Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 01:22:52 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Một thời Quảng trị  (Đọc 35704 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #80 vào lúc: 02 Tháng Hai, 2017, 12:49:11 am »


        Trung đoàn 27 cùng với Tiểu đoàn 47 Vĩnh Linh được tăng cường một tiểu đoàn thiết giáp, một tiểu đoàn pháo binh, một tiểu đoàn đặc công, có nhiệm vụ thọc sâu vào đồng bằng ven biển Triệu Phong, Hai Lăng, với nhiệm vụ bao vây vu hồi, chia cắt chiến dịch, khóa đường rút về hướng đông của địch và hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ.

        Phương thức tác chiến chiến dịch là hiệp đồng binh chủng chặt chẽ, phát huy sức mạnh của binh khí kỹ thuật, vừa bắn phá trên toàn tuyến vừa tập trung diệt từng điểm, từng cụm, kiên quyết bao vây chia cắt chiến dịch, kết hợp đánh vỡ từng mảng, tiến tới tiêu diệt hoàn toàn 25 tiểu đoàn bộ binh, ba trung đoàn thiết giáp cùng các lực lượng bảo an và phòng vệ dân sự. Trong quá trình phát triển chiến dịch hết sức chú trọng tiến công quân sự với phát động phong trào nổi dậy của nhân dân.

        Vào những ngày cuối tháng 4, thời tiết ở Quảng Trị bắt đầu oi ả. Trên dọc chiến tuyến từ tây bắc Đông Hà, Lai Phước đến những dải đồi ở phía tây Ái Tử, La Vang, bộ binh, xe tăng ta nối tiếp nhau vào vị trí xuất phát tiến công. Trong khi đó, máy bay đủ loại của địch vẫn quần đảo trên không. Những chiếc C.130 bay nặng nề, dai dẳng suốt đêm, bắn như đổ đạn xuống vùng ngoại vi các cụm căn cứ Đông Hà, Ái Tử, La Vang. Đèn dù, pháo sáng địch sáng rực, không lúc nào tắt Những loạt bom B.52, những loạt bom tọa độ của máy bay B.57 nổ dậy đất. Pháo từ các trận địa, hạm tàu ngoài khơi bắn lúc cầm canh, lúc cấp tập. Nhưng, đạn bom địch không cản được những đơn vị chủ lực ta vào chiếm lĩnh các khu vực theo kế hoạch và thời gian quy định.

        Hướng Sư đoàn 308 Ở Đông Hà, Lai Phước, Trung đoàn 102 lặng lẽ tiến dọc theo sông Vinh Phước luồn tránh các điểm chốt của địch, hình thành thế bao vây điểm cao 26, điểm cao 23, Đồi Vuông (tây đường 1). Trung đoàn 88 chia thành hai cánh bí mật luồn sâu vào bên trong bao vây điểm cao 24 (điểm cao được mệnh danh là cánh cửa thép Đông Hà). Trung đoàn 36 từ hướng Tây Trì tiếp cận điểm cao 19 và điểm cao 28. Trung đoàn 48 (tăng cường) đã tiến vào Tân Vinh. Ở phía sau, từng tốp xe tăng, thiết giáp của ta vượt qua những dãy đồi rồi dừng lại cách bộ binh khoảng một đến hai cây số, sẵn sàng đợi lệnh xung trận.

        Hướng Sư đoàn 304 ở Ái Tử, Trung đoàn 9 và trung đoàn 24 đã tiến vào điểm cao 22, điểm cao 23, điểm cao 42.

        Hướng Sư đoàn 324, các đơn vị đã tiến ra đường số 1 thực hiện chia cắt chiến dịch. Cán bộ, chiến sĩ sư đoàn đã chiến đấu quyết liệt với liên đoàn 1 biệt động quân và lữ đoàn 369 lính thủy đánh bộ.

        5 giờ sáng ngày 27 tháng 4 năm 1972, các đơn vị trinh sát của bộ binh, các đài quan sát pháo binh được sự giúp đỡ của các tổ công tác địa phương đã xác định lại các mục tiêu lần cuối thật chính xác.

        Hệ thống vô tuyến vẫn duy trì phát như thường lệ, không để địch nghi ngờ. Mạng điện thoại đường dây đã thông suốt từ Bộ Tư lệnh chiến dịch đến các trung đoàn, tiểu đoàn bộ binh, có chỗ xuống tận đại đội làm nhiệm vụ đặc biệt.

        5 giờ 30 phút, Tư lệnh chiến dịch Tướng Lê Trọng Tấn, sau khi kiểm tra toàn bộ công tác chuẩn bị chiến đấu của các cánh quân lần cuối cùng đã ra lệnh tiến công.

        Mở màn đợt hai chiến dịch là các trận địa pháo hạng nặng 130 ly, Đ74, lựu pháo 155 ly, 122 ly, 105 ly, 100 ly súng cối 160 ly, 120 ly, đạn hỏa tiễn BM14, A12, H12, ĐKB trút bão lửa lên những vị trí quân địch nằm trên suốt chiều dài hàng chục cây số.

        Sau 30 phút bắn phá bằng hỏa lực, Tư lệnh chiến dịch ra lệnh cho bộ binh các hướng xung phong.

        Ở hướng Sư đoàn 308, Trung đoàn 88 sau khi cùng xe tăng thiết giáp vượt qua điểm cao 37, chia làm hai mũi: Mũi thứ nhất tiến xuống thung lũng tiếp giáp với điểm cao 24 và điểm cao 26. Tại đây, một trận đánh diễn ra ác liệt trên đồi Mâm Xôi.

        Trước sự tiến công của ta, bộ binh và xe tăng địch vừa chống đỡ vừa rút về điểm cao 24 gần sân bay Đông Hà. Mũi thứ hai, luồn sâu chốt giữ Làng Mới, tiến công tiểu đoàn 30 biệt động quân, đẩy chúng vào tình thế bị uy hiếp từ nhiều phía. Trước tình thế nguy khốn địch ở Đông Hà liền cho một chi đoàn thiết giáp lên tăng cường và cho không quân, pháo binh yểm trợ tối đa, quyết đánh bật ta ra khỏi vị trí lợi hại này.

        Được tăng viện, tiểu đoàn 30 biệt động quân cùng xe tăng dàn hàng ngang, hò hét xông lên. Các chiến sĩ Trung đoàn 88 chờ cho bộ binh và xe tăng địch vào thật gần mới nổ súng. Tên lửa chống tăng B72 điều khiển bằng hữu tuyến lẩn đầu xuất hiện ở chiến trường đã không cho một chiếc xe tăng, xe thiết giáp nào của địch chạy thoát. Kết hợp với tên lửa B72 là súng ĐKZ, B40, B41 nhằm xe tăng địch nổ súng. Mười chiếc xe tăng, xe thiết giáp địch trúng đạn bốc cháy ngùn ngụt. Lính của tiểu đoàn biệt động không còn chỗ dựa là xe tăng, thiết giáp, bất chấp lệnh của chỉ huy chạy tháo thân. Đến 9 giờ, Trung đoàn 88 đã làm chủ các điểm cao 35, điểm cao 24 và điểm cao 37. Đồng thời đưa lực lượng bộ binh cơ giới thọc sâu bao vây sở chỉ huy trung đoàn 57 sư đoàn 3 nguy ở Đại Áng, Trung Chỉ.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #81 vào lúc: 02 Tháng Hai, 2017, 12:52:10 am »


        Trên hướng Trung đoàn 102, hướng tiến công chủ yếu của Sư đoàn 308, cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt. Sau khi pháo bắn yểm trợ, Trung đoàn 102 cho một lực lượng áp sát tiêu diệt địch ở Đồi Vuông, rồi nhanh chóng chuyển sang bao vây quân địch ở điểm cao 26 và điểm cao 23. Địch dựa vào thế cao, hào sâu có xe tăng chống trả ta quyết liệt Trung đoàn 102 đã ba lần tổ chức bộ đội xung phong chiếm các điểm cao nhưng đều bị địch đẩy lùi. Trước tình hình đó, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 102 một mặt kiên quyết bám trụ giữ vững trận địa, mặt khác cho người quan sát hỏa lực địch. Sau chốc lát anh em phát hiện hỏa lực của hai xe tăng địch chôn ngầm. Chỉ huy trung đoàn ra lệnh phải tập trung tiêu diệt hai chiếc xe tăng lợi hại này Các loại hỏa lực tập trung vào chiếc xe tăng nhả đạn. Hai chiếc xe tăng địch bị diệt, bộ  binh ta tiến lên đánh chiếm và làm chủ các điểm cao 26, 23, 32.

        Máy bay địch thi nhau gầm rú bắn phá. Hàng chục trận địa pháo cao xạ và tên lửa tầm thấp cửa ta đã khống chế bầu trời Đông Hà. Gần chục máy bay địch trúng đạn bốc cháy.

        Trung đoàn 102 cho Tiểu đoàn 9 tràn xuống đường 1 chặn địch ở cầu Lai Phước. Trên đường tiến công địch ở Trung Chỉ, Trung đoàn 88 bị máy bay, pháo binh địch đánh trúng đội hình gây một số tổn thất nên phải tạm thời đừng lại giải quyết.

        Đến 17 giờ, Trung đoàn 88 mới triển khai bao vây quân địch ở điểm cao 28 và tiến công diệt gọn một tiểu đoàn bộ binh và một chi đoàn thiết giáp. Trận đánh vừa kết thúc thì trời cũng đã tối, Trung đoàn 88 phải dừng lại củng cố chờ sáng hôm sau đánh tiếp.

        Suốt đêm 27 tháng 4 năm 1972, bầu trời Quảng Trị luôn sáng rực bởi đèn dù và pháo sáng. Pháo binh ta tiếp tục bắn phá căn cứ địch ở Đông Hà, Ái Tử, La Vang, thị xã Quảng Trị. Kho xăng địch bốc cháy, kho đạn địch nổ tung, tạo ra những vụ nổ dây chuyền kéo dài suốt đêm.  Tại Bộ Tư lệnh chiến dịch đêm 27 tháng 4, nét mặt ai cũng rạng rỡ vì thấy bộ đội ta trên các hướng phát triển nhịp nhàng, ăn ý, hoàn thành các mục tiêu được giao. Để chỉ đạo cuộc chiến đấu ngày 28 tháng 4, Tư lệnh chiến dịch Lê Trọng Tấn chỉ thị: Ngay trong đêm, và ngay lúc này Sư đoàn 308 phải trinh sát thật kỹ, luôn bám sát địch, không để một hoạt động nào của chúng thoát khỏi mắt ta. Phải tổ chức lại và tổ chức thật tốt mũi bộ binh cơ giới yểm trợ đột phá ra đường 1, chốt giữ và phá sập cầu Lai Phước. Bọn địch xem cầu Lai Phước là mục tiêu rất quan trọng. Chúng cho rằng cầu Lai Phước còn, Đông Hà còn. Vì vậy, ta phải kiên quyết đánh chiếm được cầu Lai Phước.

        Tư lệnh chiến dịch nhắc: Sư đoàn 304 khẩn trương chiếm các điểm cao 22, điểm cao 23, điểm cao 42 và điểm cao 46 ở phía tây để lấy đường vào đánh Ái Tử và cầu Quảng Trị. Sư đoàn 324, phải đánh thật tốt ở cầu Nhùng, cầu Bến Đá, chốt giữ chặt đường số 1, kiên quyết thực hiện tốt chia cắt chiến dịch.

        5 giờ 30 phút ngày 28 tháng 4 năm 1972, cuộc tiến công quy mô toàn diện của bốn cánh quân vào sào huyệt cuối cùng của địch ở Quảng Trị bắt đầu.

        Mở màn chiến dịch, pháo của ta nã đạn vào căn cứ địch ở Đông Hà, Ái Tử, La Vang, thị xã Quảng Trị. Căn cứ địch chìm ngập trong chớp lửa của đạn pháo ta.

        Tại Đông Hà, Lai Phước, hướng chủ yếu của chiến dịch do Sư đoàn 308 đảm nhiệm. Khi đạn pháo chiến dịch chuyển làn, Trung đoàn 102 chia làm hai mũi đánh thẳng ra đường số 1, quyết chiếm cầu Lai Phước. Quân địch quyết giữ cầu, chứng tập trung hàng chục xe tăng thiết giáp yểm trợ cho bộ binh, bắn như đổ đạn vào đội hình quân ta. Trung đoàn tập trung súng chống tăng các loại cũng chỉ diệt được ba xe tăng và hai ổ đại liên. Số xe tăng, thiết giáp còn lại lợi dụng độ cao của đường sắt làm vật che khuất và che đỡ, nhô tháp pháo lên khống chế xe tăng và bộ binh ta. Trung đoàn 102 buộc phải dừng lại chiếm lĩnh địa hình có lợi, nên tốc độ phát triển chậm.

        Trung đoàn 88 được xe tăng chi viện tổ chức thành nhiều mũi đánh chiếm Trung Chỉ thuộc xã Triệu Lương, phía đông đường số 1. Quân địch ở đây khiếp đảm trước sự tiến công của ta nên tháo chạy về Đại Áng. Quân ta truy kích theo.

        Cùng lúc đó, Trung đoàn 36 ở hướng bắc, thọc thẳng theo đường số 1 tiến vào Đông Hà. Trước sức tiến công của bộ binh và xe tăng ta, quân địch ở Đông Hà tháo chạy thục mạng.

        8 giờ 30 phút, Tướng Lê Trọng Tấn ra lệnh cho Sư đoàn 308: nhanh chóng cắt đứt cầu Lai Phước; đồng thời lưu ý các hướng cần chú ý về sự đột biến tan vỡ của địch.

        10 giờ pháo binh chiến dịch bắn phá khu vực cầu Lai Phước. Pháo vừa dứt, mũi bộ binh và cơ giới của Trung đoàn 102 ào ạt xung phong qua đường sắt Ta bắn cháy một lúc ba xe tăng địch, khống chế hai đầu cầu. Quân địch thấy nguy cơ mất cầu Lai Phước - một chiếc cầu sinh tử với quân địch ở Đông Hà, đã dồn sức phản kích điên cuồng, bắn như đổ đạn vào hai đầu cầu.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #82 vào lúc: 02 Tháng Hai, 2017, 12:56:23 am »


        Các chiến sĩ bộ binh và công binh tràn lên cầu.

        Chỉ trong vài phút, 120 ki-lô-gam thuốc nổ đặt giữa mặt cầu đã được liên kết xong. Anh em điểm hỏa.

        Khối bộc phá không nổ do nụ xòe gẫy núm và dây truyền lửa bị ẩm, mất tác dụng. Một chiến sĩ mưu trí cặp hai trái lựu đạn vào khối thuốc nổ, giật nụ xòe rồi chạy về đầu cầu. Một tiếng nổ dậy đất, phá huỷ hoàn toàn cầu Lai Phước.

        Cầu Lai Phước bị cắt đứt như một tiếng sét làm rung chuyển quân ngụy ở Đông Hà. Cùng lúc, trung đoàn 36 ở phía bắc, Trung đoàn 102 ở phía nam theo đường số 1 đánh ngược lên, Trung đoàn 88 ở phía tây đánh ép xuống. Toàn bộ cụm quân địch ở Đông Hà hoang mang cực độ, bỏ xe cộ khí giới chạy thoát thân. Chúng xông vào các xóm làng ven đường, ven sông tranh cướp quần áo của dân để mặc làm dân sự. Chúng lao bừa ra sông Thạch Hãn, tranh cướp thuyền ghe để vượt sang bờ nam. Hàng trăm tên đắm thuyền ghe bỏ mạng giữa sông.

        15 giờ 30 phút ngày 28 tháng 4 năm 1972, toàn bộ Đông Hà, Lai Phước được giải phóng. Trên hướng Sư đoàn 304, lúc 5 giờ sáng, khi Trung đoàn 24 đang triển khai đội hình đánh vào Ái Tử thì một cụm quân địch hỗn hợp cả bộ binh và xe tăng chốt chặn sẵn ở vòng ngoài phát hiện được.

        Như phương án đã định, Trung đoàn 24 cho một phân đội theo bình độ khuất vòng trái tiến lên nổ súng thu hút địch. Quân địch bị đánh bất ngờ nên bộc lộ lực lượng phản công lại ta. 12 xe tăng địch có rất nhiều bộ binh bám theo dàn hàng ngang hùng hổ xông thẳng vào đội hình tiến công của ta. Hai tiểu đội tên lửa chống tăng B72 được lệnh bắn.

        Ngay từ những quả đạn đầu, sáu chiếc xe tăng M.48 kềnh càng của địch bị bốc cháy. Những chiếc xe tăng còn lại khiếp sợ những "quả đạn có mắt" vội vàng quay đầu tháo chạy. Nhưng không kịp, bộ binh và xe tăng ta xung phong truy diệt toàn bộ số xe tăng và bộ binh lữ đoàn 258.

        Trung đoàn 48, sau khi diệt xong căn cứ Tân Vinh đã nhanh chóng xốc lại đội hình phối hợp cùng Sư đoàn 304 tiến công địch ở Ái Tử.

        12 giờ ngày 28 tháng 4 năm 1972, trung đoàn 24 và Trung đoàn 48 được sự yểm trợ của xe tăng, thiết giáp mở cuộc tiến công quân địch cố thủ ở sân bay Ái Tử. Địch chống trả quyết liệt, nhiều trận đánh đẫm máu để giành giật từng đoạn hào, từng lô cốt đã diễn ra. Đến 17 giờ 30 phút, ta mới chiếm được hơn nửa sân bay, vì quân số bị hao hụt, đạn dược cạn dần, quân ta phải tạm dừng củng cố, bổ sung rồi mới đánh tiếp.

        Ở mũi thọc sâu của Trung đoàn 66, tình hình còn phức tạp hơn. Sau một đêm hành quân mệt mỏi căng thẳng, trung đoàn đã đến nam cầu Quảng Trị, triển khai trận địa chốt chặn chia cắt đường 1.

        Nhưng, quân địch ở đây tổ chức phòng ngự rất chặt chẽ. Ngay từ phút đầu chúng đã phát hiện lực lượng ta và gọi phi pháo đánh chặn rồi cho quân phản kích, quyết đánh bật trung đoàn ra khỏi khu vực cầu. Tình huống trở nên phức tạp, chỉ huy Trung đoàn 66 một mặt chỉ huy đơn vị lợi dụng địa hình địa vật tổ chức bám trụ, đánh trả những đợt phản kích của địch, mặt khác gọi pháo chiến dịch bắn mạnh vào hai khu vực đầu cầu phía bắc và phía nam yểm trợ cho trung đoàn xoay chuyển tình thế phát triển tiến công.

        Đến 8 giờ sáng, mũi ở phía nam đã đột phá cụm quân địch chốt giữ ga Quảng Trị. Bị đánh tạt sườn bất ngờ, địch lùi ra đường 1. Lợi dụng tình thế thuận lợi, mũi đột phá phía bắc ào lên đánh chiếm chốt giữ đầu cầu Quảng Trị.

        12 giờ trưa, Trung đoàn 66 cơ bản làm chủ mục tiêu phía nam cầu Quảng Trị, rồi chuyển sang đánh địch giải tỏa đường 1.

        Việc đưa Trung đoàn 66 vượt sông Thạch Hãn đánh vào hậu phương địch chiếm giữ phía tây thị xã Quảng Trị là một quyết tâm của Sư đoàn 304.

        Không những tạo thế chốt chặn đường rút chạy của quân địch từ hướng Ái Tử mà còn trực tiếp uy hiếp sở chỉ huy của sư đoàn 3 ngụy trong Thành Cổ Quảng Trị.

        Phối hợp với cánh tây, ở cánh đông, đội hình thọc sâu vu hồi chiến dịch do Trung đoàn 27 đảm nhiệm, được tăng cường Tiểu đoàn 66 Lữ đoàn xe tăng 202, Tiểu đoàn 75 pháo binh, Tiểu đoàn 3 và Tiểu đoàn 47 bộ đội Vĩnh Linh. Ngày 24 tháng 4, sau khi được nhân dân huyện Gio Linh và một số xã phía bắc Triệu Phong giúp đỡ, Trung đoàn 27 và các đơn vị tăng cường đã nhanh chóng vượt sông Cửa Việt và sông Thạch Hãn vào đứng chân ở đồng bằng Quảng Trị. Ngày 25 tháng 4, Tiểu đoàn 2 đứng chân ở Thạch Hội, Long Quang, Tiểu đoàn 1 và Tiểu đoàn 3 cùng với xe tăng, thiết giáp đã vào Vĩnh Huề, Cầm Phố.

        Phương án chiến đấu được Trung đoàn trưởng Phạm Minh Tâm phổ biến như sau: Toàn bộ Trung đoàn 27 sẽ chia làm ba mũi.

        Mũi thứ nhất, gồm Tiểu đoàn 3 cùng một đại đội xe tăng, thiết giáp đánh vào quận ly Hải Lăng.

        Mũi thứ hai, gồm Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn 47 Vĩnh Linh đánh vào quận ly Triệu Phong.

        Mũi thứ ba, gồm Tiểu đoàn 2 và Tiểu đoàn 3 (Quảng Trị), một phân đội xe tăng, xe thiết giáp vòng về phía biển đánh vào Gia Đẳng.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #83 vào lúc: 02 Tháng Hai, 2017, 12:59:16 am »


        Sau khi dứt điểm mục tiêu chủ yếu, các mũi tiếp tục tiến sâu vào phía nam đồng bằng Quảng Trị.

        Ngày 28 tháng 4 năm 1972, toàn bộ hướng đông được lệnh bước vào chiến đấu. Mũi đánh vào Gia Đẳng cửa Tiểu đoàn 2 rung đoàn 27 và Tiểu đoàn 3 (Quảng Trị) đánh chiếm và mở rộng bàn đạp ở Long Quang, Linh An, giữ cho địa bàn đứng chân để các đơn vị triển khai chiến đấu.

        Gia Đẳng nằm sát bờ biển, là khu tập trung gần một vạn dân ở giữa vùng cát trắng. Phía đông nam Gia Đẳng có điểm cao 8, địch đã xây dựng thành căn cứ để khống chế khu tập trung, xung quanh là các trận địa pháo cối. Theo tin của cơ sở ta cho biết, những ngày qua địch bắt dân trong khu tập trung chuẩn bị bè mảng để di tản vào Thừa Thiên - Huế bằng đường biển. Tàu quân sự ở cảng Mỹ Thủy sẵn sàng chở lính và chở "dân cốt cán" đi nếu vùng đồng bằng tình hình không bình thường và trong trường hợp lâm nguy, chúng có thể triệt hạ hoàn toàn khu tập trung gần một vạn dân này.

        Phương án đánh địch ở Gia Đẳng được ban chỉ huy trung đoàn cân nhắc rất kỹ, khi nổ súng các loại hỏa lực không được bắn vào khu tập trung, phải bảo đảm tính mạng và tài sản của gần một vạn đồng bào. Trung đoàn quyết định dùng xe tăng, thiết giáp đột kích vào điểm cao 8 và các trận địa pháo, các đơn vị bộ binh nhanh chóng bao vây khu tập trung kết hợp với nhân dân nổi dậy từ bên trong. Các đơn vị đánh vào Gia Đẳng phải làm tốt công tác binh vận trong quá trình chiến đấu.

        Tiểu đoàn 2 sử dụng Đại đội 5 cùng phân đội xe tăng, thiết giáp được lệnh đột kích mở đường vào điểm cao 8. Pháo, cối của ta được lệnh bắn phá điểm cao 8 và các trận pháo của địch ở phía tây Gia Đẳng làm cả khu vực mịt mù trong khói đạn và cát trắng. Sau những đợt bắn mãnh liệt của pháo binh, xe tăng, thiết giáp cùng bộ binh ào ạt xông lên.

        Địch ở điểm cao 8 không kịp chống trả, đứa chết, đứa bỏ chạy, đứa xin hàng.

        Cùng lúc đó, Tiểu đoàn 2 và bộ đội địa phương huyện Triệu Phong áp sát vào khu tập trung. Chiến sĩ ta dùng loa kêu gọi binh lính địch ra hàng và kêu gọi nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ. Tiếng loa địch vận dõng dạc vang lên khắp các ấp. Du kích, bộ đội địa phương dẫn từng tổ chiến đấu của Tiểu đoàn 2 vào truy lùng lính ngụy và tề điệp ẩn náu trong các ấp. Nhân dân đổ ra đường đón chào bộ đội mỗi lúc một đông. Cả khu tập trung Gia Đẳng tưởng như vỡ ra bởi tiếng reo hò của gần một vạn con người. Cờ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được bà con cất giữ từ lâu, nay được tung bay trên bầu trời tự do. Ai cũng tìm chỗ cao nhất để treo lá cờ cách mạng.

        Khu tập trung Gia Đẳng đã được giải phóng, đồng bào trở về quê cũ làm ăn.

        Ban chỉ huy Trung đoàn 27 chủ trương đẩy mạnh tốc độ tiến công để dứt điểm các mục tiêu chủ yếu đưa lực lượng tiến sâu vào phía nam thực hiện thọc sâu, vu hồi, tạo bàn đạp mới cho chiến dịch phát triển. Cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1972, quận lỵ Hải Lăng là cứ điểm cuối cùng của địch vào loại mạnh nhất còn lại trên đồng bằng Quảng Trị.

        Tại đây, lính nguy từ Thừa Thiên ra ứng cứu cho Quảng Trị, lính từ thị xã Quảng Trị chạy về, chưa kể lính địa phương ở các nơi dắt díu cả gia đình vợ con đi di tản tắc nghẽn ở quận lỵ Hải Lăng.

        Bộ chỉ huy vùng 1 chiến thuật vội vã dựng thêm hàng loạt căn cứ mới dọc quốc lộ 1 và hai bên bờ sông ổ Khê để ngăn chặn và "tử thử".

        Sáng ngày 1 tháng 5 năm 1972, toàn bộ đội hình của Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 27 do tôi chỉ huy đã triển khai xong lực lượng đánh quân địch trong quận ly Hải Lăng. Bên trong quận ly lúc này dân và lính đều đông. Một vấn đề được đặt ra là phải đánh thắng quân địch nhưng cũng phải bảo vệ được tính mạng người dân.

        Tôi trao đổi với đại đội phó đại đội xe tăng Hoàng Thọ Mạc, quê Xuân Hùng, Xuân Thuỷ, Nam Định: - Để bảo vệ được dân khi nổ súng đánh vào quận lỵ ta cho xe tăng đột kích từ hướng bắc theo đường số 1 vào các cụm quân lớn của địch. Mục tiêu là chi khu quân sự Hải Lăng, uy hiếp tinh thần binh lính địch ngay từ đầu. Khi phát hiện được dân thì không được nổ súng mà dùng loa kêu gọi quân địch đầu hàng, kêu gọi người dân hãy vận động chồng con quay súng trở về với cách mạng.

        Hoàng Thọ Mạc nói:

        - Tôi sẽ cho xe tăng tiến nhanh, dùng tiếng nổ động cơ và xích sắt uy hiếp tinh thần chúng, nếu nó chạy cùng với dân thì súng 121y7 trên xe bắn cao làm cho chúng khiếp sợ. Kết hợp làm công tác binh vận và dân vận để đánh địch.

        Phương án tiến công quận ly Hải Lăng đã được thống nhất cao giữa bộ binh và xe tăng.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #84 vào lúc: 02 Tháng Hai, 2017, 10:19:08 pm »


        8 giờ ngày 1 tháng 5 năm 1972, tôi phát lệnh tiến công địch trong quận ly Hải Lăng.

        Đại đội 1 Đại đội 2 cùng xe tăng theo đường số 1 tiến vào quận ly Hải Lăng. Tôi và Hoàng Thọ Mạc mỗi người chỉ huy một xe tăng T54 dẫn đầu đội hình ầm ầm tiến thẳng vào quận ly.

        Đại đội 3 đánh chia cắt địch ở phía cầu Nhi.

        Cuộc chiến đấu của Đại đội 3 diễn ra ác liệt. Quân địch cố giữ chiếc cầu sinh tử đối với chúng. Năm chiến sĩ của đại đội đã hy sinh tại đây là: Phạm Văn Lân, quê Đội 20, Bắc Thuận, Vĩnh Thành, Yên Thành, Nghệ An; Hồ Văn Tuyền, quê Đội 8, Hợp tác xã Đồng Tâm, Quỳnh Hậu, Quỳnh Lưu, Nghệ An; Nguyễn Như Tư, quê Đội 8, Thanh Văn, Thanh Chương, Nghệ An; Trần Văn Vỵ, quê Đội 7, Thanh Văn, Thanh Chương, Nghệ An và Nguyễn Xuân Lam, quê Đội 6, Thanh Văn, Thanh Chương, Nghệ An.

        Khi thấy xe tăng và bộ binh ta xuất hiện giữa quận lỵ Hải Lăng, lính ngụy trong các vị trí chống trả quyết liệt. Chúng tôi lệnh cho xe tăng hạ nòng pháo bắn vào các ổ đề kháng. Đạn pháo l00 ly của xe tăng ta bắn thẳng làm quân địch kinh hoàng, bỏ chạy về phía Diêm Thanh. Nhiều tên bơi dọc con sông nhỏ Cửa Sát chạy qua quận lỵ để thoát thân.

        10 giờ ngày 1 tháng 5 năm 1972, quận ly Hải Lăng hoàn toàn giải phóng. Chúng tôi đã thực hiện được kế hoạch đánh tiêu diệt địch, không một người dân nào bị thiệt mạng. Mũi tiến công bằng bộ binh cơ giới này Đại đội 1 có một chiến sĩ hy sinh là: Vi Văn Quang, quê Bản Thịnh, Châu Đình, Quỳ Hợp, Nghệ An, Đại đội 2 có một chiến sĩ hy sinh là Phạm Đức Trừ, quê Nghĩa Quang, Nghĩa Đàn, Nghệ An.

        Chiều cùng ngày Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 27 từ phía thị xã Quảng Trị tiến thẳng theo quốc lộ 1 vào phía tây quận ly Hải Lăng.

        Ngay từ ngày 28 tháng 4 năm 1972, cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 324 đã bí mật vào chiếm lĩnh những vị trí trọng yếu nhất trên đường 1 nam Quảng Trị.

        Hàng chục trận đánh đã diễn ra ở cầu Nhùng, cầu Dùi, bến Đá, Thượng Xá, Mai Động...

        10 giờ ngày 28, một loạt bom B.52 cắt qua đội hình Trung đoàn 1, hai chiến sĩ hy sinh. Một trong ba nữ du kích dẫn đường cũng bị hy sinh.  Ngày 29 tháng 4, địch đã phát hiện chủ lực ta chia cắt đường số 1 nên đã cho một tiểu đoàn thuộc liên đoàn biệt động quân số 1 cùng một chi đội xe bọc thép từ Long Hưng vào quyết đè bẹp quân ta.

        Pháo binh địch bắn phá dữ dội hai bên cầu Nhùng và đầu làng Mai Động. 9 giờ 30 phút, khi các chiến sĩ của Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 1 đã vào vị trí chiến đấu phát hiện một đoàn 30 xe GMC chở đầy lính biệt động quân và công binh bắc cầu dã chiến để thông đường. Ngay từ loạt đạn đầu, Tiểu đoàn 3 đã diệt bốn xe GMC, hai xe M113, số còn lại quay đầu tháo chạy.

        Cùng thời gian đó, Tiểu đoàn 5 và Tiểu đoàn 6 Trung đoàn 2 Sư đoàn 324 đánh bật tiểu đoàn 8 thuộc lữ đoàn 369 lính thủy đánh bộ ngụy ở khu vực Tường Phước, Tân Điền mở đường cho Tiểu đoàn 4 cơ động xuống đánh địch ở cầu Bến Đá.

        Bị mất Ái Tử và quận ly Hải Lăng đường số 1 phía nam bị cắt đứt, đến 11 giờ ngày 1 tháng 5 năm 1972, quân địch ở La Vang và thị xã Quảng Trị bắt đầu rút chạy. Quân ta tiến vào thị xã Quảng Trị.

        Đó là một ngày chiến đấu dữ dội, ác liệt nhất và cũng gây cho quân đội tay sai ở Quảng Trị nỗi kinh hoàng nhất. Suốt cả ngày chúng mở hàng chục đợt tiến công, tập trung tất cả những gì chúng có thể tập trung được để khai thông đường. Nhưng chúng đi đến đâu cũng bị đánh, chạy đến đâu cũng bị chặn. Cả đoạn đường gần 30 ki-lô-mét từ thị xã Quảng Trị đến Mỹ Chánh trở thành đoạn đường máu, trở thành "đại lộ kinh hoàng" đối với quân ngụy.

        Quân địch vô cùng hoảng sợ, vội vã vứt bỏ xe pháo, lột quẩn áo lính, cải trang thành thường dân vượt tắt qua đường, lội ngang sông tháo chạy thục mạng về phía nam, khiến cho địch đóng ở căn cứ Tân Điền, Mỹ Chánh hoảng loạn, bỏ đồn chạy qua Thừa Thiên.

        Du kích và nhân dân các xã Triệu Thượng, Triệu Lễ, Triệu Ái sát cánh với bộ đội trong những trận chiến đấu ác liệt với địch ở xã Triệu ái và thị xã Quảng Trị. Nhân dân xã Triệu Trạch tự dỡ nhà mình làm công sự cho bộ đội, tham gia tiếp tế đạn, thức ăn, nước uống cho cán bộ, chiến sĩ ta. Ngư dân ven biển, ven sông đưa hết thuyền bè, chặt tre, chuối kết mảng giúp bộ đội vượt sông. Nhân dân và du kích ở xã Hải Vĩnh chủ động chiếm đồn Thi ông.

        Du kích xã Hải Quế đánh chiếm đồn Đa Nghi.

        Nhân dân và du kích xã Hải Thượng do chị Lê Thị Tám chỉ huy đã gọi hàng và bắt hàng chục tên địch.

        Du kích xã Hải An phối hợp cùng bộ đội chiếm cảng Mỹ Thủy. Chị Bích La, Thị ủy viên thị xã Quảng Trị dẫn đường cho Sư đoàn 304 đánh chiếm thị xã.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #85 vào lúc: 02 Tháng Hai, 2017, 10:23:33 pm »


        Sáng ngày 2 tháng 5 năm 1972, cả Trung đoàn 27 đã có mặt ở bờ bắc sông Mỹ Chánh, cùng các đơn vị bạn giữ vững vùng đồng bằng, phối hợp các hướng khác của chiến dịch tiến vào phía bắc tỉnh Thừa Thiên - Huế, trực tiếp uy hiếp quân địch ở đây.

        Cũng vào thời gian này, trên các hướng chiến lược ta mở hàng loạt cuộc tiến công quy mô lớn đánh vào các trung tâm phòng ngự của địch. ở Đông Nam Bộ, quân dân ta phá vỡ tuyến phòng ngự biên giới của địch, tiêu diệt ba chiến đoàn bộ binh và hai trung đoàn thiết giáp, giải phóng ba huyện Lộc Ninh, Bù Đốp, Thiện Ngôn và thị xã An Lộc, giải phóng một khu vực rộng lớn ở các tỉnh Tây Ninh, Bình Long và Phước Long. Khối chủ lực của ta đã phá vỡ được các khu vực phòng ngự mạnh nhất của địch, đã chiếm và đứng vững trên các địa bàn cơ động vùng rừng núi, giáp ranh và một số vùng quan trọng ở đồng bằng.

        Ở Tây Nguyên, lần đầu tiên ta mở chiến dịch tiến công quy mô lớn vào tuyến phòng thủ cơ bản mạnh nhất của địch ở Bắc Tây Nguyên, tiêu diệt một sư đoàn địch, nhiều trung đoàn, thiết đoàn trong một cụm phòng ngự kiên cố và dày đặc. Và, cũng là lần đầu tiên ta giải phóng một khu vực rộng lớn, gần hết tỉnh Kon Tum và đã đánh bại liên tiếp các đợt phản kích, bảo vệ vững chắc vùng giải phóng.

        Ở đồng bằng Khu 5, ta đánh chiếm Hiệp Đức, tiến công địch và làm chủ Bồng Sơn, Tam Quan, bắc Bình Định. Quần chúng nổi dậy hình thành sự phối hợp giữa đòn tiến công quân sự và nổi dậy của quần chúng.

        Trước tình hình nguy khốn của quân ngụy Sài Gòn, chính quyền Ních-xơn đã phải tiến hành chủ trương có ý nghĩa chiến lược vượt ra khỏi khuôn khổ "Việt Nam hóa chiến tranh", tức là "Mỹ hóa" trở lại cuộc chiến. Nhà Trắng và Lầu Năm Góc đã huy động một lực lượng lớn không quân, hải quân để chi viện cho quân nguy phản kích và cho hệ thống cố vấn Mỹ trở lại hoạt động đến cấp trung đoàn, nắm quyền chỉ huy trực tiếp cuộc chiến tranh.

        Đối với miền Bắc, ngày 6 tháng 4 năm 1972, tổng thống Mỹ Ních-xơn huy động một lực lượng không quân và hải quân cao nhất từ trước đến lúc bấy giờ đánh phá trở lại để trả đũa các cuộc tiến công của ta ở miền Nam. Theo số liệu tôi nắm được, máy bay chiến thuật lúc cao nhất là 1.400 chiếc, chiếm tới 40% lúc lượng không quân chiến thuật Mỹ. Máy bay chiến lược B.52 lúc cao nhất 193 chiếc, chiếm 45% B.52 của cả nước Mỹ. Tàu chiến 14 chiếc, chiếm 3/4 tàu chiến của Hạm đội 7, trong đó có sáu tàu sân bay, chiếm 50% số tàu sân bay của Mỹ. Chỉ tính riêng lực lượng không quân đánh Việt Nam của Mỹ đã bằng lực lượng không quân ba nước mạnh nhất Tây âu lúc đó cộng lại là: Anh 600 chiếc, Pháp 475 chiếc, Tây Đức 500 chiếc (số lượng năm 1972).

        Ngày 9 tháng 5 năm 1972; Ních-xơn ra lệnh phong tỏa các cảng và vùng biển miền Bắc Việt Nam, tăng cường ném bom hệ thống giao thông trên bộ và đánh phá tất cả các cơ sở kinh tế và quốc phòng của ta. Ních-xơn tuyên bố: "Thà thất bại trong cuộc bầu cử tổng thống còn hơn thua trong cuộc chiến tranh này". Âm mưu của Mỹ là bóp nghẹt miền Bắc, cắt đứt nguồn tiếp tế từ ngoài vào nước ta và từ miền Bắc vào miền Nam. Với thủ đoạn thâm độc này, Nhà Trắng và Lầu Năm Góc tính toán rằng, chậm nhất trong vòng 3 tháng ta sẽ kiệt quệ và buộc phải thương lượng với Mỹ trên thế yếu.

        Cuộc chiến đấu của quân và dân ta ở miền Bắc chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ ác liệt hơn, quy mô lớn hơn lần trước.

        Trở lại chiến trường Trị - Thiên, sau hai đợt tiến công và nổi dậy từ 30 tháng 3 đến 1 tháng 5 năm 1972, quân và dân Quảng Trị đã quét sạch hệ thống phòng ngự kiên cố nhất và đập tan bộ máy kìm kẹp của Mỹ - nguy từ sông Bến Hải đến sông Mỹ Chánh, từ Lao Bảo đến Cửa Việt.

        Trong bài xã luận đăng trên báo Quảng Trị giải phóng có đoạn: "Ngày 1 tháng 5 năm 1972, Quảng Trị hoàn toàn giải phóng, đánh dấu cái mốc vẻ vang trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của tỉnh"...

        "Quảng Trị là tỉnh đầu tiên của miền Nam được giải phóng. Đó là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược cực kỳ quan trọng, thắng lợi này tỏ rõ sự trưởng thành vượt bậc, sức mạnh to lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, làm cho thế ta càng thắng, lực ta càng mạnh. Ta đang thuận lợi, địch đang khó khăn. Thế và lực của địch đã suy yếu lại càng suy yếu thêm và không tránh khỏi ngày thất bại hoàn toàn".
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #86 vào lúc: 02 Tháng Hai, 2017, 10:25:46 pm »


        Ngày 12 tháng 5 năm 1972, ủy ban mặt trận dân tộc giải phóng tỉnh Quảng Trị ra thông cáo Mười chính sách đối với vùng giải phóng, nội dung như sau:

        - Chính quyền cách mạng tuyên bố xóa bỏ chế độ thống trị của đế quốc Mỹ và ngụy quyền tay sai Nguyễn Văn Thiệu, kiên quyết cùng đồng bào đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn.

        - Chính quyền cách mạng thi hành chính sách đại đoàn kết, hòa hợp dân tộc, không phân biệt đối xử giàu nghèo, tôn giáo, xu hướng chính trị và những người trong quá khứ có sai lầm mà nay đã hối cải trở về cùng toàn dân kháng chiến.

        - Cương quyết trừng trị mọi âm mưu phá hoại những thành quả cách mạng, phá hoại khối đoàn kết toàn dân để bảo vệ cách mạng và giữ gìn trật tự - an ninh.

        - Bảo vệ tài sản và chăm lo việc làm ăn sinh sống của nhân dân, khuyến khích và giúp đỡ nhân dân đẩy mạnh sản xuất.

        - Bảo vệ cơ sở văn hóa giáo dục, y tế xã hội và các cơ sở phục vụ công tác khác.

        - Bảo đảm quyền tự do dân chủ, tôn trọng tự do tín ngưỡng, thực hiện đoàn kết và bình đẳng giữa các tôn giáo.

        - Thực hiện quyền bình đẳng, đoàn kết và tương trợ giữa các dân tộc.

        - Sẵn sàng tha thứ và sử dụng những viên chức trước đây làm việc trong bộ máy ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu nay tự nguyện trở về với cách mạng.

        - Sẵn sàng khoan hồng cho các sĩ quan và binh lính trong quân đội ngụy nay đã thực sự hối cải trở về với chính nghĩa, cùng toàn dân tiếp tục kháng chiến.

        - Bảo vệ quyền lợi chính đáng của ngoại kiều, kể cả kiều dân Mỹ làm ăn lương thiện trên đất nước Việt Nam.

        Bằng những chính sách cụ thể, rõ ràng, bản thông cáo đã có tác dụng to lớn, kịp thời cổ vũ các tầng lớp nhân dân tự giác tham gia công cuộc bảo vệ, xây dựng thực lực cách mạng, sẵn sàng đối phó với âm mưu thủ đoạn mới của Mỹ - nguy, huy động đông đảo nhân dân, nhất là thanh niên, phụ nữ và dân quân du kích, xây dựng chính quyền cách mạng.

        Ngày 5 tháng 6 năm 1972, ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh Quảng Trị được thành lập gồm 13 người do ông Lê Bổ (Lê San) làm chủ tịch, ông Nguyễn Thư (Nguyễn Sanh) làm Phó Chủ tịch.

        Mười một ủy viên gồm các ông, bà: Nguyễn Tập, Phan Văn Khánh, Hùng Sơn, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Phố, Lê Ngọc Uynh, Trần Quang Huy, Hồ Văn Côi, Nguyễn Hoành, Hồ Văn Xinh, Nguyễn Thị Bảo.

        Ngày 9 tháng 6 năm 1972, ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh Quảng Trị làm lễ ra mắt tại thị xã.

        Các cấp chính quyền từ huyện đến xã cũng được thành lập.

        ủy ban nhân dân cách mạng các cấp tỉnh Quảng Trị được thành lập là một thắng lợi có ý nghĩa to lớn trong đời sống chính trị của Đảng bộ và nhân dân Quảng Trị.. Khắp vùng giải phóng từ Hướng Hóa, Cam Lộ đến Triệu Phong, Hải Lăng đâu đâu cũng phấp phới cờ sao, tưng bừng không khí chiến thắng.

        Giữa tháng 5 năm 1972, quân dân Mặt trận Trị - Thiên đã được lệnh mở tiếp những cuộc tiến công xuống huyện Phong Điền, Thừa Thiên - Huế, chọc thủng tuyến phòng thủ của địch ở nam sông Mỹ Chánh bắt liên lạc với lực lượng vũ trang Thừa Thiên nhằm thọc sâu vào tuyến sông Bồ.

        Phong Điền là huyện cửa ngõ phía bắc của Thừa Thiên tiếp giáp với tỉnh Quảng Trị. Nhân dân Phong Điền thuần phác, có lòng yêu nước nồng nàn, ý chí căm thù giặc sâu sắc. Thời Mỹ - Diệm, Ngô Đình Cẩn tàn ác, bắt các chiến sĩ cách mạng ở đây cho vào bao tải quăng xuống sông Bồ. Nhưng nhân dân Phong Điền vẫn hướng về cách mạng, che giấu cán bộ, bộ đội. Dẫu khó khăn đến nhường nào nhân dân cũng mua lương thực, giấu dưới các trảng cát, đêm đêm giao cho bộ đội đưa lên chiến khu. Nhiều nhà tự đào hầm bí mật trong vườn nuôi giấu cán bộ.

        Tháng 5 năm 1972, sau khi Quảng Trị giải phóng trên có lệnh đưa lực lượng đánh địch vào Thừa Thiên. ở phía tây sông Mỹ Chánh, Sư đoàn 304 và Trung đoàn 48 đã chiếm giữ khu vực núi Cái Mương.

        Ở phía đông, Trung đoàn 27 và Tiểu đoàn 66 xe tăng tiếp tục tiến công địch ở Thanh Hương, Đại Lộc Thời gian này, anh Võ Nguyên Quảng, quê Hải Thủy, Hương Thủy, Thừa Thiên làm Huyện đội trưởng kiêm Chính trị viên huyện đội Phong Điền, được lệnh đưa một đại đội bộ đội địa phương và một trung đội đu kích ra bắt liên lạc và dẫn đường cho Trung đoàn 27.

        Anh Quảng cho tôi biết: "Tối 19 tháng 5, chúng tôi đến Diên Khánh, gặp dân Quảng Trị chạy vào Thừa Thiên, tưởng chúng tôi là lính ngụy, họ bảo: Lo mà quay lại Thừa Thiên đi, quân Việt cộng nhiều lắm ở ngoài đó". Thông tin này rất cần cho chứng tôi, chúng tôi biết đại quân ta đã tiến vào Thừa Thiên rồi.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #87 vào lúc: 02 Tháng Hai, 2017, 10:28:09 pm »


        Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 27 do tôi làm tiểu đoàn trưởng gặp lực lượng do anh Quảng chỉ huy. Mới lần đầu gặp nhau nhưng sao mà thân thiết đến thế.

        Anh tự giới thiệu tên và giới thiệu mấy anh chị em du kích: Nguyễn Thị Nghệ, Nguyễn Thị Dung, Lê Thị Duyên, Hoàng Ngọc Hồng, Huỳnh Văn Phận, Lê Thị Nhân, Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Văn Lực, Nguyễn Thị Yến, Lê Viết Huy, Nguyễn Thị Bốn, Trương Văn Truyền...

        Chúng tôi thống nhất phương án: bộ binh và xe tăng sẽ đi dọc bờ biển về Thuận An rồi đánh thốc ra đường số 1.

        Đêm 20 rạng 21 tháng 5 năm 1972, chúng tôi bắt đầu xuất kích.

        Được lực lượng vũ trang huyện Phong Điền dẫn đường và phối hợp chiến đấu, chúng tôi lần lượt phá các ổ co cụm của lính ngụy dọc sông Ô Lâu để tiến sang khu vực Thanh Hương, Kế Môn. Chúng tôi đánh địch trong hành tiến, gặp địch là đánh, đánh xong lại tiếp tục hành quân. Các trận đánh diễn ra ở khu vực này gần như không có thời gian chuẩn bị.

        Sáng ngày 21 tháng 5, chúng tôi đến Thanh Hương, Kế Môn, Đại Lộc. Ba địa danh này nằm trên trục đường liên tỉnh nối Quảng Trị với Thừa Thiên ở hướng đông, chạy song song với đường quốc lộ 1 Trước đây địch đóng hàng chục đồn bốt dọc theo trục đường, nhưng sau khi Quảng Trị giải phóng, số lính ngụy sống sót chạy về và số lính ngụy mới được điều từ Thừa Thiên ra để cố thủ vùng này, nên Thanh Hương, Kế Môn, Đại Lộc trở thành những căn cứ chứa đủ các sắc lính. Riêng Thanh Hương do tiểu đoàn 100 bảo an chiếm đóng, có thêm các loại xe pháo vừa đổ ra để lập tuyến phòng thủ mới.

        Cuộc chiến đấu đánh vào căn cứ Thanh Hương lúc đầu diễn ra giằng co quyết liệt. Sau đó, chúng tôi đưa xe tăng vào đột kích. Thấy pháo 100 ly của xe tăng ta bắn thẳng, quân địch hốt hoảng giẫm đạp lên nhau tháo chạy. Lực lượng vũ trang địa phương đón lõng chặn đánh buộc chúng phải hạ vũ khí đầu hàng. Tiểu đoàn 100 bảo an bị diệt gọn. Thừa thắng, chúng tôi phát triển tiến công về Đại Lộc. Để ngăn chặn đường tiến quân của ta, địch đổ một tiểu đoàn và một đại đội thủy quân lục chiến xuống Kế Môn, Đại Lộc. Vừa chân ướt chân ráo xuống Kế Môn, Đại Lộc bọn địch đã bị bộ binh, xe tăng cùng lực lượng vũ trang địa phương chặn đánh tiêu diệt gần hết. Số sống sót tháo chạy về phía nam.

        Các xã Phong Hòa, Phong Bình, Phong Chương, Phong Hiền được giải phóng.

        Có một chuyện để lại ấn tượng sâu sắc trong tôi, đó là khi Phong Hòa được giải phóng, anh Đoàn Thúy Bí thư Đảng ủy xã bao năm bám trụ vùng địch, thấy bộ đội chủ lực vào đã hăng hái nhảy lên một chiếc xe tăng dẫn đầu một phân đội thọc sâu đánh vào quận lỵ Phong Điền. Xe tăng và bộ binh ta chiến đấu dũng cảm, nổ súng diệt được một số địch, bắn cháy một xe tăng địch. Nhưng, vì đơn thương độc mã, xe tăng ta bị địch tập trung súng chống tăng bắn, chiếc xe bốc cháy. Anh Đoàn Thúy và các chiến sĩ xe tăng đều hy sinh. Riêng Tiểu đoàn 3 và xe tăng cùng lực lượng vũ trang do anh Võ Nguyên Quảng chỉ huy vừa giải phóng xã Phong Hòa, Thanh Hương, Đại Lộc, Lương Mai đã đánh vào cụm thủy quân lục chiến chiếm đóng ở Kế Môn, Đại Lộc... và chốt giữ ở đây. Chúng tôi tiến thẳng về quận lỵ Phong Điền. Thấy bộ binh và xe tăng ta dũng mãnh tiến vào, quân địch bỏ chạy. Quận Phong Điền được giải phóng.

        Kết thúc đợt hoạt động, anh Võ Nguyên Quảng được tặng thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhì.

        Tiểu đoàn 3 của tôi có bốn cán bộ, chiến sĩ hy sinh khi đánh vào ấp Lương Mai ngày 22 tháng 5 năm 1972, đó là: Trung đội phó Bùi Văn Lợi, quê Kỳ Giang, Kỳ Anh, Hà Tĩnh; Trung đội phó Đặng Xuân Ninh, quê Tân Sơn, Thạch Lâm, Thạch Hà, Hà Tĩnh; Tiểu đội phó Trần Văn Kỳ, quê Trung Tiến, Thạch Môn, Thạch Hà, Hà Tĩnh; Tiểu đội phó Lê Văn Lập, quê Thanh Lâm, Cẩm Quang, Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh.

        Lực lượng vũ trang địa phương huyện Phong Điền có 10 anh chị em hy sinh, có người tôi chỉ nhớ tên, còn quê thì tôi không nhớ. Đó là: Chị Nguyễn Thị Xoa, anh Nguyễn Văn Luật, anh Trần Văn Trường, chị Quế, o Yến, o Con, o Gái, anh Trai, anh Luật, anh Sang (ở Quảng Ninh).

        Một dải đất chạy dọc sông Ô Lâu phía bắc tỉnh Thừa Thiên đã được giải phóng. Trung đoàn 27 đã thực hiện thắng lợi nhiệm vụ thọc sâu trong giai đoạn hai của chiến dịch Quảng Trị.

        Cuối tháng 5, tôi được bổ nhiệm chức vụ Trung đoàn phó Trung đoàn 27.

        Trước tình hình cả tỉnh Quảng Trị về tay cách mạng, ngày 4 tháng 5, Nguyễn Văn Thiệu - tổng thống ngụy quyền Sài Gòn và đại tướng Cao Văn Viên, tổng tham mưu trưởng quân ngụy vội vã bay ra căn cứ quân sự Mang Cá (Huê) họp bàn với các cố vấn quân sự Mỹ và các tướng tá chỉ huy quân đội ngụy để cứu xét tình hình Trị - Thiên. Nguyễn Văn Thiệu cho rằng: Sở dĩ Quảng Trị rơi vào tay cộng quân quá nhanh như vậy là do hạ cấp quá chủ quan không tiên lượng được lực lượng của đối phương. Cái quan trọng hơn là quân sĩ ngoài chiến trường thiếu tinh thần dũng cảm hy sinh... ông ta chỉ trích thẳng thừng Vũ Văn Giai, tư lệnh sư đoàn 3 vì đã tự động cho lui quân phòng tuyến phía bắc và đến khi được tăng quân thì không chịu "tử thủ" vì danh dự quốc gia; bỏ Đông Hà, Ái Tử mà chạy.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #88 vào lúc: 02 Tháng Hai, 2017, 10:30:56 pm »


        Trước thảm bại Quảng Trị thất thủ, Thừa Thiên bị uy hiếp nặng nề, Nguyễn Văn Thiệu cách chức Hoàng Xuân Lãm, đưa tướng Ngô Quang Trưởng lên làm tư lệnh quân khu 1, bỏ tù tướng Vũ Văn Giai sư đoàn trưởng sư đoàn 3 và giải thể luôn sư đoàn này.

        Ngày 13 tháng 6 năm 1972, sau khi được Mỹ hứa tăng viện trợ, Nguyễn Văn Thiệu quyết định mở cuộc hành quân "Tái chiếm Quảng Trị" lấy tên là "Lam Sơn 72". Để ăn chắc, Thiệu huy động 4 sư đoàn mạnh nhất trong quân đội ngụy, trong đó có sư đoàn dù và sư đoàn lính thủy đánh bộ thuộc lực lượng tổng dự bị quốc gia với lực lượng tương đương 13 trung đoàn bộ binh, 17 tiểu đoàn pháo binh, 5 thiết đoàn được nhiều đơn vị không quân, pháo hạm Mỹ hỗ trợ cho cuộc hành quân tái chiếm này.

        Bộ chỉ huy quân đội ngụy chia cuộc hành quân làm ba giai đoạn: Giai đoạn 1, từ cuối tháng 5 đến trung tuần tháng 6: nhanh chóng điều động lực lượng từ các nơi ra nam sông Mỹ Chánh lập tuyến phòng thủ ngăn chặn cuộc tiến công của ta.

        Giai đoạn 2, từ cuối tháng 6 đến giữa tháng 7: thực thi tái chiếm huyện Hải Lăng, Triệu Phong và thị xã Quảng Trị. Quân ngụy xem đây là giai đoạn quan trọng nhất của cuộc hành quân. Muốn chiếm lại phần đất còn lại ở phía bắc nhất thiết phải chiếm bằng được bàn đạp phía nam sông Thạch Hãn, trong đó có Thành Cổ - thủ phủ tỉnh Quảng Trị để tạo sức nặng mặc cả với ta tại Hội nghị Pa-ri.

        Giai đoạn 3, từ cuối tháng 7 đến giữa tháng 8: chiếm lại toàn bộ Ái Tử, Đông Hà, Cam Lộ, Gio Linh.

        Về phía ta, sau khi giải phóng toàn bộ tỉnh Quảng Trị, khí thế bộ đội rất cao. Bộ Tư lệnh chiến dịch đã điều động lực lượng, chuẩn bị vật chất, làm đường cơ giới xuống Cái Mương (tây Mỹ Chánh) để triển khai lực lượng, kết hợp với lực lượng Quân khu Trị - Thiên tiến công từ đường 12 xuống giải phóng Thừa Thiên - Huế. Nhưng do công tác bổ sung quân số, bảo đảm vật chất, tiếp tế hậu cần gặp nhiều khó khăn (chỉ thực hiện được 30% kế hoạch) nên sức chiến đấu của ta giảm sút. Trong khi địch tăng thêm lực lượng và tăng cường phòng thủ, chuẩn bị tiến hành phản kích trên quy mô lớn, ta vẫn tiếp tục thực hiện quyết tâm mở đợt tiến công mới vào tuyến nam sông Mỹ Chánh. Lực lượng ta bị tổn thất lớn hơn hai đợt tiến công trước.

        Sau khi nắm được ý đồ tập trung lực lượng phản công tái chiếm tỉnh Quảng Trị của địch, Bộ Tư lệnh chiến dịch một mặt tổ chức lực lượng, điều động các đơn vị chặn đánh địch bảo vệ vùng giải phóng, một mặt thông báo cho Tỉnh ủy và lệnh cho tỉnh đội Quảng Trị tổ chức các lực lượng vũ trang, các tổ chức quân, dân, chính, Đảng ở địa phương khẩn trương sơ tán dân, chuẩn bị chiến đấu, phối hợp với bộ đội chủ lực đánh bại cuộc tiến công lớn của địch nhằm chiếm lại toàn bộ tỉnh Quảng Trị, trong đó có âm mưu chiếm cho được Thành Cổ và thị xã làm con bài chính trị phục vụ cho Hội nghị Pa-ri.

        Thực hiện chủ trương của. Bộ Tư lệnh chiến dịch và nhiệm vụ của Tỉnh ủy, Tỉnh đội Quảng Trị giao, trong một thời gian ngắn, các cấp ủy, cán bộ, bộ đội đã khẩn trương đưa được tám vạn dân của thị xã và của hai huyện Triệu Phong và Hải Lăng (những địa bàn địch đánh phá ác liệt nhất) đến các nơi an toàn sau đó đưa phần lớn đồng bào ra Vĩnh Linh.

        Quán triệt quyết tâm của Quân ủy Trung ương: "Chỉ có một khả năng giữ vững Quảng Trị là đánh bại cuộc hành quân của địch", Bộ Tư lệnh chiến dịch chủ trương tăng cường và chi viện cho lực lượng giữ thị xã, đồng thời liên tục tổ chức những trận phản kích hai bên sườn, chủ yếu là từ hướng tây từng bước đánh bại ý đồ của địch nhằm chiếm thị xã nhanh chóng.

        Quyết tâm và chủ trương của trên được quân và dân Quảng Trị nghiêm túc thực hiện.

        Hướng chủ yếu là Thành Cổ và thị xã Quảng Trị. Thành Cổ nằm phía đông thị xã Quảng Trị, còn gọi là Thành Đinh Công Tráng. Thành xây bằng gạch từ năm 1827 có hình gần vuông mỗi cạnh 500 mét, phía ngoài có hào rộng 15 mét bao quanh. ở đây, dưới thời ngụy có nhà tỉnh trưởng, tòa thị chính, khu cố vấn Mỹ và một số cơ quan dân sự ngụy.

        Tại khu vực thị xã, ngoài lực lượng nòng cốt là Trung đoàn 48, tỉnh đã biên chế đầy đủ cho Tiểu đoàn 8, Tiểu đoàn 3 và Đại đội 32 của thị xã Quảng Trị cùng một số du kích tập trung, cán bộ các ngành để phối hợp chiến đấu với bộ đội chủ lực.

        Cuộc chiến đấu, chốt giữ thành Quảng Trị thực sự diễn ra gay go, quyết liệt từ ngày 3 tháng 7 trở đi Sư đoàn dù. sau khi tiến ra đường số 1 đã ra sức đánh phá các chốt nhỏ lẻ của ta, hòng tái chiếm thị xã Quảng Trị.

        Tiểu đoàn 7 lữ dù 3 vượt qua làng An Thái, định vượt ngã ba Long Hưng thì gặp bức tường lửa của Đại đội 1 Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 48 buộc phải chùn lại. Địch cho máy bay giội bom và pháo binh bắn nát những vườn cây trái ở ngã ba Long Hưng.

        Sau đợt bắn phá dữ dội, tiểu đoàn 7 lại xông lên.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #89 vào lúc: 02 Tháng Hai, 2017, 10:35:32 pm »


        Nhưng chúng lại vấp phải sự chống trả quyết liệt của quân ta. Cứ thế, suốt 3 ngày tiểu đoàn 7 dù cạn quân phải lùi về phía sau, để liên đội biệt kích thế chân đánh tiếp. Sự vững chắc của các chốt thép kiên cường ở đây không thể tính bằng ngày bằng giờ mà tính bằng tuần bằng tháng. Thực tế chiến đấu của chốt thép Đại đội 11 Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 48 đã chứng minh một đại đội chốt, tổ chức chỉ huy chặt chẽ, có công sự vững chắc sẽ đánh bại một tiểu đoàn địch.

        Ở hướng thị xã, Thành Cổ, Trung đoàn 48, Tiểu đoàn 8 và Tiểu đoàn 3 tỉnh đội Quảng Trị đã chặn đứng hàng chục đợt tiến công của quân dù vào khu vực La Vang, Long Hưng, ngã ba làng Thạch Hãn.

        Địch phải điều lữ đoàn 369 từ Gia Đẳng đánh lên Trâm Lý, Quy Thiện, Tri Bưu... Nhưng tất cả các đơn vị chúng tung ra đều bị thiệt hại nặng, phải dừng lại củng cố.

        Trên hướng đông, các Trung đoàn 27, Trung đoàn 64 và Trung đoàn 18, Tiểu đoàn 47, sau khi đã đề ra quyết tâm và chủ trương chiến đấu là: "Kiên quyết giữ vững tuyến trận địa ở hướng đông Quảng Trị. Tổ chức chặn đánh địch ở phía trước, luồn sâu đánh mạnh vào sau lưng địch, bắt chúng lui về đối phó với ta. Sử dụng đơn vị cỡ tiểu đoàn, trung đoàn thiếu hiệp đồng cùng xe tăng và pháo binh tiến công vào những điểm quân địch co cụm, lấy tiêu diệt sinh lực địch làm chính".

        Thực hiện kế hoạch tác chiến của Mặt trận cánh đông, Trung đoàn 27 cùng một đại đội xe tăng được lệnh luồn sâu vào làng Ngô Xá, với nhiệm vụ giữ vững và mở rộng địa bàn Thanh Lê. Ban chỉ huy trung đoàn phân công anh Cao Uy - Trung đoàn phó Tham mưu trưởng đi sát, theo dõi và cùng ban chỉ huy Tiểu đoàn 1 triển khai kế hoạch chiến đấu.

        Làng Ngô Xá và Thanh Lê nằm bên đường số 4, nếu địch vượt qua được Ngô Xá và Thanh Lê, chúng sẽ đánh vào thị xã phía đông bắc qua Quy Thiện, Tri Bưu và đánh dọc theo trục đường số 4 ra quận lỵ Triệu Phong. Ban chỉ huy Trung đoàn 27 điều Tiểu đoàn 1 vào khu vực Ngô Xá, Thanh Lê mở ra một địa bàn và một cụm chốt ở phía đông bắc thị xã Quảng Trị.

        Tiểu đoàn 1 triển khai đội hình chiến đấu xong thì trời vừa sáng. Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Viết Giáp đến trận địa Đại đội 1 nằm ngoài làng Ngô Xá. Đây là hướng chủ yếu khống chế toàn bộ đoạn đường số 4 chạy qua làng. Tiểu đoàn trưởng Giáp hài lòng về kế hoạch hiệp đồng giữa Đại đội 1 và phân đội xe tăng mà anh vừa nghe đại đội trưởng báo cáo. Đến với tổ chiến đấu nào tiểu đoàn trưởng cũng thấy anh em đang khẩn trương chuẩn bị chiến đấu Họ hành động với một tinh thần chu đáo và tự giác. Hơn hai trăm con người cùng xe tăng luồn vào đây mà vẫn giữ được bí mật an toàn.

        Tôi được anh em Tiểu đoàn 1 kể lại, sáng ngày 17 tháng 7, sau khi dùng bom pháo dọn đường, địch cho xe tăng, thiết giáp cùng bộ binh tiến vào làng Ngô Xá, Thanh Lê. Chúng tiến quân chậm chạp, xe và lính tưởng như quấn lấy nhau. Ngay lúc đó, các chiến sĩ trận địa chốt Đại đội 1 phát hiện gần hai trăm người dân. Một số người đi trước đội hình xe và lính, một số ngồi cả lên xe bọc thép. Lại thêm một thủ đoạn thâm độc của kẻ thù, bắt những người dân vô tội đi trước làm bia đỡ đạn.

        Vào gần làng Ngô Xá, địch dồn dân đi trước, lính ngụy bám phía sau. Trung đội trưởng Trung đội 1 Đại đội 1 Hoàng Trọng Bảo len lỏi giữa chiến hào, đến từng tổ chiến đấu nhắc nhở anh em: - Trong bất cứ tình huống nào cũng phải bảo vệ dân. Tất cả giương lê sẵn sàng đánh gần! Trận địa vẫn im lặng.

        Bỗng từ trong đoàn người, một phụ nữ chạy vụt lên phía trước, nói như ra lệnh: - Giải phóng ơi! Bắn đi, không cho chúng vô làng.

        Một tràng súng AR15 của địch. Tiếng chị bị dìm đi đột ngột. Chị lảo đảo rồi khụy xuống. Một chiến sĩ nằm cạnh Trung đội trưởng Bảo nhổm dậy, Bảo vội lấy tay ấn anh xuống và bảo:

         - Còn bao nhiêu đồng bào! Cán bộ, chiến sĩ Đại đội 1 môi mím chặt, người khom xuống chực bật dậy khỏi chiến hào, các chiến sĩ ghì chặt súng trong tay, máu họ như sôi lên.

        Cả đoàn người dừng lại bên người phụ nữ vừa ngã xuống. Bà con quây lấy đám lính rồi xô đẩy chúng, chạy dạt sang hai bên đường. Hành động đó của bà con như mách bảo anh em Đại đội 1. Cả đơn vị xuất kích như một mũi dao cắt rời bọn lính đang ẩn phía sau dân. Bà con nằm rạp cả xuống. Chiến sĩ ta xông lên phía trước đánh địch và che chở cho dân. Khi bà con cô bác đã ở phía sau đội hình chiến đấu của Đại đội 1, các chiến sĩ mới yên tâm nổ súng.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM