Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 16 Tháng Tư, 2024, 01:22:49 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Một thời Quảng trị  (Đọc 35871 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #60 vào lúc: 30 Tháng Giêng, 2017, 08:33:03 am »


        Điểm cao 525 như rung lên bởi những đợt pháo bắn mở đường cho lính Mỹ tiến lên chiếm điểm cao.

        Các chiến sĩ Đại đội 2 gài mìn định hướng chờ chúng. Quân Mỹ đua nhau ào lên. Tiểu đội trưởng Nguyễn Hoài Nam bình tĩnh chờ chúng vào tầm hiệu quả nhất chập điện. Mìn nổ, những tốp lính Mỹ đi đầu đứa chết, đứa bị thương la lối om sòm, tháo chạy tán loạn.

        Mươi phút sau, quân Mỹ tổ chức thành hai mũi tiến lên. Chúng dò dẫm từng bước, sợ lại vướng mìn như lần trước. Chờ quân Mỹ đến gần, Nam ra lệnh cho anh em trong tiểu đội ném lựu đạn tới tấp vào đội hình chúng, rồi dùng súng AK, trung liên bắn quét quân địch. Lính Mỹ lăn xuống chân đồi như những súc gỗ. Bị đánh bất ngờ, cả đại đội quân Mỹ phải quay lại, chưa một tên Mỹ nào đặt chân lên được đồi Yên Ngựa.

        Chỉ huy quân Mỹ ở phía sau phát hiện được lực lượng ta, chúng dồn quân tràn lên đồi Yên Ngựa.

        Các chiến sĩ Đại đội 1, Tiểu đoàn 1 vẫn bám chặt sườn đồi phía tây, đánh chặn quyết liệt, quân Mỹ không sao lên được. Trận đánh đang diễn ra căng thẳng thì bất ngờ từ phía nam một tốp lính Mỹ mò lên phía đồi Yên Ngựa. Các chiến sĩ ta phát hiện được liền quay nòng khẩu trung liên diệt những tên Mỹ đang cố bám lấy khu đồi.

        Trong lúc đó, Đại đội trưởng Giáp đã tổ chức xong trận địa cối 60 ly bắn chi viện cho tổ chốt ở đồi Yên Ngựa và lệnh cho một tiểu đội xuất kích chi viện cho tổ chốt của Nam.

        Tiểu đội trưởng Lê Văn Chiến dẫn tiểu đội bám theo con suối cạn ở phía tây điểm cao 525 đánh lên.

        Tiếng súng diệt địch lại nổ vang ở đồi Yên Ngựa.

        Khẩu cối 60 ly do Nguyễn Văn Bảy chỉ huy đánh trúng đội hình quân Mỹ. Đợt tiến công thứ ba của địch bị bẻ gẫy hoàn toàn. Quân Mỹ cụm lại dưới chân đồi. Thấy lực lượng của ta xuất hiện ở phía tây chúng sợ quân ta chặn đường rút, liền tập trung đối phó quyết liệt.

        Chỉ huy quân đội Mỹ cay cú, tăng thêm lực lượng và dùng hỏa lực đánh phá dữ dội vào đồi Yên Ngựa và đỉnh 525. Đạn pháo các loại của địch làm cho trận địa chốt của Đại đội 1 trống hoác. Nhiều chỗ cỏ tranh khô bén lửa bốc cháy. Trong khói đạn mịt mù, Đại đội trưởng Nguyễn Viết Giáp vẫn bám sát trận địa, chỉ huy đơn vị giữ bằng được khu vực điểm cao 525.  Trong khi đang tổ chức trận địa chết ở điểm cao 525, cách đồi Yên Ngựa 400 mét, thì Giáp được tin báo, địch đã chiếm được đồi Yên Ngựa. Đại đội trưởng Giáp cắp khẩu AK dẫn một tổ tiến xuống phía đồi Yên Ngựa. Địch đang cụm lại ở đó rất đông. Anh quyết định điều lực lượng chốt ở điểm cao 525 đánh xuống.  Pháo địch nhằm vào các trục đường mòn giữa những bãi cỏ tranh bắn phá. Một số chiến sĩ bị thương ngay tại trận địa hoặc trên đường xuất kích. Đại đội trưởng Giáp bị thương vì pháo địch.

        Chính trị viên Nguyễn Đình Thi và Đại đội phó Nguyễn Như ý từ vị trí chỉ huy của đại đội tức tốc lao lên trận địa, thay vị trí đại đội trưởng chỉ huy chiến đấu.

        Trời đã về chiều, lính Mỹ bắt đầu co cụm, không dám tiến công nữa. Cối 82 của tiểu đoàn cùng cối 60 ly của Đại đội 1 bắn vào các vị trí địch đang co lại Chúng buộc phải tháo chạy khỏi khu chiến trước khi trời tối.

        Tranh thủ đêm xuống, Đại đội 1 đưa những anh em bị thương nặng về tuyến sau. Chính trị viên Thi, Đại đội phó ý cùng ba cán bộ trung đội hội ý và thống nhất: "Cả ngày hôm nay ta đã đánh thiệt hại nặng 2 đại đội Mỹ, nhưng chúng chưa từ bỏ mục tiêu đánh điểm cao 525. Vì vậy, ngay trong đêm phải động viên bộ đội đào công sự, giao thông hào, nhanh chóng cấu trúc trận địa để ngày mai tiếp tục chiến đấu".

        Cả đêm, cán bộ, chiến sĩ Đại đội 1 không nghỉ.

        Dưới ánh sáng của đèn dù, pháo sáng họ hối hả đào công sự, gài thêm mìn, lựu đạn chuẩn bị cho trận chiến đấu ngày mai.

        Trung đội trưởng Mai Thành Đang cùng một tiểu đội chết giữ đồi Yên Ngựa. Đại đội phó ý vẫn hối hả cùng mấy chiến sĩ đào nốt đoạn hào nối từ đỉnh 525 xuống đồi Yên Ngựa. Trận địa Đại đội 1 đã hình thành một tuyến chốt liên hoàn, họ tin tưởng sẽ đứng vững ở đây, bảo vệ điểm cao 525.

        Trời vừa sáng, cán bộ, chiến sĩ Đại đội 1 chốt trên điểm cao 525 đã nghe thấy tiếng động cơ máy bay trực thăng từ hướng sông Ba Lòng mỗi lúc một gần. Tất cả đại đội đã ở vị trí sẵn sàng. Sau một hồi quần lượn, máy bay trực thăng hạ độ cao rồi đổ một đại đội lính Mỹ xuống phía nam điểm cao 525, tăng thêm lực lượng cho đơn vị đã bị ta đánh thiệt nặng hôm qua.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #61 vào lúc: 30 Tháng Giêng, 2017, 08:35:12 am »


        Pháo binh địch bắn trùm lên điểm cao 525 và đồi Yên Ngựa. Một tốp máy bay phản lực lao từ biển vào, giội bom xuống những khu vực mà chúng nghi là ta giấu quân.

        Sau hơn 1 giờ đồng hồ dùng bom pháo dọn đường, dọn bãi, lính Mỹ lại nhằm điểm cao 525 tràn lên.

        Nhưng chúng đã bị cán bộ, chiến sĩ Đại đội 1 đánh trả. Ngay những phút đầu tiên, hơn chục tên Mỹ đã phơi xác trên đồi Yên Ngựa. Các chốt phụ bố trí theo phương án chiến đấu của chỉ huy đại đội vẫn giữ vững. Chốt chính trên đỉnh 525 vẫn chưa một tên Mỹ nào đặt chân lên được.

        Liên tục trong những ngày từ 25 đến 30 tháng 4 năm 1971, cán bộ, chiến sĩ Đại đội 1 vẫn đứng vững ở khu vực 525. Các đơn vị làm nhiệm vụ thọc sâu chặn đánh các đoàn xe địch rút chạy trên Đường 9, nhờ những chốt kiên cường của Đại đội 1 nên đã an toàn vượt qua tuyến ngăn chặn của lính Mỹ.

        Đến ngày 30 tháng 4 năm 1971, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 27 đã chiến đấu liên tục 72 ngày đêm, góp phần cùng các đơn vị trên toàn chiến dịch đánh bại hoàn toàn cuộc hành quân "Lam Sơn 719" của Mỹ - ngụy. Những tên lính ngụy cuối cùng tưởng như thoát chết ở Nam Lào, khi chạy về đây lại bị quân ta đánh tiếp. Mặc dù, Mỹ tung cả sư đoàn 5 ra phía bắc Đường 9 để chống đỡ cho lính ngụy, song bọn địch vẫn phải nhận lấy những ngày bi thảm nhất của cuộc hành quân.

        Giữa tháng 5 năm 1971, đơn vị cuối cùng của Trung đoàn 27 được lệnh rút ra củng cố. Đầu tháng 6 trung đoàn lại được trên giao nhiệm vụ tham gia chiến dịch A2 nhằm phát huy kết quả vừa giành được tiếp tục đẩy quân địch lún sâu thêm vào thế bị động.

        Tôi được biết khi giao nhiệm vụ này cho Trung đoàn 27, Bộ Tư lệnh Mặt trận B5 rất đắn đo vì trung đoàn chưa được nghỉ ngơi sau một chiến dịch kéo dài.

        Ngày 30 tháng 5 năm 1971, Tướng Lê Trọng Tấn, Tư lệnh Mặt trận B5 giao nhiệm vụ cho Trung đoàn trưởng Trung đoàn 27 Phạm Minh Tâm và Chính uỷ Nguyễn Võ Hiển. ông nói: Trung đoàn 27 đã liên tục chiến đấu hơn 2 tháng. Nhưng là đơn vị chủ lực của Mặt trận thì không thể không tham gia chiến dịch này. Trung đoàn là lực lượng chủ yếu trên hướng phối hợp quan trọng của chiến dịch A2. Trung đoàn được tăng cường các phân đội bộ binh, công binh, đặc công, pháo binh, cao xạ có nhiệm vụ diệt địch ở khu vực đông và tây điểm cao 544. Chiếm lĩnh, vây lấn, tiến tới diệt căn cứ này. Chiếm giữ địa hình có lợi, tiếp tục đánh địch giải tỏa. Ngày 15 tháng 6, phải hoàn thành công tác chuẩn bị để có thể nổ súng được.

        Tướng Lê Trọng Tấn quay sang hỏi: Anh Tâm, anh Hiển có ý kiến gì về nhiệm vụ không?  - Nhiệm vụ Bộ Tư lệnh giao chúng tôi sẽ họp thường vụ ra nghị quyết lãnh đạo. Cái khó là đơn vị vừa chiến đấu xong, quân số, lương thực, thực phẩm, trang bị chưa kịp bổ sung. Nhất là phải lo chạy gạo.

        Quần áo bộ đội đa phần còn một bộ. - Anh Tâm nói.

        Tướng Lê Trọng Tấn động viên: - Tôi sẽ giao cho cơ quan hậu cần chiến dịch lo vấn đề hậu cần cho các anh. Nhưng các anh cũng phải năng động, sáng tạo cùng với chúng tôi giải quyết Trên đường đi nhận nhiệm vụ ở Mặt trận về, Trung đoàn trưởng Phạm Minh Tâm và Chính ủy Nguyễn Võ Hiển tranh thủ bàn bạc sơ bộ tình hình và lên kế hoạch tác chiến.

        Ngay sau khi về đơn vị, Đảng ủy trung đoàn họp ra nghị quyết lãnh đạo đợt chiến đấu. Trung đoàn trưởng họp cán bộ, chỉ huy, trợ lý cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần triển khai nhiệm vụ. Cả trung đoàn như một guồng máy vận hành hết tốc lực: vững chắc, có lực lượng phía trong và "quân cù" bên ngoài, với sự chi viện chặt chẽ và kịp thời của hỏa lực. Trước tháng 5 năm 1970, Phu-lơ do quân Mỹ chiếm đóng. Sau đó chúng giao lại cho quân ngụy.

        Căn cứ này đã bị đặc công ta đánh nhiều lần, hai lần bị ta vây ép và thường xuyên bị cối 1201y của ta bắn phá. Do đó, địch đã củng cố thành một trong những căn cứ vững chắc ở Đường 9.  Tiểu đoàn 2 do anh Bùi Xuân Các chỉ huy, đây là đơn vị có kinh nghiệm trong nhiệm vụ vây lấn.

        Đợt chiến đấu này, chỉ huy trung đoàn quyết định tăng cường cho Tiểu đoàn 2 hai đại đội đặc công vào nhiệm vụ vây ép tiến tới diệt điểm căn cứ Phu-lơ.

        Trời tháng 6, vùng đất Quảng Trị nắng nóng hầm hập. Trên các mỏm đồi phía tây căn cứ Phu-lơ, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 2 đang chiếm lĩnh không còn một bóng cây. Chiến sĩ ta phải phơi mình dưới trời nắng như đổ lửa để xây dựng công sự chiến đấu. Là những người đã từng tham gia vây ép căn cứ địch, cán bộ, chiến sĩ ta rất hiểu giá trị của mỗi đoạn chiến hào trong lúc nổ súng đánh địch.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #62 vào lúc: 30 Tháng Giêng, 2017, 08:37:32 am »


        Đêm 17 tháng 6 năm 1971, Đại đội 3 và một trung đội của Đại đội 2 Tiểu đoàn 2 ở cụm B (Khu vực tây và tây bắc căn cứ Phu-lơ) chiếm lĩnh dãy đồi "Thám Báo". Ngay trong đêm cán bộ, chiến sĩ ta đã xây dựng xong hầm chữ A đủ cho bộ đội ẩn nấp và làm thêm công sự chiến đấu. Trong lúc đó, lực lượng ở cụm D (Khu vực đông bắc căn cứ Phu-lơ) do Tiểu đoàn trưởng Bùi Xuân Các chỉ huy đang gặp khó khăn, gạo đạn phía sau chưa chuyển lên được.

        Mặc dù Tiểu đoàn 1 đã cố gắng tranh thủ thời gian để vận chuyển cho hướng này, nhưng do đường xa, vượt qua nhiều khe suối và bom tọa độ, pháo địch bắn chặn, nên đã mất nhiều thời gian.

        Lúc này, tại Sở Chỉ huy trung đoàn đặt ở điểm cao 402, Trung đoàn trưởng Phạm Minh Tâm sau khi nghe báo cáo diễn biến cụ thể ở các cụm, anh trao đổi với Chính ủy Nguyễn Võ Hiển vẫn quyết tâm đề nghị Mặt trận cho chiếm lĩnh ngay đêm 18 tháng 6.

        Đồng chí Lê Trọng Tấn đồng ý với quyết tâm của trung đoàn và nhắc: Phải hết sức giữ bí mật, khi bộ đội chiếm lĩnh, dùng cối 120 ly chi viện cho bộ binh. Bất đắc dĩ mới nổ súng đánh địch lúc này.

        Đôn đốc Tiểu đoàn 1 nhanh chóng đưa gạo đạn vào cho bộ đội.

        Ngày 18 tháng 6, tình hình ở căn cứ 544 và các khu vực xung quanh vẫn trong trạng thái yên tĩnh.

        Trung đoàn trưởng Phạm Minh Tâm điện cho tôi đưa một đại đội vào chốt giữ điểm cao 402 để bảo vệ bàn đạp cho các cụm chiến đấu của Tiểu đoàn 2.

        Nhận được lệnh, tôi điều Đại đội 3 và một trung đội của Đại đội 4 hỏa lực vào chốt ở D4, tây bắc căn cứ Phu-lơ. Các đơn vị nhận được lệnh đã khẩn trương lên đường vào xây dựng công sự, hầm hào trong đêm 18 tháng 6.

        Ngày 20 tháng 6 năm 1971, trận địa cối 1201y đặt ở đồi Anh Hùng (bắc căn cứ Phu-lơ) được lệnh nổ súng mở đầu cuộc vây ép. Hai đại đội đặc công của Tiểu đoàn 19 cũng được lệnh xuất phát.

        Trong những ngày này, trên toàn Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị ta đã đẩy mạnh hoạt động. Địch rất lúng túng, thiếu lực lượng cơ động, chúng chỉ dùng hỏa lực phi pháo đối phó. ở phía tây Trung đoàn 66 (Sư đoàn 304) liên tục tiến công, đánh thiệt hại lữ đoàn 147 quân ngụy, buộc chúng phải rút về Mai Lộc. Trung đoàn 9 (Sư đoàn 304) tập kích một bộ phận thuộc lữ đoàn 369 ở Ba Hồ. ở phía đông, bộ đội địa phương kết hợp với đặc công, pháo binh tập kích vào Đông Hà, ái Tử và tiến công tàu chiến địch trên sông Cửa Việt làm cho địch càng hoang mang.

        Trên hướng chiến đấu của Trung đoàn 27 tại căn cứ Phu-lơ trong ngày 20 tháng 6, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 2 ở cụm B và cụm D đã nổ súng. Trung đoàn lệnh cho các đơn vị dùng hỏa lực bắn thẳng vào tuyến công sự vành khăn của địch.

        Bị ta đánh mạnh, địch trong căn cứ Phu-lơ hốt hoảng bỏ chạy về mỏm cao phía đông. Qua máy bộ đàm của địch, ta biết được trung đoàn trưởng trung đoàn 2 ngụy ra lệnh cho lính ở căn cứ Phu-lơ không được chạy, ai chạy sẽ bắn bỏ, phải trở về vị trí phòng thủ.

        Trong ngày đầu chiến đấu, chiến sĩ của Trung đoàn 27 loại khỏi vòng chiến đấu 80 tên địch bên ngoài căn cứ, bắn rơi 4 máy bay, phá hủy 4 ụ súng, 1 khẩu ĐKZ và 2 khẩu đại liên, bắn cháy 2 kho đạn trong căn cứ.

        Cuộc chiến đấu của Trung đoàn 27 phát triển thuận lợi. Địch đối phó bị động lúng túng. Trung đoàn quyết định ngày 21 tháng 6 cho hỏa lực đánh mạnh, tiến tới phá hàng rào căn cứ Phu-lơ. Thực hiện nhiệm vụ trên, chỉ huy trung đoàn cho Tiểu đoàn 3 bộ đội tỉnh Quảng Trị (đơn vị phối thuộc) tích cực đánh địch ở các khu vực xung quanh tạo thời cơ dứt điểm Đồi Tròn.

        Đêm 21 tháng 6 năm 1971, địch trong căn cứ Phu-lơ bắn pháo sáng và máy bay C.130 thả đèn dù suốt đêm. Các loại hỏa lực của địch trong căn cứ bắn chặn mãnh liệt. Mặc cho địch tăng cường hoạt động các chiến sĩ đặc công cùng với công binh vẫn bình tĩnh mở hàng rào.

        Suốt đêm 21 tháng 6, Ban chỉ huy Trung đoàn 27 và các sĩ quan tham mưu ở Sở chỉ huy không rời máy thông tin. Cứ mỗi lần nghe tiếng súng từ căn cứ Phu-lơ vọng lại, mọi người lại nín thở để phân biệt tiếng súng của ta hay tiếng súng của địch. Ai cũng hiểu rằng mũi nào nổ súng trong quá trình tiềm nhập mà chưa đến giờ hiệp đồng là không thuận lợi.

        12 giờ đêm, một chiến sĩ canh máy thông tin báo cáo: Cửa mở hướng đông bắc đã cắt được ba hàng rào ngoài cùng, hàng rào thứ tư đã bị pháo ta phá hủy. Cửa hướng đông bộ đội vào muộn, chưa đánh được bộc phá, chỉ huy hướng này đề nghị cho lùi ra ngoài cách sáu, bảy mươi mét lợi dụng công sự ở lại trong ngày 22 tháng 6 để đêm sau mở tiếp. Hướng bắc, địch bắn mạnh chưa thể tiếp cận được... Trước tình hình đó, Trung đoàn trưởng Phạm Minh Tâm trao đổi với Chính ủy Nguyễn Võ Hiển và quyết định: các đơn vị giữ nguyên vị trí, trung đoàn sẽ tăng cường chi viện hỏa lực cho các hướng tạo điều kiện cho chiến sĩ đặc công và bộ binh đột phá.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #63 vào lúc: 30 Tháng Giêng, 2017, 08:39:44 am »


        Trên các trận địa hỏa lực của trung đoàn, bất chấp bom, pháo địch, các chiến sĩ ta bám trận địa kịp thời tiêu diệt những hỏa điểm, lô cốt địch trong căn cứ Phu-lơ.

        Tại trận địa ĐKZ75 bố trí ở phía đông chi viện cho hướng tiến công chính diện vào trung tâm căn cứ các pháo thủ lo lắng cho bộ phận mở cửa vẫn nằm ngoài hàng rào địch. Khẩu đội trưởng Trần Văn Quyền nói với pháo thủ Phạm Văn Ba: "Quan sát các mục tiêu, khi có lệnh là diệt ngay, tạo thuận lợi cho bộ phận mở cửa".

        Phạm Văn Ba lặng lẽ lấy phần tử từng mục tiêu, vừa được lệnh nổ súng, Ba bắn liền năm quả đạn diệt ngay năm hỏa điểm ở tuyến công sự vành khăn. Sau những quả đạn chính xác của Ba, bộ phận mở cửa phát triển thuận lợi.

        Khẩu đội ĐKZ75 của Trần Văn Quyền được lệnh cơ động sang vị trí khác để chi viện cho bộ binh.

        Nòng súng ĐKZ đang bốc khói. Ba đưa tay chạm vào liền rụt lại: "Nóng quá anh ạ" - Ba nói với Khẩu đội trưởng Quyền. Khẩu đội trưởng Quyền lệnh: "Lấy khăn ướt bọc lại". Ba làm theo, nhưng chỉ vài giây sau, chiếc khăn bốc khói, tỏa mùi khét lẹt...

        Súng địch bắn ra mỗi lúc một dồn dập. Trận địa vây lấn của ta đang gặp khó khăn. Ba mím môi ôm chặt bầu nòng xoay ra khỏi chân súng, rồi vác lên vai, dẫn đầu đội hình băng về phía trận địa mới.

        Lúc hạ nòng pháo xuống thì vai áo Ba đã cháy sém và lớp da ở vai đỏ au. Anh vẫn bình tĩnh lắp đạn, lần lượt diệt những hỏa điểm của địch ở phía trong hàng rào, tạo điều kiện cho bộ binh lấn sâu vào căn cứ địch.

        Lúc này, Tiểu đoàn 2 đã mở được hai cửa mở ở đông bắc. Các hướng khác vẫn đang gặp khó khăn.

        Ngoài hỏa lực từ trong căn cứ bắn ra, pháo địch từ Đầu Mầu, Tân Lâm, điểm cao 241 bắn về, chúng còn cho máy bay B.52 rải bom xuống phía bắc điểm cao 544 vào trúng đội hình Đại đội 1, Tiểu đoàn 3 của tôi, làm hai chiến sĩ hy sinh là: Võ Tá Tử, quê Hợp tác xã Tiên Tiến, Thạch Quý, Thạch Hà, Hà Tĩnh và Lư Quang Hắt, quê Nai Đồng, Tân Kỳ, Kim Thành, Hải Dương.

        Trước đó ngày 21 tháng 6, Đại đội 4 hỏa lực, Tiểu đoàn 3 của tôi trong khi chiến đấu ở chốt D4 (tây bắc căn cứ Phu-lơ) đã bị một quả bom đánh trúng trận địa làm Tiểu đội trưởng là Nguyễn Đình Phú, quê Hiền Lương, Vĩnh Thành, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa; y tá Nguyễn Xuân Lộc, quê Xuân Chi, Lâm Thao, Phú Thọ và hai chiến sĩ là Nguyễn Thế Đề quê Nước Mát, âu Lâu, Trấn Yên, Yên Bái; Nguyễn Quốc Long, quê Chuế Lưu, Hạ Hòa, Phú Thọ hy sinh.

        Ngày 22 tháng 6 năm 1971, trên các hướng vây ép cứ điểm Phu-lơ, lực lượng ta vẫn nằm ngoài hàng rào của địch. Tiểu đoàn 1 nằm trong vòng vây đã tổ chức phòng thủ chặt chẽ hơn.

        Ngoài khó khăn ở các hướng vây ép trong giai đoạn mở cửa, các lực lượng đánh vòng ngoài của ta cũng không phát triển thuận lợi. Cho đến lúc này, khu vực Đồi Tròn (phía tây căn cứ Phu-lơ) ta vẫn chưa làm chủ. Vì thế quân địch ở căn cứ Phu-lơ và Đồi Tròn vẫn chi viện cho nhau.

        Trước tình hình đó, Trung đoàn trưởng Phạm Minh Tâm quyết định tăng cường thêm lực lượng cho Tiểu đoàn 2 mở cửa và quyết tâm đêm 23 tháng 6 sẽ dứt điểm căn cứ Phu-lơ.

        Kế hoạch của đặc công không thay đổi, hai phân đội ở hai cụm vây ép sẵn sàng vào tiếp sức nếu mũi ở phía tây không vào được. Tiểu đoàn 3 đưa một đại đội lên đồi Thám Báo chi viện cho phía trước và sẵn sàng cường tập nếu lực lượng phía trong gặp khó khăn. Hỏa lực của ta vẫn đánh mạnh vào căn cứ Phu-lơ, làm rối loạn đội hình phòng ngự trên các hướng của địch.

        Đã ba ngày đêm, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 2 cùng đặc công và công binh vây ép căn cứ Phu-lơ, mở hàng rào, đánh phá công sự vành khăn trong tầm hỏa lực của địch, thường xuyên đối phó với những tình huống phức tạp diễn ra ngay trên trận địa của mình, nhưng không một ai nao núng. Có bộ phận giành giật với địch từng lớp hàng rào, lô cốt.

        Chiến sĩ đặc công và công binh bí mật luồn cắt hàng rào mở cửa, sẵn sàng đánh vào trung tâm.

        19 giờ 15 phút ngày 23 tháng 6 năm 1971, pháo cối của ta bắn trúng vào khu chỉ huy làm tê liệt hoàn toàn hệ thống thông tin liên lạc của chúng.

        Chỉ huy tiểu đoàn 1 quân ngụy trong căn cứ Phu-lơ không liên lạc được với cấp trên.

        20 giờ, ở hướng tây, đặc công luồn sâu vào hàng rào đánh chiếm mục tiêu đầu cầu, lính ngụy chống trả yếu ớt. Tiểu đoàn trưởng Bùi Xuân Các có mặt tại lô cốt đầu cầu cho rằng: "Địch đã chạy xuống phía nam căn cứ".

        Đúng như nhận định của Tiểu đoàn trưởng Các, trong lúc mất liên lạc với chỉ huy cấp trên, lính ngụy đã tháo chạy xuống phía nam.

        22 giờ, mũi tiến công phía tây đã hoàn toàn làm chủ căn cứ Phu-lơ. Chỉ huy trung đoàn ra lệnh cho Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2: các mũi tham gia vây ép căn cứ Phu-lơ không bắn tín hiệu, nhanh chóng chốt giữ, bao vây phía nam căn cứ không cho địch tháo chạy, tổ chức lùng sục, tảo trừ quân địch trong căn cứ.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #64 vào lúc: 30 Tháng Giêng, 2017, 08:41:50 am »


        Tiểu- đoàn 2 chỉ để một trung đội chốt giữ căn cứ Phu-lơ còn tất cả tiến xuống phía nam để đánh địch. Mục tiêu quan trọng lúc này là khu vực Đồi Tròn.

        Mất căn cứ Phu-lơ, căn cứ Đầu Mầu và điểm cao 241 bị uy hiếp nghiêm trọng, chỉ huy quân nguy ở Mặt trận Quảng Trị thúc ép trung đoàn 2 phải cho quân nống ra để đẩy lùi lực lượng ta.

        Trung đoàn 2 dùng tiểu đoàn 5 và lực lượng còn lại của tiểu đoàn 4 lên giải tỏa cho căn cứ Phu-lơ.

        Trung đoàn 1 ngụy mở cuộc hành quân ngăn chặn ở khu vực Động Tre, Động Toàn, điểm cao 365.

        Ngày 26 tháng 6 năm 1971, địch cho máy bay B.52 đánh vào vị trí trú quân của Đại đội 15 công binh ở chân căn cứ Phu-lơ làm ba cán bộ, chiến sĩ hy sinh: Đại đội phó Nguyễn Thanh Truyền, quê Thọ An, Quỳnh Thọ, Quỳnh Lưu, Nghệ An; y tá Nguyễn Hữu Quang, quê An Trung, An Sơn, Hương Sơn, Hà Tĩnh; chiến sĩ Đặng Duy Nguyễn, quê Xuân Thắng, Xuân Lâm, Tĩnh Gia, Thanh Hóa.

        Các anh được an táng tại chân điểm cao 544 (Phu-lơ).

        Trong thời gian này ở khu vực đồi Thám Báo, phía tây căn cứ Phu-lơ không lúc nào ngớt tiếng súng. Hết lính ngụy nống lấn lại đến pháo địch từ căn cứ Đầu Mầu, điểm cao 241 bắn về. Trung đội của Lê Bá Dương chốt ở đây với hơn 20 tay súng, nhưng có lúc đã đánh trả cả đại đội lính ngụy. Sau những đợt pháo dập xuống chốt là lính ngụy lại tràn lên. Đồi cây cao quá đầu người nay chỉ còn trơ gốc. Công sự chiến đấu nhiều chỗ trống. Dương tranh thủ cùng anh em sửa sang công sự lấy cỏ khô lá khô ngụy trang sau từng đợt pháo địch bắn phá.

        Tổ của Nguyễn Văn Hải bố trí ở một gốc cây to, tuy lính ngụy đổ đạn vào đó nhiều, nhưng anh em không ai việc gì. Lê Bá Dương cho một khẩu súng bắn tỉa ở đó, anh nói với chiến sĩ: "Cứ nhằm vào chỉ huy cầm súng ngắn và lính đeo máy thông tin mà bắn. Diệt chỉ huy và thông tin là nó không gọi phi pháo được".

        Địch ỷ vào thế quân đông, cùng lúc chia thành nhiều mũi đánh lên đồi Thám Báo. Chúng còn đặt cối 81 ly ở phía sau bắn yểm hộ cho bộ binh tiến lên.

        Sau khi đẩy lùi ba đợt tiến công của địch, về phía ta một số chiến sĩ bị thương, tay súng chiến đấu trên trận địa chốt Thám Báo vợi dần. Hầm chữ A trúng đạn pháo địch sập gần hết. Hào giao thông nhiều chỗ cũng bị đất đá lấp đầy. Cứ sau mỗi đợt bắn phá và vừa dứt tiếng súng bộ binh, mỗi tiểu đội chỉ để một tổ cảnh giới sẵn sàng đánh địch còn lại lao đi đào bới và băng bó đồng đội bị thương, tiếp tục sửa lại công sự hầm hào bị sập, làm thêm hầm cho thương binh vì chưa thể đưa anh em ra khỏi trận địa lúc này.

        Trung đội trưởng Lê Bá Dương tay trái quấn đầy băng, khoác khẩu AK chạy đến các chiến sĩ bị thương nhẹ động viên họ tiếp tục chiến đấu, quyết tâm giữ vững trận địa.

        Ngày 24 tháng 6 năm 1971, Trung đoàn trưởng Phạm Minh Tâm điện cho tôi: bắt liên lạc và hợp đồng chiến đấu với Tiểu đoàn 3 độc lập của Tỉnh đội Quảng Trị ở khu vực Đồi Tròn. Tiểu đoàn của tôi sẽ tiến công địch từ hướng bắc và Tiểu đoàn 3 (độc lập) sẽ đánh từ hướng tây nam.

        16 giờ cùng ngày, địch cho một đại đội từ Đồi Tròn hành quân lên mỏm đồi phía đông bắc. Một đại đội khác từ Đầu Mầu lên phía nam Đồi Tròn và dừng lại làm công sự.

        Tôi trao đổi trong ban chỉ huy dùng Đại đội 2 đánh Đồi Tròn từ hướng bắc. Đại đội 3 cùng với hỏa lực của Đại đội 4 tập kích diệt đại đội địch ở phía nam Đồi Tròn... Tiểu đoàn 3 (độc lập) sử dụng Đại đội 11 và một trung đội của Đại đội 9 tiến công địch từ phía đông bắc Đồi. Tròn. Kế hoạch chiến đấu được ban chỉ huy tiểu đoàn nhất trí và tôi làm công tác hợp đồng với Tiểu đoàn 3 (độc lập).

        Đúng 17 giờ, ngày 25 tháng 6, tôi ra lệnh tiến công quân địch ở phía nam Đồi Tròn. Cối 82 ly, cối 60 ly, súng 12 ly 7 được lệnh bắn mạnh vào đội hình địch.

        Sau đòn hỏa lực, Đại đội 3 xung phong đánh chiếm các công sự, hầm hào của chúng. Cuộc chiến đấu diễn ra 30 phút, Đại đội 3 hoàn toàn làm chủ trận địa, loại khỏi vòng chiến đấu gần một trăm tên địch, bắt sáu tù binh, thu 19 súng, ba máy thông tin 2W PRC25.

        Trong trận này, Đại đội 3 có hai chiến sĩ hy sinh đó là: Trần Quốc Trị, quê Bình Lý, Thạch Bình, Thạch Hà, Hà Tĩnh và Nguyễn Đức Khanh, quê An Lại, An Dương, Thanh Hà, Hải Dương. Các anh được an táng ở nghĩa trang Bản Hiệu.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #65 vào lúc: 31 Tháng Giêng, 2017, 04:46:11 pm »


        Để tiếp tục đánh địch ở khu -vực phía nam căn cứ Phu-lơ, chỉ huy Trung đoàn 27 đề nghị Bộ Tư lệnh Mặt trận B5 cho Tiểu đoàn 1 vào chiến đấu.

        Tiểu đoàn 1, sau một thời gian tham gia vận chuyển gạo, đạn, thuốc men phục vụ cho các hướng của chiến dịch, nhận được lệnh chiến đấu đã tổ chức hành quân vào chiếm lĩnh khu vực phía nam căn cứ Phu-lơ.

        Có thể nói, ngay từ những ngày đầu chiến dịch A2, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 1 tuy không trực tiếp đánh địch, nhưng anh em đều có mặt trên khắp các hướng chiến đấu của trung đoàn. Từ kho R (phía bắc sông Bến Hải) đến điểm cao 402, 425, đồi Không Tên, suối La La... không một lúc nào vắng bóng cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 1. Nhận hàng xong là cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 1 hành quân, hành quân suốt ngày đêm để đến kịp các trận địa đang nổ súng đánh địch. Rồi các anh lại vận chuyển thương binh ra phía sau. Cùng với các đơn vị bạn, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 1 đã tham gia vận chuyển vào chiến trường 350 tấn gạo, đạn, hàng hóa phục vụ cho chiến dịch của trung đoàn. Chỉ bằng đôi vai của người chiến sĩ, con số đó thật vô cùng có ý nghĩa.

        Chiến công của Trung đoàn 27 vừa giành được ở khu vực căn cứ Phu-lơ, có sự đóng góp lớn của cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 1 trong nhiệm vụ thầm lặng nhưng không kém.phần vất vả, ác liệt gian nan.

        Sau khi mất căn cứ Phu-lơ (điểm cao 544), Mỹ - nguy điên cuồng cho máy bay đánh phá trên các trục đường từ điểm cao 300 (Đồi Đất) và điểm cao 300 (Đồi Đá) (ta thường gọi là 300 Đất, 300 Đá) vào căn cứ Phu-lơ. Các loại mìn vướng nổ, mìn lá chúng rải dày đặc trên các lối mòn để ngăn chặn lực lượng ta.

        Nhờ quen thuộc địa hình và có kinh nghiệm hành quân trong thời gian vận chuyển nên Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 27 đã có mặt ở Đồi Tròn đúng thời gian quy định.

        18 giờ ngày 25 tháng 6 năm 1971, địch dùng máy bay, pháo binh đánh phá liên tục vào cứ điểm và cho trực thăng đổ quân xuống Đồi Tròn, Đồi Xanh và Đồi Kho.

        Sáng ngày 27 tháng 6, Tiểu đoàn 2 do Tiểu đoàn trưởng Phạm Văn Đông cùng cán bộ đại đội tổ chức đi bám địch đồng thời đưa đội hình chiến đấu của Đại đội 1 và Đại đội 2 vào vị trí tập kết. Đại đội 4 hỏa lực bố trí ở phía tây bắc cách những ngọn đồi trên khoảng một ki-lô-mét.

        13 giờ ngày 27, các mũi chiến đấu của Đại đội 1, do Đại đội trưởng Nguyễn Văn Đài và Chính trị viên Nguyễn Đình Thi chỉ huy đã đưa đội hình vào vị trí xuất phát tiến công. Đại đội 2 do Đại đội trưởng Phạm Minh Chính và Chính trị viên Nguyễn Văn Huân chỉ huy đưa đơn vị luồn sâu xuống phía nam, chia làm hai mũi đánh lên Đồi Tròn từ hướng Đầu Mầu.

        15 giờ các hướng báo cáo đã vào vị trí. 30 phút sau, Tiểu đoàn trưởng Phạm Văn Đông ra lệnh cho cối 82 ly và 60 ly bắn cấp tập vào Đồi Tròn, Đồi Xanh và Đồi Kho.

        Sau 30 phút bắn phá, hỏa lực chuyển làn, ba phát pháo hiệu từ sở chỉ huy tiểu đoàn bay lên làm hiệu lệnh hợp đồng tiến công.

        Đại đội 1 nhanh chóng xuất kích. Mũi đánh Đồi Xanh của Trung đội 1 do Bằng Ngọc Tánh chỉ huy đã chiếm được địa hình có lợi, nổ súng giòn giã, buộc địch phải dạt xuống phía nam để lại trên đỉnh đồi 20 xác chết. Tiểu đội trưởng Hoàng Ký Nhật chỉ huy tiểu đội chiếm xong đỉnh đồi, tổ chức lùng sục, bắt được một tù binh lẩn trốn. Mũi đánh vào Đồi Kho của Trung đội 3 do Nguyễn Văn Giá chỉ huy, cũng nhanh chóng đánh và làm chủ khu vực được giao.  Lính ngụy sống sót từ Đồi Xanh và Đồi Kho chạy cụm về Đồi Tròn. Trung đội của Đoàn Khương đã hai lần tổ chức đánh lên, nhưng vẫn chưa chiếm được. Địch đông, chúng phát hiện ra hướng tiến công của ta nên tập trung lực lượng chống trả quyết liệt. ở phía nam Đồi Tròn, Đại đội 2 cũng gặp khó khăn bởi sườn đồi dốc, địa hình trống trải, đội hình chiến đấu của Đại đội 2 bị lộ ngay từ vị trí xuất kích đầu tiên.

        Trên hướng Đại đội 1, đến lần thứ tư anh em mới bám được Đồi Tròn. Một khẩu đại liên địch từ phía bên phải bắn chéo cánh sẻ vào đội hình chiến đấu của ta. Đạn đại liên của địch quét cầy đất đá, lá cây bay lên tung toé.

        Các mũi được lệnh tạm dừng tiến công, xốc lại  lực lượng ngay tại chỗ. Tiếng súng trên trận địa im lặng. Trong lúc đó, quân ta ở Đồi Kho và Đồi Xanh được lệnh tiến sang Đồi Tròn.

        Lính ngụy trên Đồi Tròn hốt hoảng với hướng tiến công mới, chúng giẫm đạp lên nhau chạy về phía nam nhưng bị Đại đội 2 chặn đánh. Trước tình thế đó, bọn địch ở Đồi Tròn liều mạng chống trả. Ta và địch phải giằng co nhau từng gốc cây, từng đoạn hào. Địch cụm lại phía bắc Đồi Tròn mỗi lúc một đông. Quân ta từ ba phía đánh ép vào, làm cho chúng thêm hốt hoảng. Đại đội 1 và Đại đội 2 Tiểu đoàn 1 tranh thủ thời cơ tiến công dồn dập làm chủ Đồi Tròn.

        Trời tối hẳn, các hướng chiến đấu của Tiểu đoàn 1 được lệnh rời khỏi vị trí chiến đấu của mình để ngày mai tiến xuống phía nam chặn đánh quân địch ra ứng cứu.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #66 vào lúc: 31 Tháng Giêng, 2017, 04:47:24 pm »


        Trong những ngày tiếp đó, Trung đoàn 27 lại liên tục quần nhau với lính trung đoàn 2 và trung đoàn 56 quân ngụy Sài Gòn. Đây là những trận đánh cuối cùng của Trung đoàn 27 trong chiến dịch A2 năm 1971.

        Trong chiến dịch này, Trung đoàn 27 đã mở rộng được địa bàn ở khu vực miền Tây Quảng Trị, các căn cứ quan trọng của địch nằm ở phía bắc Đường 9 đều bị ta tiến công. Qua nhiệm vụ Trung đoàn 27 vây ép tiến tới dứt điểm căn cứ Phu-lơ đã mở ra một khả năng mới trong chiến đấu hiệp đồng tiêu diệt những căn cứ lớn của địch.

        Tướng Lê Trọng Tấn - Tư lệnh Mặt trận B5 kết luận: "Với trình độ bộ đội, khả năng hỏa lực của ta hiện nay, nếu có sự chuẩn bị tốt, chỉ huy kiên quyết có tổ chức chặt chẽ, chúng ta có thể tiêu diệt được quân địch phòng thủ trong vị trí có công sự vững chắc, trong hệ thống phòng ngự có hỏa lực chi viện bằng lối đánh vây lấn, tiến tới dứt điểm trong thời gian hai, ba ngày... ".

        Lá cờ giải phóng được chiến sĩ Trung đoàn 27 cắm trên căn cứ Phu-lơ trong những ngày này, càng thêm khích lệ mạnh mẽ các đơn vị trong toàn Mặt trận lập công. Bà con cô bác Quảng Trị nhìn lá cờ cách mạng ngày đêm tung bay trên căn cứ chiếm được của địch càng thêm phấn khởi, tin tưởng tự hào.

        Phong trào cách mạng ở Quảng Trị phát triển cao sau khi được Trung ương ra quyết định thành lập lại Tỉnh ủy Quảng Trị (tháng 6 năm 1971). Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 16 ủy viên, do đồng chí Hồ Sỹ Thành (Hồ Sỹ Thản) làm Bí thư. Trong số hai ủy viên dự khuyết có anh Nguyễn Minh Kỳ - Trưởng ban an ninh huyện Cam Lộ. Ngày 6 tháng 7 năm 1971, Tỉnh ủy Quảng Trị họp kiểm điểm tình hình và đề ra nhiệm vụ hoạt động của 6 tháng cuối năm. Hội nghị đề ra nhiệm vụ: Phải tích cực làm thay đổi tương quan lực lượng ở đồng bằng, nhất là thôn, xã, tạo cho được địa bàn ở nông thôn, củng cố hậu phương tỉnh huyện, tổ chức chiến trường miền núi, tích cực sản xuất tự túc lương thực, chuẩn bị khả năng ba vùng cho Xuân - Hè năm 1972.

        Thực hiện Nghị quyết của Tỉnh ủy, trong những tháng cuối năm 1971, K8 (bộ đội địa phương tỉnh), tiến về nam huyện Hải Lăng, phối hợp với du kích hai xã Hải Tân và Hải Hòa đánh địch, bám trụ đồng bằng hoạt động. K14 (bộ đội địa phương tỉnh) tiến về phía bắc huyện Hải Lăng, đánh địch ở xã Hải Xuân và Hải Vinh. Du kích xã Hải Phú do chị Văn Thị Xuân là Xã đội phó chỉ huy, đánh hàng chục trận diệt làm bị thương hàng trăm tên địch, phá hủy bốn xe quân sự. Đặc biệt chị đã chỉ huy tổ du kích xông vào tận hang ổ của bọn bình định diệt tên đoàn trưởng bảo an tại xóm Hồ xã Hải Phúc.

        Du kích xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong do chị Lê Thị Tám chỉ huy hoạt động ở một địa bàn nằm sâu trong vùng địch đã kiên trì bám dân, bám đất, xây dựng hàng chục cơ sở. ở nông thôn và năm cơ sở ở thị xã Quảng Trị, có lúc địch đánh phá ác liệt việc liên lạc với cấp trên bị gián đoạn, chị Tám ban ngày phải nằm hầm bí mật, ban đêm lại đến các cơ sở tìm cách bắt liên lạc. Chị Lê Thị Tám đã vận động được một trung đội phòng vệ dân sự nổi dậy phá bốt trở về với nhân dân.

        Ở huyện Gio Linh, bộ đội địa phương huyện cùng du kích các xã tổ chức đánh địch liên tục, đều khắp, diệt nhiều sính lực địch tại khu tập trung Quán Ngang, Dốc Miếu, điểm cao 31... Tôi được biết, lực lượng du kích xã Gio Hải do anh Trương Quang Thọ làm xã đội trưởng đã chiến đấu dũng cảm chỉ huy du kích xã đánh hàng chục trận, diệt và làm bị thương hàng trăm tên, phá hủy nhiều xe quân sự địch. Riêng anh Thọ diệt 65 tên, bắt một trung úy tình báo, bắn cháy 14 xe tăng, xe bọc thép, đánh chìm, đánh hỏng bảy tàu. Tháng 12 năm 1971, Trương Quang Thọ dẫn một tổ du kích, cải trang là lính địch, vào tận nơi ngủ của một nhân viên tình báo ác ôn, có nhiều nợ máu với nhân dân trong xã và giết tên này. Khi trở ra Thọ còn cho anh em tiến công lính canh gác, làm chúng chạy tán loạn. Tên tình báo.ác ôn bị diệt, nhân dân trong xã rất phấn khởi.

        Đi đôi với hoạt động vũ trang, phong trào đấu tranh chính trị, binh vận của quần chúng ở Triệu Phong, Hải Lăng cũng như ở Gio Linh, Cam Lộ có tiến bộ so với trước. Sau chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, việc đòi xác chồng, con, em, đòi trả người thân bị bắt đi lính đã nhanh chóng biến thành phong trào của quần chúng cả ở nông thôn và thành thị, làm cho ngụy quyền, nguy quân thêm rối ren, lúng túng.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #67 vào lúc: 31 Tháng Giêng, 2017, 04:50:57 pm »


        Phong trào sản xuất, đóng góp lương thực được khôi phục và phát triển, nhất là ở miền núi huyện Hướng Hóa. Năm 1971, sản xuất ở đây được phục hồi ngang mức năm 1965. Đời sống của nhân dân các dân tộc được cải. thiện. Không những tự túc được lương thực, nhân dân huyện Hướng Hóa còn huy động được một khối lượng lớn gạo, sắn và các nguồn thực phẩm phục vụ các cơ quan, đơn vị đứng chân trên địa bàn.

        Qua các phong trào chiến đấu, sản xuất lực lượng vũ trang ở huyện Hướng Hóa cũng phát triển mạnh.

        Theo con số tôi nắm được, cả huyện có khoảng gần 1.600 du kích trên tổng số dân 15 nghìn dân.

        Như vậy cứ gần mười người dân thì có một du kích.

        Về trang bị cũng được khá hơn, trước đây, du kích chỉ được trang bị súng AK, CKC thì đến cuối năm 1971, lực lượng du kích được trang bị cả súng trung liên, đại liên, súng máy 12 1y 7 và cối 60 ly.

        Những trận chiến đấu liên tục trong năm 1971 của lực lượng vũ trang tỉnh phối hợp với chủ lực Mặt trận B5 chiến đấu trên chiến trường Quảng Trị là sự phối hợp, hiệp đồng giữa bộ đội địa phương với bộ đội chủ lực, giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, giữa nổi dậy với tiến công; giữa xây dựng với chiến đấu, giữa binh vận với chiến đấu làm cho thế và lực của ta ở đồng bằng Quảng Trị dần dần được khôi phục và phát triển nhanh chóng, đẩy địch vào thế bị động, suy giảm về lực lượng, sa sút về ý chí, làm chuyển biến tương quan lực lượng có lợi cho ta.

        Thắng lợi của quân và dân ta ở chiến trường Quảng Trị trong năm 1971 còn là sự phối hợp chiến đấu giữa Trung đoàn 27 với các đơn vị chủ lực cơ động của Bộ. Đặc biệt là sự phối hợp chiến đấu của trung đoàn với Tiểu đoàn 33 đặc công do anh Hoàng Huy Bông - Tiểu đoàn trưởng và anh Phạm Hồng Thanh1 - Chính trị viên phó tiểu đoàn chỉ huy đã gây cho địch nhiều tổn thất từ Dốc Miếu, Cồn Tiên, La Vang, ái Tử đến Đầu Mầu, Tà Cơn, Khe Sanh...

        Đội 1 đoàn Đặc công 126 Hải quân do anh Mai Năng2 và anh Nguyễn Văn Tình3 chỉ huy đã chiến đấu liên tục từ năm 1968 đến năm 1971 ở một nơi địch đề phòng cẩn thận là cảng Cửa Việt, khiến chúng không tránh khỏi đòn trừng trị của các chiến sĩ đặc công nước tài giỏi của ta.

        Thời gian này, Trung đoàn 27 còn được các đơn vị pháo binh của anh Doãn Tuế - Chủ nhiệm Pháo binh Mặt trận B5 chi viện.

        Thắng lợi của chiến dịch lịch sử Đường 9 - Nam Lào đánh dấu một bước trưởng thành của bộ đội chủ lực ta về trình độ tác chiến tập trung hiệp đồng binh chủng để chuyển mạnh sang thời kỳ tổ chức các chiến dịch có ý nghĩa chiến lược mở ra những khả năng có thể tiêu diệt lớn quân chủ lực địch, giải phóng từng vùng đất đai rộng lớn quan trọng, làm thay đổi cục diện chiến tranh có lợi cho ta, tiến tới kết thúc chiến tranh, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.

----------------------
        1. Anh Phạm Hồng Thanh sau này là Trung tướng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị.

        2. Anh Mai Năng sau này là Thiếu tướng, Tư lệnh Binh chủng Đặc công.

        3. Anh Nguyễn Văn Tình sau này là Trung tướng, Chính ủy Binh chủng Hải quân, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #68 vào lúc: 31 Tháng Giêng, 2017, 04:53:10 pm »


Chương năm

GIẢI PHÓNG QUẢNG TRỊ 1972

        Những thắng lợi của nhân dân ba nước Đông Dương trong hai năm 1970-1971 đã tạo tình thế thuận lợi cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta. Đặc biệt, thắng lợi to lớn trên Mặt trận Đường 9 - Nam Lào mùa Xuân năm 1971 đã làm rung chuyển cả bộ máy chiến tranh của Mỹ ở Sài Gòn, tác động rất mạnh đến ngụy quân, ngụy quyền miền Nam.

        Đối với Mỹ, chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" đã triển khai thực hiện được 3 năm (từ năm 1969 đến năm 1971), tuy gặp thất bại liên tiếp nhưng chúng vẫn chủ quan cho rằng chương trình "bình định nông thôn" đã giành được "thắng lợi quyết định", ta đã bị hãm vào tình thế bị động, nên chúng dự đoán hoạt động của ta trong năm 1972 cũng chỉ tương tự như năm 1971. Mỹ chủ trương cố giữ cục diện chiến trường Đông Dương khỏi xấu hơn nhằm phục vụ yêu cầu chính trị và ý đồ chiến lược của chúng. Đồng thời chúng tiếp tục thực hiện mục tiêu chiến lược đẩy mạnh "Việt Nam hóa chiến tranh" rút dần quân Mỹ còn lại ở miền Nam để tạo điều kiện mặc cả với ta trên thế mạnh trong đàm phán tại Hội nghị Pa-ri nhằm xoa dịu phong trào đấu tranh trong nước Mỹ, trên cơ sở đó tạo điều kiện cho Ních-xơn tái cử tổng thống cuối năm 1972.

        Mục tiêu và ý đồ chiến lược của Mỹ trong "Việt Nam hóa chiến tranh", nhằm chuyển vai trò quân Mỹ sang cho quân ngụy, các cuộc phản kích ra vòng ngoài do quân ngụy Sài Gòn giữ vai trò nòng cốt... đã thất bại nặng nề. Cuộc chiến tranh "bóp nghẹt" của Mỹ đã không cô lập được cách mạng ở miền Nam vì chúng không bịt được đường biên giới Cam-pu-chia, không phá được hành lang vận chuyển chiến lược Bắc - Nam của ta. Mỹ không làm thay đổi được so sánh lực lượng đang ngày càng không có lợi cho chúng.

        Lực lượng chiến lược của chiến tranh "Việt Nam hóa" và các biện pháp chiến lược quân sự của địch trên chiến trường đã tỏ ra bất lực và suy yếu thêm một bước qua những thất bại liên tiếp trên chiến trường ba nước Đông Dương. Quân ngụy chưa làm được việc thay cho quân Mỹ, như Mỹ từng hy vọng.

        Các thủ đoạn tác chiến chiến lược bảo đảm cho chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" do ngụy Sài Gòn, ngụy Cam-pu-chia, ngụy Lào thực thi đều bị thất bại và hạn chế tác dụng trước cách đánh mưu trí, sáng tạo của quân dân ba nước Đông Dương trong các chiến dịch quy mô lớn năm 1971.

        Thất bại chiến lược đó làm cho tình hình chính trị của Mỹ - ngụy càng rối ren. Những mâu thuẫn vốn có trong chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" và "học thuyết Ních-xơn" ở Đông Dương càng mâu thuẫn sâu sắc.

        Sau gần ba năm thực hiện chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh", với những cố gắng rất lớn cả về quân sự và chính trị, Mỹ - ngụy chẳng những không mạnh lên như kế hoạch dự định mà ngược lại chúng càng bị suy yếu cả về lực và thế, bị lún sâu hơn vào thế bị động chiến lược, khó phương tháo gỡ.

        Về phía ta, trên chiến trường miền Nam, tuy kế hoạch "bình định" của địch đã bị chặn lại và đẩy lùi một bước, nhưng ta vẫn chưa tạo được chuyển biến có ý nghĩa chiến lược. Phần lớn các sư đoàn chủ lực vừa từ ngoài biên giới trở về chiến trường miền Nam, trình độ tác chiến tập trung hiệp đồng binh chủng chưa theo kịp yêu cầu phát triển chiến tranh. Bộ đội địa phương, dân quân du kích số lượng còn ít và chất lượng chiến đấu chưa cao. Công tác thiết bị chiến trường, bảo đảm vật chất cho tác chiến lớn còn nhiều trở ngại. Chúng ta cần có sự nỗ lực vượt bậc mới khắc phục được những khó khăn trên để tiến lên giành thắng lợi lớn hơn. Cuộc chạy đua giữa ta và địch trong năm 1972 sẽ là một cuộc đọ sức có ý nghĩa quyết định để đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ đến một bước ngoặt mới. Trên mặt trận đấu tranh quân sự, ta phải có những đòn tiến công mạnh, tiêu diệt lớn để làm chuyển biến cục diện chiến tranh.

        Ngay từ tháng 5 năm 1971, Bộ Chính trị đã họp để đánh giá tình hình, xác định thời cơ chiến lược và đề ra nhiệm vụ cần kíp của quân dân ta: "Kịp thời nắm lấy thời cơ lớn, trên cơ sở phương châm chiến lược đánh lâu dài, đẩy mạnh tiến công quân sự chính trị và ngoại giao, phát triển thế chiến lược tiến công mới trên toàn chiến trường miền Nam và trên cả chiến trường Đông Dương, đánh bại chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của Mỹ, đánh bại một bước quan trọng kế hoạch xâm lược của chúng ở Cam-pu-chia và Lào, giành thắng lợi quyết định trong năm 1972, buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng trên thế thua, đồng thời sẵn sàng chuẩn bị, kiên trì và đẩy mạnh kháng chiến trong trường hợp chiến tranh còn kéo dài".
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #69 vào lúc: 31 Tháng Giêng, 2017, 04:56:37 pm »


        Đầu tháng 6 năm 1971, Hội nghị Quân ủy trung ương nhấn mạnh: Tình hình đang chuyển biến mau lẹ đòi hỏi ta phải có sự cố gắng cao hơn, tranh thủ thời gian, khắc phục nhược điểm khó khăn, xây dựng thế và lực của ta trên chiến trường nhanh hơn nữa, kịp nắm lấy thời cơ, hành động bất ngờ, giành lấy thắng lợi cao nhất, buộc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh, rút lui quân Mỹ, đánh cho ngụy quyền tan rã, sụp đổ một bước nghiêm trọng.

        Trung ương dự kiến ba hướng tiến công chiến lược trong năm 1972: "Hướng chủ yếu số 1 là chiến trường Đông Nam Bộ; hướng chủ yếu số 2 là chiến trường Bắc Tây Nguyên; hướng phối hợp quan trọng là Trị - Thiên. Trị - Thiên tuy là hướng phối hợp quan trọng nhưng lại gần miền Bắc, có điều kiện bảo đảm hậu cần, vì vậy phải gấp rút chuẩn bị để có thể đánh lớn khi cần thiết hoặc có lợi"1.

        Như vậy, phương hướng chung mà Bộ Chính trị  đề ra cho cả năm 1972 là mở nhiều chiến dịch lớn trên toàn chiến trường miền Nam, tạo chuyển biến cơ bản, tiến lên thay đổi hẳn cục diện chiến trường ở miền Nam.

        Trên phương hướng đó, tháng 8 năm 1971, Bộ Chính trị ra Nghị quyết mở cuộc tiến công chiến lược năm 1972 trên các hướng Đông Nam Bộ, Trị Thiên, Tây Nguyên và hình thành một cuộc tổng tiến công toàn Miền để tiêu diệt lớn quân địch và mở rộng vùng giải phóng. Đến lúc này, miền Đông Nam Bộ được Bộ Chính trị xác định là hướng chủ yếu vì đánh trúng vào đây sẽ có tác động rất mạnh tới Sài Gòn.

        Ở miền Nam, Trung ương Cục, Quân ủy Miền vạch kế hoạch quân sự năm 1972 và chỉ đạo công tác chuẩn bị chiến trường, tổ chức lực lượng, dự trữ vật chất. Thường vụ Khu ủy Khu 5, Trị Thiên, Mặt trận Tây Nguyên cũng lần lượt xây dựng kế hoạch tác chiến và chỉ đạo công tác chuẩn bị chiến trường.

        Bộ Tư lệnh 559, xác định nhiệm vụ trọng yếu nhất là bảo đảm thông suốt mọi đường vận chuyển chiến lược chuyển đủ và kịp thời khối lượng vật chất cho các chiến trường trước ngày chiến dịch mở màn.

        Đoàn 559 vừa củng cố, mở rộng tuyến đường Trường Sơn, vừa xây dựng con "đường kín" Tây Trường Sơn để vận tải ban ngày dưới những cánh rừng đại ngàn.

        Các đơn vị pháo binh, xe tăng và binh khí kỹ thuật nặng khác vào mặt trận đã có đường dành riêng. Từ Quân khu 5, Mặt trận Tây Nguyên đến miền Đông Nam Bộ đều dồn nỗ lực tập trung mở đường chiến lược và chiến dịch cho chiến trường mình.

        Trong Hội nghị cuối tháng 2 năm 1972, Quân ủy Trung ương đã xác định nhiệm vụ quan trọng bậc nhất là tập trung chỉ đạo chiến tranh và tăng cường lực lượng mọi mặt cho chiến trường, chủ yếu là chiến trường miền Nam. Ta đánh giá Mỹ khó có khả năng đưa lục quân trở lại tham chiến, nhưng có thể sử dụng không quân, hải quân trong tình huống chiến lược cần thiết. Nắm bắt thời cơ Mỹ - ngụy vừa thua to trên cả chiến trường ba nước Đông Dương, quân chiến đấu Mỹ còn lại ở miền Nam đã kết thúc nhiệm vụ chiến đấu, nước Mỹ đang trong thời điểm vận động tranh cử tổng thống... ta chủ trương đánh bại địch ở miền Nam.

        Ngày 11 tháng 3 năm 1972, Thường vụ Quân ủy Trung ương họp ra nghị quyết chính thức khẳng định phương hướng tiến hành cuộc tiến công chiến lược năm 1972 với sự điều chỉnh như sau: Trị - Thiên, hướng phối hợp quan trọng nay chuyển thành hướng chiến lược chủ yếu: Đông Nam Bộ và Bắc Tây Nguyên, hướng chủ yếu số 1, số 2 nay chuyển thành hướng phối hợp quan trọng, cùng với Khu 5 đẩy mạnh tác chiến quy mô vừa và lớn để thành một cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền Nam.

        Có sự thay đổi như vậy là vì chiến trường Trị - Thiên sát miền Bắc, ta có điều kiện tập trung lực lượng, tập trung chỉ đạo và bảo đảm hậu cần cho một chiến dịch quy mô lớn, dài ngày. Thứ hai, cho đến lúc này, Bộ chỉ huy quân sự Mỹ - ngụy vẫn cho rằng hướng tiến công chiến lược chính của ta vẫn là chiến trường Tây Nguyên, nên đã điều phần lớn sư đoàn dù (lực lượng tổng dự bị chiến lược) và các lực lượng dự bị của quân khu 2 lên hướng này.  Trung tuần tháng 3 năm 1972, các đơn vị tham gia các chiến dịch tiến công trên ba hướng Trị - Thiên, Bắc Tây Nguyên, Đông Nam Bộ đã vào vị trí tập kết. Ngày 23 tháng 3 năm 1972, Bộ Chính trị thông qua lần cuối và phê chuẩn kế hoạch tiến công chiến lược năm 1972.

        Trên hướng tiến công chiến lược chủ yếu Trị - Thiên, Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Bộ Tư lệnh và Đảng ủy chiến dịch: Tướng Lê Trọng Tấn - Phó Tổng tham mưu trưởng làm Tư lệnh, Tướng Lê Quang Đạo - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Chính ủy kiêm Bí thư Đảng ủy. Các đồng chí Cao Văn Khánh, Giáp Văn Cương, Doãn Tuế, Hồng Sơn, Lương Nhân, Anh Đệ làm Phó Tư lệnh. Các đồng chí Hoàng Minh Thi, Lê Tự Đồng - Phó Chính ủy. Đồng chí Hồ Sỹ Thản - Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị tham gia Đảng ủy - Bộ Tư lệnh chiến dịch.

---------------------
        1. Nghị quyết Quân ủy Trung ương tháng 6 năm 1971 - số 263 lưu trữ tại Viện lịch sử quân sự Việt Nam.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM