Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 12:53:20 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Một thời Quảng trị  (Đọc 35702 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #40 vào lúc: 26 Tháng Giêng, 2017, 05:38:15 pm »


        Sau chiến thắng của Đại đội 1, Tiểu đoàn 1 ở khu vực Khe Nước, các đơn vị trong Trung đoàn 27 tiếp tục tổ chức nhiều trận đánh để bảo vệ địa bàn. Các đơn vị đều chủ động tiến công tiêu diệt địch, vận dụng nhiều cách đánh sáng tạo với mọi đối tượng địch trên chiến trường. Trong quá trình chiến đấu liên tục, cán bộ, chiến sĩ ta gặp nhiều khó khăn về công tác bảo đảm hậu cần nên bộ đội thiếu đói, bệnh tật phát triển, tỷ lệ bị bệnh ngoài da tăng nhanh. Tuy vậy, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 27 vẫn tìm mọi biện pháp để khắc phục, vượt qua.

        Về phía địch, ở khu vực tác chiến của Trung đoàn 27 chúng vẫn tập trung một lực lượng lớn nống lấn thường xuyên. âm mưu của chúng là cố chiếm giữ một số khu vực quan trọng, nhằm ngăn chặn ta tiến công trong mùa khô tới. Nhiều nơi lính Mỹ và lính sư đoàn 3 ngụy cùng phối hợp mở rộng hành quân giải tỏa.

        Trong giai đoạn này, Tiểu đoàn 1 và Tiểu đoàn 2 vẫn thường xuyên có mặt ở chiến trường. Tiểu đoàn 3 làm dự bị cho trung đoàn. Tiểu đoàn 2 đánh địch tây nam căn cứ Cồn Tiên. Tiểu đoàn 1 của tôi tiếp tục luồn sâu vào đánh địch ở khu vực núi Hồ Khê và núi Đá Bạc, ngăn chặn không cho chúng đánh chiếm khu vực Cù Đinh, cao điểm 333 là đường hành lang của quân ta đi về trong mỗi mùa chiến dịch. Đây là một địa bàn trọng yếu của chiến trường Quảng Trị suốt trong những năm đánh Mỹ, đồng thời cũng là mảnh đất gắn bó với cuộc đời chiến đấu liên tục của cán bộ, chiến sĩ Trung.đoàn 27.

        Sáng ngày 23 tháng 10 năm 1969, tôi và Đại đội phó Nguyễn Minh Châu, Trung đội trưởng Nguyễn Văn Bót và tổ trinh sát của tiểu đoàn tăng cường đi bám địch ở nam cao điểm 161. Đến trưa chúng tôi phát hiện được một đại đội thuộc trung đoàn 56, sư đoàn 3 quân ngụy đang dừng ăn trưa. Tôi nói với Đại đội phó Châu và Trung đội trưởng Bót: Đại đội địch này vừa dừng ăn trưa, xem ra chúng rất chủ quan. Ta đánh sẽ ngon đây. Bây giờ anh Châu và anh Bót khẩn trương về cho bộ đội xuất kích. Tôi và trinh sát tiếp tục nắm địch.

        Anh Châu phân vân: - Từ đây về đại đội đi nhanh phải 30 phút, tổ chức bộ đội hành quân cũng mất gần một tiếng nữa.

        Khi đưa bộ đội ra liệu quân địch có còn không hay đã di chuyển? Tôi phân tích thêm: Anh cứ về tổ chức cho bộ đội cùng chính trị viên động viên bộ đội khẩn trương. Tôi tin rằng ăn xong chúng còn nghỉ. Hơn nữa lính ngụy cũng ngán lùng sục, cấp trên thúc ép chúng phải đi thôi.

        Đại đội phó Châu và Trung đội trưởng Bót quay về đơn đơn vị. Tôi và tổ trinh sát không rời đại đội ngụy. Đúng như tôi dự đoán, lính ngụy ăn xong đứa lấy thuốc hút, đứa bắt đầu lăn ra ngủ. Tôi nóng lòng chờ đơn vị. Chốc chốc lại xem đồng hồ.

        Sau 1 giờ 40 phút, Đại đội phó Châu dẫn đầu đội hình đến. Chính trị viên cũng vượt lên. Tôi trao đổi ngăn: Anh Bót cho trung đội vòng lên chặn đầu, còn tất cả triển khai tấn công. Cối 60 ly giá súng lấy phần tử đợi lệnh. Tất cả khẩn trương! Hai mươi phút trôi qua, đoán chừng trung đội của Bót đã đến khu vực chặn đầu địch. Tôi lệnh cho xạ thủ B40 Nguyễn Văn Nhung bắn vào cụm quân địch làm hiệu lệnh hiệp đồng. Sau quả đạn B40 của Nhung, cối 60 ly bắt đầu bắn. Quả đạn đầu hơi xa, anh em pháo thủ lấy lại tầm, hướng. Khi quả trận thứ hai rơi trúng đội hình địch, tôi ra lệnh cấp tập 10 quả đạn cối. Bộ binh xung phong. Đại đội phó Châu xông xáo dẫn một tiểu đội đánh tạt sườn địch.

        Anh diệt được hai tên. Mải tiến công anh không chú ý, khẩu trung liên của địch bắn một loạt dài. Anh Châu trúng đạn hy sinh. Tôi nâng khẩu AK nhằm tên địch vừa bắn anh, siết cò, kết liễu đời nó. Quân địch bị đánh chặn đầu từ phía bắc lại bị chúng tôi đánh chính diện phía đông nam nên buộc phải chạy tán loạn về phía tây. Trận đánh kéo dài 30 phút, tôi cho lệnh rút quân để tránh pháo địch. Đại đội 2 chúng tôi diệt hơn 30 tên tại trận.

        Về phía Đại đội 2 cũng bị tổn thất, năm người hy sinh. Đó là: Đại đội phó Nguyễn Minh Châu, quê Quy Xá, Thiệu Vận, Thiệu Hóa, Thanh Hóa; Trung đội trưởng Nguyễn Văn Bót, quê Thôn Đoài, Mê Linh, Tiền Hải, Thái Bình; ' chiến sĩ Hà Văn Liêng, quê Tân Hòa, Nghĩa Long, Nghĩa Đàn, Nghệ An; chiến sĩ Nguyễn Văn Nhung, quê Ba Đình, Nam Long, Nam Đàn, Nghệ An và Tiểu đội trưởng Nguyễn Đình Ngư, quê Lại Xá, Thanh Tuyền, Thanh Liêm, Hà Nam.

        Năm cán bộ, chiến sĩ của Đại đội 2 được đơn vị đưa về an táng tại Nghĩa trang Liệt sĩ xã Vĩnh Trường, Vĩnh Linh - phía bắc sông Bến Hải.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #41 vào lúc: 26 Tháng Giêng, 2017, 05:40:26 pm »


        Những ngày cuối năm, không riêng gì các đơn vị bộ binh, mà các đơn vị công binh, trinh sát, pháo binh cũng thường xuyên tham gia đánh địch liên tục trên vùng đất này. Ngoài nhiệm vụ chủ yếu phục vụ cho đơn vị bộ binh đánh thắng, các đơn vị còn chủ động tiến công tiêu diệt địch. Trong đó có Đại đội 17 phối thuộc với đại đội tôi vào hoạt động ở khu vực Tân Kim, Sáp Đá Mài. Anh em Đại đội 17 lúc nào cũng. đi bám địch để đặt đài quan sát hiệu chỉnh pháo. Anh em bảo: "Đặt trận địa càng gần, hiệu suất chiến đấu càng cao".

        Tôi được biết, sáng sớm ngày 10 tháng 11 năm 1969, Đại đội 17 hành quân vượt bãi Tân Kim, khi nghe pháo địch từ Cam Lộ bắn ra, chỉ huy đơn vị đã nảy ra ý định: Đem pháo vào gần đánh những trận địa pháo và đánh các cụm lính bộ binh địch. ý kiến đó được mang ra trao đổi dân chủ trong đại đội. Có người nói: "Bộ binh luồn vào được đã khó, huống hồ lính cối, mang vác nặng nề cồng kềnh, địch ở đó đông như kiến, không cẩn thận thì bỏ pháo chạy lấy người". Nhưng có người lại cho rằng: "Địch nhiều dễ đánh, miễn là bám thật chắc để không đánh vào dân và đánh hụt". Bàn đi tính lại mãi, cuối cùng tất cả đơn vị đi đến thống nhất: phải khắc phục khó khăn, đánh một trận thật tốt để người dân Cam Lộ nghe tiếng pháo của Quân giải phóng thêm vui mừng, tin tưởng.

        Bộ phận trinh sát đi đặt đài và bám địch. ở quận lỵ Cam Lộ có đủ sắc lính Mỹ và ngụy. Tuy chưa bám được địch, nhưng các chiến sĩ Đại đội 17 vẫn tranh thủ chuyển súng cối 82 ly vào cài thế để khi có thời cơ là đánh được ngay. Phương án chuyển pháo và bảo vệ pháo cũng khó khăn không kém gì phương án đánh địch.

        Tổ trinh sát của đại đội tiếp cận gần đến làng Quất Xá thì trời đã về chiều. Anh em bàn nhau, tranh thủ lúc trời còn sáng bám địch. Vừa lúc đó anh em phát hiện lính Mỹ kéo vào làng Quất Xá mỗi lúc một đông. Anh em chưa biết địch ở lại hay đi. Bỗng ở làng Quất Xá xuất hiện nhiều đám khói.

        Chúng đang đun nấu ở đó. Thế là mọi người yên tâm địch đã nghỉ lại. Chỉ huy đại đội hội ý chớp nhoáng và nhanh chóng cho các khẩu đội tranh thủ trời sáng chỉnh tầm, chỉnh hướng. Pháo thủ chuẩn bị đạn sẵn sàng. Một khẩu đội lấy thêm phần tử mục tiêu là trận địa pháo cối của địch ở phía nam quận lỵ Cam Lộ, để bắn kiềm chế pháo địch lúc ta nổ súng.

        Theo thông lệ, vào chập tối và sáng sớm, pháo địch bắn ra hướng Tân Kim vài loạt, còn suốt đêm chúng chỉ cho pháo bắn cầm canh. Hôm đó Đại đội trưởng Đại đội 17 Trần Đức Hệ, quê Nhân Thịnh, Lý Nhân, Hà Nam và Chính trị viên Huỳnh Ngọc Đào quê phường Phủ Hà, thành phố Phan Rang - Tháp Chằm, Ninh Thuận trao đổi và quyết định sẽ nổ súng vào lúc pháo địch bắn ra ngay từ loạt đạn đầu tiên. Pháo địch vừa bắn, lập tức đại đội trưởng cũng lệnh: Bắn! Các khẩu đội trưởng Lê Xuân Cam, quê Quỳnh ĐÔ Vĩnh Quỳnh, Thanh Trì, Hà Nội; Lê Văn Võ, quê Võng Ngoại, Võng Xuyên, Phúc Thọ, Hà Tây; Nguyễn Văn Sử, quê thôn Nam, Phụng Thượng, Phúc Thọ, Hà Tây lập tức cho thả đạn. Nòng cối 82 ly được chiến sĩ ta lấy dây cao su quấn lại nên tiếng nổ đầu nòng nghe rất nhỏ. Sau loạt đạn đầu tiên, đạn cối của ta rơi trúng vị trí địch đang cụm lại.

        Lính Mỹ la ó giẫm đạp lên nhau.

        Đại đội trưởng Hệ hô: Cấp tập! Đạn cối 82 ly nối đuôi nhau vun vút lao đi.

        Đài quan sát báo về: Đạn rơi trúng mục tiêu! Lệnh: Bắn bao bọc thêm. Sau mấy chục giây hiệu chỉnh, các khẩu cối của ta lại nhả đạn vào cụm lính Mỹ.

        Chớp lửa loé lên từ vị trí địch mỗi lúc một dày thêm... Bà con xung quanh quận ly Cam Lộ chạy ra xem pháo của Quân giải phóng bắn vào lính Mỹ.

        Trận tập kích hỏa lực bất ngờ làm cho địch ở quận lỵ Cam Lộ không kịp trở tay. Hai đại đội lính Mỹ vừa hành quân ra bổ sung cho các đơn vị lính Mỹ đang chốt giữ trong hàng rào điện tử Mác Na- ma-ra đã bị loại khỏi vòng chiến đấu 120 tên.

        Một số xe tăng, xe bọc thép địch nằm ở làng Tân Mỹ (nam Quất Xá) nổ máy tháo chạy, chúng sợ quân ta tiếp tục tiến công.

        Pháo địch ở Cam Lộ, Tân Định bắt đầu bắn về hướng trận địa Đại đội 17, nhưng đều bắn vọt tầm.

        Các chiến sĩ pháo binh Đại đội 17 vẫn bình tĩnh bắn quét để diệt thêm bọn địch còn sống sót.

        Trận đánh kết thúc, Đại đội 17 lặng lẽ tháo pháo rồi bám theo bờ sông Cam Lộ trở về cao điểm 85, tiếp tục phối hợp với Tiểu đoàn 1 của tôi chiến đấu ở khu vực núi Hồ Khê và núi Đá Bạc.

        Nhân dân quận ly Cam Lộ tận mắt chứng kiến trận tập kích hỏa lực của Đại đội 17 đã hết lòng ca ngợi tài đánh giỏi, bắn trúng của cán bộ, chiến sĩ pháo binh ta.
« Sửa lần cuối: 27 Tháng Giêng, 2017, 12:35:54 am gửi bởi Giangtvx » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #42 vào lúc: 27 Tháng Giêng, 2017, 12:38:10 am »


        Những ngày cuối tháng 11 năm 1969, mùa mưa ở Quảng Trị vẫn còn tiếp diễn. Những cơn mưa dồn dập đổ xuống, sông suối ở Cồn Tiên, cao điểm 544 nước tràn lênh láng làm tắc nghẽn đường sá đi lại ở vùng này. Bộ đội cơ động trong mùa mưa lũ vô cùng vất vả nhất là các đơn vị luồn sâu. Các kho hậu cần trong mùa mưa cũng gặp rất nhiều khó khăn. Bom đạn địch đánh phá suốt ngày đêm, nhất là các trục đường đi lại của ta và các vùng mà chúng nghi là ta sẽ đặt kho hàng, bến bãi.

        Cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 27 luồn sâu đánh địch phải tự bảo đảm về hậu cần trong suốt đợt chiến đấu của mình. Mùa khô, những nắm cơm vắt buổi sáng còn mềm dẻo, đến trưa lớp ngoài đã khô như rang. Mặc dù lực lượng ở phía sau đã cố gắng khắc phục mọi khó khăn đẩy hàng lên cho các đơn vị phía trước, nhưng không làm sao đáp ứng được.

        Nhiều lần đại đội chúng tôi luồn sâu, thiếu gạo phải ăn rau tàu bay, môn thục, rau dớn, cây chuối rừng... thay cơm hàng tuần liền. Cái đói đã đe dọa  đến tính mạng người chiến sĩ. Thêm vào đó là mùa mưa, hầm hào trú quân thường xuyên bị sụt lở.

        Anh em phải thay nhau thức trắng đêm tát nước, quần áo lúc nào cũng sũng nước. Chiến đấu trong mùa mưa, sức khỏe bộ đội giảm sút rất nhanh, nhưng anh em chúng tôi vẫn động viên nhau cố gắng, âm thầm chịu đựng, bám lấy chiến trường để đánh địch, giữ cho chiến trường luôn có tiếng súng.

        Ngày 13 tháng 11 năm 1969, Đại đội 3 Tiểu đoàn 1 trên đường thọc sâu vào phía nam, khi đến gần cao điểm 84 thì bất ngờ gặp địch. Bộ binh cơ giới Mỹ cũng vừa nống ra để chốt chặn cao điểm này. Đại đội triển khai chiến đấu. Sau 15 phút nổ súng, Đại đội 3 đã bắn cháy 13 chiếc xe tăng và xe bọc thép, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 80 tên Mỹ.

        Trận đánh diễn ra nhanh làm cho lính Mỹ khiếp đảm. Nghe tiếng súng nổ rền ở chân cao điểm 84, lính Mỹ phía sau thấy khói xe tăng bốc cháy, hốt hoảng tháo lui, không dám lên chi viện cho bọn bị đánh ở phía trước.

        Đánh xong đợt thứ nhất, Đại đội 3 tranh thủ tổ chức trận địa trụ lại để diệt thêm lính Mỹ nếu chúng tiếp tục ra phản kích. Các trận đánh ở đây là thế. Đánh xong trụ lại đánh tiếp, đánh để giữ vững địa bàn. Thế là, từ những trận đánh đầu tiên với bộ binh cơ giới Mỹ, các chiến sĩ Trung đoàn 27 đã tìm ra cách đánh thông minh khi tác chiến với loại lính này.

        Có một chuyện đánh máy bay trực thăng Mỹ rất lạ đó là cách đánh sáng tạo của cán bộ, chiến sĩ công binh Trung đoàn 27. Bị ta bắn rơi nhiều máy bay nên trực thăng Mỹ bay rất thấp theo khe núi.

        Theo dõi quy luật hoạt động của chúng, anh Trần Hữu Mỹ, Chủ nhiệm công binh trung đoàn, quê ở 8614 phường Trung Sơn, thị xã Tam Điệp, Thanh Hóa đã chỉ đạo cho đại đội công binh dùng mìn ĐH10 đặt ở khe núi hướng lên trời (theo tính toán đường bay trực thăng Mỹ) rồi mai phục. Đầu năm 1970, hai trực thăng nối đuôi nhau bay về điểm cao 544. Đợi chúng bay vào cự ly hiệu quả nhất, anh em chập điện. Mìn nổ. Các mảnh của mấy quả mìn và luồng hơi mạnh làm nổ tung một chiếc trực thăng.

        Từ đó chúng không dám bay theo khe núi nữa.

        Năm 1970 là năm thứ hai đế quốc Mỹ thực hiện âm mưu chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh".

        Trên chiến trường Bắc Quảng Trị - trong hàng rào điện tử Mác Na-ma-ra, chúng tập trung củng cố từ Động Toàn, cao điểm 544 (Phu-lơ) đến Cồn Tiên nối liền với khu phía đông. Chúng đẩy quân ngụy ra phía trước, quân Mỹ đóng trong một số cứ điểm, chủ yếu dùng bộ binh cơ giới chi viện cho lính ngụy khi cần thiết.  Trước tình hình quân địch phải co lại để củng cố Bộ tư lệnh Mặt trận B5 chủ trương một mặt tiếp tục đánh nhỏ lẻ để giữ địa bàn, mặt khác chuẩn bị lực lượng đánh tập trung, đánh điểm, phá tan những âm mưu mới của chúng.

        Khu vực hoạt động của Trung đoàn 27 những tháng đầu năm 1970 là từ cao điểm 182 xuống cao điểm 322, từ cao điểm 288 lên cao điểm 544, những địa danh không xa lạ gì đối với cán bộ, chiến sĩ trung đoàn.

        So với các đợt hoạt động trước, lần này Trung đoàn 27 vào hoạt động sâu hơn, sử dụng lực lượng nhiều hơn. Càng thọc sâu, trung đoàn càng gặp nhiều khó khăn, từ công tác bảo đảm đến tổ chức hành quân, trú quân, đòi hỏi mọi cán bộ, chiến sĩ phải nỗ lực vượt bậc mới giành được thắng lợi.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #43 vào lúc: 27 Tháng Giêng, 2017, 12:43:12 am »


        Cứ vào dịp Tết âm lịch, lợi dụng ngừng bắn, chúng tôi. lại tổ chức đi trinh sát chuẩn bị chiến trường. Tết năm 1969 sang năm 1970, đại đội tôi hành quân cả ngày và đêm vào chuẩn bị cho chiến dịch. Để động viên anh em, tôi làm bài thơ "tết xa quê mẹ":

Tết này con bận việc quân
Đường xuân quê mẹ vắng chân con về
Bước đường trăm núi ngàn khe
Vẫn nghe quấn quýt, xuân quê bên mình
Ngụy trang gió cuốn rung rình
Ngỡ đâu cánh bướm nặng tình quê hương".

        Cả đại đội ngâm thơ vui như Tết...

        Trong những ngày này, địch bắt đầu tổ chức hành quân phối hợp giữa lính trung đoàn 2 và lữ đoàn 1, sư đoàn 5 bộ binh cơ giới Mỹ để ngăn chặn ta tiến công. Trên một hướng chiến đấu của trung đoàn, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 1 đã phát hiện địch đang hành quân giải tỏa khu vực cao điểm 182.

        Thật đau thương? Ban chỉ huy Tiểu đoàn 1 không may bị pháo địch bắn trúng, thương vong cả. Lúc này tôi là Đại đội trưởng Đại đội 2 chủ công của tiểu đoàn nên nắm được kế hoạch tác chiến. Tôi suy nghĩ, bây giờ mà nói ban chỉ huy tiểu đoàn thương vong sẽ gây tâm lý hoang mang cho cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị. Bởi vậy, tôi cầm máy điện thoại nói các đại đội vẫn thực hiện kế hoạch tác chiến. Được pháo binh chi viện, Tiểu đoàn 1 đã kịp thời nổ súng chặn đánh địch quyết liệt từ ngày 1 tháng 4 đến ngày 4 tháng 4 năm 1970.

        Bằng những trận vận động tiến công kết hợp chốt, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 1 đã bẻ gẫy nhiều đợt phản kích điên cuồng của lính Mỹ và lính ngụy.

        Xác xe và xác lính địch nằm ngổn ngang quanh khu vực cao điểm 182. Trận đánh kết thúc thắng lợi.

        Trong anh em có người nói lúc đó tôi làm liên lạc là không đúng.

        Giữ được cao điểm 182, ta nối liền được địa bàn hoạt động, bảo vệ vững chắc tuyến đường hành quân luồn sâu của trung đoàn sau này. Trong lúc Tiểu đoàn 1 hoạt động ở khu vực cao điểm 182 thì tiểu đoàn tôi được lệnh luồn sâu vào khu vực từ cao điểm 322 đến cao điểm 288. Do tổ chức hành quân không tốt, tiểu đoàn bị địch phát hiện, chúng dùng hỏa lực phi pháo đánh vào đội hình gây tổn thất lớn cho đơn vị. Đại đội 3 Tiểu đoàn 1 có 24 đồng chí hy sinh Đó là các đồng chí: Chính trị viên Hoàng Tê, quê Nai Đồng, Tam Kỳ, Kim Thành, Hải Dương; Trung đội phó Hoàng Kim Thành, quê Phúc Trung, Cẩm Phúc, Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh; Trung đội phó Nguyễn Minh Hải, quê Kim Thành, Thạch Kim, Thạch Hà, Hà Tĩnh; Tiểu đội trưởng Phạm Văn Sử, quê Đại Thắng, Hợp Thắng, Triệu Sơn, Thanh Hóa; Tiểu đội trưởng Trần Khánh Thức, quê Trung Hòa, Thạch Tân, Thạch Hà, Hà Tĩnh; Tiểu đội trưởng Nguyễn Văn Hưởng, quê Ngọn Đồng, Hưng Khánh, Trấn Yên, Yên Bái; Tiểu đội trưởng Nguyễn Quốc Diễn, quê Sông Linh, Hương Hà, Hương Khê, Hà Tĩnh. Tiểu đội trưởng Phạm Xuân Vinh, quê Miếu Lương, Sài Sơn, Quốc Oai, Hà Tây; Tiểu đội phó Nguyễn Viết Ngọ, quê Hợp Một, Nghi Liên, Nghi Lộc, Nghệ An; Tiểu đội phó Lê Trung Hộ, quê Xuân Sơn, Diễn Lợi, Diễn Châu, Nghệ An; y tá Phạm Hồng Quảng, quê Công á, Bảo Nguyên, Lâm Thao, Phú Thọ. Và các chiến sĩ: Hoàng Văn Ngân, quê Long Sơn, Thanh Long, Thanh Chương, Nghệ An; Nguyễn Văn Kiên, quê Mỹ Hòa, Nghi Mỹ, Nghi Lộc, Nghệ An; Trần Thanh Bình, quê Minh Thành, Quỳnh Long, Quỳnh Lưu, Nghệ An; Trần Xuân Mỹ, quê Dương Phong, Nam Phong, Nam Đàn, Nghệ An; Trần Xuân Như, quê Liên An, Can Lộc, Hà Tĩnh; Lê Trọng Bình, quê Hương Trà, Sơn Trà, Hương Sơn, Hà Tĩnh; Đoàn Hồng Khanh, quê Mỹ Sơn, Nghi Lâm, Nghi Lộc, Nghệ An; Nguyễn Tất Hiền, quê Tân Trường, Hội Sơn, Anh Sơn, Nghệ An; Hà Thanh Reo, quê xóm Đoàn, Lai Đồng, Thanh Sơn, Phú Thọ; Nguyễn Thanh Trung, quê ái Quốc, Quỳnh Hậu, Quỳnh Lưu, Nghệ An; Nguyễn Thanh Chung, quê Quỳnh Thắng, Quỳnh Lưu, Nghệ An; Đặng Khắc Hồng, quê Kim Hà, Nghi Thiện, Nghi Lộc, Nghệ An; Bùi Văn Vánh, quê ái Quốc, Quỳnh Thuận, Quỳnh Lưu, Nghệ An.

        Tất cả 24 liệt sĩ của Đại đội 3 Tiểu đoàn 1 được an táng ở khu vực chân cao điểm 544.

        Do tổn thất lớn, một bầu không khí nặng nề buồn đau trùm lên đơn vị. Chỉ huy tiểu đoàn quyết định tổ chức đánh một trận thật tốt để lấy lại khí thế cho đơn vị.  Sau khi cân nhắc, chỉ huy tiểu đoàn cho gọi tôi và Chính trị viên Dy lên giao nhiệm vụ. Tiểu đoàn trưởng nói:

        - Tình hình tiểu đoàn các đồng chí đã biết. Anh em tư tưởng có chùng xuống trước tổn thất của đơn vị vì vậy, ta phải tổ chức đánh một trận thắng giòn giã mở màn cho tiểu đoàn, lấy lại khí thế cho đơn vị. Đại đội 2 còn nguyên vẹn, đồng chí Hiệu là Đại đội trưởng có kinh nghiệm nên tiểu đoàn quyết định giao nhiệm vụ này cho Đại đội 2. Mục tiêu của các đồng chí là đánh vào lữ đoàn 1 sư đoàn 5 bộ binh cơ giới Mỹ. Phải diệt gọn một cụm cỡ đại đội, các đồng chí thấy thế nào?
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #44 vào lúc: 27 Tháng Giêng, 2017, 12:44:43 am »

 
        Suy nghĩ một lát, tôi nói:

        - Qua những lần đi chuẩn bị chiến trường, tôi thấy lữ đoàn 1, sư đoàn 5 bộ binh cơ giới Mỹ vẫn thực hiện chiến thuật "trâu rừng" của tướng Abram. Ban ngày chúng dùng phi pháo kết hợp với bộ binh cơ giới nống ra lùng sục. Tối co lại gần cứ điểm thành từng cụm, chúng dùng máy ủi ủi đất thành bờ, dùng lưới chống B40 rào xung quanh, xe tăng ẩn trong đó và dùng phi pháo ngăn chặn ta từ xa và tung thám báo ra bảo vệ vòng ngoài. Phát hiện thấy ta chúng dùng phi pháo sát thương. Trên đây là việc làm khó.

-   Thế theo đồng chí ta phải làm thế nào? - Tiểu đoàn trưởng chăm chú nhìn tôi, hỏi.

        Tôi đề nghị ta không tổ chức cách đánh thông thường chia đại đội thành hai bộ phận. Bộ phận đi bám địch, bộ phận ở nhà chuẩn bị sẵn sàng xuất kích. Cách tổ chức như vậy thì khó đánh được chúng lúc này. Đại đội sẽ tổ chức chọn người chia làm ba tổ. Tốt nhất là chọn đảng viên và cảm tình Đảng cùng đi bám địch, phát hiện được địch là triển khai đánh luôn.. Chúng ta phải quán triệt phương châm chỉ đạo tác chiến của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh là "bám thắt lưng Mỹ mà đánh".

        - Tôi nhất trí ý kiến của Đại đội trưởng Hiệu, các đồng chí về tổ chức cho đơn vị chiến đấu, phải bảo đảm tuyệt đối an toàn trước khi nổ súng, nếu không phi pháo địch sẽ oanh tạc trong quá trình bám nắm địch. Các đồng chí tổ chức đánh càng sớm càng tốt. Chúng tôi chờ tin thắng trận.

        - Chúng tôi hứa sẽ thực hiện tất nhiệm vụ Trên đường về tôi và Chính trị viên Dy vừa mừng vừa lo. Mừng là được tiểu đoàn tin tưởng giao nhiệm vụ trong lúc đơn vị gặp khó khăn, lo là lúc này địch đang co lại trong khu vực tiểu đoàn hoạt động.

        Tôi trao đổi với Chính trị viên Dy:

         - Anh cho hội ý chi ủy và họp chi bộ ra nghị quyết lãnh đạo bộ đội, củng cố và giữ vững quyết tâm cho đơn vị. Còn phương án chiến đấu, ta sẽ chọn 21 người, chia làm ba mũi. Tôi và anh sẽ đi một mũi, Chính trị viên phó Lê Đăng Nhiệm (anh Nhiệm quê ở xóm Đông, Quỳnh Vinh, Quỳnh Lưu, Nghệ An) phụ trách một mũi, đại đội phó phụ trách một mũi. Điều quan trọng là phải nắm chắc quy luật của địch, xem địch bố trí thế nào, đi càn thế nào và tối về chúng cụm thế nào? Chính trị viên Dy nói thêm: - Cái khó là đưa quân phải bảo đảm được yếu tố bí mật. Không may có thương vong thì rất khó giải quyết. Không thể đưa thương binh, tử sĩ ra trước sáng được? Như vậy phải tính đến điểm giấu quân trong đó để đêm sau mới đưa anh em ra được. Vì thế trang bị phải rất gọn nhẹ.

        Tôi bổ sung:

        - Để bảo đảm bí mật, tôi đã nghĩ là phải đưa bộ đội hành quân đi theo sông Cam Lộ. Khi qua đường, trải vải dù, người đi sau cùng phải đi giật lùi dùng cành lá xóa hết dấu vết.  Vừa đi vừa trao đổi, tôi và Chính trị viên Dy về đến đơn vị lúc nào không hay. Chúng tôi bắt tay ngay vào công tác chuẩn bị, tổ chức bộ đội.

        Anh Dy hội ý cấp ủy và quán triệt nhiệm vụ cho chi bộ và đơn vị. Tôi hội ý cán bộ trung đội lựa chọn người. Số cán bộ, chiến sĩ được lựa chọn là 21 người.

        Đại đội có tất cả sáu khẩu B40, và ba khẩu B41 sẽ mang đi hết. Mỗi khẩu B40, B41 mang theo sáu quả đạn, ngoài súng AK báng gấp, mỗi người mang bốn quả lựu đạn cùng lương khô, bông băng. Nhìn nét mặt ai cũng háo hức, quyết tâm cao trong tôi trào dâng niềm xúc động.

        Sáng sớm hôm sau, chúng tôi hành quân theo phương án đã định. Từ ngày 1 tháng 4 năm 1970, do bị đơn vị bạn đánh ở cao điểm 182 nên địch luôn luôn cơ động và dùng hỏa lực ngăn chặn. Chúng tôi động viên anh em kiên trì tìm địch đánh cho kỳ được Ngày 4 tháng 4, khi chúng tôi vừa ra tới bãi Tân Kim thì chạm trán thám báo Mỹ. Bọn thám báo liền gọi máy bay và pháo binh đánh vào đội hình ta.

        Tôi và hai đồng chí bị thương. Một mảnh pháo găm vào cánh tay trái tôi, máu chảy đầm đìa. Đồng chí y tá kịp thời băng lại. Trước tình huống bất ngờ, tôi thoáng nghĩ, mình bây giờ mà đi viện thì sẽ ảnh hưởng đến việc hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu của đơn vị, phải kiên quyết ở lại chỉ huy chiến đấu. Tôi cho người đưa hai đồng chí bị thương xuống một khe suối cạn và dặn ở lại đó, đơn vị đánh xong sẽ đưa đi viện sau.

        Đại đội tiếp tục hành quân bám địch nhưng vẫn chưa bám được cụm xe cơ giới nào.

        Trong đơn vị bắt đầu xuất hiện tư tưởng lo ngại, bởi đã ba, bốn ngày đêm liền không ngủ, ăn lương khô, uống nước lã mà vẫn không bám được địch. Có người cho rằng nếu kéo dài tình trạng này thì kiệt sức mất thôi.

        Trước tình hình đó, tôi và Chính trị viên Dy hội ý cấp ủy củng cố quyết tâm cho bộ đội. Chúng tôi cho rằng lúc này chỉ có đánh được địch thì mới lấy lại lòng tin cho chiến sĩ. Chi ủy hạ quyết tâm: Tối ngày 4 rạng ngày 5 tháng 4, phải kiên quyết tìm địch và đánh cho bằng được. Chúng tôi phân công nhau xuống gặp từng người, phân tích tình hình, động viên anh em kiên nhẫn và quyết tâm trong đêm phải tìm bằng được cụm bộ binh cơ giới Mỹ.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #45 vào lúc: 27 Tháng Giêng, 2017, 12:48:01 am »


        Tôi tổ chức cán bộ, trinh sát đi đầu bám địch.

        Chính trị viên và đại đội phó tổ chức hành quân sau. 18 giờ, chúng tôi đến bãi Tân Kim. Trinh sát vẫn không phát hiện được địch. Tôi nghĩ, nếu cứ bám địch theo kiểu cũ sẽ không được, phải táo bạo tiến sâu về phía nam, lùng sục để tìm chúng. Tôi nói: "Ở đâu có tiếng cối cá nhân của địch bắn ra là ở đó có bộ binh cơ giới Mỹ. Vì vậy, ta phải lấy tiếng súng của địch để tìm địch".

        Chúng tôi xác định chính xác hướng có tiếng súng cối địch mà tiến. Đến 22 giờ, qua ánh sáng của đèn dù, pháo sáng, chúng tôi nhìn thấy ba cụm cơ giới Mỹ. Tôi mừng quá. Tranh thủ hội ý cán bộ, tôi nói: - Theo cách bố trí của địch, khả năng bọn chỉ huy cụm bộ binh cơ giới Mỹ ở Sáp Đá Mài. Cụm này nằm phía trong, có thể chúng chủ quan, sơ hở nên chúng ta bỏ hai cụm phía bắc mà tập trung tiêu diệt cụm Sáp Đá Mài.

        Mọi người thống nhất phương án của tôi nêu ra. Khi đội hình chúng tôi cách cụm cơ giới Mỹ khoảng 200 mét, tôi cho anh em dừng lại triển khai đội hình, chờ lệnh.

        Tôi dẫn Trung đội trưởng Thuần, Trung đội trưởng Hợp và bốn trinh sát bò qua hố bom, vượt một con suối cạn, tiến vào cách địch 30 mét. Lợi dụng đèn dù, chúng tôi đếm được 16 chiếc xe tăng bố trí thành hình vòng cung. Cụm xe tăng này có nhiều nhà bạt và cần ăng ten. Anh em xác định đây là cụm xe chỉ huy.

        Tôi chỉ từng mục tiêu, phân chia từng khu vực cho các trung đội trưởng. Sau đó tôi và Thuần bò vào để tìm và xác định một lần nữa vị trí chỉ huy của địch.  Bọn lính gác đi đi lại lại, chốc chốc chúng bắn vài quả đạn cối ra xung quanh để trấn an tinh thần binh lính. Lợi dụng đám cỏ tranh, tôi và Thuần nhẹ nhàng vượt về phía nam và gặp một xe tăng địch nằm giấu trong bụi cây. Thuần vỗ vào thành xe nói nhỏ: "Vỏ thép lạnh quá!". Chúng tôi quan sát thấy lính Mỹ đã ngủ trong nhà bạt. ở một nhà bạt khác chúng đang mở máy thông tin nói xì xà xì xồ. Chắc là chúng thông báo cho cấp trên: Tình hình vẫn ổn! Sau khi trinh sát xong, tôi quay về mũi chính diện, ban chỉ huy đại đội và các trung đội trưởng đã có mặt, tôi nói: - Căn cứ vào hình thái đóng quân của xe tăng địch, ta phải đánh từ ba hướng mới diệt gọn được chúng. Các xạ thủ B40, B41 phải vào cách xe tăng địch từ năm đến bảy mét chọn vị trí bắn. Tôi và Chính trị viên Dy sẽ đi hướng chính diện với trung đội Thuần. Hướng này sẽ tập trung hai khẩu B41 và hai khẩu B40. Khi hướng chính nổ súng, thì tất cả bắn vào những chiếc xe tăng mà các xạ thủ đã chọn.

        Mỗi chiếc xe bắn hai quả đạn B40 hoặc B41. Ai có ý kiến gì không? Mọi người đều nhất trí, tôi yêu cầu tất cả khẩn trương vào vị trí chiến đấu.

        Tôi xem đồng hồ, lúc đó là 12 giờ đêm. Bộ đội đã vào vị trí xuất phát tiến công. Tôi đi kiểm tra và bắt tay các xạ thủ B40, B41 động viên anh em bình tĩnh lập công.

        3 giờ 15 phút các mũi đã áp sát mục tiêu từ 20 đến 30 mét, tôi kiểm tra lần cuối cùng rồi quay về hướng chính diện dẫn tổ luồn sâu vào vị trí.

        3 giờ 40, tôi hướng dẫn cho tổ luồn sâu của đồng chí Xứng tiếp cận sở chỉ huy địch. Cách bảy mét, xứng vấp phải quả mìn sáng. Chớp thời cơ tôi lệnh cho Xứng và chiến sĩ B41 Phùng Văn Khoét bắn liên tiếp hai quả vào chiếc xe chỉ huy để phát lệnh tiến công. Hai tiếng nổ gần như liên tiếp vang lên. Một quầng lửa màu da cam hắt ra. Nhân lúc những tia sáng lóe lên, Khoét nhìn rõ hình thù một chiếc xe tăng địch. Anh siết cò. Khẩu B41 trên vai Khoét nhẹ tâng, quả đạn lao đi. Chiếc xe thứ hai bốc cháy.

        Tiếp đó là những tiếng nổ vang dậy. Với quả đạn đầu tiên, tất cả chiến sĩ B40 và B41 đều bắn cháy xe tăng địch. Tám chiếc xe tăng bị diệt ngay từ những loạt đạn đầu. Tôi hô toàn đơn vị xung phong.

        Vượt qua chiếc xe chỉ huy, bộ đội từ các hướng đánh thẳng vào đội hình địch. Các chiến sĩ B40 và B41 bắn xe tăng, các chiến sĩ xung kích dùng AK bắn quét diệt bộ binh địch.

        Lúc này Phùng Văn Khoét thấy phía trước mũi chiến đấu của anh một chiếc xe tăng đang chống trả điên cuồng. Lính Mỹ bắn như đan lửa về phía ta.

        Khoét lắp tiếp quả đạn thứ ba rồi vọt lên. Đạn ARI5 của địch bay chiu chíu trên đầu, nhưng anh vẫn bình tĩnh nhằm vào chiếc xe tăng siết cò. Đạn không nổ. Khoét lên cò siết lần thứ hai. Vẫn không nổ. Khoét đến bên cạnh tôi, nói trong hơi thở:

        - Tiếc quá đại đội trưởng ạ. Đạn hỏng! Tôi nói chiến sĩ B41 Nguyễn Hải Hà đưa cho Khoét quả đạn. Nhận quả đạn từ tay Hà lắp vào súng, Khoét tiếp tục đuổi theo chiếc xe. Một tiếng nổ chát chúa kéo theo một quầng lửa trùm kín chiếc xe tăng.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #46 vào lúc: 27 Tháng Giêng, 2017, 12:52:21 am »


        Cuộc chiến đấu càng về sau càng diễn ra quyết liệt. Địch ngoan cố cụm vào ba chiếc tăng còn lại ở phía nam bắn trả điên cuồng vào đội hình tiến công của ta. Tôi lệnh cho khẩu B41 dự phòng và điều hai khẩu B40 vòng sang bên sườn tiêu diệt ba chiếc tăng này.

        Tôi ra lệnh mỗi khẩu B40, B41 bắn liên tiếp hai quả đạn vào cụm xe tăng địch. Sau một loạt tiếng nổ B40, B41, lửa từ những chiếc xe tăng bốc cháy ngùn ngụt.

        Bỗng từ phía nam, chiếc xe tăng ở vòng ngoài bất ngờ nổ máy bắn vào đội hình quân ta. Tôi lệnh cho hai chiến sĩ B41 nhằm vào chiếc xe tăng đang hung hăng nổ súng. Hai quả đạn B41 đã xuyên thủng lớp vỏ thép của chiếc xe làm cho nó khựng lại bốc cháy.  Trời đã gần sáng, tôi trao đổi với Chính trị viên Dy cho bộ đội lui quân. Chiến sĩ truyền nhau lệnh của tôi: "Nhanh chóng rời trận địa". Các mũi lần lượt thu quân, để lại 16 xác xe tăng và 95 xác lính Mỹ trong những đám cháy rừng rực.

        Cả đại đội vận động đến khu vực an toàn, tôi cho dừng lại. Lúc này, pháo địch bắn như bao bọc lấy đám cháy. Máy bay L19, OV1O bay lên thả pháo sáng, máy bay C130 bắn đạn 20 ly. Tôi đành lòng bảo anh em đưa liệt sĩ ra sông Cam Lộ, buộc đá vào từng thi thể thả xuống sông để đêm hôm sau lấy đưa anh em về.

        Bốn đồng chí hy sinh trong trận tập kích cụm cơ giới Mỹ đêm mồng 4 rạng mồng 5 tháng 4 năm 1970 là: Tiểu đội trưởng Ninh Văn Dĩnh, quê Đại Từ, Tam Kỳ, Yên Lạc, Vĩnh Phúc; Tiểu đội trưởng Cao Chí Ngân, quê Sơn Phúc, Hương Sơn, Hà Tĩnh; chiến sĩ Bùi Duy Cầu, quê Quỳnh Lương, Quỳnh Lưu, Nghệ An; chiến sĩ Trần Xuân Trạch, quê xóm 5, Hưng Đạo, Hưng Nguyên, Nghệ An. Bốn liệt sĩ này được đưa về an táng tại khu vực Tân Kim.

        Tôi cũng cho anh em ném vũ khí chiến lợi phẩm xuống sông Cam Lộ, chỉ giữ lại súng B40, B41, AK, lựu đạn.

        Lúc này, Trung đội trưởng Thuần báo cáo với tôi là trung đội anh còn thiếu hai người, trong đó có Phùng Văn Khoét, dũng sĩ đã diệt ba xe tăng. Tôi nói với Chính trị viên Dy cho bộ đội hành quân về vị trí tập kết, còn tôi và một chiến sĩ quay lại trận địa. Đi được gần một cây số, tôi nhìn thấy hai chiến sĩ đang dìu nhau. Tôi nhận ra Khoét dáng cao to, băng kín đầu đang dựa vào một chiến sĩ nhỏ hơn.

        Trời sắp sáng, tôi bảo mọi người đưa Khoét về sườn tây nam, ẩn mình trong những lùm cây lúp xúp, để tối sẽ về đơn vị.

        9 giờ sáng, địch cho 24 lần chiếc trực thăng UH1A và cả trực thăng cần cẩu lên cẩu xác những chiếc xe tăng bị cháy về Miếu Bái Sơn. Sau đó, chúng điều xe ủi san phẳng ngọn đồi. Đến 17 giờ cùng ngày chúng rút khỏi Sáp Đá Mài.

        Mấy ngày sau, tôi buồn rầu được tin đồng chí Phùng Văn Khoét và đồng chí Vi Công Đoàn đã hy sinh tại trạm phẫu D ở đông nam cao điểm 402.

        Đồng chí Khoét quê ở Tân Quyên, Kim Thượng, Thanh Sơn, Phú Thọ, anh là người dân tộc Mường và đồng chí Đoàn quê ở Bản Mã, Kim Tiến, Tương Dương, Nghệ An. Tôi vô cùng thương tiếc Khoét, một người chiến sĩ dũng cảm, một dũng sĩ diệt xe cơ giới Mỹ và Đoàn, một chiến sĩ dũng cảm.

        Sau trận đánh của Đại đội 2, lính Mỹ ở khu vực Sáp Đá Mài vô cùng hoảng sợ, chúng không dám giăng xe và lính ra để chiếm giữ khu vực này. Trận đánh đã góp phần đẩy chiến thuật "trâu rừng" của Abram hoàn toàn phá sản.

        Chiến thắng của Đại đội 2 đã tạo khí thế chung cho toàn đơn vị. Tiểu đoàn 3 đang gặp khó khăn nhưng vẫn đứng vững trên địa bàn hoạt động của mình cùng với các đơn vị trong trung đoàn giữ thế tiến công tiêu diệt địch.

        Đại đội 2 được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhì. Tôi cũng được trên tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhì, và được bổ nhiệm làm Tiểu đoàn trưởng. Chính trị viên tiểu đoàn là đồng chí Trần Xuân Gứng.

        Thời gian này một số phóng viên của Báo Quân đội nhân dân như đồng chí Đoàn Công Tính, đồng chí Cao Tiến Lê, Ngọc Đản... đã đi sát đơn vị tôi để chụp ảnh, viết bài, đưa tin tuyên truyền kịp thời chiến thắng của quân dân ta.

        Hôm lên trung đoàn nhận nhiệm vụ, Trung đoàn trưởng Phạm Minh Tâm bắt tay tôi, ông khen:

        - Cậu khá lắm? Quyết đoán, đánh giỏi. Hôm Đại đội 2 đánh cụm xe tăng Mỹ ở Sáp Đá Mài, đài quan sát báo cáo cả ngọn đồi cháy rực, mình thấy vui quá.

        Chính ủy Nguyễn Võ Hiển, với giọng Hà Tĩnh nằng nặng bảo tôi:

        - Sau khi thấy cậu chỉ huy đánh thắng, tớ nói với anh Tâm, phải đưa Hiệu lên Tiểu đoàn trưởng. Hôm nay có quyết định rồi, cương vị mới phải cố gắng hơn. Tớ tin cậu sẽ làm tốt.

        Tôi thưa:

        - Được Trung đoàn trưởng, Chính ủy tin cậy, tôi sẽ cố gắng hết sức mình chỉ huy tiểu đoàn, luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ trung đoàn giao.

        Tiểu đoàn trưởng Tâm vui vẻ:

        - Thế thì tốt! Tụi mình tin cậu.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #47 vào lúc: 27 Tháng Giêng, 2017, 08:32:05 pm »


        Trở lại tình hình Tiểu đoàn 3, ngày 18 tháng 4 năm 1970, Đại đội phó Ngô Thanh Cư, quê Diễn Kim, Diễn Châu, Nghệ An bị bom tọa độ hy sinh.

        Đồng chí Cư là người đã gắn bó với tôi trong nhiều trận đánh. Anh được an táng tại Nghĩa trang Liệt sĩ xã Vĩnh Thượng. Đến ngày 23 tháng 4 năm 1970, Chính trị viên Nguyễn Văn Bảo trên đường đi nghiên cứu địa hình ở cao điểm 182, anh gặp thám báo địch, chiến đấu. Chúng gọi pháo bắn, anh trúng đạn hy sinh. Anh Bảo được an táng tại nghĩa trang Liệt sĩ xã Vĩnh Thượng, bờ bắc sông Bến Hải, khu Vĩnh Linh.

        Thế là trong vòng 5 ngày, Tiểu đoàn 3 đã mất hai cán bộ ưu tú.

        Giữa tháng 5 năm 1970, sau khi nghe Trung đoàn 27 báo cáo kết quả chiến đấu của một số đơn vị, trong đó có thành tích Đại đội 2, Tiểu đoàn 3, Bộ tư lệnh Mặt trận B5 đã biểu dương thành tích chiến đấu xuất sắc của trung đoàn trong đợt vừa qua, đồng thời chỉ thị tiếp cho trung đoàn: "Tranh thủ thời cơ củng cố đơn vị để đưa bộ đội vào sâu hơn.

        Kiên quyết giữ vững địa bàn xung quanh các cao điểm 322, 288 để khống chế cao điểm 544 từ phía đông nam".

        Nhận được chỉ thị của trên, Trung đoàn trưởng Phạm Minh Tâm giao nhiệm vụ: - Tiểu đoàn 3 do Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Huy Hiệu chỉ huy, tiến sâu vào phía nam khu vực cao điểm 322, cao điểm 288. Tiểu đoàn 2 do Tiểu đoàn trưởng Bùi Xuân Các chỉ huy đánh địch nống ra ở Đồi Tròn (nam cao điểm 544). Tiểu đoàn 1 do Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Tỵ chỉ huy, mở rộng địa bàn, chốt giữ ở phía đông và phía bắc căn cứ 544.

        Các đơn vị pháo binh, súng máy 12,7 ly chi viện đắc lực cho bộ binh và chủ động đánh địch, nhất là đại đội súng máy 12,7 ly.

        Nhận xong nhiệm vụ chúng tôi khẩn trương chuẩn bị cho đơn vị bước vào chiến đấu.

        Thời gian này, trung đoàn 2, sư đoàn 3 nguy và một số đơn vị thuộc lữ đoàn 1, sư đoàn 5 Mỹ phải đem hết lực lượng ra để đối phó trên hướng chiến đấu của Trung đoàn 27. Lính ở cứ điểm 544 hoảng sợ trước sự vây ép liên tục của Tiểu đoàn 2. Trận địa pháo cối của địch ở trên cao điểm 544 bị khống chế liên tục, không chi viện được cho bọn lính hoạt động xung quanh khu vực 544.

        Mặc dù bị thua đau, nhưng bọn địch vẫn cố sống cố chết bám lấy cứ điểm 544. Qua đài kỹ thuật ta nắm được trong thời kỳ này, địch phải tăng cường pháo binh cho cứ điểm Đầu Mầu ở phía nam Đường 9 để chi viện cho cứ điểm 544. Các lực lượng còn lại của vùng 1 chiến thuật quân ngụy Sài Gòn phải túc trực thường xuyên để nống ra khu vực 544 nhằm bảo vệ vòng ngoài.

        Để bám chắc địch, đánh tiêu diệt chúng lớn hơn, Trung đoàn trưởng Phạm Minh Tâm quyết định tăng cường các đài quan sát để nắm địch kịp thời, tạo điều kiện cho các đơn vị bộ binh đánh thắng.

        Chiến sĩ Đại đội 15 trinh sát hầu như có mặt khắp địa bàn hoạt động của trung đoàn. Đài quan sát đặt xung quanh cứ điểm 544, đồng thời là những trận địa chốt sẵn sàng đánh địch của các chiến sĩ trinh sát.

        Trên hướng của Tiểu đoàn 3, thủ đoạn hoạt động của địch cũng thay đổi, hàng ngày chúng cho trung đội thám báo đi dò mìn và thông đường trước, sau đó chúng cho xe chở quân đi. Nắm được quy luật của địch, tôi cho các đại đội chọn những cán bộ, chiến sĩ thông thạo địa hình, linh hoạt tổ chức những trận phục kích đánh giao thông. Những trận đầu, tôi dẫn anh em đi chọn đoạn đường khúc khuỷu làm nơi phục kích địch (cách Miếu Bái Sơn 500 mét) trên Đường 76. Vì đoạn đường này có nhiều đường cua nên xe của chúng phải đi chậm, anh em đặt mìn định hướng Clâymo thu được của Mỹ (loại mìn gây sát thương ghê lắm vì có hàng trăm viên bi).

        Chúng tôi để trung đội thám báo đi qua, rồi chờ chúng quay lại dẫn đoàn xe vận tải quân sự chở quân. Những tên lính Mỹ ngồi trên xe chủ quan, tin rằng trung đội thám báo đã dò xét kỹ. Khi đoàn xe lọt vào đúng tâm trận địa phục kích, tôi lệnh cho chiến sĩ bắn B41, nhằm chiếc đi đầu, bắn. Chiếc xe trúng. đạn bốc cháy. Những chiếc xe chạy sau theo quán tính lao vào xe trước. Có những chiếc xe do tránh xe bị cháy đã lao xuống vệ đường đổ kềnh.

        Lúc này B40, B41, lựu đạn AK của ta bắn vào những chiếc xe đang hỗn loạn. Trận đầu ta diệt 7 xe.

        Những trận tương tự ta diệt năm xe. Gặp đoàn xe đông, anh em chặn đánh năm xe đi sau.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #48 vào lúc: 27 Tháng Giêng, 2017, 08:39:24 pm »


        Lại có trận, trời mưa lính ngụy mặc áo mưa trùm kín đầu đi tuần. Anh em phục diệt chúng, rồi lấy áo mưa, súng AR15 đóng giả lính ngụy đi nghênh ngang trên đường, thấy đoàn xe quân sự chở quân anh em ra hiệu dừng lại. Khi những tên lính ngụy còn chưa hay biết chuyện gì sẽ xảy ra, thì lập tức tổ phục kích bắn B40, B41 vào những chiếc xe chở đầy lính. Địch không kịp trở tay, anh em rút lui an toàn.

        Cách đánh phục kích mang lại hiệu quả cao, ta hạn chế được thương vong. Đánh xong anh em chia từng tốp ba người rút về phía nam. Tối hợp điểm ở nơi đã định rồi về vị trí tập kết.

        Vào những tháng giữa năm 1970, lúc chúng tôi tổ chức đánh ở Đường 76, lúc lại đánh trên Đường 9.

        Nhưng mỗi vị trí cũng chỉ đánh được vài trận. Vì sau đó bọn địch rút kinh nghiệm, đi thưa và có máy bay trực thăng hộ tống.

        Cuộc chiến đấu của Trung đoàn 27 những tháng giữa năm 1970 trong hàng rào điện tử Mác Na-ma-ra diễn ra giằng co quyết liệt. Địch bị đánh khắp nơi, từ căn cứ Cồn Tiên đến Sa Mưu, Phu-lơ, Đầu Mầu, 300 Đất, 300 Đá, cầu Thiện Xuân... Mỹ - ngụy cay cú tiếp tục xua quân ra nống lấn, cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 27 lại có thời cơ diệt địch. Thực hiện ý định của cấp trên: Địch co lại, ta kéo chúng ra để diệt, đánh điểm kết hợp với đánh lực lượng "quần cù".

        Ngày 29 tháng 7 năm 1970, trinh sát báo cáo một đại đội ngụy hành quân ra cao điểm 182, gần vị trí đóng quân của Đại đội 1. Tôi lệnh cho đại đội này khẩn trương chặn đánh. Cán bộ, chiến sĩ Đại đội 1 nhanh chóng xuất kích, hình thành thế trận chặn đầu, khóa đuôi rồi nổ súng tiến công. Sau gần 30 phút chiến đấu, quân ta đã đánh thiệt hại nặng đại đội thuộc trung đoàn 3, sư đoàn 3 ngụy. Đại đội 1 có ba cán bộ, chiến sĩ hy sinh, đó là Trung đội trưởng Nguyễn Văn Long, quê Hợp tác xã Thống Nhất, Nam Mỹ, Nam Đàn, Nghệ An; Trung đội phó Lương Xim Doáng, quê Thôn Chiềng, Vỏ Lao, Văn Bàn, Yên Bái; chiến sĩ Phan Huy Đạt, quê Bản Thục, Khuất Xá, Lộc Bình, Lạng Sơn. Các anh được an táng ở chân điểm cao 468.

        Ngày 2 tháng 8 năm 1970, Tiểu đoàn tôi bị máy bay B52 đánh trúng đội hình, gây tổn thất lớn.

        Nhiều đồng chí hy sinh. Đại đội 3 có Đại đội trưởng Nguyễn Văn Cương, quê Phúc Thịnh, Yên Phúc, Yên Định, Thanh Hóa và y tá Tạ Đăng Khải, quê An Lạc, Đồng Tiến, Khoái Châu, Hưng Yên. Đại đội 4 có ba chiến sĩ là: Hồ Thức Minh, quê Thọ Mỹ, Diễn Trường, Diễn Châu, Nghệ An; Nông Văn Cần, quê Đà Tiên, Lăng Hiếu, Trùng Khánh, Cao Bằng; Nông Văn Quang, quê Nà Phài, Chí Viễn, Trùng Khánh, Cao Bằng. Tiểu đoàn bộ có Tiểu đội trưởng Đinh Văn Sâm, quê Hưng Linh, Hưng Nguyên, Nghệ An. Các liệt sĩ của tiểu đoàn được an táng tại chân cao điểm 230.

        Những tháng cuối năm 1970, Tiểu đoàn 8 của tôi liên tục tổ chức những trận vận động tiến công ở cao điểm 182, Đồi Đá, Đ1, Đ2, Đ3, Đ4... và xung quanh căn cứ Phu-lơ gây cho địch nhiều tổn thất.

        Năm 1970 qua đi, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 27 vì có bước trưởng thành về mọi mặt, đặc biệt hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến đấu trong hàng rào điện tử Mác Na-ma-ra. Những trận đánh của đơn vị trong năm 1970 có quy mô lớn hơn so với hai năm trước. Sở trường tác chiến của các đơn vị trong trung đoàn đã được hình thành: Tiểu đoàn 1 chốt giữ; Tiểu đoàn 2 vây lấn; Tiểu đoàn 3 của tôi vận động tiến công.

        Qua chiến đấu với quân ngụy, chúng ỷ vào hỏa lực mạnh của pháo bầy, trong đó chúng dùng pháo chơm, pháo đinh và các loại bom như bom bi, bom napan, bom phát quang, bom đào, bom B.52, bom tọa độ... đánh phá vào trận địa ta. Để hạn chế thương vong, chúng tôi phải đào hầm hàm ếch để tránh pháo chơm, pháo đinh, bom phát quang, bom bi... Kinh nghiệm tránh máy bay B.52 là giữa hai trận đánh trời bỗng trở nên yên ắng là chỉ sau vài chục phút, khu vực ấy hứng chịu bom rải thảm của B.52. Khi B.52 đánh trúng đội hình, anh em chúng tôi nằm sấp tay để dưới ngực chống sức ép của bom. Khi Mỹ dùng chất độc, hơi cay đánh vào những điểm chốt của chúng ta, chúng tôi cho bộ đội dùng khăn mặt thấm nước để lên miệng, lên mũi. Khi không có nước, anh em phải dùng nước giải thấm vào khăn rồi bịt mồm, bịt mũi mà thở. Cách này cũng rất hiệu quả và được anh em chúng tôi dùng trong nhiều năm.

        Với những thành tích đã đạt được, Trung đoàn 27 vinh dự được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tặng thưởng Huân chương Quân công. Đây là tấm Huân chương Quân công đầu tiên mà trung đoàn được nhận, đánh dấu bước trưởng thành vững chắc của trung đoàn. Phần thưởng cao quý này là kết quả của cả một quá trình phấn đấu không mệt mỏi, không ngại hy sinh, gian khổ của toàn thể cán bộ, chiến sĩ trung đoàn, xứng đáng với niềm tin của Đảng, của nhân dân và các đơn vị bạn.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #49 vào lúc: 27 Tháng Giêng, 2017, 08:42:37 pm »


Chương bốn

CHIẾN DỊCH PHẢN CÔNG ĐƯỜNG 9 - NAM LÀO

        Cuộc tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu Thân 1968 của quân và dân ta đã giáng đòn quyết định làm thất bại chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ, tạo một bước ngoặt lớn cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Chính quyền Mỹ buộc phải từ bỏ chiến lược "chiến tranh cục bộ", xuống thang chiến tranh, chủ trương "phi Mỹ hóa" cuộc chiến tranh và ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Pa-ri.

        Ở miền Nam Việt Nam, Mỹ đã đề ra kế hoạch chiến lược gồm ba bước để thực hiện chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh". Bước một: Chuyển giao nhiệm vụ chiến đấu trên bộ cho quân ngụy, bắt đầu rút một số bộ phận quân chiến đấu Mỹ, tiếp tục làm suy yếu lực lượng ta bằng các kế hoạch mới, về "bình định nông thôn". Đây là bước quan trọng có ý nghĩa quyết định. Bước hai: Chuyển giao nhiệm vụ chiến đấu trên không cho quân ngụy, làm cho quân ngụy mạnh lên để đủ sức đương đầu với ta. Bước ba: Hoàn thành "Việt Nam hoá chiến tranh", củng cố các thành quả đạt được, làm cho lực lượng ta bị suy yếu nghiêm trọng và vì thế sẽ "tràn lụi dần". Mỹ dự kiến đến giữa năm 1972 sẽ hoàn thành kế hoạch ba bước trên đây.

        Mỹ cũng đề ra những biện pháp chiến lược để thực hiện kế hoạch trên là: Thứ nhất, phát triển và hiện đại hóa quân ngụy để đủ sức đối phó với ta và trở thành lực lượng nòng cốt cho các loại quân tay sai trên toàn chiến trường Đông Dương. Đến cuối năm 1969, địch đã tăng thêm 160 nghìn quân, đưa tổng số quân nguy từ 717 nghìn quân (năm 1968) lên 877 nghìn quân và năm 1970 lên xấp xỉ hơn một triệu quân. Từ năm 1970 trở đi, các sư đoàn quân nguy không còn bị trói buộc vào nhiệm vụ chiếm đóng mà được sử dụng làm nhiệm vụ cơ động trên toàn miền Nam. Đầu năm 1970, quân ngụy có 12 sư đoàn, tám trung đoàn bộ binh; pháo binh có 55 trung đoàn với 990 khẩu pháo. Xe tăng, thiết giáp có 18 chi đoàn, 44 chi đội (l.310 chiếc). Đặc biệt không quân ngụy đã phát triển với tốc độ cao, số lượng sĩ quan và nhân viên không quân được đào tạo tăng gấp 10 lần với 20 phi đoàn gồm 400 máy bay, trong đó có sáu phi đoàn máy bay chiến đấu (120 chiếc). Hải quân có 632 tàu. Lực lượng phòng vệ dân sự lên 1,5 triệu quân trong đó có 400 nghìn quân được vũ trang. Đi đôi với việc tăng cường quân ngụy, từ tháng 6 năm 1969, Mỹ thực hiện việc rút dần quân Mỹ về nước. Cho đến đầu năm 1970, chúng đã rút được ba đợt với 110 nghìn quân.

        Thứ hai, đẩy mạnh bình định nông thôn, tiêu hao và đẩy lùi bộ đội chủ lực ta ra khỏi các vùng đông dân, nhiều của, xây dựng cơ sở xã hội cho bọn tay sai. Từ cuối năm 1969 trở về sau, địch tập trung cố gắng lớn vào chương trình bình định. Chúng sử dụng toàn bộ quân địa phương, một nửa đến hai phần ba quân chủ lực ngụy cùng bộ máy cảnh sát (trên 100 nghìn quân) với hàng chục nghìn cán bộ bình định, liên tiếp tổ chức các chiến dịch bình định, từ "bình định cấp tốc", "bình định đặc biệt" đến "bình định bổ sung", đánh phá ác liệt các vùng nông thôn đồng bằng đông dân ở cả Nam Bộ, Khu 5 và Trị Thiên.

        Thứ ba, bao vây kinh tế, đánh phá đường hành lang vận chuyển chiến lược, hòng cắt đứt sự chi viện của miền Bắc vào miền Nam. Chúng mở các cuộc phản kích lớn đánh ra vòng ngoài nhằm đánh phá hậu phương, đánh phá vùng giải phóng, đánh phá căn cứ đầu não của cuộc kháng chiến, đánh phá hệ thống tiếp tế hậu cần chiến lược của ta để cô lập và làm suy yếu cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam và nhân dân các nước Đông Dương.

        Thứ tư về ngoại giao, bằng thủ đoạn dùng sức mạnh của Mỹ kết hợp với tìm mọi cách thỏa hiệp và dàn xếp với các nước lớn đồng minh của ta hòng gây sức ép buộc ta phải chấp nhận điều kiện của Mỹ trong cuộc thương lượng tại Hội nghị Pa-ri.

        Như vậy, về mặt quân sự, cái mới của chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" là từ quân đội Mỹ làm nòng cốt chủ yếu chuyển dần sang cho quân đội nguy; từ "tìm diệt" lực lượng quân sự sang đánh phá nguồn tiếp tế hậu cần; từ phạm vi 'miền Nam, mở rộng chiến tranh sang Cam-pu-chia đẩy mạnh chiến tranh ở Lào và các cửa biển miền Bắc, cô lập ta với đồng minh, dựa vào sự bất đồng của hai nước lớn trong phe xã hội chủ nghĩa lúc bấy giờ để làm suy yếu cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Tính chất cuộc chiến tranh ngày càng quyết liệt, phức tạp và gay gắt, cường độ chiến tranh vẫn phát triển cao, phạm vi chiến tranh mở rộng.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM