đôn(1)

                 Năm tháng đã trôi qua, hơn nửa thế kỷ. Quân đội và nhân dân Liên khu 5 vẫn còn nhớ mãi đồng chí Nguyễn Bá Phát, nguyên Trung đoàn trưởng Trung đoàn 96 tiếp phòng quân Đà Nẵng, nguyên Tham mưu phó Liên khu 5, Tham mưu trưởng chiến dịch bắc Tây Nguyên năm 1953-1954. Sau này là Tư lệnh Hải quân nhân dân Việt Nam, với tất cả hình ảnh của một cán bộ ưu tú của Quân đội nhân dân Việt Nam, tiêu biểu của Liên khu 5.
   
                 Sự nghiệp cách mạng của một con người thường tỏ rõ lên nhiều mặt, nhất là trong cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ, toàn dân, toàn diện của dân tộc anh hùng ta. Đồng chí Nguyễn Bá Phát cũng vậy. Nhưng ở đây chúng tôi xin nhắc lại những chiến công, với những phẩm chất cao đẹp của đồng chí từ thời đầu tiên đánh Nhật và suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ ở Liên khu 5 chúng ta. Đánh Nhật cố thủ trong nhà băng Đông Dương ở Quy Nhơn, anh thanh niên Nguyễn Bá Phát, mới được giác ngộ vì lòng yêu nước, đã mở đầu sự nghiệp chiến tích của mình bằng một sáng kiến, dùng búa đóng vào hột nổ đạn đại bác thay cho kim hỏa bị mất, của khẩu pháo duy nhất ta có được vào ngày mới khởi nghĩa. Tiếng súng nổ vang trời, lở đất khiến cho bọn Nhật ngoan cố phải đầu hàng. Lúc ấy anh chỉ là người lính trơn của quân đội thực dân mới quay về cách mạng. Những biểu hiện tích cực đầu tiên của anh đã giúp cho các đồng chí lãnh đạo của ta phát hiện ra phần nào ý chí đánh giặc của anh, sự năng động của anh, đã nhanh chóng lựa chọn anh, mạnh dạn đưa anh lên từ cấp bậc này đến cấp bậc khác, đến cấp chi đội rồi đại đoàn, không qua các thang nấc bình thường, đại đội hay tiểu đoàn. Thực tế trên chiến trường nam Tây Nguyên lúc bấy giờ, trong cuộc chiến đấu không cân sức với quân Pháp được quân Anh, Nhật ủng hộ, đã bộc lộ những nỗ lực ban đầu của anh, không những tiêu hao lực lượng của địch, làm chậm bước tiến của chúng, mà còn bảo tồn được lực lượng của ta, đưa quân về vùng tự do an toàn. Anh đã được nâng nhấc lên chức vụ Tham mưu trưởng Đại đoàn 23 rồi được bổ nhiệm Chỉ huy trưởng mặt trận An Khê.
   
                 Bắt đầu cuộc kháng chiến toàn quốc, anh được điều về mặt trận Quảng Nam - Đà Nẵng, nơi chôn nhau cắt rốn của anh, một chiến trường quan trọng. Ở đơn vị này, người chỉ huy cũ của Trung đoàn 96 tiếp phòng quân đã bỏ lỡ cơ hội, không dũng cảm đương đầu với quân giặc. Trong hai, ba ngày đầu tiên nắm Trung đoàn, với tất cả uy lực của một cán bộ chỉ huy, dưới làn đạn địch, Nguyễn Bá Phát đã nắm chắc được đơn vị, tổ chức chiến đấu, ngăn chặn được quân thù. Từ đó đơn vị lập được nhiều chiến công có tiếng vang trong thời kỳ đầu kháng chiến ở Đà Nẵng, và nhất là ở đèo Hải Vân “Đệ nhất hùng quan” của đất nước đã từng nổi tiếng từ thuở xa xưa.
   
                 Trong trận Hải Vân 3, anh đã nắm gần 2.000 quân kể cả dân quân phục vụ chiến trường, đánh địch cả trên tuyến đường xe lửa và xe hơi. Chiến thắng toàn vẹn anh lui quân trở về. Giặc Pháp đưa hàng ngàn quân ra chặn đường độc đạo phải qua sông lớn, phải qua nhiều suối của anh. Nguyễn Bá Phát đã tổ chức cuộc “Lui quân giữa lòng dân”. Chính quyền và nhân dân tây bắc Hòa Vang vui mừng hân hoan với chiến thắng đã vớt thuyền đang cất giấu dưới đáy sông lên, trong một đêm đưa hết đội quân qua sông về đến căn cứ an toàn. Hàng ngàn quân địch đã chưng hửng, ngạc nhiên không sao hiểu nổi sức mạnh thần kỳ của chiến tranh nhân dân đã đưa quân ông Phát trở về căn cứ an toàn.
   
                 Đó cũng chính là lúc quân và dân ta bắt đầu nỗ lực chuyển cuộc kháng chiến sang giai đoạn mới, tích cực cầm cự chuyển mạnh sang tổng phản công với nỗ lực hình thành các đơn vị Tiểu đoàn và Trung đoàn chủ lực để giáng cho địch những đòn đau hơn. Với sự ra đời của Trung đoàn 108 và 803, những chiến dịch tương đối lớn đã bắt đầu mở ra trên đất Quảng Nam trung dũng kiên cường và cả trong toàn Liên khu 5.
   
                 Nguyễn Bá Phát - người cán bộ năng động và sung mãn tinh thần chiến đấu tiêu diệt địch đã được tín nhiệm nắm Trung đoàn chủ lực đầu tiên của Quân khu, trước tiên là Trung đoàn 210, sau đổi tên Trung đoàn 108, đã ghi vào trang sử của Liên khu 5 những nét son rực rỡ của cuộc chiến tranh nhân dân.
   
                 Chỉ huy cả một Trung đoàn 108 lớn như vậy, đi từ chiến khu xuống vượt qua bao nhiêu đồn bót của địch. Anh Phát đã bố trí đơn vị phục kích nằm ngay trong các xóm làng khá đông đúc trên quốc lộ 1, chuẩn bị cho cuộc giao thông chiến lớn. Anh đã ém đơn vị nằm ngay trong nhà đồng bào với tất cả niềm tin ở nhân dân Điện Bàn, Hòa Vang sẽ giữ gìn bảo vệ bộ đội, không để lộ một tin tức nào cho giặc Pháp. Bọn chúng vẫn thường xuyên đi tuần tiễu trên đường quốc lộ, có lúc lùng sục sâu vào thôn xóm. Trung đoàn diệt cả một tiểu đoàn lính hỗn hợp lê dương và quân ngụy. Địch vẫn chưa giải thích nổi vì sao bí mật chiến trường ta vẫn giữ được đến phút cuối cùng khi quân ta xuất kích.
   
                 Nhân dân vô cùng ca ngợi thành tích của “Bộ đội Cụ Hồ” ở ngay trong lòng dân bất thần đánh địch. Họ không nghĩ rằng, chính bản thân họ là chủ thể làm nên chiến thắng thần kỳ, ủng hộ và giữ bí mật cho bộ đội ta.
   
                 Cuộc kháng chiến của ta, lực lượng của ta cứ phát triển đi lên phía trước. Bất chấp bao nhiêu thủ đoạn của quân giặc, nào là hệ thống tháp canh Đờ La-tua, nào là những dãy đồn bót kiên cố dựng lên theo kế hoạch của tên tướng đầu sỏ Đờ-lát Đờ Tát-xi-nhi, để ngăn chặn quân ta không tìm được không gian yên lành để trú quân hay đứng chân đánh lại chúng. Chúng không thể nào loại trừ được bộ đội ta, vận dụng các chiến thuật nội công, ngoại kích, các chiến thuật kỳ tập để diệt hàng loạt đồn bót địch ở Ngũ Giáp, ở Thu Bồn khiến cho quân địch hoang mang, bàng hoàng. Nhưng một vấn đề được đặt ra là làm sao vừa tiêu diệt được lực lượng địch, nhưng vẫn bồi dưỡng được lực lượng ta, để phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn chuẩn bị tổng phản công. Nghĩa là không chỉ đưa quân vận động đi đánh đông dẹp tây, nhưng chủ yếu là phải tiêu diệt được sinh lực địch, mà còn phải khai thác được kho tàng của địch để nhanh chóng bồi dưỡng cho lực lượng ta. Không những chúng ta vận động đi đánh các đơn vị ứng chiến, quân lưu động của địch mà còn phải mạnh mẽ tiến công vào các đồn bót căn cứ của địch để thu cho được vũ khí đạn dược và phương tiện chiến tranh khác của chúng. Vấn đề là phải tiêu diệt các đoàn quân ứng chiến của địch, mà còn phải tiêu diệt quân trong căn cứ, để chiếm các kho hậu cần bồi dưỡng lực lượng cho ta. Trong khi đó sự chi viện của miền Bắc vào Liên khu 5 lúc bấy giờ thật là quý giá, nhưng vẫn hạn chế trên đôi vai của anh bộ đội. Ta còn thiếu các phương tiện hỏa lực, đại bác, pháo binh, mặc dầu về sau này có những trận đánh ta vẫn thu được ít nhiều đại bác. Phải tiến tới tiêu diệt các căn cứ của địch, đó là khẩu hiệu hành động của bộ đội ta cùng với việc vận động tiêu diệt các đơn vị ứng chiến của địch.
   
                 Nguyễn Bá Phát đã cùng tập thể chỉ huy của Trung đoàn, của Liên khu suy nghĩ cách tiến công tiêu diệt các đồn bót lớn của địch. Trận chuẩn bị đánh đồn binh kiên cố của địch, đồn Konplong án ngữ miền tây Quảng Ngãi, ở trên giao cho Trung đoàn 108 là một thách thức mới với người chỉ huy đơn vị chủ lực đầu tiên của Quân khu. Anh Phát đã vận dụng nhiều kinh nghiệm của ta và của bạn, làm sao đưa cho được các vũ khí mà ta mới được chi viện của miền Bắc như súng phóng bom, ĐKZ vào sát các công sự kiên cố để tiêu diệt địch. Được sự giúp đỡ và cộng tác của ngành quân khí, ta đã sáng tạo ra cách đưa các vũ khí ta hiện có vào sát các cứ điểm của địch, để tiêu diệt các lô cốt, ụ pháo, ụ xe tăng của địch, để xóa sổ bọn chúng, làm chủ hoàn toàn trận đánh. Những lá chắn bằng thép hay các bao cát bảo vệ cho các xe đẩy, trên đó có đặt ĐKZ, súng phóng bom, giúp cho bộ đội ta tiếp cận và tiêu diệt hệ thống phòng ngự mạnh của địch từ 1-2 đại đội trở lên ở đồn Konplong. Ta đã chọc thủng được hệ thống phòng ngự kiên cố của địch, bắt tù binh thu một số lớn vũ khí và phương tiện chiến tranh, hơn gấp mấy lần số mà ta phải tiêu hao trong lúc chiến đấu.
   
                 Chiến thắng Konplong đã mở đường cho bộ đội ta tiến lên chiến trường Tây Nguyên, có vị trí chiến lược hàng đầu của Liên khu 5. Mở đầu bằng chiến dịch tiêu diệt Cửu An - Thủy Tú - Đầu Đèo kết hợp với việc đánh quân tiếp viện trên đường Hoàng Hoa Thám. Lúc này anh Phát đã được đưa lên làm Tham mưu phó của Liên khu, phụ tá cho Bộ Tư lệnh, đang chỉ huy cả hai trung đoàn chủ lực trong chiến dịch lớn này.
   
                 Sự lớn mạnh của lực lượng vũ trang ta trên chiến trường Việt Nam nói chung và của riêng Liên khu 5, với sự phát triển của ba thứ quân ở chiến trường địch hậu đã đặt ra một nguy cơ cho quân đội Pháp. Na-va (Henri Navarre), Tổng tư lệnh mới của Pháp phải đề ra chiến lược: “Giữ thế phòng ngự ở miền Bắc, thực hiện tiến công chiến lược ở miền Nam”. Được sự tiếp tay của quan thầy Mỹ, Na-va tập trung lực lượng cơ động khá lớn hơn 40 tiểu đoàn cùng với lực lượng địa phương tiến chiếm vùng tự do Liên khu 5, từ Bình Định đến Phú Yên, cái gai đã làm nhức nhối tim gan của quân đội Pháp ở Đông Dương.
   
                 Địch đã không ngờ rằng, chấp hành nghiêm chỉnh đường lối tác chiến chiến lược của Bộ Tổng tư lệnh, Bộ Tư lệnh Liên khu 5 đã nắm vững phương châm chiến lược của ta, giao việc bảo vệ vùng tự do chủ yếu cho lực lượng địa phương. Còn chủ lực vẫn ung dung tiến lên bắc Tây Nguyên, mở chiến dịch Đông Xuân 1953-1954 cùng một lúc mở cuộc tiến công như vũ bão vào hệ thống của địch ở Măng Đen, Măng Bút, Konbraik của địch.
   
                 Lúc bấy giờ, tôi (Nguyễn Đôn) trên cương vị Tham mưu trưởng của Liên khu 5 theo dõi sát sao cuộc chiến đấu bảo vệ vùng tự do chống lại các đơn vị chủ lực cơ động của Na-va. Đồng chí Phát với tất cả sự năng nổ rất tích cực, với cương vị mới là Tham mưu phó của Liên khu 5, anh được đưa lên làm phụ tá cho anh Chánh, Tham mưu trưởng của chiến dịch bắc Tây Nguyên. Anh đã đôn đốc việc vạch ra và thực hiện kế hoạch tác chiến Đông Xuân ở bắc Tây Nguyên. Có thể nói: Anh đã làm trọn nhiệm vụ đó một cách xuất sắc, kể cả lúc Trung đoàn 96 phục kích tiêu diệt Binh đoàn cơ động 100 của Pháp trên quốc lộ 19, cũng như lúc các Trung đoàn 108, 96 và 803 tiếp tục triển khai cuộc chiến đấu vào phía nam Tây Nguyên cho đến khi cuộc chiến tranh chấm dứt với việc ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ giữa ta và Pháp năm 1954.
   
                 Khi chuẩn bị chiến trường, anh Phát thường đi Sâu, đi sát, nắm chắc tình hình địch và tình hình ta đến từng chi tiết, kể cả đi đến hàng rào của quân địch, với tất cả tinh thần trách nhiệm suy nghĩ tiết kiệm xương máu của cán bộ và chiến sĩ ta. Đảng ủy và Bộ Tổng chỉ huy của ta đã đánh giá đúng phẩm chất chính trị, năng lực, quân sự của anh, đã đưa anh ra miền Bắc phụ trách xây dựng lực lượng Hải quân của ta từ trong trứng nước, đi lên thành một Quân chủng hùng mạnh, có thể chiến thắng cả quân đội Mỹ. Cho đến hôm nay, vinh dự của Thiếu tướng Nguyễn Bá Phát cũng là vinh dự của bộ đội Liên khu 5, đã cung cấp một cán bộ tài ba cho Quân đội nhân dân Việt Nam. Nguyễn Bá Phát đã có lập trường chiến đấu kiên định, tích cực tiến công kẻ thù, năng động và sáng tạo, không lùi bước trước khó khăn trở ngại nào. Tác phong của anh dễ thu hút và thuyết phục nhiều người, kể cả sĩ quan và chiến sĩ.

                                 
N.Đ


(1). Nguyên Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Liên khu 5, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam.


Logged
loiho000
Thành viên
*
Bài viết: 162


« Trả lời #8 vào lúc: 10 Tháng Hai, 2017, 08:03:26 pm »

CHIẾC ĐỒNG HỒ BÁC HỒ TẶNG ĐỒNG CHÍ TƯ LỆNH HẢI QUÂN
                        
Thượng tá Trần Thanh Hằng

                 Một trong những chiếc đồng hồ Bác Hồ tặng cho các vị tướng có nhiều công lao đóng góp cho sự nghiệp cách mạng của đất nước, hiện đang lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, có một chiếc đồng hồ của Thiếu tướng Nguyễn Bá Phát, nguyên Tư lệnh Quân chủng Hải quân.

                   Đồng chí Nguyễn Bá Phát, quê ở thôn Trung Sơn, xã Hòa Liên, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam, tham gia cách mạng từ năm 1945, từng là chỉ huy trưởng quân sự tổng Thái Hòa huyện Hòa Vang tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Từ tháng 9 năm 1945 đến tháng 12 năm 1946, đồng chí là chỉ huy trưởng Thủy đội Bạch Đằng, đánh lính Nhật ở nhà băng Quy Nhơn. Trong kháng chiến chống Pháp, đồng chí giữ nhiều chức trách quan trọng: từng là Chi đội phó Chi đội Phan Đình Phùng, Tham mưu trưởng Liên Khu 5, tham gia chỉ huy bộ đội chiến đấu lập công xuất sắc tại Liên khu 5.
   

                  Tháng 10 năm 1954, đồng chí là Sư đoàn phó Sư đoàn 305, đồng chí là Cục phó Cục Phòng thủ bờ biển, Cục phó Cục Hải quân. Năm 1958, đồng chí được phong quân hàm đại tá. Từ tháng 1 năm 1964 đến tháng 11 năm 1964, đồng chí là Phó Tư lệnh Quân chủng Hải quân. Từ tháng 12 năm 1964 đến tháng 2 năm 1975, đồng chí là Tư lệnh Quân chủng Hải quân nhân dân Việt Nam kiêm Tư lệnh Quân khu Đông Bắc; Ủy viên Hội đồng Khoa học Bộ Quốc phòng. Năm 1974, đồng chí là Tư lệnh Hải quân Tiền phương tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh. Từ tháng 9 năm 1976 đến năm 1987, đồng chí là Thứ trưởng Bộ Hải sản kiêm Bí thư Đảng ủy cơ quan Bộ.
   

                  Chúng tôi đến sưu tầm hiện vật tại nhà Thiếu tướng sau 10 năm đồng chí qua đời. Trên bàn thờ có nhiều kỷ vật về đồng chí: đó là ngôi sao vàng trên nền xanh gắn trên mũ mềm, những tập nhật ký và những tấm huân chương cao quý Đảng, Nhà nước tặng đồng chí. Đáng chú ý có chiếc đồng hồ mà đồng chí luôn giữ bên mình và coi đây là vật quý giá nhất trong đời của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là tấm gương cao cả, thiêng liêng nhất, đồng chí luôn tự thấy mình phải phấn đấu hơn nữa để xứng đáng với phần thưởng cao quý này.
   

                  Trong tập hồi ký của mình, đồng chí có viết một đoạn kỷ niệm về Người: “Tôi nhớ vào dịp cuối năm 1961, Bác Hồ được tin vui các tỉnh Cà Mau, Bến Tre, Trà Vinh, Bạc Liêu, Bà Rịa... đã tổ chức được 6 thuyền vượt biển ra Bắc an toàn. Ông cụ mừng lắm nên không đợi tôi lên Hà Nội báo cáo với Cụ mà bí mật xuống Hải Phòng gặp tôi. Tôi hoàn toàn bất ngờ khi thấy ông Cụ đẩy nhẹ cánh cửa phòng làm việc của tôi. Bất chợt tôi ngước lên bắt gặp ông Cụ có chòm râu bạc như tiên, không lẫn vào ai được. Tôi như con nai ngơ ngác, chưa kịp reo lên, ông Cụ ra hiệu cho tôi im lặng. Bất giác, tôi xúc động, nước mắt trào dâng. Ông Cụ chủ động nói: “Bí mật, bất ngờ là bí quyết của mọi thắng lợi, phải không chú Phát”. Tôi chưa kịp thốt lên chữ vâng, ông Cụ đã hỏi: Thế các chú trong ấy ra đi đâu cả rồi? Tôi bối rối: Các đồng chí trong ấy ra đêm qua, trời rét quá, lẽ ra đêm qua cháu phải lên Hà Nội báo cáo với Bác và các đồng chí Trung ương, nhưng sợ mất giấc ngủ, định sáng nay lên thì Bác đã xuống. Ông Cụ hỏi tôi về sự đón tiếp anh em Quân giải phóng có chu đáo không? Có đưa áo bông cho các chú ấy mặc không? Tôi thưa với Bác là chúng cháu đã đưa anh em về nghỉ tại số 83 Lý Nam Đế, Hà Nội. Bác khen chúng tôi thế là tốt. Bác còn nhắc đi nhắc lại hai chữ “bí mật” để tôi nhập tâm. Trước khi lên xe trở về Hà Nội, Bác kéo tôi ra đầu hồi nhà làm việc nơi có cây bàng che kín gió. Bác nói nhỏ vừa đủ cho tôi nghe: “Chú là gốc lính thủy Pháp, chú có nhiều kinh nghiệm đi biển, đánh thắng thằng Mỹ này phải khác với đánh thắng thằng Pháp. Chú đã có công quật ngã thằng Pháp ở dưới mặt biển, thì bây giờ chú phải quật ngã tiếp thằng Mỹ xâm lược này nữa chứ, chú Phát!” Nói rồi Bác cười. Tôi như nuốt từng lời của Bác.
   

                  Như được tiếp thêm sức mạnh, tôi cùng cán bộ, chiến sĩ Hải quân dốc hết tâm huyết của mình xây dựng lên một đoàn tàu không số, một con đường mòn trên biển bất chấp sóng gió, tàu chiến, máy bay, bom đạn của Hạm đội 7 Mỹ. Các con tàu không số cứ tiếp nối nhau vận chuyển vũ khí trang bị tiếp tế cho chiến trường miền Nam cho đến ngày Mỹ cút, ngụy nhào, Bắc Nam sum họp một nhà.
   

                  Câu chuyện cũ in đậm trong tâm tưởng của tôi. Mỗi lần nhớ lại kỷ niệm không thể quên đó, tôi lại giở những trang nhật ký cũ ra xem lại, hồi tưởng lại những khuôn mặt của những cán bộ, chiến sĩ đã đi trên các chuyến tàu không số đã mãi mãi không trở về và tự hỏi mình có việc gì đó chưa làm đúng với vinh dự trách nhiệm của người lính Cụ Hồ”.
   

                  Bây giờ kỷ vật của vị tướng Tư lệnh Quân chủng Hải quân đã trở thành hiện vật vô giá của Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, mỗi khi chúng ta ngắm nhìn chiếc đồng hồ này, nghe câu chuyện của lớp cha anh, hẳn mỗi chúng ta sẽ có chung ý nghĩ của vị tư lệnh, có điều gì mình đã làm chưa xứng đáng với lớp người đi trước, phải cố gắng hơn nữa để xây dựng vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

                                 
T.T.H
Logged
loiho000
Thành viên
*
Bài viết: 162


« Trả lời #9 vào lúc: 10 Tháng Hai, 2017, 08:15:28 pm »

TRUNG ĐOÀN TRƯỞNG VÀ CHÍNH ỦY
Đại tướng Nguyễn Quyết(1)

                  Đà Nẵng là một hải cảng lớn, một căn cứ quân Sự quan trọng không chỉ ở nước ta mà cả ở miền Trung Đông Dương. Chiếm đóng Đà Nẵng, địch có âm mưu tiêu diệt lực lượng ta, mở rộng đánh chiếm vùng tự do, khai thông đường 14, đường đèo Hải Vân, cắt đứt hành lang đông tây, nam bắc, cô lập Liên khu 5, hoàn thành chia cắt chiến lược chiến trường Đông Dương dọc theo vĩ tuyến 16, vơ vét sức người, sức của ở miền Nam, làm bàn đạp tấn công chiến trường chính miền Bắc giành thắng lợi quyết định. Vì vậy, bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc, Quảng Nam - Đà Nẵng là chiến trường chính cả của ta và địch ở Liên khu 5.

                   Để chuẩn bị cho chiến trường trọng điểm này, Quân khu ủy điều đồng chí Đàm Quang Trung làm Chỉ huy trưởng, đồng chí Huỳnh Ngọc Huệ làm Chính trị viên, đồng chí Nguyễn Bá Phát làm Chỉ huy phó. Tôi là Quân khu ủy viên được phân công về làm phái viên ở mặt trận. Vài tháng sau, đồng chí Huỳnh Ngọc Huệ được điều đi công tác khác, tôi được chỉ định thay. Từ đó, tôi và đồng chí Nguyễn Bá Phát gắn bó với nhau ở chiến trường này mãi đến khi về Quân khu (5-1950).
   
                   Lực lượng chiến đấu ở đây có 2 trung đoàn. Trung đoàn 96 chịu trách nhiệm giam chân địch ở nội thành, Trung đoàn 93 phụ trách ở vòng ngoài, dọc sông Cẩm Lệ đến Mỹ Thị, núi Non Nước đến cầu Đỏ, phối hợp với Trung đoàn 96 ngăn không cho địch mở rộng chiếm đóng ra đông nam Đà Nẵng và sẵn sàng chi viện cho Trung đoàn 96.
   
                   Do không nghiêm túc chấp hành mệnh lệnh nổ súng vào giờ quy định, đồng chí Trung đoàn trưởng Trung đoàn 96 bị Quân khu cách chức. Ngay lập tức, đồng chí Nguyễn Bá Phát, chỉ huy phó mặt trận, được cử về thay trong tình huống đầy khó khăn phức tạp, yếu tố bí mật bất ngờ không còn nữa. Nhưng nhờ quán triệt đường lối chủ trương của Đảng, mệnh lệnh của Ban chỉ huy mặt trận, đồng chí đã kịp thời ổn định tinh thần cán bộ chiến sĩ, xoay chuyển tình thế. Được sự phối hợp chặt chẽ của Trung đoàn 93 và nhất là có thuận lợi lớn là phong trào chiến tranh nhân dân khá cao đã được các cấp ủy Đảng ở địa phương phát động, Trung đoàn 96 đã cùng tự vệ, công an, thanh niên nêu cao tinh thần quyết tử, bám sát quân thù, bẻ gãy từng đợt tiến công, giữ từng ngôi nhà, đoạn đường, góc phố. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng quyết liệt. Có tiểu đội hy sinh đến người cuối cùng để ngăn chặn, bao vây, ghìm chân địch, tiêu hao sinh lực địch và bảo toàn lực lượng ta để chiến đấu lâu dài.
   
                   Cuối tháng 1 năm 1947, trong lễ tuyên dương thành tích chiến đấu của quân và dân Quảng Nam - Đà Nẵng, Trung đoàn 96 được vinh dự nhận lá cờ thêu hai chữ “Giữ vững” do đồng chí Phạm Văn Đồng đại diện Đảng và Chính phủ Trung ương trao tặng.
   
                   Sau hơn một vài tháng tiến công, quân Pháp tuy chiếm được Đà Nẵng, tây bắc Hòa Vang, nối thông đường đèo Hải Vân những vẫn chưa vượt được sông Cẩm Lệ để tiến về phía nam đánh chiếm vùng tự do của ta. Sau những ngày điều chỉnh lực lượng, được viện binh mới, địch dùng toàn lực mở cuộc tiến công lớn hòng phá vỡ vòng vây của ta ở Đà Nẵng. Cuộc chiến đấu giữa ta và địch tiếp tục giằng co quyết liệt.
   
                   Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ủy ban Quân sự và Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng, Trung đoàn 96 và Trung đoàn 93 đã cùng với dân quân du kích xác định nhiệm vụ và phương thức chiến đấu, bố trí lại đội hình, vừa tiến công vừa phòng thủ, vừa chặn đánh địch ở phía trước, vừa thọc sâu vào sau lưng địch, vừa quấy rối, tiêu hao địch ở nội thành, vừa phục kích chặn đánh địch trên đường hành quân.
   
                   Có thể nói, sau 6 tháng ngoan cường chiến đấu, ta vừa đánh vừa xây dựng, vừa bảo toàn lực lượng, vừa phát động phong trào nhân dân du kích chiến tranh, vừa đánh vừa trưởng thành về mọi mặt. Trong lúc địch ào ạt tiến công, các trung đoàn chủ lực, đặc biệt là Trung đoàn 96, không những đánh trả địch khắp nơi mà còn giành thắng lợi vang dội, làm tiêu hao sinh lực địch, thu được súng, làm cho nhân dân tin tưởng phấn khởi, quân thù khiếp sợ như trận Đại La, Ba Khe và nhất là các trận đánh trên đường đèo Hải Vân từ đầu năm 1947, đã tiêu diệt nhiều đoàn xe địch, thu vũ khí, diệt nhiều sĩ quan và binh lính địch trong đó có đại tá Roger, chỉ huy phân khu Đà Nẵng.
   
                   Đây là giai đoạn đầu, cực kỳ khó khăn gian khổ. Ta đã sử dụng lực lượng chủ lực tinh nhuệ của địch, góp phần cùng cả nước làm thất bại âm mưu đánh nhanh thắng nhanh chiếm vùng tự do, buộc địch phải chuyển hướng chiến lược, quay về bình định vùng tạm chiến bắt đầu từ tháng 7 năm 1947, sớm hơn cả nước. Từ đó cho đến hết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trên địa bàn Quảng Nam - Đà Nẵng tạm chia làm 2 vùng rõ rệt: vùng tạm bị chiếm từ nam sông Thu Bồn trở ra đến đèo Hải Vân; vùng tự do từ nam sông Thu Bồn trở vào, nối liền với các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định và gần hết tỉnh Phú Yên, hình thành một căn cứ vững chắc, làm hậu phương rộng lớn có tầm quan trọng quyết định không những cho cuộc kháng chiến ở Liên khu 5 mà cả miền nam Đông Dương.
   
                   Trong chiến thắng to lớn của quân và dân Quảng Nam - Đà Nẵng, dưới sự lãnh đạo của Đảng mà trực tiếp là Ủy ban Quân sự và Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng, đồng chí Nguyễn Bá Phát đã tỏ ra là một cán bộ nghiêm túc, dũng cảm mưu trí chấp hành mệnh lệnh, được Quân khu, Ban chỉ huy mặt trận đánh giá cao. Tháng 6 năm 1947, đồng chí vinh dự được đứng trong hàng ngũ của Đảng.
   
                   Việc chống chiến lược bình định của địch diễn ra trong thời gian dài, vô cùng phức tạp, đầy hy sinh gian khổ. Để chuyển yếu thành mạnh, ta phải phát động chiến tranh toàn dân, toàn diện cả vùng tự do và vùng bị tạm chiếm, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh và sản xuất, giữa chiến đấu và xây dựng lực lượng. Riêng về quân sự, bộ đội chủ lực ta vừa chiến đấu vừa xây dựng cơ sở chính trị, cở sở vũ trang, xây dựng làng chiến đấu, xây dựng căn cứ, phát động nhân dân du kích chiến tranh, vừa đánh vừa nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật, từng bước xây dựng bộ đội địa phương đủ sức làm nhiệm vụ chiến đấu tại chỗ để chủ lực sẵn sàng rút đi làm nhiệm vụ cơ động, bước đầu đánh cứ điểm nhỏ, đội ứng chiến nhỏ, tiến lên đánh cứ điểm vừa, đội ứng chiến vừa, từ quy mô đại đội đến tiểu đoàn, biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta.
   
                   Qua một năm thực hiện phương châm “du kích là chính, vận động chiến là phụ trợ nhưng cần đẩy vận động chiến tiến tới”, các đơn vị chủ lực đã phối hợp với dân quân du kích Quảng Nam - Đà Nẵng thực hiện việc chấn chỉnh lực lượng, kết hợp luyện quân với lập công, bám đất bám dân, tiến sâu vào vùng địch tạm chiếm phát động chiến tranh du kích đạt kết quả, tạo điều kiện mở chiến dịch giành thắng lợi lớn.
   
                   Đông Xuân 1948-1949, thực hiện chủ trương của Liên khu ủy và Bộ Tư lệnh Liên khu 5, Trung đoàn 108 được tăng cường Tiểu đoàn 19 và Tiểu đoàn 79 của Quân khu, phối hợp cùng bộ đội địa phương và dân quân du kích, mở một đợt hoạt động mạnh trên toàn tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Đồng chí Nguyễn Bá Phát - Trung đoàn trưởng và tôi - Chính ủy Trung đoàn 108 phụ trách đợt hoạt động này. Hướng đánh địch đầu tiên là đường đèo Hải Vân. Sáng ngày 24 tháng 1 năm 1949, quân ta phục kích tại đường ô tô và đường xe lửa, diệt 1 đoàn tàu quân sự và 1 đoàn xe cơ giới 18 chiếc của địch từ Đà Nẵng chạy ra Huế, phá hủy 1 đầu máy, 12 toa xe lửa, 15 xe cơ giới, diệt và làm bị thương hơn 300 tên địch. Tiếp đó, một đoàn xe 12 chiếc chạy từ Huế vào tiếp viện đến cầu Roger, 200 tên Pháp nhảy xuống, 40 tên bị quân ta tiêu diệt tại chỗ. Đây là trận thắng lớn thứ 3 của quân và dân ta trên đèo Hải Vân kể từ đầu năm 1947. Chiến thắng Hải Vân lần thứ 3 là thắng lợi của sự phối hợp chặt chẽ giữa bộ đội chủ lực với lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương, là một điển hình tiêu biểu của chiến tranh nhân dân vùng sau lưng địch, thể hiện sinh động phong trào toàn dân đánh giặc và sự kết hợp chặt chẽ giữa Đảng bộ địa phương và Đảng bộ trong quân đội trong quá trình chuẩn bị chiến trường, thực hành chiến đấu và bảo toàn lực lượng lúc lui quân.
   
                   Sau một thời gian phân tán nhỏ, hỗ trợ cho phong trào du kích, ngày 3 tháng 2 năm 1949, Tiểu đoàn 79 phối hợp với 1 đại đội của Tiểu đoàn 19 đánh một trận phục kích lớn tiêu diệt toàn đại đội Tabo (Âu Phi), phá hủy và đốt cháy 14 xe cơ giới của địch tại Gò Cà, trên đường Ái Nghĩa đi Túy Loan (Hòa Vang).
   
                   Trận đèo Hải Vân và trận Gò Cà là hai hoạt động tập trung có những yếu tố của một chiến dịch, lần đầu xuất hiện trên chiến trường Nam Trung Bộ.

Logged
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM