Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 09:16:26 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Hỏi đáp về cuộc khởi nghĩa Nguyễn Quang Bích  (Đọc 21317 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #10 vào lúc: 07 Tháng Hai, 2017, 08:12:49 am »


Giặc Pháp một mặt dùng quân đội đàn áp, mặt khác phái bọn tay sai là ngụy bố chánh Hưng Hóa Bùi Quang Tín, ngụy tri phủ Lâm Thao Nguyễn Khắc Hợp đến dụ dỗ, hòng đưa miếng mồi quan tước bổng lộc ra mua chuộc. Nguyễn Quang Bích kiên quyết cự tuyệt, thề chết không hàng. Bức thư ông trả lời bọn Pháp lời lẽ ôn hòa mà đanh thép, lý luận từ tốn mà hùng tráng, đã nói lên ý chí bất khuất của dân tộc Việt Nam bất chấp sức mạnh của quân xâm lược.

Nhưng đến tháng 10 năm Đinh Hợi (tháng 11 năm 1887), quân Pháp bất thần ập đến, ông cùng Hiệp đốc Nguyễn Văn Giáp phải chia tay nhau lánh vào nhà đồng bào Mèo quanh vùng. Vài ngày sau, quân giặc bị đánh lui, ông trở về đồn thì Nguyễn Văn Giáp đã bị bệnh chết. Tại quân thứ, trước số đông đề đốc, lãnh binh, tán tương, thương biện, ông đọc bài văn tế lời lẽ vô cùng thống thiết ca tụng khí tiết hào hùng của người đồng sự, đồng tâm sớm quá cố.

Tháng 3 năm Mậu Tý (tháng 4 năm 1888), quân Pháp lần thứ hai dùng lối dương đông kích tây, một mặt cho bốn, năm chục quân kéo đến đánh đồn bên tả; mặt khác bắt người địa phương dẫn đại binh ngầm đi xuyên đèo Lạo Khê, Nha Sơn tấn công từ sau lưng đồn Đèo Ách. Đồn này có địa thế hiểm trở, trước nay chưa từng bị quân giặc đến đánh nên phòng bị có phần chủ quan. Bị tấn công bất ngờ, quân tướng trở tay không kịp, đến khi đồn tả và đồn hậu kéo binh đến tiếp viện thì đồn đã lọt vào tay giặc. Ông tránh vào các động Mèo rồi rút lui về thủ hiểm ở châu Phù An (tức huyện Phù Ninh). Sau hai ngày, được tin báo quân địch đã rút lui hết, ông quay về đồn cũ. Vài ngày sau có tin thắng trận lớn ở Dụ Phong, nghĩa quân do Đề Cương (Hoàng Đình Cương) chỉ huy chém được mười ba đầu lính Tây đưa về, lính Pháp và ngụy vừa bị thương vừa bị chết đến năm, sáu trăm người, quân trang quân dụng thu được rất nhiều.

Mặc dù thắng lợi mới, nhưng nói chung tình hình nghĩa quân càng ngày càng khốn đốn, vòng vây của giặc ngày thêm siết chặt, lương ăn là một trong những vấn đề nan giải. Nguyễn Quang Bích đã nói cùng tướng sĩ: "Quân giặc sợ ta phản công nên tạm thời tháo lui đó thôi. Đường xa hư thực chúng đã biết hết rồi, ta không thể ở đây lâu được".

Tình hình khó khăn đó của nghĩa quân cũng đã được ghi lại trong một số bài thơ như: Quân lương khuyết phạp, Quân trung sách mễ...

Quân thứ vì vậy phải dời chỗ luôn, hết rút về đóng ở Sơn Động tháng 4 năm Mậu Tý (tức tháng 5 năm 1888), lại đến Sơn Lương tháng 7 năm đó (tức tháng 8 năm 1888), và cuối cùng phải rút quân về đóng tại xã Quế Sơn, châu Yên Lập. Đến tháng 9 năm 1888, quân Pháp mới dám vào chiếm đóng Nghĩa Lộ, nhưng chúng bị đồng bào Mèo do Đào Triển Lộc và đồng bào Dao do Đổng Phúc Thịnh cầm đầu bao vây ở Tú Lệ và Nghĩa Lộ. Tình hình địch rất nguy ngập, mọi cánh quân kéo tới giải vây đều bị đánh tan; phối hợp với mặt trận chính, các toán nghĩa quân ở rải rác khắp nơi đã phục kích đánh giặc và chống càn thắng lợi. Trong hơn một năm, các quân thứ nghĩa binh báo tin thắng trận luôn, quân thế có chừng phấn chấn.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #11 vào lúc: 07 Tháng Hai, 2017, 08:15:19 am »


Tháng 9 năm Kỷ Sửu (tức tháng 10 năm 1889), ông đưa giấy tập hợp các tướng. Quân Pháp được tin thừa cơ kéo đại binh tới đánh úp để mong giành thế chủ động trên chiến trường. Nhưng ông đã kịp thời phái các tướng là Đề Kiều, Đề Mạc, Đề Dị, Đề Thành đem quân bày trận, mai phục sẵn ở cách đại đồn chừng sáu dặm. Chờ cho quân giặc đi sâu vào trận địa, nghĩa quân mới nổ súng. Quân ta từ trên cao bắn xuống rất trúng đích, quân giặc vừa bị thương vừa bị chết gần hết, nghĩa quân thu được rất nhiều đạn dược, súng ống.

Tuy thắng lợi lớn như vậy, nhưng do giặc có ưu thế về vũ khí nên đã ra sức khủng bố nhân dân ta và chia rẽ dân tộc, nghĩa quân cuối cùng phải dời sang đóng ở khe núi Tôn Sơn, xã Mộ Xuân, cũng trong địa hạt châu Yên Lập.

Trong thời gian này, có lần Đề Vương đã từ Cẩm Khê đem ba mươi vệ binh ban đêm xuôi thuyền lẻn về đánh úp đồn giám binh tỉnh Hưng Hóa, tước được bốn mươi súng và hai hòm đạn.

Tháng 10 âm lịch (tức tháng 11 năm 1889), ông truyền lệnh cho khắp các tướng sĩ cùng các quân thứ phải chuẩn bị đầy đủ cho cuộc tấn công lớn năm sau (năm 1890). Không ngờ, đến ngày 15 tháng Chạp năm đó (tức ngày 5 tháng 1 năm 1890), ông đột nhiên chuyển bệnh nặng, rồi mất tại đại bản doanh nghĩa quân ở núi Tôn Sơn, châu Yên Lập. Thi hài ông được quân sĩ chôn cất trên ngọn núi Tôn Sơn, với ý biểu dương ý chí bất khuất của một văn thân yêu nước và cũng của cả một dân tộc anh hùng. Sĩ phu nơi nơi nghe tin ông mất đều tỏ lòng thương tiếc vô cùng.

Tin ông mất lúc đầu thực dân Pháp chưa tin, cho là mưu kế của nghĩa quân, chúng đê hèn hạ lệnh bắt toàn gia ông, cả bà cụ thân mẫu của ông tuổi đã bảy mươi cũng bị bắt giam. Chúng còn bắt giam cả các hào dịch xã Trình Phố là nơi quê hương ông, tịch thu tài sản của họ, cốt buộc họ bắt nộp ông cho chúng. "Một người tận trung, cả làng bị giày xéo. Cái nọc độc văn minh quá lắm thay!", đó là lời kết án thực dân Pháp nghiêm khắc của nhà yêu nước Phan Bội Châu trong tác phẩm "Việt Nam, vong quốc sử"1 sau này.

Tháng 8 năm Kỷ Sửu (tháng 9 năm 1889), trước khi từ trần mấy tháng, ông đã căn dặn lại con cháu những lời sắt đá: "Ta đã đem thân hứa quốc, không cần người đi lại thăm nom vô ích; sau này, nếu có nhớ đến ta, cứ lấy ngày thành Hưng Hóa thất hãm làm ngày giỗ ta".

Ba năm sau ngày mãn tang, người con trai đưa hài cốt ông về quê. Trên đường về, mỗi khi qua một địa hạt nào, đồng bào được tin đều ra đón lạy khôn xiết cảm mộ, chứng tỏ lúc sinh thời ân đức ông tràn khắp, nên mặc dù trước sự khủng bố tàn bạo của bè lũ cướp nước và tay sai mà lòng người vẫn không bỏ. Linh giá ông đưa về đến Cát Trù, Đề Kiều ra đầu làng đón tiếp, rồi chôn tạm ngay tại quê Đề Kiều là xã Lộc Cương. Hai năm sau, người nhà Nguyễn Quang Bích mới tới kết bè rước hài cốt về an táng nơi quê nhà.

Sau khi ông mất, quân tướng tản mát nhiều nơi. Duy các tướng sĩ như Đề Kiều, Đốc Ngữ, Đề Dị, Đề Thành vẫn anh dũng tiếp tục sự nghiệp rạng rỡ của ông, làm cho thực dân Pháp và bè lũ tay sai thất điên bát đảo trong nhiều năm trường2.
__________________________________________
1. Phan Bội Châu, Việt Nam vong quốc sử, Bản dịch của Chu Thiên và Chương Thâu, Nhà xuất bản Văn - Sử - Địa, Hà Nội, 1957.
2. Một số bậc già lão ở Hà Tây và Phú Thọ ngày nay cho biết: Trước kia, vì ngưỡng mộ công đức của Nguyễn Quang Bích nên nhân dân trong vùng đã lập sinh từ ông ở Sơn Tây và tại làng Cao Dụ (Phú Thọ), cũng như tại hai làng Cổ Đô (Sơn Tây) và làng Trình Xá (Phú Thọ), ở hai bên bờ sông Hồng đều có đền thờ sau khi ông mất.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #12 vào lúc: 07 Tháng Hai, 2017, 08:17:23 am »


Câu hỏi 6: Cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Quang Bích được coi là ngọn cờ quy tụ lực lượng yêu nước chống Pháp vùng Tây Bắc cuối thế kỷ XIX, hãy cho biết rõ hơn về điều này?
Trả lời:


Nguyễn Quang Bích là một trong những người kiên quyết chống lại đường lối thỏa hiệp của triều đình. Ông sang "chính giới" khá sớm. Ngay từ những năm cuối thập niên sáu mươi, đầu thập niên bảy mươi của thế kỷ XIX, khi tình hình Bắc Kỳ rối ren, với sự có mặt của giặc biển Tàu Ô, "giặc khách" ở biên giới Việt - Trung, được sự điều động của triều đình Huế, Nguyễn Quang Bích cùng một số quan văn võ như Tôn Thất Thuyết, Hoàng Tá Viêm, Nguyễn Tri Phương, Ông Ích Khiêm, Lê Tuấn, Bùi Viêm... ra Bắc tiễu trừ các lực lượng chống đối, quấy phá. Với những công trạng tiễu trừ "giặc khách", Nguyễn Quang Bích mở đầu và chính thức bước vào sự nghiệp cứu nước. Tuy nhiên, phải tới khi quân Pháp đánh thành Hưng Hóa và ngày thành Hưng Hóa mất (ngày 12 tháng 4 năm 1884), ông phải rút lên vùng Tây Bắc lập căn cứ chống Pháp lâu dài, thì từ đấy, ông mới thực sự trở thành ngọn cờ quy tụ lực lượng yêu nước chống Pháp không chỉ ở vùng Tây Bắc mà còn lan rộng ra cả Bắc Kỳ.

Không phải ngẫu nhiên mà trước khi từ trần mấy tháng, Nguyễn Quang Bích đã dặn lại con cháu: "Ta đã đem thân hứa quốc, không cần người đi lại thăm nom vô ích; sau này, nếu có nhớ đến ta, cứ lấy ngày thành Hưng Hóa thất hãm làm ngày giỗ ta". Lời dặn dò ấy khẳng định sự gắn bó máu thịt của Nguyễn Quang Bích với Hưng Hóa - mảnh đất mà trong tám năm ông đã từng lặn lội với đầy ắp kỷ niệm. Khi thành Hưng Hóa còn, ông trèo lên Kính Thiên đài, ý muốn noi gương các bậc nghĩa liệt, sống chết với thành. Khi thành mất, ông bước vào giai đoạn "nếu mà thắng, mà sống thì là nghĩa sĩ của triều đình, nhưng chẳng may mà thua mà chết, thì cũng làm quỷ thiêng giết giặc"1.

Ngay sau khi thành Hưng Hóa thất thủ, Nguyễn Quang Bích chủ động cử người đi liên kết lực lượng ở các nơi. Số nghĩa quân tản mát khi biết Nguyễn Quang Bích đang tổ chức lại lực lượng chiến đấu lâu dài, lần lượt tìm về ngày một đông. Nguyễn Văn Giáp, nguyên Bố chánh Sơn Tây, bấy lâu cầm đầu nghĩa quân chống Pháp ở vùng lưu vực sông Thao (Phú Thọ), nay cũng kéo quân về hợp lực. Trước đó, Nguyễn Quang Bích và Nguyễn Văn Giáp đã từng phối hợp chiến đấu nay thực sự họ đã liên kết trong một đội hình chung do Nguyễn Quang Bích lãnh đạo.

Nguyễn Quang Bích chủ động mở rộng địa bàn hoạt động, suốt một dải từ Tây Bắc, vùng sông Đà, sông Hồng, sông Chảy, từ Sơn Tây, Hưng Hóa lên tới vùng biên giới phía Bắc. Với địa bàn đó, ông có điều kiện chiêu mộ và tăng cường lực lượng, liên lạc, phối hợp với các thủ lĩnh nghĩa quân khác trong vùng và ở cả các tỉnh xa như Đinh Công Tráng, Đinh Gia Quế, Đinh Hân (Nam Định), Quách Tân Ngân (Ninh Bình), Trần Văn Sang (Hưng Yên), Hà Văn Mao (Thanh Hóa)...

Cùng với các tướng lĩnh có tên tuổi, các thân hào, nghĩa sĩ khắp nơi đã tụ họp dưới ngọn cờ yêu nước kháng Pháp của Nguyễn Quang Bích. Chỉ trong một thời gian ngắn, Nguyễn Quang Bích đã tập hợp được xung quanh mình một lực lượng đông đảo, rộng khắp, dù không có khả năng ngăn chặn mọi đợt tấn công của kẻ địch. Hiệp ước Giáp Thân (ngày 6 tháng 6 năm 1884), đánh dấu sự đầu hàng toàn diện của triều đình nhà Nguyễn trước thực dân Pháp. Đó là một vết nhơ trong lịch sử dân tộc. Song cũng chính từ sau hàng ước này, lịch sử tiếp tục ghi nhận tiếng nói chân chính của thời đại, tiếng nói chiến đấu của nhiều sĩ phu văn thân kiên quyết chống lại đường lối thỏa hiệp, không chịu hạ khí giới đầu hàng.
_______________________________________
1. Thơ văn Nguyễn Quang Bích, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1973. tr. 23.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #13 vào lúc: 07 Tháng Hai, 2017, 08:17:56 am »


Hai tháng trước khi Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi chạy ra phía Bắc và xuống chiếu Cần Vương kêu gọi văn thân và nhân dân cả nước nổi dậy đánh giặc cứu nước, ngày 13 tháng 5 năm 1885, Nguyễn Quang Bích và Nguyễn Văn Giáp đã làm tờ trát sức gửi tới toàn quyền Chánh lãnh binh tỉnh Bắc Ninh để thi hành. Trát sức không đầy năm trăm chữ, cho ta biết những điều cơ bản sau đây:

- Thế giặc đang cùng quẫn.

Lực lượng tập trung ở đại bản doanh Nguyễn Quang Bích càng nhiều và vẫn đang tiếp tục tập trung về đây.

- Địa bàn hoạt động khắp vùng Tây Bắc đến Sơn Tây, Hòa Bình và Thanh Hóa.

- Phương châm: ngầm liên kết dũng sĩ các nơi; tùy cơ đánh địch; lại lấy nghĩa cùng lòng, cùng sức để tập hợp quần chúng nhân dân, tạo nên bức thành dài vững chắc.

- Thời cơ giết giặc để lưu lại tiếng thơm là lúc này. Mong toàn quyền Chánh lãnh binh Bắc Ninh cố gắng chỉnh đốn lực lượng, tùy cơ mà đánh giặc.

Rõ ràng, tư tưởng bao trùm, xuyên suốt của tờ trát sức là tính chủ động tổ chức tập hợp lực lượng, phối hợp tác chiến tiêu diệt địch. Lòng yêu nước, chống Pháp của Nguyễn Quang Bích thể hiện đậm nét qua ý đồ mở rộng địa bàn, chiêu tập binh sĩ.

Đêm mùng 4, rạng ngày mùng 5 tháng 7 năm 1885, kinh thành Huế lọt vào tay giặc. Tôn Thất Thuyết cùng vua Hàm Nghi chạy ra phía Bắc. Tại sơn phòng Quảng Trị (thành Tân Sở), cùng với việc hạ chiếu Cần Vương kêu gọi nhân dân ứng nghĩa (ngày 13 tháng 7 năm 1885), Tôn Thất Thuyết còn thừa mệnh vua xuống dụ khai phục nguyên hàm và thăng chức cho các văn thân võ tướng ngoài Bắc. Đối với Nguyễn Quang Bích, vua Hàm Nghi sai sứ ra phong Lễ bộ thượng thư sung Hiệp thống Bắc Kỳ quân vụ đại thần, tước Thuần trung; cho phép quan văn từ tham tán, quan võ từ đề đốc trở xuống được quyền "liệu nghi lục dụng". Đây là điều kiện thuận lợi mới để Nguyễn Quang Bích tiếp tục sự nghiệp cao cả cứu nước, cứu dân mà mình theo đuổi suốt mười lăm năm.

Ngày 19 tháng 8 năm 1885, Nguyễn Quang Bích nhận lệnh vua sang Vân Nam chuyển quốc thư cho Tổng đốc Sầm Dục Anh. Chuyến đi sứ của Nguyễn Quang Bích được vua Hàm Nghi và Phụ chính đại thần Tôn Thất Thuyết ban khen, vì ông đã đưa tới Tổng đốc Vân Quý "những lời tố cáo giặc Pháp và yêu cầu viện trợ thống thiết".

Từ mùa thu năm 1885, với cương vị của mình, trên thực tế Nguyễn Quang Bích đã trực tiếp chỉ huy phong trào chống Pháp ở Tây Bắc. Ông tìm mọi cách liên hệ với những người lãnh đạo các phong trào chống Pháp ở các địa bàn khác như Nguyễn Thiện Thuật, Đèo Văn Trì, Cầm Văn Hoan, Cầm Văn Thanh, Đề Kiều, Đề Mục, Đề Cương, Đề Cơ, Đề Anh, Đốc Ngữ... Hơn thế nữa, các trung tâm kháng Pháp khác của phong trào Cần Vương trong toàn quốc như Phan Đình Phùng (Hà Tĩnh), Tống Duy Tân, Hà Văn Mao (Thanh Hóa), Nguyễn Tử Ngôn (Ninh Bình), Tán tương Nguyễn Khê Ông (Sơn Tây)... đều có liên lạc với Nguyễn Quang Bích.

Trong tất cả các lực lượng dưới quyền Nguyễn Quang Bích hoặc phối hợp chiến đấu với ông, bên cạnh "cánh sĩ phu kháng chiến", còn có đông đảo đồng bào các dân tộc thiểu số. Nghĩa quân của Nguyễn Quang Bích bao gồm người Kinh và khá nhiều đồng bào các dân tộc Mường, Thái. Sự đóng góp sức người, sức của của đồng bào các dân tộc thiểu số là hết sức to lớn và có hiệu quả. Các châu, huyện xung quanh đại bản doanh của nghĩa quân đóng tại Nghĩa Lộ (thuộc địa hạt châu Văn Chấn) tranh nhau đem lương thực về giúp, lập kho dự trữ.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #14 vào lúc: 07 Tháng Hai, 2017, 08:18:25 am »


Sau chuyến đi sứ lần thứ hai trở về không mang lại kết quả, Nguyễn Quang Bích quyết tâm tập hợp các đạo quân, phát súng đạn, luyện tập đêm ngày, chuẩn bị mọi mặt, chờ thời cơ diệt giặc cứu nước. Về phía thực dân Pháp, sau một số thất bại ban đầu, chúng đề ra kế hoạch hành động trong hai năm 1886 và năm 1887, trong đó mục tiêu đối với Bắc Kỳ là đàn áp phong trào kháng chiến ở lưu vực sông Thao của nghĩa quân Nguyễn Văn Giáp (tức Bố Giáp); mở rộng việc đánh chiếm các khu vực phụ cận Lào Cai, nhất là vùng phía tây...

Trong hoàn cảnh đó, muốn thắng lợi và giữ vững được căn cứ kháng chiến, bất cứ người chỉ huy có tâm huyết nào cũng không thể tách rời nhân dân, chiến đấu đơn độc. Bằng tài trí và uy tín cá nhân, dựa vào dân và địa hình rừng núi, Nguyễn Quang Bích đã tổ chức được nhiều trận mai phục, tập kích phối hợp với nhiều lực lượng trên nhiều địa bàn. Sự phối hợp chia lửa, nghi binh, đánh lạc hướng quân địch trong đợt phản công tháng 2 năm 1886 giữa các lực lượng của Nguyễn Quang Bích, Nguyễn Văn Giáp, Đèo Văn Trì (tại châu Lai Châu) trên một địa bàn rộng lớn từ căn cứ Than Quang (Yên Bái), qua Cầm Khê (Sơn Tây), Văn Chấn (Nghĩa Lộ) tới Lào Cai, Phong Thổ... khẳng định khả năng liên kết, tổ chức, tập hợp lực lượng của Nguyễn Quang Bích. Chính thực dân Pháp phải thú nhận: "Nguyễn Quang Bích và Nguyễn Văn Giáp đóng quân ở đại bản doanh chung quanh có các tướng đóng giữ các đường vào căn cứ. Đường núi về phía hữu, tục gọi là Đèo Ách do Đề Kiều đóng. Phía tả, tục gọi Đèo Pha do Phó đề đốc Mạc đóng giữ. Mặt sau tục gọi Ngòi Vụ có Lãnh binh Vương Văn Doãn đóng".

Năm 1887, địa bàn hoạt động của nghĩa quân vượt ra ngoài vùng Tây Bắc và Bắc Kỳ, vào tận Nghệ An để mở rộng phong trào chống Pháp ở vùng dân tộc thiểu số. Cuối năm 1886, đầu năm 1887 là thời gian có những trận phối hợp tác chiến tuyệt đẹp của các lực lượng Nguyễn Văn Giáp, Lãnh binh Vương, các động Mèo, Dao...

Có thể nói, trong giai đoạn thứ nhất của phong trào Cần Vương, trên địa bàn Sơn - Tuyên - Hưng, thực dân pháp ngại nhất là Bố Giáp, Nguyễn Quang Bích và các dũng tướng của ông.

Cuối năm 1887, Nguyễn Văn Giáp từ trần. Đó là một tổn thất lớn cho nghĩa quân. Từ đây, Nguyễn Quang Bích và lực lượng của ông bước vào một giai đoạn hoạt động khó khăn. Tuy nhiên, với tư tưởng "thà chịu tội với nhất thời, quyết không chịu tội với vạn thế". Nguyễn Quang Bích không hề nhụt chí. Trái lại, những hoạt động chống Pháp của ông không ngừng tăng lên. Đặc biệt, trong đội hình chiến đấu của Nguyễn Quang Bích, ngoài những sĩ phu trung kiên một lòng một dạ phục vụ sự nghiệp giết giặc, cứu nước, nhân dân các dân tộc Mường, Mán, Dao... vẫn tiếp tục về tụ họp dưới ngọn cờ nghĩa của ông. Tại địa bàn Tú Lệ, nghĩa quân của Đổng Phúc Thịnh, Đào Triển Lộc đã phối hợp với nghĩa quân của Nguyễn Quang Bích đánh Pháp quyết liệt.

Lực lượng này liên kết chống càn, truy kích quân địch ở căn cứ Tú Lệ, phong tỏa Nghĩa Lộ và xây dựng các phòng tuyến chiến đấu xung quanh Nghĩa Lộ. Song tình hình ngày càng khó khăn. Một mặt, do kẻ địch quyết truy kích nghĩa quân đến cùng. Mặt khác, qua chiến đấu dài ngày, lực lượng nghĩa quân ngày càng mỏng dần. Nguyễn Quang Bích phải chuyển căn cứ kháng chiến liên tục. Cuối năm 1889, đầu năm 1890, Nguyễn Quang Bích và nghĩa quân trụ ở xã Mộ Xuân, châu Yên Lập, tỉnh Phú Thọ, tổ chức những trận chiến đấu cuối cùng. Kế hoạch của Nguyễn Quang Bích là "truyền lệnh cho khắp các tướng sĩ cùng các quân thứ phải chuẩn bị đầy đủ cho cuộc tấn công lớn năm 1890". Nhưng sau đó ông bị bệnh, nghĩa quân lại gặp khó khăn về lương thực và vũ khí. Ông mất tại núi Tôn Sơn, căn cứ mới của nghĩa quân thuộc xã Mộ Xuân, huyện Yên Lập, vào tuổi năm chín.

Cái chết của Nguyễn Quang Bích là một mất mát lớn lao cho đất nước, nhân dân và dân tộc. Nguyễn Quang Bích tiêu biểu cho một lớp nhà nho yêu nước, gặp lúc đất nước nguy nan, vẫn giữ được khí tiết trọn đời. Lúc còn sống, ông không chịu tuân theo lệnh bãi binh của triều đình, ở lại lập căn cứ, nhận trách nhiệm trước nhân dân, tổ chức chiến đấu, một phen sống mái với quân thù. Ông là con người của nhân dân, thương yêu và được dân tin yêu, mến phục.

Vì vậy, sau khi qua đời, ngọn cờ cứu nước của ông vẫn được giương cao. Ông đã để lại cho phong trào yêu nước Việt Nam một đội ngũ tướng tài, binh giỏi, những đội nghĩa quân có khả năng chiến đấu độc lập như đội của Đề Kiều, Đốc Ngữ, Đề Dị, Đề Thành... Phong trào chống Pháp sau năm 1891 trên chiến trường Tây Bắc, dưới sự chỉ huy của các tướng lĩnh do Nguyễn Quang Bích đào luyện là sự phản ánh và là hệ quả tất yếu của phong trào yêu nước chống Pháp giai đoạn trước đó mà Nguyễn Quang Bích là ngọn cờ đầu.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #15 vào lúc: 07 Tháng Hai, 2017, 08:19:42 am »


Câu hỏi 7: Dưới sự chỉ huy, đào tạo của Nguyễn Quang Bích, Đốc Ngữ nổi lên là một tướng tài, ông đã trưởng thành và trở thành lực lượng chiến đấu độc lập. Cho biết thêm về Đốc Ngữ và cuộc khởi nghĩa của ông?
Trả lời:


Hơn một trăm năm đã qua kể từ ngày Đốc Ngữ hy sinh, nhưng tên tuổi và những chiến công của ông vẫn ngời sáng vùng hạ lưu sông Đà. Cùng với Nguyễn Quang Bích và Đề Kiều, ông là một trong những thủ lĩnh xuất sắc của phong trào chống thực dân Pháp ở nửa sau thế kỷ XIX.

Đốc Ngữ tên thật là Nguyễn Đình Ngữ, sinh quán tại xã Xuân Phú, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc Thủ đô Hà Nội). Khi mất (năm 1892), ông khoảng bốn mươi tám tuổi.

Nguyễn Đình Ngữ xuất thân từ nông dân nghèo, ông đã từng chở đò thuê để kiếm sống. Khi giặc Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất (năm 1873), Nguyễn Đình Ngữ đã có mặt trong cuộc đấu tranh chống Pháp, trong đội ngũ lính tập của triều đình Huế đóng ở Sơn Tây. Trải qua nhiều trận chiến đấu, ông lập nhiều công và được thăng chức đốc binh, nên được gọi Đốc Ngữ. Nguyễn Đình Ngữ cũng đã góp phần làm nên chiến thắng oanh liệt trong trận Cầu Giấy lần thứ hai (năm 1882).

Tháng 12 năm 1883, mặc dù thành Sơn Tây đã bị giặc chiếm, nhưng Đốc Ngữ cương quyết chống lại lệnh bãi binh đầu hàng của triều đình Huế, dứt khoát ở lại bám dân, bám đất, kiên trì kháng chiến.

Nghĩa quân Nguyễn Đình Ngữ lúc đầu chiến đấu dưới sự chỉ huy của Tuần phủ Hưng Hóa là Nguyễn Quang Bích và của Bố chánh Sơn Tây là Nguyễn Văn Giáp, đến năm 1889 vẫn còn chiến đấu trực tiếp trong hàng ngũ nghĩa quân Đề Kiều. Từ năm 1890, nghĩa quân Đốc Ngữ trưởng thành lớn mạnh và trở thành lực lượng chiến đấu độc lập, hoạt động trên một địa bàn rộng lớn dọc theo hai bên bờ sông Hồng và sông Đà bao gồm các tỉnh Sơn Tây, Hưng Hóa, Hòa Bình...

Ảnh hưởng của Đốc Ngữ ngày càng lan rộng, lực lượng nghĩa quân có khi lên tới hàng ngàn người, vũ khí chủ yếu là súng trường mua từ Trung Quốc. Bấy giờ, các phong trào chống Pháp hoạt động trong hoàn cảnh khó khăn, nhất là từ sau khi vua Hàm Nghi bị bắt (tháng 11 năm 1888), nhưng nghĩa quân Đốc Ngữ vẫn giành được nhiều thắng lợi và có quan hệ mật thiết với các lực lượng nghĩa quân khác như Đề Kiều ở Hưng Hóa, Tống Duy Tân ở Thanh Hóa...

Nguyễn Đình Ngữ trở thành Đốc Ngữ rồi Phó tướng đạo Hà Ninh chính nhờ tài chỉ huy chiến đấu của ông. Sau những trận đánh ở Hưng Hóa (năm 1888), ở Quảng Nạp (năm 1890), ở Bằng Y (năm 1891)... cái tên Đốc Ngữ trở nên quen thuộc và ông trở thành vị "cứu tinh" của dân chúng.

Khi trở thành người đứng đầu một lực lượng độc lập thì Đốc Ngữ chứ không phải ai khác đã được Phan Đình Phùng với danh nghĩa vua Hàm Nghi chọn là Phó tướng đạo Hà Ninh vào năm 1891.

Cuộc đời chiến đấu của Đốc Ngữ là cuộc đời đấu tranh đầy mưu trí, gan dạ, bất khuất. Tinh thần quả cảm, trí thông minh cùng tài quân sự của ông khiến kẻ thù cũng phải thừa nhận và nể phục.

Trong những năm chiến đấu chống thực dân Pháp, Đốc Ngữ cùng nghĩa quân của mình tiến hành nhiều trận đánh. Mỗi lần ra trận, ông sử dụng những cách đánh khác nhau khiến kẻ địch không sao lường trước được. Điểm nổi bật trong cách đánh của nghĩa quân là khai thác triệt để yếu tố bất ngờ và thường sử dụng mưu trí kết hợp với tinh thần táo bạo cùng sự chuẩn bị chu đáo và được sự ủng hộ nhiệt tình của nhân dân.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #16 vào lúc: 07 Tháng Hai, 2017, 08:20:07 am »


Từ năm 1889 đến năm 1892, Đốc Ngữ cùng lực lượng nghĩa quân sông Đà lập được nhiều chiến công oanh liệt như: Bằng Y, Quảng Nạp, Cẩm Đài, Chợ Bờ, Trạch Quán, phá nhà tù Sơn Tây, diệt đồn Yên Lãng... Nổi bật hơn cả là trận phục kích đánh chặn quân Pháp ở Niên Kỷ.

Chiến thắng Niên Kỷ (còn gọi là Mường Kỷ), ngày 18 tháng 5 năm 1892, là một trong những trận đánh tài tình của nghĩa quân Đốc Ngữ, là chiến công to lớn của liên quân sông Đà - Hùng Lĩnh.

Nửa sau những năm tám mươi của thế kỷ XIX, sau khi đã cơ bản bình định vùng đồng bằng, thực dân Pháp tập trung lực lượng quân sự đánh lên miền trung du và núi rừng Bắc Kỳ hòng ngăn chặn hoạt động của các lực lượng nghĩa quân trên địa bàn này. Tại vùng hạ lưu sông Đà, những trận thắng của nghĩa quân Đốc Ngữ làm cho thực dân Pháp lo ngại trước sự phát triển của phong trào ở đây.

Sau trận đánh ác liệt diễn ra tháng 3 năm 1891, thực dân Pháp đã xây dựng đồn Yên Lãng trên bờ sông Đà nhằm ngăn chặn và uy hiếp lực lượng nghĩa quân. Đồn này án ngữ trên con đường Gò Lao - Tu Vũ và đèo Kẽm Hem. Xây dựng đồn Yên Lãng, quân Pháp hy vọng tách lực lượng nghĩa quân ra khỏi vùng đông dân cư Thanh Sơn, gây cho nghĩa quân nhiều khó khăn về lương thực.

Tối ngày 6 rạng ngày 7 tháng 2 năm 1892, bằng lối đánh tập kích, bất ngờ, táo bạo, nghĩa quân đã diệt đồn Yên Lãng một cách nhanh gọn. Toàn bộ binh lính cùng viên đồn trưởng bị tiêu diệt, thu năm mươi súng và khoảng ba mươi lăm nghìn viên đạn. Sau trận này, phong trào nghĩa quân càng lan rộng, uy thế càng lớn, khiến thực dân Pháp lo ngại. Vì thế, Pháp đã tạm ngừng cuộc tiến công quy mô vào Yên Thế để tập trung lực lượng tấn công nghĩa quân sông Đà. Chúng cho xây dựng đồn Yên Lãng, điều quân từ thượng du sông Hồng về Hưng Hóa và từ Yên Thế sang để mở tiếp một chiến dịch mới nhằm tiêu tiêu diệt nghĩa quân. Đại tá Pen-nơ-canh, chỉ huy trưởng quân sự thứ tư được cử làm chỉ huy lực lượng cuộc hành quân này. Chúng còn cử tên phó sứ là Vác-cơ-lơ đặc trách việc mưu sát Đốc Ngữ.

Sau trận Yên Lãng (tháng 2 năm 1892) là một giai đoạn chiến đấu gay go ác liệt giữa nghĩa quân Đốc Ngữ và quân Pháp. Pháp dùng lực lượng quân sự lớn tổ chức bao vây, truy kích nghĩa quân và bằng mọi cách mua chuộc một số lang đạo cùng một vài tướng lĩnh, gây sự chia rẽ giữa người Mường và người Kinh trong lực lượng nghĩa quân. Trước sự tấn công, truy quét của giặc, nghĩa quân kiên quyết chiến đấu với một chiến thuật linh hoạt: vừa tổ chức đánh du kích, vừa tránh những mũi tiến công của địch để bảo toàn lực lượng. Tuy vậy, nghĩa quân vẫn bị bao vây chặt ở hữu ngạn sông Đà. Trước tình hình đó, Đốc Ngữ đã chủ trương rút vào Thanh Hóa, vừa để bảo toàn lực lượng, vừa để liên kết với phong trào chống Pháp của Tống Duy Tân.

Tháng 3 năm 1892, cuộc hành quân vào Thanh Hóa bắt đầu. Biết tin, mặc dù đang gặp khó khăn, thủ lĩnh nghĩa quân Hùng Lĩnh là Tống Duy Tân đã cho một bộ phận nghĩa quân đi đón.

Tin Đốc Ngữ kéo quân vào phía Nam khiến bọn Pháp bất ngờ và lo ngại, chúng huy động lực lượng đối phó và ngăn chặn. Đoán trước ý đồ của giặc, Đốc Ngữ chia lực lượng thành hai bộ phận. Đại bộ phận nghĩa quân do ông chỉ huy bí mật vượt sông hành quân trước. Bộ phận nhỏ còn lại dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Đình Nhuận thường gọi là Quan Chú, một tướng của nghĩa quân và là em ruột Đốc Ngữ, sau đó sẽ vượt sông thực hiện kế nghi binh, thu hút sự chú ý của địch, bảo đảm sự an toàn cho đạo quân Đốc Ngữ.

Sau những ngày truy tìm lực lượng nghĩa quân, đạo quân của Pen-nơ-canh (người chỉ huy đội quân đuổi theo nghĩa quân của Đốc Ngữ) từ một đội quân hùng hổ, quyết bắt được đối thủ đã trở nên chán nản, mỏi mệt, còn dấu vết của nghĩa quân thì mất hút. Giữa lúc ấy, Pen-nơ-canh được tin Đốc Ngữ đang hoạt động ở Thanh Hóa. Viên công sứ Thanh Hóa điều thêm quân phối hợp với đội quân của Pen-nơ-canh cùng truy kích và ngăn không cho nghĩa quân sông Đà và nghĩa quân Hùng Lĩnh hội quân.

Biết quân Pháp đang săn đuổi, liên quân sông Đà - Hùng Lĩnh chủ động bố trí phục kích giặc ở Niên Kỷ (một làng miền núi, có hang sâu thuộc tổng Thiết Ống, châu Quan Hóa, nay là xã Thiết Ống, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa). Đây đã là căn cứ hoạt động của một số toán nghĩa quân như Trần Xuân Soạn, Hà Văn Mao và Tống Duy Tân sau này.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #17 vào lúc: 07 Tháng Hai, 2017, 05:13:57 pm »


Câu hỏi 8: Cho biết những nét chính về nhân cách và khí tiết của Nguyễn Quang Bích?
Trả lời:


Những yếu tố góp phần hình thành nhân cách Nguyễn Quang Bích trước hết phải nói đến dòng dõi gia đình. Tổ tiên của Ngô Quang Bích (sau đổi thành Nguyễn Quang Bích) là Ngô Kinh, Ngô Từ, vốn là gia nô của Lê Khoáng, Lê Lợi tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

Ngô Từ trông giữ Lam Kinh, đã từng tiến cử nhiều mưu thần, võ tướng tài giỏi cho Lê Lợi. Sau kháng chiến chống Minh thắng lợi, họ Ngô đứng vào hàng ngũ quý tộc. Qua nhiều triều vua Lê (khoảng trên 200 năm, theo thống kê của gia phả), họ Ngô đã có một hoàng hậu, bốn vị tước vương, mười một quốc công, năm mươi hai quận công, trên sáu mươi tước hầu, mười lăm tước bá, mười tám người được phong phúc thần, đỗ giám sinh (cử nhân) trên bốn mươi người, tiến sĩ ba mươi tư người. Như vậy, họ Ngô từ thế kỷ XV xuất xứ từ Đồng Phang đã trở thành một họ lớn sản sinh nhiều văn thần, võ tướng có tiếng.

Thân phụ Ngô Quang Bích là Ngô Quang Lưu vốn có sức khỏe, chăm chỉ làm ăn, tiết kiệm, đã trở thành một trung nông khá giả của làng Trình Phố xưa. Ông đã nêu gương cho con cái về đức tính lao động cần cù, sinh hoạt giản dị, ăn ở nhân đức với bà con xóm giềng, bảo ban con cái làm điều hay, lẽ phải. Thân mẫu ông là một người phụ nữ hết lòng thương chồng, săn sóc con cái. Hai cụ sinh hạ được năm con trai đều được ăn học đến nơi đến chốn.

Góp phần quan trọng vào việc hình thành nhân cách để tạo nên sự nghiệp của năm anh em họ Ngô, nhất là Ngô Quang Bích, là kết quả dạy dỗ từ các thầy học của các ông. Người khai tâm cho Ngô Quang Bích là cụ tú tài Nguyễn Ôn Hòa, một nho sĩ có tiếng người làng Hành Thiện, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định.

Sớm lập chí từ nhỏ, tư chất thông minh, hiếu học, được thầy học ân cần dạy bảo nên Ngô Quang Bích có cố gắng hơn lớp đồng môn bấy giờ. Có một chuyện về tinh thần ham học của Nguyễn Quang Bích còn được lưu truyền rằng, buổi tối bạn bè chỉ học hết một đĩa dầu đầy đã đi ngủ, còn ông học gấp đôi thời gian ấy và sáng dậy còn học thêm. Chiếc cột lim ông thường tựa lưng ngồi học ban đêm đã trở nên nhẵn bóng.

Thuở Ngô Quang Bích đang là học trò, không khí tranh đua nơi trường ốc trong vùng cũng đã khá sôi nổi. Các cụm trường có nhiều danh sư, danh sĩ như Động Trung, gia đình Nguyễn Mậu Kiến đã mời được tú tài Phạm Diệu, thân phụ Tiến sĩ Phạm Thế Hiển mà đương thời suy tôn là Văn Xương Đế Quân; các ông hoàng giáp Phạm Xuân Nghị, Tiến sĩ Ngô Thế Vinh thường lui tới ở trường đại tập này. Cụm Nam Đường (nay là xã Nam Cao, Kiến Xương, Thái Bình), Ngoại Lãng, Đồng Thanh (Vũ Thư, Thái Bình), Hành Thiện (Xuân Thủy, Nam Định) cũng tác động ít nhiều đến tư tưởng, tinh thần học tập và chí tiến thủ của Ngô Quang Bích.

Học lên cao, Ngô Quang Bích đã tìm được một thầy học có tiếng tăm về đức độ, văn tài, đó là Tiến sĩ Đốc học Doãn Khuê, người xã Song Lãng, huyện Vũ Thư. Doãn Khuê thuở nhỏ học cụ Tú Cả, người bác họ, sau đó cùng với anh họ là Doãn Uộn lên phường Hoàng Mai, Hà Nội học Hoàng giáp Bùi Huy Bích. Bùi Huy Bích là học trò và là trưởng tràng của Bảng nhãn Lê Quý Đôn. Có thể nói cái học phong của dòng học Lê Quý Đôn mang dấu ấn khá rõ nét ở thầy học của Ngô Quang Bích. Đó là tinh thần học tập, nghiên cứu nghiêm túc, coi trọng việc tiếp thu những tinh hoa của kho tàng văn hóa dân tộc và văn hóa phương Đông. Phương châm răn dạy của Doãn Khuê với Ngô Quang Bích là:

      Canh độc lưỡng đồ, độc khả vinh thân, canh khả phú;
      Kiệm cần nhị tự, cần năng sáng nghiệp, kiệm năng doanh.


Nghĩa là:
      Hai con đường làm ruộng và học tập, học để vẻ vang thân mình, làm ruộng để giàu có.
      Thực hiện hai điều cần, kiệm, cần có thể dựng nghiệp, kiệm có thể đầy đủ.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #18 vào lúc: 07 Tháng Hai, 2017, 05:14:35 pm »


Ngay khi thực dân Pháp đặt chân vào bán đảo Sơn Trà, Doãn Khuê đã cùng các sĩ phu Thái Bình - Nam Định chuẩn bị chống Pháp. Khi Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất (năm 1873), ông đã tổ chức và chỉ huy nghĩa quân chống Pháp ở Đông Vinh (Vũ Tiên) phối hợp cùng ba cha con Nguyễn Mậu Kiến, kháng chiến ở Động Trung (Kiến Xương), cùng Hoàng giáp Phạm Văn Nghị, Đỗ Phát đánh Pháp ở hữu ngạn sông Hồng. Một thầy học mẫu mực như vậy đã ảnh hưởng sâu sắc đến Ngô Quang Bích về tinh thần yêu nước, về đạo đức trong sáng mang tính truyền thống của dân tộc.

Ngày nay, đọc lại Văn sách thi đình của Ngô Quang Bích thì thấy ông đã hình thành nhân cách con người trí thức của mình trước khi bước vào con đường tấn thân. Ông đã xác lập quan điểm chính trị tiến bộ, vận dụng vào chế sách của vua Tự Đức bấy giờ.

Chúng ta đều biết, khoa thi Đình năm Kỷ Tỵ (1869) niên hiệu Tự Đức thứ 22, tình hình đất nước bê bối nghiêm trọng. Thực dân Pháp đã chiếm lục tỉnh Nam Kỳ, nội bộ triều đình phân hóa giữa hai xu hướng đánh và hòa. Bọn quan lại tham nhũng lợi dụng thời cơ đục nước béo cò, thẳng tay vơ vét của cải của dân chúng. Ngoài Bắc, quân Thanh và dư đảng Thái Bình thiên quốc là bọn Cờ Vàng Hoàng Sùng Anh, Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc, Cờ Trắng Bàn Văn Nhị vượt biên giới sang quấy rối kiếm ăn. Nạn lũ lụt vỡ đê, dịch lệ cướp bóc ở Bắc Hà luôn luôn là mối đe dọa của dân chúng và thực sự đã gây ra nhiều thảm họa. Xuất phát từ tình hình đất nước bấy giờ mà Ngô Quang Bích đề ra hai vấn đề lớn của đạo trị nước là yên dân và chọn dùng người.

Sự trăn trở của Nguyễn Quang Bích cách đây trên 100 năm vẫn còn nguyên tính thời sự, càng rõ nhân cách trượng phu, nhân cách đế vương sư của ông là dám vạch trần sự thật và đề ra biện pháp cứu vãn.

Sau đó, những năm tháng kháng chiến ở Tây Bắc với tư cách thủ lĩnh nghĩa quân, Nguyễn Quang Bích đã chứng minh sự nhất quán giữa học và hành, giữa tư tưởng và hành động của ông. Những năm tháng này cũng là những năm tháng để có Ngư Phong thi tập, để có một Nguyễn Quang Bích thi sĩ. Đó là giai đoạn hoàn thiện nhân cách, trí tuệ của Nguyễn Quang Bích. Ông đã đạt đến độ viên mãn trong tất cả các mối quan hệ ứng xử cần có của một con người trí tuệ: thành ý, chính tâm, "vô vi nhi vô bất vi" của Đạo học phương Đông và đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam. Người ta nhắc nhiều đến nhân cách Nguyễn Quang Bích mà phần nổi bật là tinh thần tư tưởng của ông toát lên trong bức thư ông trả lời quân Pháp: "Rồi, nếu mà thắng, mà sống, thì là nghĩa sĩ của triều đình, nhưng chẳng may mà thua mà chết, thì cũng làm quỷ thiêng giết giặc".

Nhân cách của Nguyễn Quang Bích còn biểu hiện ở chỗ trên chính trường ông là "thanh quan", với nhân dân ông là "hoạt Phật"; với bạn bè cộng sự ông là người khiêm tốn thủy chung; phận con cái ông là người chí hiếu. Nguyễn Quang Bích đã để lại một di sản tinh thần đáng quý cho hôm nay mà phần nổi bật là một nhân cách đẹp gắn liền với sự nghiệp đánh giặc cứu nước của ông.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #19 vào lúc: 07 Tháng Hai, 2017, 05:15:29 pm »


Câu hỏi 9: Câu chuyện về sự khảng khái, dũng cảm của Nguyễn Cao - một tướng tài, một người bạn thân thiết của Nguyễn Quang Bích trước mọi sự tra khảo, dụ dỗ thực sự làm cho kẻ thù khiếp đảm đã trở thành một bản hùng ca về tinh thần kiên trung với dân tộc của người dân Việt Nam. Hãy cho biết thêm về câu chuyện này?
Trả lời:


Để thực hiện việc đón vua Hàm Nghi ra Bắc, quan Hiệp thống Nguyễn Quang Bích thấy cần tập trung lực lượng mạnh. Ông bèn lệnh cho các lực lượng của Đề Kiều, Đề Mạc, Đề Thành, Đốc Dị và Bố Giáp cùng kéo quân lên Nghĩa Lộ. Riêng Đốc Ngữ đảm nhiệm mặt trận Thao - Đà và làm cầu nối cho Thanh - Nghệ thì vẫn chốt lại ở Khả Cửu. Nơi đây còn được tính làm phương án dự phòng để có thể đón đức vua về đấy.

Cánh đồng tam tổng Nghĩa Lộ được gọi là Mường Lò. Nơi đây còn là một vựa lúa. Về chiến lược sẽ thuận lợi cho triều đình Hàm Nghi có thể chỉ đạo cuộc kháng chiến toàn quốc, lại cũng tiện cho việc bang giao với Trung Quốc; khi chiến đấu có thể đưa các đội quân lan toả ra khắp Bắc Kỳ, khi thế thủ có thể trụ tại rừng sâu núi hiểm, một bộ phận có thể sang Trung Quốc.

Lúc này, nghĩa quân đã xây dựng gần hoàn chỉnh khu căn cứ kháng chiến. Quả nhiên đúng hẹn, Sầm Dục Anh từ Trung Quốc cũng gửi sáu trăm khẩu súng, sáu mươi hòm đạn, hai ngàn cân thuốc phiện; kèm theo hành lý của đoàn sứ bộ đã bị mất trộm mấy tháng trước, nay được gửi trả. Quan Hiệp thống Nguyễn Quang Bích thu nhận viện trợ và hành lý đã mất, rồi phân phát súng đạn cho nghĩa quân vùng lân cận. Các mặt trận vùng duyên hải và Thanh - Nghệ cũng được nhận một phần nguồn viện trợ này. Sau đó ông cho lập đại đồn làm kế chống giặc lâu dài.

Địa thế ở đây có nhiều thuận lợi cho việc đóng quân. Ở giữa có một thung lũng rộng khoảng trăm mẫu, lại có hai suối bao bọc xung quanh. Nhân dân ba tổng quây quần, ruộng đất màu mỡ, thóc gạo dư thừa. Phía bắc có suối nước nóng quanh năm, đến mùa đông lại càng nóng hơn. Phía nam có động đá, bên trong có đường đi bốn phía. Lại có nhiều thạch bàn rộng có thể nằm ngồi được. Bốn mặt núi cao bao bọc như bức trường thành. Chỉ có ba con đường hiểm làm lối ra các châu khác. Nguyễn Quang Bích cho lập một doanh trại ở giũa. Đường hiểm về phía bên phải là Đèo Ách do Đề Kiều đem quân đóng giữ. Đường hiểm trở bên trái gọi là Đèo Pha do Đề Mạc đem quân đóng giữ. Một đường phía sau gọi là Ngòi Vụ do Lãnh binh Vương Văn Doãn đem vệ binh và quân Thanh mới quy phục đóng giữ. Các châu và huyện cùng nhau đem nộp lương thực. Thóc lúa ngô đều nhập vào kho dự trữ. Các dân tộc ít người như Thổ, Mường, Mèo, Mán đều phục tùng mệnh lệnh.

Bấy giờ, các đoàn quân khởi nghĩa ở miền Trung với các võ tướng như Đề Cương, Đề Cồ ở Sơn Tây; Đề Vân, Đề Vinh ở Bắc Ninh; Đề Tính, Đề Nho ở Bãi Sậy (Hưng Yên); Đề Vũ ở Nam Định; Đề Ngữ ở Thanh Hoá; Đề Nhưỡng, Để Quảng ở Nam Định đều do quan Khâm sai Nguyễn Quang Bích vâng mệnh vua Hàm Nghi cấp phát văn bằng và điều khiển. Văn thần như Chu Lăng Thục ở Hồ Nam, Phan Đình Phùng ở Hà Tĩnh, Tống Duy Tân ở Thanh Hoá, Nguyễn Tử Ngôn ở Ninh Bình, Nguyễn Thiện Thuật ở Hải Dương, Nguyễn Tán Lý ở Phù Khê, Nguyễn Tán Dương ở Bất Bạt, Đàm Chí Trạch ở Nam Định... đều vượt suối băng ngàn đến bàn tính việc phục quốc. Công văn đi lại liên tục như mắc cửi.

Năm Đinh Hợi (1887), quân Pháp đi lẻn theo đường hẻm, từ Lai Châu đến đánh úp phía sau đồn. Lãnh binh Vương Văn Doãn được tin báo liền điều động vệ binh và quân lính người Thanh chia đường phục sẵn. Khi giặc Pháp tiến vào, phục binh ta liền đổ ra bắn giết, hai bên bắn nhau dữ dội suốt một ngày đêm. Quân Pháp chết và bị thương rất nhiều phải rút lui. Phía ta, quân ít nên không truy đuổi, ta thu được vài chục khẩu súng đem nộp đại bản doanh. Giặc Pháp chở xác chết cáng thương binh theo đường cũ rút ra. Đồng bào Mèo, Dao biết giặc Pháp thua to liền đốc dân các động ra chặn đường diệt giặc, thu được súng đạn rất nhiều, hôm sau đem nộp ở doanh trại. Nguyễn Quang Bích truyền lệnh đem tiền bạc ban thưởng cho dân. Đồng bào Mèo, Dao reo mừng cảm tạ.

Lúc này doanh trại đã tạm ổn định, quan Hiệp thống Nguyễn Quang Bích đã tính đến chuyện chiến lược. Ông cử Nguyễn Quang Hoan đóng giả lái buôn cùng hai võ sĩ về Kim Giang đón Nguyễn Cao cùng đi, Nguyễn Quang Hoan về đến Trôi cho người sang Hà Đông liên lạc thì hay tin Nguyễn Cao đã bị bắt.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM