2. VĂN SÁCH
(Của Đình nguyên Hoàng giáp Nguyễn Quang Bích.
Khoa Kỷ Tỵ (1869) năm 22 niên hiệu Tự Đức)
Thần xin thưa, thần nghe rằng: giữa trời và người không xa xôi lắm, cho nên việc làm của ông Vua thường có sự cảm ứng với trời đất. Sao vậy? Là vì Trời là Lý vậy. Lý tan hòa trong muôn vàn sự vật. Dẫu trời không thể làm, người sẽ làm thay. Trời lại là Số vậy. Sự vận động của Số có khi xuất hiện trong đột biến. Dù là đời thịnh không thể không có hiện tượng ấy. Thánh hiền sinh ra ở đời nay, quý là ở chỗ có khả năng đổi suy nên thịnh, đổi sai nên đúng, đổi nguy nên yên, đổi loạn nên trị, lấy Lý mà chế ngự, chứ không nhất thiết phó mặc khí số, đã không phó mặc khí số thì cũng trở lại tìm ở nhân sự mà thôi.
Kính duy hoàng đế bệ hạ: Thông minh làm phép tắc, giản dị làm giếng mối, từ khi lâm ngự tới nay, chăm chăm lo trị, trăm việc phấn chấn, tấm lòng kính trời thương dân, chưa một ngày nào lơi lỏng, thành tâm nhận lỗi sợ trời soi tới vậy, sắc các thần cầu mưa, xin phúc, hễ những điều gì làm để cầu được mệnh trời lâu dài, đặt nước nhà trên một cơ đồ muôn vạn năm, đều đã không việc gì không làm hết sức. Hơn nữa, trong cái dụng của bậc đại trí, đầy lòng khiêm tốn, trong lúc muôn việc hơi rảnh, gọi chúng thần vào sân, tha thiết hỏi cái lý "thiên nhân", tính chất khác nhau của những sự kiện thành công, thất bại, lẽ trị loạn xưa nay. Ở đây chúng thần được thấy tấm lòng ưa hỏi, ưa xét của bệ hạ, cũng tức là tấm lòng luôn luôn tìm điều thiện như đức của Đại Thuấn vậy. Thần đây vụng dại, quê mùa, ngay đối với việc nhân sự còn chưa nghiên cứu tường tận huống chi là cái lý cực kỳ tinh vi, đâu có đủ để làm bẩn tai của Thánh thượng. Nhưng khi bắt đầu thưa trình dám đâu không đem hết kiến thức để dâng hiến chút sở đắc nhỏ mọn hay sao?
Thần cúi đọc chế sách, có đoạn nói: từ xưa tới nay, vận hội thịnh suy, sửa sai chỉnh đúng, rành rành có thể khảo xét, đại để không ngoài những điều: "tính mệnh, chính giáo". Nhân đó hiểu rõ về sự khác nhau giữa "tính, tình, tâm, mệnh, đạo, đức, nhân, thứ" cùng với tính chất dị đồng giữa "tà, chính", "hưng, suy", "thịnh, giáng", "thánh, phàm", "cùng, đạt". Thật đủ để thấy đức Hoàng thượng ta minh triết tinh diệu, xét lý rất rõ và muốn cho sự thảo luận được rất mực chu tất vậy.
Thần nghe rằng, từ xưa, bậc vua chúa cai trị thiên hạ không ai không bắt nguồn từ tính trời, rồi noi theo đạo của tính ấy mà mở mang giáo hóa. Làm đúng điều đó là trị bình, làm sai điều đó là loạn lạc. Sự phân chia ra trị hay loạn là xem nơi lòng mình cư xử như thế nào và công việc của mình thi hành như thế nào mà thôi. Đức tốt rỡ ràng là vua Nghiêu, huyền đức vang dội là vua Thuấn. Thuận theo cái tình của TÍNH MỆNH để dẫn dắt muôn dân vào cõi nhân thọ. Cho nên việc trị thủy giao cho ông Vũ, việc trồng cấy giao cho ông Tắc làm. Chính sách yên dân không thể không chu toàn. Sai ông Tiết làm chức tư đồ, năm giáo ban khắp. Những điều giáo hóa cho dân không nơi nào không hoàn bị. Vua Thang tới bậc thánh kính, trời sai cai trị 9 châu. Vua Văn, vua Võ ban bố đức sáng, trời sai chịu mệnh muôn nước, mà chính sự hiện ra ở chỗ không cương, không nhu; rỡ ràng thừa kế, làm bất cứ điều gì là nhằm đưa nhân dân vào cõi hòa bình, giàu có. Sự giáo hóa được biểu hiện ra ở chỗ riềng mối được sửa sang, coi trọng 5 giáo cốt là khép nhân dân vào phong tục nhân nhường, hiếu đễ. Trong khoảng trên dưới vài nghìn năm, đời được hòa bình, thịnh vượng, có chỗ đời sau không theo kịp được, chính là nhờ về điều đó vậy. Vua Kiệt nói: "Có mệnh ở Trời"
1 mà cứ càn rỡ làm điều tàn bạo. Vua Trụ không biết có trời, xa rời mệnh lớn, mà chuyên làm việc vơ vét hà khắc, dựng nên cung Quỳnh, đài Giao, ao rượu, rừng thịt. Những điều họ làm đều là chính sự hại dân, tàn vật. Việc quan lữ ở Minh Điều, Mục Giã
2 vì thế mà nổi lên chăng? Từ các đời Hán, Đường về sau, hoặc lấy sự ham muốn riêng tư xen vào, hoặc đức không chân thực. Vì tôn sùng Hoàng Lão mà đời Hậu Nguyên
3 tuy nước giàu, dân đông cũng không thể nổi lên phong tục lễ nhượng, nghĩa lý phần nhiều trái ngược. Đời Trinh Quán
4 có nhiều điều sai ngoa, khinh bạc nên không làm sao có được hành động của bậc quân tử. Nuôi dưỡng nhân dân, nêu cao chính học, chính giáo của đời Tống tương tự như vậy. Sự chưa sáng tỏ về vương đạo cũng có, sự giảng cứu học thuật về đạo trị bình chưa đến nơi đến chốn cũng có. Tìm cái gọi là cùng lý, tận tính của đạo tu thân, trị dân là chưa hề nghe. Vậy thì sao có thể trông mong tiến tới cảnh hưng thịnh như đời cổ đại? Xét về duyên cớ thịnh, suy, được, mất thì thấy rằng cái lý Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín gọi là Tính. Tính là cái con người có được khi sinh ra, phát ra xót thương, xấu thẹn, từ nhượng, phải trái thì gọi là Tình. Tình là trạng thái động của Tính vậy. Tâm thì thống lĩnh Tính Tình, không tình huống nào là không cụ thể. Mệnh thì Âm dương và Ngũ hành
5 bẩm thụ vào vật. Từ cái mà người ta đều phải noi theo thì gọi là Đạo. Từ chỗ hành đạo mà trong lòng có sở đắc thì gọi là Đức. Gọi rằng Nhân là vì có lòng ôn tồn, từ ái. Gọi rằng Thứ là vì có nghĩa suy lòng mình thích ứng với sự vật. Tựu trung là Tính và Đạo vốn đều xuất phát ở Trời vậy, mà Lý thì một, Khí thì không thể không có chỗ khác nhau. Cái thiện của Tính vốn cùng với cái lý bản nhiên của nó. Cái đặc thù của Đạo là ở sự bẩm thụ chưa phát ra, có sáng tối, thuần tạp khác nhau. Đến như điều "mệnh không ngang nhau" thì không thể nói chung một cách nhất luật được mà vua với tướng là người tạo mệnh, cho nên không thể nói đến mệnh.
_________________________________
1. Theo Mạnh Tử thì vua Kiệt thường nói: Ta sinh ra không có ở mệnh trời.2. Minh Điều là chỗ vua Thang đánh bại quân của vua Kiệt, Mục Giã nơi vua Võ đánh bại quân vua Trụ.3. Hậu Nguyên: Niên hiệu của Hán Vũ đế.4. Trinh Quán: Niên hiệu của Đường Thái Tông.5. Nhị khí: Âm dương. Ngũ hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.