Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 06:25:02 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Một thời Quảng trị  (Đọc 35689 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #30 vào lúc: 24 Tháng Giêng, 2017, 03:57:24 pm »


        Vào những ngày cuối tháng 12 năm 1968, một hôm tôi dẫn một trung đội đi trinh sát khu vực núi Hồ Khê và núi Đá Bạc thuộc xã Cam Tuyền, huyện Cam Lộ. Phía tây núi Đá Bạc, là con suốt La La chảy quanh đồi Không Tên. ở khu vực núi Hồ Khê và núi Đá Bạc, ta và địch đã nhiều lần chạm trán với nhau. Đại đội tôi cũng đã đánh hàng chục trận với quân Mỹ, khi thì tập kích, lúc phục kích, đặt mìn, dùng pháo cối. Khi chúng tôi đến khu vực Đồi Dù1, cách núi Hồ Khê 500 mét, thì phát hiện một trung đội thám báo Mỹ. Lúc này, trời đã về chiều, tôi quan sát thấy lính Mỹ đang đào công sự. Tôi nghĩ, thế nào nó cũng ở lại. Tôi tiếp tục cho anh em bám địch. Khi trời tối hẳn, quân Mỹ bí mật di chuyển cách Đồi Dù vài ba trăm mét, xuống một khe suối, nơi mà anh em chúng tôi cũng dự kiến sẽ nghỉ đêm lại đó: Tôi thầm nghĩ: Thì ra nó sợ quân ta tập kích, nên tránh đòn đây mà. Tôi bàn với hai tiểu đội trưởng, đúng 4 giờ sáng, lúc quân Mỹ ngủ say nhất ta sẽ tập kích.

        Cả đêm tôi không ngủ, thi thoảng lại nhìn đồng hồ. 4 giờ kém 15, tôi đánh thức anh em dậy chuẩn bị chiến đấu. ánh trăng hạ tuần cũng đủ soi sáng những mái nhà bạt do quân Mỹ dựng vội. Khi đội hình đã sẵn sàng, tôi lệnh cho chiến sĩ Dần xạ thủ B40 nhằm chiếc nhà bạt to nhất bắn một quả đạn làm hiệu lệnh tiến công. Sau tiếng nổ, chiếc nhà bạt bùng cháy, năm tên Mỹ bị diệt. Anh em thi nhau bắn B40, súng AK, ném lựu đạn vào các nhà bạt khác. Bị đánh bất ngờ, quân Mỹ không kịp trở tay, một trung đội thám báo Mỹ bị anh em chúng tôi diệt gọn.

        Trận đánh kết thúc. Tôi cho anh em theo khe suối cạn Hồ Khê rút về an toàn.

        Đợt ba của cuộc Tổng tiến công năm 1968, Đại đội 2 chỉ còn 15 tay súng, ba quả B40, mỗi người còn hơn băng đạn và vài quả lựu đạn. Tôi báo cáo tình hình đơn vị lên cấp trên, được cấp trên đồng ý cho đơn vị rút ra củng cố lực lượng, rút kinh nghiệm chiến đấu. Chúng tôi tổ chức cho anh em hành quân. Khi đến Hồ Khê, Đá Bạc chúng tôi phát hiện một đại đội lính ngụy (sau này chúng tôi được biết đại đội này thuộc trung đoàn Hà Mã). Đại đội ngụy chốt ở một làng đã bỏ, chặn con đường rút của ta qua sông Cam Lộ. Chúng tôi bí mật tiếp cận quan sát thì thấy chúng đang giết lợn của dân, đun nấu, khôi mù mịt. Tôi bàn với cán bộ chỉ huy đại đội: - Tối nay, thế nào địch cũng sẽ nghỉ lại ở đây.

        Xem ra chúng chủ quan lắm, đang xúm vào nấu ăn.

        Ta đánh hay tìm đường tránh? - Đánh thì được. Nhưng nếu xảy ra thương vong thì giải quyết sao? - Chính trị viên đại đội băn khoăn.

        - Tôi cũng đã nghĩ đến tình huống này rồi. Cố gắng đánh chắc thắng, không để xảy ra thương vong.

        Còn ba quả B40, ta sẽ bắn vào ba nhà bạt, sau đó dùng AK, lựu đạn diệt những tên sống sót. Đại đội chia thành ba tốp, mỗi tốp năm người, yểm trợ cho nhau.

        Quyết tâm đánh địch được mọi người nhất trí cao.

        Mặt trời vừa lặn. Một cơn mưa bất chợt đổ xuống, quân ngụy chui cả vào nhà bạt. Thời cơ diệt địch đã đến. Tôi lệnh cho xạ thủ B40 bắn vào chiếc nhà bạt trung tâm, liền sau đó hai chiến sĩ B40, bắn nốt hai quả đạn vào hai nhà bạt còn lại. Quân ngụy bị đánh bất ngờ nên vô cùng hoảng loạn, những tên bị thương la ó. Chúng tôi tập trung súng AK, lựu đạn đánh dồn dập. Những tên ngụy sống sót cắm đầu cắm cổ tháo chạy không dám quay lại chống trả. Trận đánh diễn ra chưa đầy 10 phút, chúng tôi hoàn toàn làm chủ trận địa. Khi anh em qua bếp thấy thịt lợn bọn địch luộc còn dở trong xoong, cậu Thuần nhanh tay cho những miếng thịt lợn luộc vào đầy chiếc ba lô ngụy. Thuần mải quá quên nóng, thịt lợn làm phồng rộp cả lưng. Chúng tôi đi ngược dòng sông Cam Lộ đến chân cao điểm 400 thì trời sáng. Tôi cho anh em dừng lại. Đơn vị chỉ có hai chiến sĩ bị sái chân do ngã, còn lại đều an toàn.

        Hôm sau, qua tin kỹ thuật ta nắm được địch thú nhận chúng bị thương vong nặng nề, số sống sót chạy được về Cam Lộ vẫn chưa hết kinh hoàng.

        Đại đội 2, Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 27 được lệnh ra phía sau củng cố nửa tháng rồi lại trở vào chiến đấu.

        Từ khi vào Bắc Quảng Trị tham gia chiến đấu, tôi đã chỉ huy trung đội rồi đại đội đánh 36 trận bằng các hình thức chiến thuật: Tập kích, vận động tiến công kết hợp chốt, phục kích, vây ép, đánh giao thông ở Đường 9, Đường 76, đánh vận động... trên khắp chiến trường Bắc Quảng Trị từ cao điểm 288, cao điểm 135, cao điểm 137, cao điểm 113, cao điểm 84, cao điểm 333 đến Động ông Cay, bãi Tân Kim...

----------------------------
        1. Ở đây dù pháo sáng của Mỹ thả vướng lên những cây khô, cây cháy dở rất nhiều, nên anh em đặt tên là Đồi Dù.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #31 vào lúc: 24 Tháng Giêng, 2017, 04:01:24 pm »


        Trong các trận đánh đó, chúng tôi đã diệt và đánh thiệt hại nặng bảy trung đội Mỹ, phá hủy 11 xe quân sự bắn rơi năm máy bay, thu nhiều súng và máy thông tin PRC25. Trong các trận chiến đấu kể trên, bản thân tôi diệt 32 tên Mỹ, ngụy thu năm súng AR15, một máy vô tuyến PRC25, một bản đồ quân sự.  Chiến thắng của quân và dân ta trên chiến trường Bắc Quảng Trị trong năm 1968 có sự đóng góp của cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 27 - Trung đoàn Đỏ Xô-viết - Nghệ Tĩnh. Ngày đêm trung đoàn bám đất, bám dân, bám địch, tạo thế chiến trường, tích cực đánh địch hết mùa khô đến mùa mưa làm cho địch phải căng ra đối phó. Sau một năm chiến đấu trên chiến trường Bắc Quảng Trị nóng bỏng, Trung đoàn 2 7 đã thực sự trưởng thành, xứng đáng với sự tin cậy của đồng bào và những đơn vị bạn đang chiến đấu trên chiến trường Quảng Trị anh hùng.

        Nhớ đến năm 1968 ở Quảng Trị, cùng với những  người chiến sĩ xung kích tôi không thể không nói đến các anh, các chị văn nghệ sĩ. Dù thời gian có thể làm nhạt nhòa quá khứ, nhưng có một điều mãi mãi đọng lại trong tâm hồn, mạch sống của mỗi con người đã một thời gắn bó với mảnh đất khốc liệt vào bậc nhất của chiến trường miền Nam đó là những ca khúc viết về Quảng Trị thời gian này. Những giai điệu nhuốm màu lửa khói đã ngân lên giữa đất trời Quảng Trị:

                                       "Ai đã tới miền quê em Quảng Trị - Thừa Thiên.
                                       Qua Đường Chín, tình Gio Linh lắng trong giọng hò . . . "

        (Tiếng hát trên đường quê hương - Huy Thục).

        Câu hát như bật từ máu lửa bay lên.

        Một loạt bài hát ra đời trong năm 1968 đã kịp thời khích lệ động viên tinh thần chiến đấu của quân dân Quảng Trị: Chào Đường Chín anh hùng, Con suối La La (Huy Thục); Bài ca Đường chín chiến thắng (Văn Dung); Bài ca Vĩnh Linh (Hoàng Vân); Rừng xanh vang tiếng Ta Lư (Phương Nam)...

        Bất cứ ở đâu, những người lính đều có chỗ dựa vững chắc, đó là Bà mẹ Việt Nam. Mẹ không chỉ là một biểu tượng đẹp đẽ mà còn là một hiện thực đầy sinh động. Có sống trong những năm tháng giữa bom đạn mù trời ở Quảng Trị mới cảm nhận hết nỗi đau và niềm tự hào về tấm lòng của người mẹ nơi đây:

                              Mảnh đất thân thương hiền lành giản dị.
                               Vẫn thơm tiếng mẹ Quảng Trị quê ta ...
                               Mẹ đón quân ta về nhà nghỉ lại.
                               Cầm tay mẹ nói giải phóng quân ta ... "


        (Quân reo quê mẹ Quảng Trị anh hùng - Trọng Loan).

        Không ồn ào mà lắng đọng, dạt dào lòng mẹ. Chính sự mộc mạc, chân thành giản dị trong lời ca và giai điệu đã làm cho bài hát sống mãi với thời gian.

        Anh Huy Thục viết bài "Tiếng đàn Ta Lư" là một bài hát mô tả những người con gái Pa Cô yêu đời ôm đàn đi đánh giặc. Vui là thế, vậy mà ai biết rằng anh đã viết bài hát đó trong một hoàn cảnh đau buồn, chung quanh là bom đạn, lửa khói và máu đổ. Anh Huy Thục tâm sự:

        - Một buổi sáng mùa xuân 1968, đại đội nữ thanh niên xung phong hy sinh gần hết sau một trận bom dữ dội kéo dài hàng tiếng đồng hồ. Chị em gắng sức giữ cho được cung đường hiểm yếu. Tôi đã khóc, khóc ròng rã một buổi chiều rồi lặng lẽ ngắt một bó hoa rừng đi viếng mộ các chị dưới một cánh rừng thuộc huyện Hướng Hóa. Không thể buồn mãi được, buồn thế này làm sao có thể đàn hát cho chiến sĩ. Nghĩ vậy, tôi liền ôm lấy cây đàn ghi ta lập tức tung lên những nốt nhạc rộn ràng.

        Bài hát "Tiếng đàn Ta Lư" ra đời như vậy đó.

        Cho đến tận bây giờ, trong tôi vẫn vang lên những giai điệu, lời ca hoành tráng trong những ngày kháng chiến chống Mỹ - Dấu ấn đậm sâu của một thời Quảng Trị hào hùng.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #32 vào lúc: 25 Tháng Giêng, 2017, 02:32:56 pm »

       
Chương ba

CHIẾN ĐẤU TRÊN TUYẾN HÀNG RÀO ĐIỆN TỬ MÁC NA-MA-RA

        Bị thất bại nặng nề trong cuộc "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam và cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc nước ta, ý chí xâm lược của Mỹ đã lung lay. Cuối năm 1968, đế quốc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, đơn phương tuyên bố ngừng ném bom bắn phá không điều kiện đối với miền Bắc nước ta. Tổng thống Mỹ Giôn-xơn không ra tranh cử nhiệm kỳ 1968 - 1972. Ních-xơn trở thành tổng thống nước Mỹ. ông ta đề ra "Học thuyết Ních-xơn", thay đổi chiến lược quân sự của Mỹ từ "phản ứng linh hoạt" sang "ngăn đe thực tế.".

        Đối với miền Nam nước ta, Nỉch-xơn thay chủ trương "Phi Mỹ hóa chiến tranh" của Giôn-xơn bằng chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" mà mục tiêu cơ bản vẫn là bám giữ Việt Nam, ngăn chặn phong trào cách mạng ở Đông Dương và Đông Nam Á, đồng thời giảm bớt sự can thiệp trên bộ của bộ binh và tránh một thất bại nhục nhã cho Mỹ. Thực chất chủ trương này vẫn là dùng người Việt đánh người Việt, dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương với bom đạn và sự chỉ huy của Mỹ, nó gắn liền với một chiến lược toàn cầu đầy tham vọng của Nhà Trắng.

        Học thuyết Ních-xơn được đem thí nghiệm đầu tiên ở Việt Nam. Với những cố gắng rất lớn, địch tập trung lực lượng tiến hành một cách tàn bạo và xảo quyệt ba hình thức mà chúng gọi là: chiến tranh giành dân, chiến tranh bóp nghẹt và chiến tranh hủy diệt. Chúng kết hợp các thủ đoạn chính trị, kinh tế, văn hóa với chiến tranh gián điệp, chiến tranh tâm lý để xóa bỏ hạ tầng cơ sở của ta, xây dựng hạ tầng cơ sở của chủ nghĩa thực dân mới.

        Trên chiến trường Bắc Quảng Trị, bước sang năm 1969, đế quốc Mỹ bắt đầu thực hiện chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh", chúng cố gắng đưa dần quân ngụy ra vòng ngoài, quân Mỹ sẵn sàng ứng cứu khi cần thiết, đồng thời chi viện hỏa lực tối đa để giữ và củng cố tuyến phòng thủ của chúng.

        Trong phòng tuyến Đường 9, tướng Mỹ Abram chủ trương đưa bộ binh cơ giới Mỹ ra để thực hiện âm mưu này. Thực hiện kế hoạch do Abram vạch ra, địch khai thông và mở rộng nhiều tuyến đường phục vụ cho việc cơ động nhanh chóng lực lượng bộ binh cơ giới. Những chiếc máy húc khổng lồ cùng binh lính Mỹ được tức tốc điều ra Quảng Trị làm đường cho xe tăng đi từ Cửa Việt, Đông Hà, Dốc Sỏi, Cam Lộ đến Phu-lơ (cao điểm 544). Nhiều con đường quân sự làm gấp đến các cao điểm quan trọng ở phía bắc Đường 9 được hình thành. Nhà cửa, vườn ruộng của nhân dân đều bị nghiền nát dưới xích xe tăng Mỹ. Đồi núi phía bắc Đường 9 lúc này ngày đêm rung chuyển bởi tiếng nổ của các loại động cơ.

        Từ cuối năm 1968, lợi dụng lúc lực lượng ta trên chiến trường gặp khó khăn tạm thời, Mỹ - ngụy tập trung lực lượng lớn phản kích đẩy lùi chủ lực ta ra khỏi các địa bàn quan trọng. Chúng còn đánh sâu vào vùng rừng núi phía tây hòng làm cho quân ta hết khả năng tiến công lớn xuống đồng bằng, đô thị.

        Tại chiến trường Bắc Quảng Trị, cuối năm 1968, các đơn vị chủ lực của Bộ đều rút lên núi và ra phía bắc giới tuyến, chỉ còn Trung đoàn 27 và các lực lượng bộ đội tỉnh cùng du kích bám trụ hoạt động.

        Trung đoàn 27 được giao nhiệm vụ là đơn vị chủ lực cơ động của Mặt trận B5.

        Trước những chủ trương quân sự mới của tướng Abram, Bộ tư lệnh Mặt trận B5 giao nhiệm vụ cho Trung đoàn 27: Xây dựng đơn vị thành lá cờ đầu về tiêu diệt xe cơ giới Mỹ đánh bại chiến thuật "Trâu rừng" ("Trâu rừng" là cách gọi của các nhà quân sự Mỹ ở Sài Gòn).

        Chiến thuật "Trâu rừng" mà quân Mỹ áp dụng, là: Ban ngày chúng cho xe tăng và xe bọc thép tổ chức thành nhiều mũi, đi càn khắp nơi, tối đến chúng bí mật cho xe cụm lại xung quanh các vị trí quan trọng của từng khu vực. Cứ mỗi lớp xe lại có một lớp lính nằm quây lại với nhau. Nếu bị đối phương tiến công, xe tăng vừa là hỏa lực chi viện, vừa là công sự cho lính bộ binh chống trả. Cái "bẫy" làm bằng vỏ thép ấy được lính Mỹ giăng ra khắp nơi, nhằm bảo vệ tuyến "hàng rào điện tử Mác Na- ma-ra" ở phía bắc Đường 9, ngăn chặn quân ta tiến công khi mùa khô đến.

        Tôi xin dành ít dòng để nói về hàng rào điện tử Mác Na-ma-ra này. "Hàng rào điện tử Mác Na-ma-ra" được ra đời từ ý tưởng của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Mác Na-ma-ra, với ý đồ phải "chặn đứng mọi nguồn tiếp tế từ miền Bắc vào miền Nam Việt Nam". Từ tháng 3 năm 1966, chính phủ Mỹ tổ chức một nhóm nghiên cứu gồm 47 nhà khoa học kỹ thuật quân sự hiên đại để tìm biện pháp mới. Mác Na-ma-ra được giao nhiệm vụ trực tiếp theo dõi, chỉ đạo nội dung nghiên cứu.

        Sau ba tháng làm việc khẩn trương, một đề án xây dựng phòng tuyến dọc theo khu phi quân sự bằng những phương tiện vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự hiện đại nhất thời đó của quân đội Mỹ đã ra đời. Cuối tháng 6 năm 1966, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ công bố quyết định xây dựng phòng tuyến. "Hàng rào điện tử" được báo chí Mỹ đặt cho đủ thứ tên "Phòng tuyến Mác Na-ma-ra", "Tuyến Ma-di-nô phương Đông". Dự chi cho công trình đồ sộ này khoảng 2 tỷ đô la.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #33 vào lúc: 25 Tháng Giêng, 2017, 02:37:14 pm »


        Với mục đích ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc vào miền Nam, hàng rào điện tử Mác Na-ma-ra kết hợp với không quân có nhiệm vụ "kịp thời phát hiện và ném bom hủy diệt ngay lập tức từng tốp người, từng chiếc xe, từng khẩu pháo, từng kiện hàng từ miền Bắc đưa vào miền Nam bằng đường Hồ Chí Minh dù vận chuyển theo trục đường phía đông hay phía tây Trường Sơn". Mỹ cho rằng "hàng rào điện tử" hiện đại này sẽ loại trừ được khả năng đột nhập của quân đội Bắc Việt Nạm vào Nam Việt Nam.

        Phòng tuyến Mác Na-ma-ra với hệ thống vật cản dày đặc, các thiết bị trinh sát điện tử mặt đất và trên không hiện đại cùng một hệ thống phòng ngự gồm 17 căn cứ bố trí liên hoàn trong khu vực có chiều dài khoảng 100 ki-lô-mét, rộng từ 10-20 ki-lô-mét từ cảng Cửa Việt lên Đường 9 đến biên giới Việt - Lào được Mỹ cho là "bất khả xâm phạm".

        Địch duy trì ở đây một lực lượng phòng ngự khá mạnh để kiểm soát phòng tuyến suốt ngày đêm.

        Lực lượng địch sử dụng gồm hai sư đoàn, trong đó có một sư đoàn quân Mỹ và ba trung đoàn quân ngụy, chưa kể lực lượng bảo an dân vệ. Ngoài lực lượng bộ binh còn có lực lượng pháo binh và xe tăng thiết giáp mạnh. Máy bay tiêm kích, cường kích liên tục bay lượn sẵn sàng tiêu diệt mọi mục tiêu vượt qua phòng tuyến. Máy bay ném bom chiến lược B.52 cũng sẵn sàng hoạt động đánh phá.

        Về hệ thống vật cản của phòng tuyến, Mỹ xây dựng khoảng 12 ki-lô-mét hàng rào kẽm gai từ cứ điểm Cồn Tiên xuống bờ biển Đông. Chiều rộng khoảng 10-20 ki-lô-mét trong đó bố trí các bãi mìn chống bộ binh, chống tăng. Từ phía tây Cồn Tiên 1 ki-lô-mét lên biên giới Việt - Lào, địch phát quang cây cối bằng chất độc hóa học; gài, rải các bãi mìn chống bộ binh, chống xe cơ giới và gài các sen-sơ để phát hiện mục tiêu.

        Máy trinh sát vô tuyến được trang bị cho "hàng rào điện tử" để phát hiện mục tiêu có nhiều loại, có loại thả từ máy bay xuống như ACOUBOUY, ADSID-1, HELOSID-18, SPIKSTD-1. Đây là những máy cảm ứng âm thanh, cảm ứng địa chấn được thả từ máy bay trực thăng hoặc máy bay F4, dùng để phát hiện người, tiếng động trong cự ly từ 300 mét đến 400 mét. Có loại máy trinh sát được đặt bằng tay hoặc đặt bằng máy móc như: ARERUOY-I/NBB, GSID, MINISID. Các loại máy này rất tinh vi, có khả năng phát hiện các tiếng động dù là nhỏ nhất của người hoặc xe cộ ở cự ly từ 100 mét đến 300 mét.

        Có loại máy trinh sát được phóng từ súng cối 81 ly như MODS, có thể phát hiện tiếng động của người từ 30 mét đến 50 mét, xe cộ từ 200 mét đến 400 mét. Khoảng 300 máy loại này đã được Mỹ trang bị cho "phòng tuyến Mác Na-ma-ra".

        Ngoài ra, Mỹ còn sử dụng loại máy trinh sát hữu tuyến RPS, máy báo hiệu kiểu P dùng cho các bốt gác lô cốt và chôn xuống đất dọc theo phòng tuyến, cứ 500 mét đến 700 mét chúng bố trí một máy, tất cả có khoảng 700 máy. Các máy điện tử trong hệ thống trinh sát tại phòng tuyến có nhiệm vụ phân tích tiếng động để phân biệt người hay xe cộ xác định chính xác tọa độ, thời gian từ nguồn phát ra tiếng động ấy, sau đó truyền đến Trung tâm kiểm soát chiến trường để điều lực lượng đến tiêu diệt.

        Ngay từ khi địch mới lập hàng rào điện tử, bộ đội địa phương và dân quân du kích huyện Gio Linh, Tiểu đoàn 47, Tiểu đoàn 4 (Tỉnh đội Vĩnh Linh), tiêu biểu là đội du kích do xã đội trưởng Trương Quang Thọ (Gio Linh) chỉ huy đã liên tục đánh phá, tiêu diệt một số lính công binh Mỹ làm cho tiến độ thi công chậm lại. Tuy nhiên Mỹ vẫn thiết lập được "hàng rào điện tử Mác Na-ma-ra".

        Nhưng qua thực tế sử dụng nó đã tỏ ra không có hiệu quả nếu không nói là bất lực trong việc thực hiện ý đồ chiến lược của chính phủ Mỹ là ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc vào miền Nam Việt Nam.

        Trên thực tế, các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự hiện đại bậc nhất của Mỹ lúc đó mới chỉ làm bị thương và tiêu hao một số xe cộ vận chuyển hàng hóa của ta, gây cho ta một số khó khăn, tổn thất nhất định, nhưng chưa bao giờ "chặn đứng mọi nguồn tiếp tế từ miền Bắc vào miền Nam Việt Nam" như chỉ thị của tổng thống Mỹ Ních-xơn cho bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Mác Na-ma-ra và chủ tịch hội đồng tham mưu trưởng liên quân, tướng Uy-lơ.

        Trở lại nhiệm vụ chiến đấu của Trung đoàn 27.

        Trong lúc đơn vị tranh thủ huấn luyện, các đoàn cán bộ, trinh sát vẫn len lỏi bám sát và nghiên cứu địa hình ở khu vực hoạt động của trung đoàn từ tuyến đường 76 đến phía tây cao điểm 544 và vào sát Đường 9.

        Theo chỉ thị của Bộ tư lệnh Mặt trận B5, đầu năm 1969 cả Trung đoàn 27 bước vào chiến đấu.

        Trung đoàn phân công từng khu vực tác chiến cho các tiểu đoàn. Yêu cầu của Bộ tư lệnh Mặt trận B5 là: Các đơn vị nổ súng càng sớm càng tốt.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #34 vào lúc: 25 Tháng Giêng, 2017, 02:39:21 pm »


        Để đối phó với thủ đoạn chiến thuật mới của Mỹ, tìm ra cách đánh mới cán bộ, chiến sĩ đơn vị phải bám sát từng cụm xe của địch suốt ngày đêm với phong lương khô, nắm gạo rang và bi đông nước.

        Mọi người phải luồn lách, chống chọi với bom pháo và thám báo địch, giữ bí mật an toàn, nghiên cứu tìm ra cách đánh cụm xe cơ giới Mỹ. Trung đoàn xuất kích đúng vào dịp Tết Nguyên đán. Đêm 30 Tết, mấy anh em chúng tôi nằm trong căn hầm dã chiến mở chiếc ra-đi-ô Sony (thu được của địch) nghe Bác Hồ chúc Tết. Tiếng Người trầm ấm vang lên: Năm qua thắng lợi vẻ vang Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to Vì độc lập vì tự do Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào Tiến lên! Chiến sĩ, đồng bào Bắc Nam sum họp, xuân nào vui hơn! 1.1.1969 Cho đến tận ngày hôm nay, trong tôi vẫn còn vang vọng lời bài thơ chúc Tết thiêng liêng ấy của Bác Hồ. Trong tâm khảm của mình, tôi ý thức được rằng Bác đã chỉ ra cho quân dân ta mục tiêu và phương châm chiến lược của cuộc kháng chiến chống Mỹ: "Đánh cho Mỹ cút" rồi "đánh cho ngụy nhào". Từ đó tôi luôn luôn suy nghĩ và hành động theo tư tưởng chỉ đạo của Người. Phải đánh cho Mỹ thật đau, buộc chúng phải cút khỏi miền Nam nước ta. Mỹ cút rồi thì ngụy chắc chắn phải nhào thôi.

        Đầu tháng 2, Trung đoàn 27 lần lượt tổ chức cho các đơn vị hành quân vào đứng chân ở các khu vực được phân công. Trước khi đưa bộ đội vào chiến đấu các đơn vị đều cử cán bộ cùng trinh sát nắm địch và chuẩn bị phương án tác chiến. Tuy địa bàn hoạt động rộng nhưng các tiểu đoàn đều có phương án chủ động đánh địch khi có thời cơ.

        Việc bám địch để đưa đơn vị vào nổ súng trong buổi đầu thật vô cùng khó khăn. Một vài đơn vị đã đánh hụt vì chưa nắm chắc thủ đoạn đối phó của địch. Xe tăng và bộ binh Mỹ ban ngày thường nống ra, tối đến chúng bí mật co cụm, lẩn tránh.

        Đã một tuần qua đi kể từ khi trung đoàn bước vào chiến đấu, một số phân đội nhỏ đã tổ chức đánh địch, nhưng hiệu suất chưa cao. Cán bộ đại đội, tiểu đoàn mặt mày hốc hác vì suốt ngày đêm bám địch để tìm ra quy luật hoạt động của chúng. Cả Tiểu đoàn 1 đã vào sâu nhưng vẫn chưa đánh được trận nào thật sự có hiệu quả.

        Ban chỉ huy Tiểu đoàn 1 quyết định toàn đơn vị sẵn sàng nổ súng bất kể ngày đêm. Quyết định đó của tiểu đoàn được toàn thể cán bộ, chiến sĩ trong tiểu đoàn nhất trí cao. Chính các chiến sĩ cũng đang nóng lòng sau những ngày lặn lội tìm địch hết cao điểm này, đến cao điểm khác. Cán bộ, chiến sĩ ở các đại đội dường như quên ăn, quên ngủ vì lo bám nắm địch để được đánh. Đi trinh sát, anh em gặp địch thường xuyên, nhưng để tổ chức đánh một trận tập kích diệt gọn thật là phức tạp. Vừa chập tối bọn địch đã lẩn như chạch, lúc ở đồi này, lúc sang đồi khác.

        Mờ sáng ngày 28 tháng 2 năm 1969, đài quan sát báo về chỉ huy tiểu đoàn: Xe tăng và bộ binh địch từ phía núi Đá Bạc đang nống ra phía bắc núi Hồ Khê, cách nơi trú quân của Đại đội 2 khoảng 500 mét đường chim bay.

        Ngay phiên liên lạc vô tuyến đầu tiên của buổi sáng ngày 28 tháng 2, chỉ huy Đại đội 2 và Đại đội 3 chúng tôi đã nhận được lệnh của tiểu đoàn: cho bộ đội sẵn sàng xuất kích về phía Hồ Khê. Cùng lúc, tiểu đoàn cũng lệnh cho đại đội hỏa lực trợ chiến bố trí ngay trận địa, sẵn sàng chi viện cho bộ binh.

        Sau khi hội ý chớp nhoáng, ban chỉ huy tiểu đoàn thống nhất dùng cao điểm 68 làm trận địa xuất phát tấn công, đánh xong trận đầu, trụ lại để tiếp tục diệt địch.

        Cán bộ Đại đội 2 và Đại đội 3 chúng tôi đã có mặt nhận nhiệm vụ cụ thể của ban chỉ huy tiểu đoàn. Bộ đội cũng đã hành quân cấp tốc triển khai theo hướng tiến công vào cao điểm 68. Cán bộ từ trung đội trở lên được lệnh đi bám địch. Chiến sĩ truyền đạt tỏa xuống các hướng để truyền đạt mệnh lệnh. Máy vô tuyến điện tạm thời ngừng hoạt động, chỉ dùng tín hiệu để giữ bí mật. Tất cả đều khẩn trương, lặng lẽ triển khai thực hiện nhiệm vụ.

        Lúc này, ta và địch chỉ cách nhau vài trăm mét.

        Xe tăng và lính Mỹ hành quân theo đúng bài bản của quân đội Mỹ. Qua máy thông tin, tiểu đoàn nhận được tín hiệu xin nổ súng của các đại đội.

        Ngay lập tức lệnh nổ súng được truyền đi. Cối 82 ly của ta bắn dồn dập. Lính Mỹ đang nháo nhác thì bất thần các chiến sĩ bộ binh xông lên, dùng B40,.

        B41 bắn vào những chiếc xe tăng. Xe tăng địch bị cháy, khói đen cuộn lên như những chiếc nấm khổng lồ. Các chiến sĩ ta gặp xe đánh xe, gặp bộ binh Mỹ đánh bộ binh Mỹ. Cối 82 ly và cối 60 ly của ta bắn khóa đuôi. Tôi lệnh cho Trung đội trưởng Phan Hữu Mỹ (anh là con ông Phan Hữu Dần, quê xóm 1, khu phố 3, thành phố Vinh, Nghệ An) dẫn trung đội luồn xuống phía nam để đánh từ sau lên, tạo thành một gọng kìm khóa địch lại.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #35 vào lúc: 25 Tháng Giêng, 2017, 02:43:16 pm »


        Tiếng súng địch lan dần xuống phía nam núi Hồ Khê Lúc này địch đã điều tiếp quân ra ứng cứu.

        Tiểu đoàn lệnh cho dừng lại, một bộ phận giải quyết hậu quả chiến đấu, nhanh chóng đưa thương binh nặng và tử sĩ ra phía sau, đại bộ phận chốt còn lại giữ khu vực Hồ Khê.

        Bộ đội ta hối hả đào công sự, cán bộ tranh thủ thống nhất phương án đánh địch trên từng cánh, từng hướng.

        Địch lại đến! ở trận địa chốt của Đại đội 2, tôi nghe rõ tiếng động cơ đang sôi réo ở phía trước. Pháo địch từ Miếu Bái Sơn bắn xuống, từ Cam Lộ bắn ra, chi viện cho bộ binh và xe tăng Mỹ phản kích. Núi Hồ Khê bỗng chốc trở thành tọa độ lửa.

        Được xe tăng dẫn đường lính Mỹ tiến công vào hướng của Đại đội 2. Cán bộ, chiến sĩ ta gan góc điểm xạ ngắn. Đội hình tiến công của địch oằn lại, lính Mỹ bị đánh bật về phía sau. Địch cho máy bay đến ném bom, bắn phá xuống quanh núi Hồ Khê.

        Ba mươi phút chiến đấu trôi qua, quân Mỹ chưa chọc thủng được trận địa chốt của quân ta nhưng chúng đã lấn được một phần trận địa Đại đội 2. Tổ chốt do Tiểu đội trưởng Trần Văn Trinh (quê Trinh ở Cẩm Lai, Cẩm Yên, Thạch Thất, Hà Tây) chỉ cách chiếc xe tăng địch bị cháy 50 mét. Chiến sĩ ta nhìn rõ những tên Mỹ cởi trần, mồ hôi nhễ nhại đầy bụi đất bám sau xe, miệng la lối om sòm. ở một tổ chốt khác, Tiểu đội trưởng Nguyễn Hữu Hệ (quê Hệ ở Vinh Quang, Diễn Thọ, Diễn Châu, Nghệ An) với khẩu trung liên PRC trong tay chốc chốc lại rung lên, anh điểm xạ từng loạt ngắn, găm địch xuống cho Tiểu đội phó Nguyễn Công Việt (quê Việt ở Đầm Trầu, Bằng Doãn, Đoàn Hùng, Phú Thọ) lắp quả đạn B40 để bắn chiếc xe tăng. Trung đội trưởng Phan Hữu Mỹ chạy đi chạy lại từng tổ chốt chỉ huy anh em chiến đấu. Trận địa của Trung đội trưởng Mỹ nằm trên một đoạn yên ngựa nối hai mỏm đồi phía tây của đại đội. Bọn địch lại tiếp tục tấn công. Xe tăng địch đứng từ xa bắn yểm hộ cho bộ binh chúng tiến lên. Lần này chúng đánh ồ ạt, dữ dội hơn.

        Sau những đợt tiến công thất bại, quân Mỹ lại gọi pháo vào máy bay bắn phá ác liệt, gây thương vong cho bộ đội ta. Trước tình hình đó, tiểu đoàn quyết định rút lực lượng lên phía bắc để đón địch trên đoạn đường chạy qua cao điểm 137. Trung đội của Phan Hữu Mỹ bị thương vong lớn, lính Mỹ tràn vào trận địa của ta...  Đau đớn và căm thù thay? Hôm sau, địch cho xe ủi đất san bằng trận địa, nơi còn thi hài mười cán bộ, chiến sĩ Đại đội 2 và Đại đội 4 để cho xe tăng, xe thiết giáp của Mỹ đi càn về tập kết.

        Mười cán bộ, chiến sĩ Đại đội 2 và ba chiến sĩ Đại đội 4, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 27 đã anh dũng hy sinh trong trận chiến đấu ngày 28 tháng 2 năm 1969 tại núi Hồ Khê.

        Đồng chí Phan Hữu Mỹ, Trung đội trưởng, B.4 F421, Khối 5, phường Quang Trung, thành phố Vinh, Nghệ An.
        Đồng chí Phùng Văn Thiết, Tiểu đội phó, quê Vực Giang, Hạ Bằng, Thạch Thất, Hà Tây.
        Đồng chí Hà Văn Đảm, Tiểu đội trưởng, quê Đoan Thượng, Hạ Hòa, Phú Thọ.
        Đồng chí Ngô Đức Hạt, Tiểu đội trưởng, thôn Vũ Lương Nha, Thanh Sơn, Phú Thọ.
        Đồng chí Cao Đăng Bơ, chiến sĩ, quê Tùng Lâm, Diễn Thọ, Diễn Châu, Nghệ An.
        Đồng chí Phạm Văn Long, Tiểu đội trưởng, quê Mỹ Hòa, Nghi Mỹ, Nghi Lộc, Nghệ An.
        Đồng chí Phạm Văn Kênh, chiến sĩ, quê Tân Hưng, Diễn Kỷ, Diễn Châu, Nghệ An.
        Đồng chí Lê Văn Thúy, chiến sĩ, quê Đại Thành, Diễn Kim, Diễn Châu, Nghệ An.
        Đồng chí Phạm Văn Hùng, chiến sĩ, quê Hùng Phú, Diễn Hùng, Diễn Châu, Nghệ An.
        Đồng chí Trần Minh Đức, Tiểu đội phó, quê Cao  Kim, Diễn Kim, Diễn Châu, Nghệ An.

        Ba đồng chí đã hy sinh của Đại đội 4 là:

        Đồng chí Nguyễn Ngọc Cảnh, Tiểu đội trưởng, quê thôn 3, Vũ Quý, Vũ Thư, Thái Bình.
        Đồng chí Nguyễn Ngọc Nghi, chiến sĩ, Hội Thịnh, Hợp Thịnh, Tam Dương, Phú Thọ.
        Đồng chí Lê Văn Ngọ, chiến sĩ, quê Thống Nhất, Hưng Thông, Hưng Nguyên, Nghệ An.

        Anh Nguyễn Minh Kỳ1 là huyện đội trưởng huyện Cam Lộ, nhiều lần cử người dẫn đường cho đơn vị tôi đánh địch. Và cũng nhiều lần lực lượng vũ trang địa phương do anh chỉ huy phối hợp chiến đấu với đơn vị tôi. Tôi còn nhớ, có lần sau trận đánh thắng lợi đơn vị rút về nơi an toàn, tôi và anh chia nhau thanh lương khô 701 của Trung Quốc. Đến bữa cơm, mỗi anh em cũng chỉ được hai lưng bát, ăn với ma-ri cô. Anh Kỳ đã chứng kiến cuộc chiến đấu của Đại đội 2 Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 27 ngày 28 tháng 2 năm 1969. Cách đây vài năm, khi anh cho máy ủi san đồi để trồng cao su thì phát hiện được hài cốt của cán bộ, chiến sĩ ta hy sinh ngày đó cùng những đôi dép râu, bi đông Trung Quốc, bật lửa, dây lưng... Thế là anh cho dựng nhà bia tưởng niệm ngay tại nơi này. Nhà bia tưởng niệm được hoàn thành vào ngày 22 tháng 12 năm 2005.

        Bia tưởng niệm ghi: Các chiến sĩ Trung đoàn 27 (Trung đoàn Triệu Hải anh hùng) đã chiến đấu và hy sinh anh dũng tại núi Hồ Khê xã Cam Tuyền huyện Cam Lộ tỉnh Quảng Trị năm 1969.

        Đồng gia đình và đồng chí Nguyễn Minh Kỳ, nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Trị cùng đồng đội dựng lập.

        Ngày 22.12.2005

---------------------------
        1. Sau này anh Nguyễn Minh Kỳ làm Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Trị.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #36 vào lúc: 25 Tháng Giêng, 2017, 02:46:22 pm »


        Thế là từ đó, anh Nguyễn Minh Kỳ và đồng đội đã có nơi đi về hương khói cho đồng đội, tưởng niệm những chiến sĩ Trung đoàn 27 anh hùng đã ngã xuống trên mảnh đất Cam Tuyền, Cam Lộ - mảnh đất từng là chiến trường nóng bỏng, nơi diễn ra những trận chiến đấu ác liệt giữa cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 27 với lính Mỹ trong hàng rào điện tử Mác Na-ma-ra.

        Bị thua đau trên chiến trường Bắc Quảng Trị - trong hàng rào điện tử Mác Na-ma-ra, chỉ huy quân đội Mỹ đã sử dụng con bài cuối cùng là dùng B.52 ném bom rải thảm xuống một vùng rộng lớn từ Vĩnh Sơn ra Vĩnh Lâm, Vĩnh Thủy (Vĩnh Linh).

        Trong vòng một giờ đồng hồ, 37 chiếc B.52 đã ném xuống Vĩnh Thủy 700 tấn bom. Khói bụi bốc lên lan dần sang khu đông, chỉ một lúc sau che kín cả 12 xã vùng đất đỏ.

        Kết hợp với B.52, địch còn dùng pháo cỡ lớn (loại 400 ly) từ ngoài biển, pháo chơm (nổ trên không), pháo lùi (nổ dưới lòng đất) để phá địa đạo, pháo lân tinh (gây bỏng, cháy), pháo bi sát thương người và vật trên mặt đất... Đây là những tội ác mới cực kỳ man rợ mà quân Mỹ gây ra trên chiến trường Quảng Trị.  Để bám trụ trên một địa bàn ác liệt như vùng Bắc Quảng Trị và khu vực Vĩnh Linh, công tác phòng tránh được bộ đội đặt thành một nhiệm vụ hết sức quan trọng. Chủ trương "quân sự hóa toàn dân, công sự hóa toàn khu vực Vịnh Linh" của Mặt trận B5 được tất cả các đơn vị vũ trang và nhân dân hưởng ứng. Thực hiện khẩu hiệu "Nhà che nắng che sương, hầm che xương che thịt", nhân dân và lực lượng vũ trang Vĩnh Linh chỉ bằng đôi bàn tay và những công cụ thô sơ đã kiên trì từ tháng này qua năm khác kiến tạo nên một hệ thống hầm hào ngang dọc chằng chịt khắp nơi. Đến đầu năm 1969, Vĩnh Linh đã đào được 2.090 ki-lô-mét hào giao thông thay cho mọi nẻo đường trên mặt đất, thôn nối thôn, xã nối xã, nhà nối nhà, hầm nối hầm. Cùng với việc đào hào giao thông nối liền mọi ngả đường trên toàn khu vực là hệ thống hầm hố phòng tránh cũng được xây dựng với 65 nghìn hầm chữ A, 31 nghìn hầm vuông, 84 nghìn hầm cá nhân, hơn 96 nghìn hầm tập thể, hàng chục nghìn hầm dành cho gia súc. Đặc biệt là hơn 30 nghìn mét địa đạo. Song, hệ thống hầm hào dù vững chắc đến đâu cũng chỉ chống được các loại bom pháo sát thương cỡ nhỏ, nó không chịu nổi sức công phá của bom đào, pháo lùi.

        Không ít trường hợp bom địch ném trúng hầm chữ A giết chết cả gia đình. Do đó việc nghiên cứu tìm ra một kiểu hầm mới có độ an toàn cao hơn càng trở nên cấp thiết.

        Tôi được biết, Tỉnh đội Quảng Trị được giao nhiệm vụ nghiên cứu và hướng dẫn xã Vĩnh Giang tiến hành đào địa đạo thí điểm. Sau hai tháng, một địa đạo dài 80 mét, sâu bảy mét được hoàn thành.

        Tuy nhiên đây mới chỉ là loại hầm tiểu đạo, trung đạo khoét sâu dưới lòng đất, có tác dụng tránh được bom pháo nhất thời, chứ chưa thể dùng để ăn ở sinh hoạt trong điều kiện địch đánh phá ác liệt, dai dẳng. Do vậy, chỉ vài tháng sau loại địa đạo khởi thủy ấy trở nên lạc hậu so với địa đạo dài hàng trăm mét, sâu vài chục mét, mà kỳ vĩ nhất là địa đạo thôn Vịnh Mốc xã Vĩnh Thạch.

        Học tập kinh nghiệm của Vĩnh Giang, lực lượng dân quân, nhân dân và lực lượng vũ trang đóng quân ở Vịnh Mốc chọn quả đồi đất đỏ ba zan cuối thôn, sát mép biển để xây dựng làng địa đạo. Sau ba tháng lao động kiên trì làng địa đạo Vịnh Mốc đã hoàn thành với hệ thống đường hầm gồm bốn nhánh có tổng chiều dài 2.008 mét. Địa đạo cấu trúc thành ba tầng, tầng cuối cùng sâu 18 mét so với mặt đất, có hai lối thông ra hai của chính hướng ra biển và tám lỗ thông hơi, thông khói. Trong địa đạo có ba giếng nước để ăn uống, tắm giặt, có hầm bệnh xá, hầm hộ sinh, kho lương thực, vũ khí, bếp nấu, nhà tắm cho từng hộ... Trong những năm ấy đã có 17 cháu bé ra đời trong lòng địa đạo, tất cả đều khỏe mạnh và trưởng thành. Với cách tổ chức và thiết kế ấy, làng địa đạo Vịnh Mốc giống như thôn Vịnh Mốc được thu nhỏ dưới lòng đất.

        Với hệ thống hầm hào, địa đạo chằng chịt ở khắp nơi như vậy nên trong chiến tranh, mặc dù bình quân đầu người phải chịu bảy tấn bom đạn các loại nhưng nhân dân và lực lượng vũ trang Vĩnh Linh vẫn bám trụ vững vàng, hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại về người và của.

        Do Quảng Trị có vị trí chiến lược quan trọng nên địch chọn nơi đây thí điểm chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh". Chúng điều đến đây một lực lượng quân lớn, lúc cao nhất lên đến 62 tiểu đoàn chủ lực. Cụ thể là: hai sư đoàn thủy quân lục chiến Mỹ, một lữ đoàn bộ binh cơ giới, hai lữ đoàn kỵ binh bay, một sư đoàn ngụy, mười tiểu đoàn pháo binh, ba thiết đoàn xe tăng, xe bọc thép, hàng chục đại đội bảo an, hàng trăm trung đội dân vệ. Ngoài lực lượng trên chúng còn sử dụng không quân, hải quân sẵn sàng chi viện tối đa bất cứ lúc nào.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #37 vào lúc: 26 Tháng Giêng, 2017, 05:31:36 pm »


        Với ưu thế về quân số, vũ khí, địch điên cuồng mở các cuộc hành quân càn quét trên cả ba vùng rừng núi, đồng bằng và đô thị, nhằm củng cố ngụy quân, ngụy quyền, giữ vững đô thị, hậu cứ và các trục đường giao thông chiến lược. Chúng còn đánh phá ác liệt căn cứ địa, hậu phương của ta để ngăn chặn từ xa. Chúng dùng mọi thủ đoạn đánh phá dã man mang tính phục thù khốc liệt. Cuộc chiến đấu giữa ta và địch lúc này diễn ra vô cùng ác liệt.

        Ở vùng đồng bằng, địch triển khai kế hoạch Bình định cấp tốc". Lực lượng tham gia bình định có lúc lên đến 30 tiểu đoàn. Các tiểu đoàn ngụy tập trung cày ủi mồ mả, làng mạc, ruộng vườn, xăm bới, lục soát, xúc hốt nhân dân vào các khu tập trung. Chúng mở các đợt thanh lọc, mua chuộc, dụ dỗ quần chúng, đẩy mạnh chiêu hồi, chiêu hàng, vơ vét người, của, lập phòng vệ dân sự, tăng cường đôn quân bắt lính. Chúng tập trung phá vỡ cơ sở cách mạng, làm cho phong trào chiến tranh du kích bị sa sút du kích và bộ đội chịu tổn thất nặng nề. Nhiều nơi trở thành vùng trắng. Thôn Thượng Xa xã Hải Thượng, huyện Hải Lăng là một thôn nhỏ nhưng địch đã dùng một đại đội Mỹ, hai đại đội ngụy và một đại đội cảnh sát càn quét 28 ngày liền. Hàng trăm người bị giết, bị bắt tra tấn dã man, trong đó có 11 người bị tra tấn đến chết.

        Tại vùng giáp ranh, địch đánh chiếm lập tuyến ngăn chặn, tăng cường càn quét, phục kích, tập kích, rải quân chốt các điểm cao, ra sức xây dựng, củng cố tuyến phòng thủ Mác Na-ma-ra, hình thành tuyến phòng thủ kiên cố từ Cửa Việt - Đông Hà - Đường 9.

        Ở vùng núi, chúng tổ chức nhiều cuộc hành quân quy mô lớn và vừa, kết hợp rải chất độc hóa học và dùng B.52 rải thảm, phi pháo đánh phá ác liệt các tuyến đường, hậu cứ, cơ quan, kho tàng của ta. Tháng 2 năm 1969, chúng tập trung bảy nghìn quân càn quét liên tục biên giới Việt - Lào, vùng A Xóc Tam Thanh, A Dơi, Cô Ca Va.

        Trong thời gian này, trên toàn tỉnh Quảng Trị lực lượng vũ trang ta gặp khó khăn nghiêm trọng, bị tổn thất nặng nề, cơ sở vật chất, vũ khí đạn dược đặc biệt lương thực rất thiếu thốn. Do những khó khăn gay gắt, có nơi, có lúc bộ đội ta một ngày chỉ được ăn nửa lon gạo với rau rừng tự kiếm. Nhạt muối kéo dài hàng tháng trời làm bộ đội đau ốm nhiều, thuốc men lại thiếu. Đây đó xuất hiện tư tưởng ngại gian khổ...

        Trong những năm từ 1969 đến 1970, Mỹ - ngụy điên cuồng phản kích đánh phá phong trào cách mạng. Chúng san ủi lập vành đai trắng ở bờ nam sông Bến Hải và hai bên trục Đường số 9, từ Cửa Việt đến Hướng Hóa nhằm cắt đứt giao thông nối liền miền Bắc với miền Nam, miền Đông với miền Tây của ta. Chúng đã đưa về Gio Linh và Cam Lộ các liên đoàn bình định ác ôn để càn quét, kìm kẹp, cách ly, chia rẽ Đảng với nhân dân, cán bộ với quần chúng. Hàng ngày chúng liên tục kéo quân đi đốt phá, bắn giết hết vùng này đến vùng khác, rồi tiến hành thanh lọc, bắt bớ, tra tấn, nhằm buộc quần chúng ly khai, quay lưng lại cách mạng. Mặt khác, chúng bình định nông thôn, đưa lính mũ nồi xanh Mỹ về nằm ở từng xã, từng vùng. Khẩu hiệu của chúng là: "Vãi lúa tráng men, bôi đen quần chúng", với âm mưu thâm độc là làm tốt xấu, trắng đen lẫn lộn, gây chia rẽ, nghi ngờ lẫn nhau trong nội bộ quần chúng nhân dân. Chúng ghi tên người dân vào các đảng phái, cộng tác viên của chúng. Thực chất chúng đã phân thành ba loại rõ ràng là loại "thân cộng", loại "thân quốc gia", loại "trung gian".

        Đồng thời, Mỹ - ngụy tập trung không quân, hải quân, lục quân với các loại vũ khí hiện đại liên tục đánh phá, khiến cho lực lượng cách mạng bị tốn thất lớn, phong trào cách mạng gặp nhiều khó khăn. Cam Lộ là một trong những trọng điểm đánh phá của chúng, nơi đây chúng lập ba chi khu, quận lỵ để kìm kẹp nhân dân. Bình quân cứ một người dân có đến ba tên lính.

        Thời gian này anh Nguyễn Minh Kỳ là Phó Bí thư huyện ủy Cam Lộ kiêm Trưởng ban An ninh.

        Anh Kỳ đã cùng với anh Quyết, anh Dương Tú Anh nhiều đêm thức trắng để suy nghĩ tìm cách đưa phong trào cách mạng đi tên. Anh Kỳ cho rằng nhiệm vụ hàng đầu là tập trung lực lượng vũ trang đối phó có hiệu quả với bọn tề ngụy đồng thời thọc sâu vào vùng địch để tiêu diệt những tên ác ôn khét tiếng. Với khẩu hiệu: "Đập trúng đầu rắn, bắn trúng kẻ thù", lực lượng an ninh do anh Kỳ phụ trách đã đánh hàng trăm trận, tiêu diệt trên một trăm tên ác ôn. Đặc biệt là trận diệt gọn ban chỉ huy liên đoàn bình định gồm năm sĩ quan (trong đó có tên đại úy liên đoàn trưởng vùng Cam Lộ) làm cho chúng hoang mang lo sợ. Anh còn chủ trương đánh những trận táo bạo, luồn sâu vào lòng địch mà đánh và đã mang lại những kết quả tốt, góp phần làm cho phong trào đấu tranh chính trị của huyện Cam Lộ có bước phát triển, bắt Mỹ - ngụy phải nhượng bộ từng bước. Anh Dương Tú Anh là người trực tiếp chỉ huy trận đánh nổi tiếng ngày 28 tháng 2 năm 1968 trên sông Hiếu. Sau này trận đánh được ví như Bạch Đằng Giang trên sông Hiếu.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #38 vào lúc: 26 Tháng Giêng, 2017, 05:33:20 pm »


        Trong những năm chiến đấu gian khổ, đơn vị chúng tôi còn được những nữ du kích, nữ y tá dẫn đường như chị Tân, chị Sáng, chị út... hoặc khi anh em bị thương, các chị tận tình cứu chữa sau đó mới chuyển về hậu cứ. Tôi và đồng đội tôi mãi mãi nhớ ơn các chị.

        Cũng trong những năm 1969, 1970, nhân dân các dân tộc Vân Kiều, Pa Cô phải trải qua nạn đói khủng khiếp kéo dài do chất độc hóa học của Mỹ.

        Thế nhưng khi được tuyên truyền, phổ biến về tình hình và nhiệm vụ mới, đông đảo đồng bào dân tộc đã đăng ký đi dân công phục vụ ở tuyến hành lang và các mặt trận. Trong đợt đầu, huyện Hướng Hóa đã huy động được trên 3 nghìn dân công, vượt chỉ tiêu của trên giao. Ngoài lực lượng dân công phục vụ các tuyến vận chuyển hàng hóa, Hướng Hóa còn huy động hai nghìn thanh niên cùng một đại đội công binh mở đường phục vụ Mặt trận Huế.

        Về lương thực, thực phẩm, ngoài việc nhận sự chi viện tiếp tế của miền Bắc, nhân dân các huyện đồng bằng cũng như miền núi Quảng Trị đều hăng hái "đóng góp nuôi quân". Lương thực, thực phẩm từ vùng biển, vùng lúa Triệu Phong và Hải Lăng được huy động đạt mức cao nhất (kể từ trước đến lúc bấy giờ) và được đưa vào tập kết tại các xã nằm trên đường hành lang của tỉnh như Hải Vĩnh, Hải Xuân Hải Thượng, Hải Phong. Lúc cao điểm, trung bình mỗi đêm có khoảng từ 500 đến 700 người, lúc thấp nhất cũng khoảng 200 đến 300 người gồm dân công, thanh niên xung phong, cán bộ, bộ đội ở chiến khu về tiếp nhận lương thực đưa lên dự trữ tại các khu căn cứ. Lương thực dự trữ lúc cao thêm huy động từ các huyện Hải Lăng, Triệu Phong lên tới 1.242 tấn gạo. ở nam Hướng Hóa huy động được hai nghìn tấn gạo và hàng chục triệu bịch sắn. (Mỗi gốc sắn ở đây thu hoạch được từ 1,5 đến 2 ki-lô-gam củ).

        Đầu tháng 3 năm 1969, Tiểu đoàn 1 tổ chức nhiều trận đánh nhỏ lẻ, liên tục theo trục đường 76 và trên Đường số 9 làm cho địch hoang mang. Tính từ ngày 1 tháng 3 đến ngày 1 tháng 4 năm 1969, Tiểu đoàn 1 đã bắn cháy 30 xe tăng, xe bọc thép và cả xe lửa chở quân của địch. Tiểu đoàn được Mặt trận B5 nêu gương là ngọn cờ đầu của phong trào diệt cơ giới Mỹ.

        Trong đợt hoạt động này, đồng chí Lê Nhật Tụng - chiến sĩ Đại đội 4 Tiểu đoàn 2, quê ở thôn Vinh Xuân, phường Đông Vĩnh, thành phố Vinh, Nghệ An đã dùng B41 tiêu diệt sáu xe tăng địch.

        Anh trở thành Dũng sĩ diệt cơ giới nổi tiếng của ' Mặt trận B5. Tháng 5 năm 1969, đồng chí Lê Nhật Tụng vinh dự được cùng đoàn đại biểu Dũng sĩ Quân giải phóng miền Nam ra Hà Nội chúc thọ Bác Hồ.

        Tấm ảnh Lê Nhật Tụng đang cùng các dũng sĩ miền Nam quây quần bên Bác đã trở thành niềm tự hào của những chiến sĩ Trung đoàn 27, Mặt trận B5.

        Trong đợt chiến đấu này, cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 1 đã dũng cảm, mưu trí, táo bạo đưa đội hình vào sâu trong lòng địch để tiêu diệt địch, ngăn chặn có hiệu quả cuộc nống lấn ồ ạt của chúng. Qua các cuộc chiến đấu của Tiểu đoàn 1, Ban chỉ huy Trung đoàn 27 đã rút ra được nhiều kinh nghiệm khi tác chiến với quân Mỹ và quân ngụy. Đó là, mạnh dạn, bí mật đưa lực lượng thọc sâu, đánh rồi trụ lại để kéo địch ra; tạo ra thời cơ, chủ động tiêu diệt địch.

        Với cách đánh này mặc dù ta sử dụng từng đơn vị nhỏ nhưng hiệu quả lại cao.

        Trong đợt hoạt động này, chiến sĩ Vi Văn Bê, (dân tộc Thái) với một keo vật đã hạ gục một tên biệt kích Mỹ.

        Tháng 3 năm 1969, Đại đội 17 nhận nhiệm vụ chi viện cho bộ binh vây ép và đánh địch giải tỏa điểm cao 544. Cán bộ, chiến sĩ đơn vị đã diệt nhiều tên địch. Khi máy bay lên thẳng hạ xuống thả hàng, đơn vị đã bắn nổ tung một chiếc. Qua 11 ngày chiến đấu, Đại đội 17 đã phá hỏng bốn khẩu pháo 105 ly và cối 106,7 ly, bắn cháy bảy xe quân sự, một máy bay trực thăng, diệt và làm bị thương hàng chục tên địch.

        Ngày 20 tháng 5 năm 1969, phát hiện một đại đội quân ngụy nống ra đồi Không Tên, tiểu đoàn thông báo cho Đại đội 2 đứng chân gần đó. Nhận được lệnh, tôi hội ý ban chỉ huy, thống nhất phương án tác chiến và dẫn các trung đội trưởng đi bám địch. Chính trị viên tổ chức bộ đội, động viên anh em nhanh chóng xuất kích.  Trung đội trưởng Nguyễn Đình Cư đi đầu đội hình. Tôi cầm bản đồ, địa bàn cắt đường về hướng đồi Không Tên. Khi đến gần chân đồi chúng tôi phát hiện dấu vết địch vừa đi qua. Chúng mới vứt vỏ bao thuốc lá Rôby dọc đường. Tôi cho anh em cắt đường chặn địch. Khi đến phía đông đồi, chúng tôi phát hiện bọn địch đang nghỉ ăn trưa. Tôi nói với trung đội trưởng Cư: "Cho trung đội vòng lên chặn đầu còn Trung đội 3 khóa đuôi. Trung đội 1 đánh chính diện".

        Sau hai mươi phút chúng tôi triển khai đội hình thì quân địch cũng ăn trưa xong, đứa ngửa cổ uống nước, đứa hút thuốc... Tất cả đều chủ quan.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #39 vào lúc: 26 Tháng Giêng, 2017, 05:34:49 pm »


        Đúng lúc đó, tôi ra lệnh nổ súng. Bị đòn bất ngờ, quân địch xéo đạp lên nhau vừa bắn, vừa chạy tháo thân. Tôi cho cối 60 ly bắn cấp tập vào đội hình đang nhốn nháo của địch. Trận đánh diễn ra nhanh gọn. Đại đội 2 cơ bản đã loại khỏi vòng chiến đấu một đại đội của trung đoàn 2 quân ngụy ở đồi Không Tên. Nhưng, cũng thật đau buồn, đại đội cũng bị tổn thất: Sáu cán bộ, chiến sĩ hy sinh. Đó là các đồng chí: Trung đội trưởng Nguyễn Đình Cư, quê xóm 2, Nhân Phú, Lý Nhân, Hà Nam; Trung đội phó Nguyễn Văn Vĩnh, quê Tân Sơn, Văn Long, Hạ Hòa, Phú Thọ; Tiểu đội trưởng Trần Hoàn, quê Đỗ Nội, Tiền Hải, Duy Tiên, Hà Nam; Tiểu đội trưởng Nguyễn Đình Long, quê Đại Hà, Sơn Hà, Hương Sơn, Hà Tĩnh; chiến sĩ Đinh Sỹ Huấn, quê xóm 8, Đức Thanh, Đức Thọ, Hà Tĩnh; chiến sĩ Phùng Anh Xuân, quê Đông Quyền, Nghi Thu, Nghi Lộc, Nghệ An.  Số anh em hy sinh trên được đơn vị đưa về an táng tại chân cao điểm 122 thuộc xã Cam Tuyền, huyện Cam Lộ.

        Trước đòi hỏi của chiến trường ngày càng phải đánh lớn, nên các đơn vị từ đại đội đến tiểu đoàn, trung đoàn đều dồn sức xây dựng đơn vị về mọi mặt. Trước hết về chính trị, tư tưởng phải xây dựng ý chí chiến đấu, quyết tâm đánh Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn. Đồng thời tranh thủ huấn luyện quân sự bổ sung cho các đơn vị sau mỗi đợt chiến đấu. Vì vậy từng đại đội đã có bước trưởng thành rõ rệt, hiệu quả chiến đấu được nâng lên.

        Thời gian này, mặc dù mùa mưa đã đến, nhưng Mỹ - ngụy vẫn thường xuyên tổ chức những cuộc hành quân nống lấn ra phía bắc Đường số 9. âm mưu của chúng là chiếm giữ bằng được các cao điểm trọng yếu nằm giữa khu vực Cồn Tiên và cao điểm 544 (Phu-lơ), nhằm ngăn chặn các cuộc tiến công của ta vào Đường số 9 khi mùa khô đến.

        Thám báo Mỹ đã ra tới bờ nam sông Bến Hải.

        Khi phát hiện được các trục đường hành quân của ta, chúng lập tức đổ quân chiếm giữ các cao điểm để khống chế. Quân Mỹ còn tập trung bom đạn đánh phá các khu kho hậu cần của ta ở khu vực Khe Cau, cao điểm 33, cao điểm 402, gây cho ta không ít khó khăn.

        Trong những cơn mưa tầm tã triền miên giữa núi rừng Bắc Quảng Trị, trong hàng rào điện tử Mác Na-ma-ra vẫn vang lên tiếng súng tiến công địch của Đoàn đặc công 33; Đại đội 3, Đoàn 75 vào phối hợp chiến đấu với Trung đoàn 27 và các đơn vị địa phương tỉnh Quảng Trị. Các cụm chốt của địch vừa chiếm giữ ở các cao điểm 161, 322 lần lượt bị ta đánh bật. Để bảo vệ hàng rào điện tử phía tây căn cứ Cồn Tiên, Miếu Bái Sơn và phía bắc quận lỵ Cam Lộ, địch bất chấp mưa lũ vẫn tung quân hoạt động mạnh ở khu vực này. Các chiến sĩ Trung đoàn 27 cùng các đơn vị bạn kiên cường bám trụ, vượt mọi khó khăn, ác liệt, giành giật với quân Mỹ - ngụy từng cao điểm để giữ vững thế trận.

        Giữa lúc cuộc chiến đấu đang diễn ra liên tục và quyết liệt qua làn sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 27 vô cùng bàng hoàng đau đớn khi nhận được tin Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời. Không ai cầm được nước mắt. Nhiều tiếng nức nở bật lên. Theo thông báo của trên, sáng ngày 9 tháng 9 năm 1969 tại Quảng trường Ba Đình diễn ra lễ truy điệu Người trọng thể. Đại đội tôi cũng tổ chức lễ truy điệu Người đúng giờ với Thủ đô Hà Nội. Bàn thờ có bức ảnh Bác cắt ra từ báo, có cả hoa rừng. Cả đại đội tập trung nghẹn ngào làm lễ truy điệu Bác. Thay mặt cán bộ, chiến sĩ Đại đội 2, tôi đọc quyết tâm thư gửi lên Bộ tư lệnh Mặt trận B5. Tôi còn nhớ đoạn cuối cùng quyết tâm thư: "Từ Mặt trận Quảng Trị nóng bỏng, cán bộ, chiến sĩ Đại đội 2, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 27 xin hứa với Bộ tư lệnh Mặt trận, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, quyết biến đau thương thành hành động cách mạng, chiến đấu đến khi quân Mỹ phải cút sạch, quân ngụy sụp đổ hết, thống nhất nước nhà để thỏa lòng Bác Hồ hằng mong”.

        Sau đó toàn mặt trận phát động phong trào học tập và làm theo Di chúc của Bác. Những trận đánh 'lập công đền ơn Bác" liên tục diễn ra, gây cho địch tổn thất lớn.

        Mở đầu là trận tập kích diệt gọn một cụm xe tăng 11 chiếc và 60 tên Mỹ của Đại đội 1, Tiểu đoàn 1 ở khu vực Khe Nước (đông nam Cồn Tiên) vào đêm 1 tháng 10 năm 1969.

        Sau chiến thắng Khe Nước, anh Ngô Minh Hớn, cán bộ tuyên huấn trung đoàn đã sáng tác bài hát "Chiến công đền ơn Người". Lời ca có đoạn: Hôm nay mồng Một tháng Mười, con vào trận đánh trả ơn Người đầu tiên. Lấy máu đỏ viết quyết tâm thư. Đánh trận đầu ta tiêu diệt gọn. Trăm chiến binh là trăm mũi nhọn. Quyết thọc sâu vào sào huyệt quân thù...

        Tại Hội diễn văn nghệ toàn Mặt trận B5 năm 1969, bài hát "Chiến công đền ơn Người" của Đội văn nghệ Trung đoàn 27 đoạt giải nhất.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM