Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 09:43:22 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Những điều đọng lại qua hai cuộc chiến tranh  (Đọc 36462 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #60 vào lúc: 25 Tháng Giêng, 2017, 02:25:20 pm »


CHIẾN TRƯỜNG KHE SANH NĂM 1968

        Sư đoàn 304 tham gia chiến đấu trên chiến trường Khe Sanh từ lúc bắt đầu cho đến khi kết thúc chiến dịch. Cuộc chiến đấu kéo dài liên tục 6 tháng. Trước lúc nói đến các trận chiến đấu vô cùng ác liệt và thắng lợi vẻ vang trên chiến trường, tôi muốn dành ít dòng nói về sự ra đời của sư đoàn.

        Năm 1965, sau khi Sư đoàn 304a lên đường vào Nam chiến đấu, Bộ Tổng tư lệnh quyết định xây dựng một Sư đoàn 304 khác, Sư đoàn 304b. Để ưu tiên cho chiến trường, Bộ quyết định chỉ rút một số lượng rất ít cán bộ Sư đoàn 304a, chỉ tiếp nhận 20 cán bộ từ Sư đoàn 304a. Như vậy, thực tế Sư đoàn 304b xây dựng và huấn luyện là một sư đoàn mới. Tuy vậy khi vào chiến trường, sư đoàn đã đánh thắng ngay trận đầu và đánh thắng liên tiếp. Điều đó nói lên rằng nếu có sự nỗ lực cao của cấp trên và của bản thân sư đoàn, một sư đoàn xây dựng mới vẫn có thể chiến đấu tốt ngay từ đầu. Từ thành công của Sư đoàn 304b trên chiến trường Khe Sanh, chúng ta đã xóa được quan niệm, đơn vị từ miền Bắc vào phải sau 6 tháng mới chiến đấu tốt được.

        Đầu tháng 11 năm 1967, sư đoàn được lệnh hành quân vào chiến trường. Một số cán bộ, chủ yếu là chỉ huy trưởng từ cấp tiểu đoàn trở lên, cùng một số trinh sát đi ô tô vào trước để nhận nhiệm vụ chiến đấu và chuẩn bị chiến trường. Sau khi gặp tư lệnh chiến dịch, sư đoàn được giao nhiệm vụ cùng Sư đoàn 325 tác chiến tại khu vực Khe Sanh. Sư đoàn 304 chiến đấu dọc đường 9 và khu vực phía nam. Sư đoàn 325 chiến đấu khu vực bắc đường 9. Lúc này, sư đoàn chỉ biết ngoài lực lượng chiến đấu ở khu vực Khe Sanh, còn một lực lượng khác chiến đấu ở phía đông đường 9, trên địa bàn các huyện Gio Linh, Cam Lộ. Tất cả chúng tôi hoàn toàn không biết gì về việc ta chủ trương, trong dịp Tết Mậu Thân năm 1968 sẽ đồng loạt tiến công vào các thành phố, thị xã trên toàn miền Nam. Nhiệm vụ cụ thể của sư đoàn là tiêu diệt chi khu Hướng Hoá, 2 tiểu đoàn quân ngụy Lào ở khu vực Tà Mây (trên đất Lào), bao vây cụm cứ điểm Làng Vây, kéo viện binh địch ra để tiêu diệt chúng.

        Căn cứ tình hình cụ thể địch ta, sư đoàn giao nhiệm vụ Trung đoàn 66 do đồng chí Nguyên Ân làm trung đoàn trưởng, đồng chí Trần Trác làm chính ủy có nhiệm vụ tiêu diệt chi khu Hướng Hoá, sau đó cùng Trung đoàn 9 do đồng chí Nguyễn Hoá làm trung đoàn trưởng, đồng chí Nghiêm Kình làm chính ủy đánh viện binh trên đoạn đường từ Tà Cơn đến Làng Vây. Trung đoàn 24 do đồng chí Lê Công Phê làm trung đoàn trưởng, đồng chí Lê Tâm làm chính ủy có nhiệm vụ tiêu diệt cụm quân ngụy Lào ở khu vực Tà Mây, sau đó tiến vào bao vây cụm địch ở Làng Vây.

        17 giờ ngày 20 tháng 1 năm 1968 Trung đoàn 66 bắt đầu hành quân từ vị trí tập kết chiến đấu vào tiến công chi khu Hướng Hoá, dự định tiêu diệt chi khu ngay trong đêm. Trên đường hành quân, trung đoàn bị B52 đánh vào đội hình. Vừa khắc phục hậu quả do B52 gây nên, vừa mở đường hành quân, 4 giờ sáng ngày 21 tháng 1 trung đoàn quyết định triển khai lực lượng và tiến công ngay để thực hiện đúng thời gian chiến đấu do cấp trên giao. Một mặt vì phải triển khai lực lượng gấp, mặt khác vì trời bắt đầu sáng, sau khi chiếm được một lô cốt và một dãy nhà, tiến công của trung đoàn bị địch chặn lại, không tiến lên được. Trung đoàn lập tức củng cố lại lực lượng tiến công, triển khai thêm hoả lực để tiếp tục tiến công vào đêm ngày 21 tháng 1. Rạng sáng ngày 22 tháng 1 trung đoàn đã làm chủ chi khu Hướng Hoá, hoàn thành nhiệm vụ trên giao, bố trí lại đội hình chiến đấu để đánh viện binh địch. Các ngày 23 và 24 tháng 1, Trung đoàn 24 được một đại đội xe tăng chi viện đã diệt xong cụm quân địch ở khu vực Tà Mây. Toàn bộ lực lượng sư đoàn triển khai sẵn sàng đánh địch hành quân giải toả.

        Sau 10 ngày kể từ khi ta tiến công chi khu Hướng Hoá, vẫn không thấy địch hành quân giải toả. Lúc nhận nhiệm vụ, đồng chí Thái Dũng, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 304 có xin ý kiến đồng chí Trần Quý Hai, Tư lệnh chiến dịch: Nếu địch không hành quân giải toả thì nhiệm vụ tiếp theo của sư đoàn là gì? Đồng chí Trần Quý Hai, qua kinh nghiệm đánh Mỹ trong hai mùa khô 1965-1966 và 1966-1967, khẳng định địch sẽ hành quân, ngay khi chủ lực ta xuất hiện. Đồng chí đã trả lời đồng chí Thái Dũng: Không sợ địch không lên, chỉ lo các anh không đủ sức đánh dài ngày để cầm chân chúng. Lần này chúng ta xuất hiện lực lượng lớn, có cả sự tham gia của các loại pháo binh cỡ lớn. Với mười ngày địch chỉ đủ thời gian nắm tình hình đặt kế hoạch tác chiến, điều quân và chuẩn bị hành quân giải toả. Đúng mười ngày sau, ta tiến công đồng loạt vào nhiều thành phố, thị xã, tất nhiên địch phải giải toả các thành phố, thị xã, không còn lực lượng để hành quân lên vùng rừng núi. Chỉ sau khi cuộc tiến công vào các thành phố, thị xã diễn ra, chúng tôi mới được phổ biến, nhiệm vụ của chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh là kéo địch lên, giam địch nhiều ngày ở vùng rừng núi để tạo điều kiện thuận lợi cho đòn tiến công chủ yếu của ta, đánh vào các thành phố, thị xã.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #61 vào lúc: 25 Tháng Giêng, 2017, 02:28:35 pm »


        Từ tình hình ta đã tiến công đồng loạt vào các thành phố, thị xã, Bộ tư lệnh chiến dịch thấy rõ các trận đánh vừa qua chưa đủ mạnh để bắt địch phải hành quân giải toả. Để tăng thêm sức ép với địch, Bộ tư lệnh chiến dịch ra lệnh cho sư đoàn tiến công tiêu diệt cụm cứ điểm Làng Vây. Được tăng cường 1 tiểu đoàn bộ binh của Sư đoàn 325, hai đại đội đặc công của Mặt trận B51, hai đại đội xe tăng, được cụm pháo binh chiến dịch trực tiếp chi viện, trong đêm ngày 7 và sáng ngày 8 tháng 1 năm 1968 Sư đoàn 304 đã tiêu diệt gọn cụm cứ điểm Làng Vây bắt gần 400 tù binh.

        Mười ngày nữa trôi qua, cuộc tiến công tại một số thành phố, thị xã đang gặp khó khăn, mặt trận Đường 9 - Khe Sanh vẫn không kéo được địch ra. Lúc này, chúng ta thấy rõ, chỉ có gây sức ép trực tiếp vào cụm quân Mỹ ở Tà Cơn, gây cho chúng cảm thấy nếu không giải toả sẽ mất Tà Cơn, mới có thể kéo được địch lên Khe Sanh.

        Cuộc vây hãm và sau chuyển sang vây lấn Tà Cơn bắt đầu. Sư đoàn 325 sử dụng 1 trung đoàn vây lấn từ phía tây, Sư đoàn 304 sử dụng Trung đoàn 9 vây lấn từ phía nam, lực lượng còn lại sẵn sàng đánh địch ở chiến trường Khe Sanh chỉ còn lại Sư đoàn 304. Sư đoàn đưa 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 66 và 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 24 vào vây lấn phía tây thay cho lực lượng Sư đoàn 325 rút đi. Lực lượng cơ động đánh địch giải toả lúc này chỉ còn 2 trung đoàn thiếu.

        Cuộc bao vây, đánh lấn Tà Cơn kéo dài 50 ngày, từ ngày 10 tháng 2 đến ngày 31 tháng 3 ... Ta triển khai ngay các loại hoả lực, đánh mạnh vào căn cứ để vừa phá hoại công sự, vừa tiêu diệt sinh lực, vừa ngăn chặn các loại phi cơ tiếp tế cho căn cứ và di tản bọn bị thương ra ngoài. Đồng thời ta liên tục đào công sự tiến dần vào căn cứ chúng, để một mặt uy hiếp mạnh tinh thần bọn trong căn cứ, mặt khác đưa hoả lực từng bước triển khai gần địch hơn để đánh phá có hiệu quả hơn. Quân địch do phải đối phó với tiến công của ta ở các thành phố và đô thị nên chúng dùng hoả lực tối đa để ngăn ta tiến công vào Tà Cơn...

        Cách căn cứ Tà Cơn 800m có điểm cao 471. Đặt hoả lực ở đây có thể bắn loại bất kỳ tên địch nào cơ động trên mặt đất, có thể bắn trúng bất kỳ loại phi cơ nào cất hạ cánh ở sân bay. Quân địch xem đây là một cái gai phải nhổ cho kỳ được. Ngày này qua ngày khác, chúng đã trút xuống đây hàng trăm tấn bom đạn, làm sụt lở mấy mét trên đỉnh điểm cao. Anh em đã gọi đùa, nên gọi đây là cao điểm 469 chứ không còn là cao điểm 471 nữa, vì đã sụt lở mất 2m (một cách tương đối). Tất nhiên chúng ta cũng chịu tổn thất nhiều, cả súng máy phòng không 12,7mm cũng chuẩn bị lên thay cho đơn vị bạn mất sức chiến đấu. Anh em cười nói với tôi: Thủ trưởng còn gì cứ cho anh em thêm. Lần này anh em lên điểm cao 471 chắc không trở về. Hành động, suy nghĩ của họ biểu lộ tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Nói cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh chưa nói lên hết hành động và suy nghĩ của họ.

        Để ngăn chặn ta đào công sự lấn vào căn cứ, địch đã huy động các loại phi cơ để đánh phá. Hàng ngày chúng cho phi cơ ném các loại bom phá để phá huỷ giao thông hào và hầm ẩn nấp. Sau đó chúng thả bom na-pan và bom bi để giết nốt những người lính của ta. Đứng trên đài quan sát nhìn xuống, ta có cảm giác như không còn một sinh vật nào có thể sống sót. Quân ta vẫn kiên trì bám trụ. Sau một đợt bom, họ lại tiếp tục khắc phục hậu quả tiếp tục đào công sự lấn vào căn cứ, tiếp tục dùng các loại hoả lực đánh phá căn cứ.

        Về phía địch, tình hình như thế nào? Chúng ta hãy nghe chính những lời nói của phía bên kia:

        Báo Anh tin hàng ngày, ra ngày 11 tháng 2 viết: “Quân Mỹ đã xơi no đòn, kinh hoàng và mất hết tinh thần, luôn lo ngại rằng đối phương có thể đánh bất kỳ lúc nào. Một trung sĩ Mỹ nói: Ôi thượng đế! Chúng con còn phải chịu đựng tình trạng này bao lâu nữa”.

        Hãng tin Mỹ AP đưa tin ngày 26 tháng 2 viết: “Đối với khoảng năm nghìn lính thủy đánh bộ còn đợi trong các hầm hố xây bằng bao cát ở Khe Sanh thì chẳng có gì để cảm ơn. Họ là những mục tiêu bị giam dưới đất vì những khẩu đại bác giết người. Không biết phát sắp tới sẽ rơi khi nào, xuống đâu, không biết liệu phát đó có nhằm vào họ hay không?”.

---------------------
       1. Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị.
« Sửa lần cuối: 26 Tháng Giêng, 2017, 05:11:32 pm gửi bởi Giangtvx » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #62 vào lúc: 26 Tháng Giêng, 2017, 05:12:03 pm »


        Cũng hãng tin AP đưa tin: “Trong hơn 2 giờ, 23 lính thủy đánh bộ chờ đợi, chen chúc trong các boong-ke ẩm ướt và tối đen ở dọc đường băng. Họ là những người sắp hết hạn ở Việt Nam. Họ chờ đợi để về nước. Nhưng ra khỏi Khe Sanh cũng khó khăn như ở lại đó. Trong khi họ chờ đợi, một máy bay lên thẳng CH53 bay tới đậu xuống một nơi gần đó. Ba lính thủy đánh bộ bị thương nằm trên cáng cần được chở đi. Trong vòng mấy giây, đạn súng cối và rốc-két rít trên đầu và nổ trên đường băng cách máy bay lên thẳng mấy bước. Người lái đẩy tay lái ra phía trước và chiếc máy bay lên thẳng bay vội đi ngay, bỏ lại những người thương binh thất vọng, chửi rủa om sòm...”. Đến lúc này, bộ chỉ huy quân Mỹ không thể không đưa lực lượng lên giải toả. Bắt đầu từ ngày 1 tháng 4 toàn bộ sư đoàn kỵ binh bay, cùng một lữ đoàn quân dù của quân đội Sài Gòn được điều lên giải toả cho lực lượng lính thủy đánh bộ bị vây hãm và có nguy cơ bị đối phương tiến công tiêu diệt.

        Trước lúc đó quân chúng dùng hoả lực cả pháo binh và không quân hòng đẩy ta ra xa. Quân ta vẫn ẩn nấp trong các hầm ngay dưới chân các điểm cao chúng đổ quân, dùng súng cối, súng máy diệt địch cả trên trời và dưới đất. Ban đêm bộ binh và đặc công lại tiếp tục tập kích vào bọn địch xuống được các điểm cao để lập các căn cứ hành quân. Ban ngày khi chúng hành quân để giải toả, chúng ta lại xuất kích để diệt bọn địch đang cơ động hoặc triển khai tiến công. Trải qua 25 ngày từ ngày 1 đến ngày 25 tháng 4, kỵ binh bay bị đánh cho tả tơi phải rút chạy trong lúc lính thủy đánh bộ vẫn bị vây hãm.

        Để đối phó với tình hình quân Mỹ ở căn cứ Tà Cơn vẫn bị vây hãm, bộ chỉ huy lính thủy đánh bộ ở quân khu 1 phải vét hết lực lượng dự bị của chúng để mở tiếp cuộc hành quân giải toả vào đầu tháng 5. Sư đoàn 308 với lực lượng sung sức bước vào chiến đấu, tập trung đánh bọn lính thủy đánh bộ vừa đổ xuống chiến trường Khe Sanh. Lính thủy đánh bộ cũng không làm được gì hơn kỵ binh bay, trái lại bị thương vong nặng nề hơn.

        Đến nước này, bộ chỉ huy quân Mỹ phải chọn ở một trong ba mươi sáu chước: tẩu vị thượng sách. Bắt đầu từ ngày 26 tháng 6 đến ngày 15 tháng 7 Mỹ rút hết lực lượng chiếm đóng, bỏ Khe Sanh lại cho đối phương. Bộ chỉ huy Mỹ biết rõ bỏ Khe Sanh tức là mở đường cho các lực lượng đối phương từ miền Bắc tiến vào miền Nam được dễ dàng. Chúng ta hãy nghe các hãng tin phương Tây nói gì?

        Đài phát thanh Anh BBC ngày 30 tháng 6 nói: “Việc rút lui Khe Sanh không phải đơn giản bỏ rơi một yếu điểm, mà là bỏ rơi một ảo tưởng và một chính sách mà tất cả nỗ lực của Hoa Kỳ đã dựng nên, đã tan rã ra tro như những pháo đài xi măng cốt thép ở Khe Sanh”.

        Hãng tin Mỹ AP ngày 27 tháng 6 viết: “Việc quân Mỹ rút khỏi Khe Sanh là một thất bại đối với Mỹ. Các quan chức cao cấp của Mỹ ở Hoa Thịnh Đốn và Sài Gòn đã từng nói, phải bảo vệ căn cứ này bằng bất cứ giá nào. Thậm chí nhiều người phát ngôn của lính thủy đánh bộ còn nói: Nếu chúng ta rút khỏi Khe Sanh thì liệu chúng ta dừng lại ở đâu? Trên biển Nam Hải chắc?”.

        Có thể kết luận, cùng với chiến công đánh đồng loạt nhiều thành phố và thị xã, chiến công đánh bại địch ở Khe Sanh đã làm phá sản hoàn toàn chiến lược “tìm diệt” của đế quốc Mỹ. Ở Khe Sanh, quân Mỹ không phải đi tìm lực lượng đối phương. Đối phương không chỉ có các đơn vị nhỏ, mà là mấy vạn quân, đủ các binh chủng bộ binh, xe tăng, pháo binh... đứng vững ở Khe Sanh 6 tháng. Cuối cùng quân Mỹ rút đi, đối phương làm chủ Khe Sanh. Thực sự chúng ta đã đảo ngược thế cờ. Trước đây Mỹ tìm diệt ta. Ở Khe Sanh cũng như tại các thành phố, thị xã, ta lại tìm diệt chúng.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #63 vào lúc: 26 Tháng Giêng, 2017, 05:21:11 pm »

     
THƯỢNG ĐỨC

        Quân đoàn thành lập mới hơn một tháng, bao nhiêu việc cần phải làm: ổn định tổ chức, ổn định địa điểm đóng quân, bổ sung các trang thiết bị và đặc biệt phải tập trung huấn luyện. Quân đoàn tuy bao gồm hầu hết các đơn vị cùng chiến đấu trên một chiến trường, nhưng mỗi đơn vị đều có truyền thống riêng, trưởng thành trong hoàn cảnh khác nhau, hoàn cảnh chiến đấu cũng khác nhau. Sức mạnh quân đoàn không phải chỉ là sức mạnh của ba sư đoàn cộng lại, mà phải là sức mạnh của một tập thể lớn, được rèn luyện thống nhất trên nhiều mặt từ trên xuống dưới. Muốn thực hiện được sự thống nhất đó thì vấn đề số một là phải huấn luyện toàn diện cả quân sự và chính trị. Đảng ủy Quân đoàn, Bộ tư lệnh Quân đoàn đều thống nhất nhiệm vụ trọng tâm trước mắt là huấn luyện.

        Đồng chí tư lệnh quân đoàn, xuất thân là cán bộ chính trị, đã từng là chính ủy trung đoàn, rồi chính ủy sư đoàn, đã xa chiến trường thời gian dài nên ngoài kinh nghiệm về mặt tác chiến (chủ yếu là ở khâu chiến dịch), về huấn luyện cụ thể cho bộ đội về chiến thuật các cấp, đồng chí có hạn chế nhất định. Vì vậy riêng về huấn luyện quân sự, đồng chí tin tưởng và ủy thác cho tôi, một cán bộ đã chỉ huy chiến đấu từ cấp trung đội đến sư đoàn, đã được học tập cơ bản ở học viện quân sự tại Liên Xô đã là giáo viên và sau đó là trưởng khoa chiến thuật ở học viện quân sự.

        Đang tập trung huấn luyện, quân đoàn nhận được lệnh phái Sư đoàn 304 vào phối thuộc cho Quân khu 5 trong chiến dịch Hè Thu ở Nông Sơn - Thượng Đức. Vừa huấn luyện vừa chiến đấu là hoàn toàn rất bình thường trong quân đội ta, nếu không muốn nói đó là hoàn cảnh có lợi nhất để đơn vị trưởng thành nhanh: lấy huấn luyện để nâng cao trình độ tác chiến và lấy kinh nghiệm tác chiến để nâng cao trình độ huấn luyện.

        Sư đoàn 304 trực tiếp phối thuộc cho Quân khu 5, mọi hoạt động tác chiến của sư đoàn đều do Bộ tư lệnh Quân khu 5 trực tiếp chỉ huy. Nhưng đây là trận đấu của một đơn vị trong quân đoàn từ khi quân đoàn thành lập. Để xây dựng quân đoàn, nhất thiết lần ra quân đầu, trận đầu phải thắng. Vì vậy quân đoàn đặt vấn đề phải tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sư đoàn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Một trong những việc thiết thực nhất là tăng cường chỉ huy cho sư đoàn. Sư đoàn 304 là đơn vị tôi ở đấy từ khi thành lập và là người chỉ huy sư đoàn trong tám năm qua, vì vậy Bộ tư lệnh Quân đoàn bàn và quyết định cử tôi vào để tăng cường chỉ huy cho sư đoàn vào từng đợt theo nhu cầu công việc, không đi cùng sư đoàn suốt cả thời gian chiến dịch. Tôi vào sư đoàn ba đợt: đợt tổ chức và chuẩn bị tác chiến, đợt đánh quận lỵ Thượng Đức lần thứ hai và đợt đánh quân địch phản kích.

        Tất cả những hoạt động của Sư đoàn 304 trong chiến dịch Nông Sơn - Thượng Đức, Lịch sử Sư đoàn 304 cũng như Lịch sử Quân đoàn 2 đã viết khá đầy đủ. Tôi đặc biệt đi sâu vào ba đợt mà tôi có điều kiện tham gia.

        Vào Thượng Đức lần thứ nhất tổ chức và chuẩn bị tác chiến:

        Nhiệm vụ của Sư đoàn 304 (lúc đầu có 2 trung đoàn), là tiêu diệt quận lỵ và chi khu quân sự Thượng Đức, đánh viện từ Đà Nẵng lên.

        Quận lỵ và chi khu quân sự bao gồm một đồn chính do tiểu đoàn biệt động quân đóng giữ, bên cạnh có quận lỵ hành chính do 2 đại đội bảo an bảo vệ, vòng ngoài có các đồn nhỏ hình thành một cụm cứ điểm được tổ chức khá chặt chẽ với công sự khá kiên cố. Tuy nhiên Sư đoàn 304 năm 1968 trong trận đầu đã diệt quận lỵ Hướng Hoá và năm 1972 trong một đợt tác chiến đã diệt 2 trung đoàn địch đóng trong công sự kiên cố (trung đoàn 56 sư đoàn 3 và lữ 147 sư đoàn lính thủy đánh bộ) nên nhiệm vụ được giao là trong tầm tay của sư đoàn. Từ cán bộ sơ cấp đến chỉ huy sư đoàn đều tin tưởng sẽ hoàn thành nhiệm vụ.

        Vấn đề đặt ra trong công tác tổ chức và chuẩn bị tác chiến là làm thế nào diệt địch được nhanh gọn và ít thương vong. Nói chung người chỉ huy nào và trong bất kỳ giai đoạn chiến tranh thời kỳ sau Hiệp định Pa-ri, cũng có cảm giác đã đi gần hết đoạn đường tới thắng lợi hoàn toàn. Tự nhiên đến lúc này, chúng tôi nghĩ nhiều đến những người lính của đơn vị, trải qua những giai đoạn ác liệt nhất và còn sống đến ngày nay. Chúng tôi không muốn để hy sinh thêm một người nào nữa. Tất nhiên đó chỉ là mơ ước vì còn chiến tranh thì còn thương vong. Nhưng hơn thời kỳ nào hết, lúc này chúng tôi phải suy nghĩ thật kỹ để thương vong ít nhất.
« Sửa lần cuối: 27 Tháng Giêng, 2017, 12:29:29 am gửi bởi Giangtvx » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #64 vào lúc: 26 Tháng Giêng, 2017, 05:22:19 pm »


        Sức mạnh trong phòng ngự của địch lệ thuộc vào sức sống của các hoả điểm. Diệt được các hoả điểm là có thể đánh chiếm được trận địa địch. Khả năng phản kích của địch khi ta đã đột nhập được vào trận địa rất hạn chế. Đánh trong trận địa tức là đánh giáp lá cà, lúc này ai tinh thần cao người đó sẽ thắng. Tất nhiên về mặt tinh thần chiến đấu thì lính địch không thể so sánh với bộ đội của ta được. Vì vậy, trong kế hoạch tác chiến, vấn đề đặt ra để diệt địch nhanh gọn và ta ít thương vong là phải tiêu diệt được nhiều hoả điểm của địch, muốn diệt được nhiều hoả điểm trước lúc mở cửa, trước lúc xung phong thì vấn đề hàng đầu là đưa được nhiều pháo lớn vào bắn thẳng. Với pháo lớn đưa vào bắn thẳng, với một, hai phát đạn là đã có thể diệt được một hoả điểm. Như vậy, vấn đề nổi lên trong kế hoạch lần này là đưa pháo lớn vào bắn thẳng. Muốn vậy, vấn đề hàng đầu là làm đường để đưa pháo vào. Lúc đầu cũng có đồng chí có do dự, thời gian có hạn mà phải làm mới gần 40km đường thì không phải đơn giản. Công binh sư đoàn chỉ có 1 tiểu đoàn, nếu lấy thêm 2 đại đội công binh của 2 trung đoàn thì cũng không được là bao. Theo ý kiến của đồng chí Nuôi, Chủ nhiệm công binh sư đoàn, một cán bộ có tinh thần trách nhiệm, có trình độ kỹ thuật (đồng chí Nuôi đã tốt nghiệp đại học giao thông khoa cầu đường, đã kinh qua 5 năm ở chiến trường) thì muốn hoàn thành con đường trong 20 ngày, phải được sự giúp đỡ của địa phương, huy động nhân dân lên mặt đường, với lực lượng 1 tiểu đoàn công binh và 2 tiểu đoàn bộ binh của sư đoàn. Sư đoàn đã hoàn thành con đường cho xe kéo pháo đúng thời gian.

        Xe kéo pháo chỉ đến bờ sông Vu Gia. Từ đấy vào trận địa đưa pháo vào không khó lắm. Nhưng còn một vấn đề nữa là kéo pháo lên đồi cao để bắn được theo góc tà âm. Kéo pháo thì ở Điện Biên Phủ ta đã kéo mấy chục khẩu. Nhưng lúc đó là kéo pháo vào trận địa bắn gián tiếp cách địch 4-5km, có thể vừa hò vừa kéo và tập trung 40-50 người để kéo một khẩu. Ở đây trận địa pháo bắn ngắm trực tiếp chỉ để cách địch 800m, tối đa không được quá 1.000m. Phải nghĩ ra cách dùng ít người mà nhẹ nhàng đưa các khẩu pháo từ dưới lòng sông lên đồi cao. Một sáng kiến được đề ra, đến nay ai là tác giả sáng kiến đó, tôi cũng không còn nhớ. Sau này đánh giá lại sáng kiến đó, chúng tôi cho là một sáng kiến có giá trị nghệ thuật lớn. Nhờ sáng kiến đó mà giai đoạn đánh địch phản kích chúng tôi đã kéo pháo lên tận điểm cao 1062. Tiếp theo là đợt hoạt động tây nam Thừa Thiên mùa thu năm 1974, tiếp nữa là mùa Xuân năm 1975, các sư đoàn đều theo sáng kiến đó mà kéo hàng chục khẩu pháo lên động Truồi, động Kim Sắc để bắn thẳng. Sáng kiến cũng đơn giản: tháo nòng pháo ra, kéo nòng riêng, kéo chân riêng. Chỉ cần lấy hai chiếc lốp ô tô bọc hai đầu nòng, sử dụng 12 người kéo nòng, như vậy không hò reo gì mà kéo đi nhẹ nhàng. Để kéo chân pháo chỉ cần làm một con đường lượn theo sườn núi nhiều lần để độ dốc dưới 30 độ, rộng hơn khoảng cách 2 bánh pháo một chút (khoảng 1m2) với 15 người có thể kéo đi dễ dàng.

        Sau khi đã thống nhất với sư đoàn quyết tâm đưa pháo lớn vào bắn thẳng, chúng tôi nghĩ việc diệt chi khu Thượng Đức không còn có khó khăn gì lớn. Tôi tin tưởng hai đồng chí sư trưởng và sư phó có thể giải quyết được mọi vấn đề. Đồng chí Lê Công Phê, sư trưởng, là một cán bộ kỳ cựu của sư đoàn. Đồng chí từ người chiến sĩ của sư đoàn lên đến sư đoàn trưởng. Trước khi thành lập sư đoàn, đồng chí là chiến sĩ rồi tiểu đội trưởng, trung đội trưởng ở Trung đoàn 57. Sau khi Trung đoàn 57 được điều động về để thành lập Sư đoàn 304, tôi được điều từ Trị - Thiên ra làm tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 418 Trung đoàn 57, tôi gặp đồng chí Phê làm trung đội trưởng ở tiểu đoàn này. Từ đó hai chúng tôi cùng chiến đấu cạnh nhau cho đến hết thời kỳ chống Pháp. Trong hoà bình cùng nhau sang học ở Học viện quân sự Liên Xô cùng về làm giáo viên chiến thuật ở Học viện quân sự của ta, cuối cùng lại cùng nhau về Sư đoàn 304b để chiến đấu cho đến ngày nay. Những gì tôi biết về tác chiến cấp tiểu đoàn, trung đoàn thì đồng chí Phê cũng đều biết. Đồng chí còn là một cán bộ gan dạ, cán bộ mà tôi liệt vào loại chỉ lo hoàn thành nhiệm vụ tốt nhất, còn cá nhân mình sống chết đã có trời lo. Tôi hay nói đùa anh em: chết có số. Nếu số anh chết thì có chui xuống đất sâu bom đạn nó cũng theo xuống. Đồng chí Nguyễn Ân, Sư đoàn phó cũng là một cán bộ trưởng thành từ dưới lên, kinh qua tất cả các cấp, chiến đấu qua các loại hình, cũng được học cơ bản ở Học viện quân sự Trung Quốc, về làm giáo viên ở Học viện quân sự Việt Nam với tôi và cùng ra Sư đoàn 304b từ ngày bắt đầu thành lập với chức vụ trung đoàn trưởng Trung đoàn 66. Đồng chí là người trực tiếp chỉ huy Trung đoàn 66 diệt quận lỵ và chi khu quân sự Hướng Hoá năm 1968. Sau khi thống nhất kế hoạch tác chiến với thủ trưởng sư đoàn trên bản đồ trong đó nội dung cơ bản là dùng Trung đoàn 66 diệt căn cứ chính Thượng Đức, dùng Trung đoàn 3 cùng 1 tiểu đoàn địa phương diệt các cứ điểm ngoại vi và đánh viện, tôi trở về quân đoàn.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #65 vào lúc: 27 Tháng Giêng, 2017, 12:29:04 am »


       Vào Thượng Đức lần thứ hai.

        Tôi đang điều hành việc tập huấn chiến thuật cho cán bộ thì quân đoàn nhận được điện cùng một lúc của cả Sư đoàn 304, Quân khu 5 và Bộ, cho biết Trung đoàn 66 tiến công căn cứ Thượng Đức không thành công. Tôi thực sự bị bất ngờ vì tôi tin nhất định Sư đoàn 304 sẽ san bằng Thượng Đức trong 1-2 ngày. Theo ý kiến chung của Bộ tư lệnh Quân đoàn, tôi vào lại Thượng Đức ngay, vì mọi việc chỉ có thể giải quyết ngay tại chỗ. Ngồi ở quân đoàn cũng không biết nói gì với sư đoàn.

        Nghe qua báo cáo của sư đoàn, chúng tôi nhanh chóng thống nhất nguyên nhân chủ yếu là do chủ quan, thể hiện ở tất cả các cấp. Trường hợp nhiệm vụ không nặng, nhưng do chủ quan mà không hoàn thành, thì không phải cán bộ chúng ta mới gặp một lần. Chúng ta đã thề, thắng không kiêu, bại không nản mà sao nó cứ lặp lại mãi. Tôi nhớ lại sau mỗi chiến thắng lớn, Bác Hồ trong lúc biểu dương thành tích cũng đều nhắc khi thắng lợi phải đề phòng chủ quan khinh địch. Thì ra đó cũng là một quy luật khách quan, trách nhau mà làm gì. Hãy cùng nhau bắt tay vào việc: Khuyết điểm ở đâu, khắc phục như thế nào?

        Như trên đã nói, muốn đánh thắng địch trong công sự vững chắc trước hết phải diệt các hoả điểm. Sư đoàn đưa vào 8 khẩu pháo 85mm bắn thẳng, 4 bảng gồm 8 bệ hoả tiễn, cùng với ĐKZ của trung đoàn và các tiểu đoàn. Như vậy, hoả lực của ta đủ sức diệt hầu hết hoả điểm của địch trên 4 cửa mở cho 2 tiểu đoàn. Sư đoàn đưa vào 1 tiểu đoàn pháo 105mm và 1 đại đội cối 120mm cộng với súng cối 82mm của trung đoàn, tiểu đoàn cũng đủ sức kiềm chế pháo cối của địch. Nếu tập trung pháo bắn thẳng vào diệt các hoả điểm trên cửa mở và tập trung pháo bắn gián tiếp chế áp pháo địch vào thời gian bộ đội tiếp cận địch và mở cửa thì hoàn toàn có thể bảo đảm cho hai tiểu đoàn đột phá trận địa địch. Nhưng do chủ quan, cho là với số lượng pháo cối trên có thể đè bẹp hoàn toàn địch, đồng chí trung đoàn trưởng pháo binh tuyên bố với anh em: phen này sẽ cạo trọc cứ điểm Thượng Đức. Không phải chỉ nói cho vui mà đồng chí còn nghĩ và làm đúng như vậy. Thực tế sau này mới rõ, các đồng chí pháo binh không biết cửa mở bộ binh ở đâu nên bắn khắp cứ điểm. Như vậy hoả điểm cần diệt lại không diệt, hoả điểm không cần diệt thì lại diệt. Các đồng chí pháo binh cũng không biết quá trình vận động của bộ binh để tập trung chế áp pháo cối địch vào thời điểm cần thiết. Lúc bộ binh còn cơ động hoặc mới đến vị trí xuất phát, chưa đào được công sự là lúc cần làm tê liệt hoạt động của pháo cối địch. Trái lại bắn rải rác suốt thời gian, nên hiệu lực chế áp thấp, bộ binh bị thương vong nhiều. Cũng cần nói rõ là ta chỉ có khả năng chế áp pháo cối địch trong thời gian nhất định. Không thể dùng pháo bắn gián tiếp để diệt phần lớn pháo cối địch.

        Vấn đề thể hiện chủ quan của bộ binh là đáng lẽ sau lúc diệt xong hai cứ điểm ngoại vi, cần có một kế hoạch chỉ đạo chặt chẽ để 2 tiểu đoàn bộ binh vào chiếm lĩnh trận địa xuất phát tiến công. Ngược lại sau khi diệt hai cứ điểm ngoại vi, các tiểu đoàn cứ thế xông vào địch, tiến công ngay trong hành tiến. Không nghiên cứu kỹ khu vực xuất phát tiến công, chưa đưa phương tiện mở cửa vào đầy đủ và nhất là không tập trung chế áp pháo cối địch vào thời điểm này nên bộ đội bị thương vong ngay ở cửa mở và kết quả là cả hai tiểu đoàn đều bị thương vong nhiều, không đột nhập được vào trận địa địch.

        Tất cả những khuyết điểm chúng tôi rút ra ở trên đã được thực tế chứng minh. Sau khi khắc phục các khuyết điểm trên, Trung đoàn 66 đã bị thương vong một số, đánh lại lần thứ hai mới diệt gọn cứ điểm Thượng Đức. Để chỉ huy chặt chẽ trong từng bước tác chiến, bảo đảm chắc thắng, chúng tôi thống nhất tăng cường chỉ huy ở tất cả các khâu: đồng chí Long, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 66 xuống tăng cường cho tiểu đoàn 7, đồng chí Ân, Sư đoàn phó xuống tăng cường Trung đoàn 66, tôi ngồi cạnh đồng chí Phê suốt thời gian đột phá, đồng chí Phan Hàm, Cục phó Cục Tác chiến, nguyên cán bộ pháo binh ngồi cạnh đồng chí Phúc, Chủ nhiệm pháo binh sư đoàn để giúp điều hành bắn pháo.

        Sau khi hoàn thành nhiệm vụ diệt toàn bộ chi khu quân sự Thượng Đức, sư đoàn chuyển sang nhiệm vụ trung tâm là đánh địch phản kích. Lúc này chúng ta cũng chưa thực sự dự kiến được khả năng phản kích của địch đến đâu vì từ đầu năm đến nay địch bị mất nhiều khu vực chứ không riêng Thượng Đức. Nhiệm vụ xây dựng quân đoàn lại đòi hỏi tôi phải trở về quân đoàn, tiếp theo là nhiệm vụ tăng cường chỉ huy cho Sư đoàn 324 tiến công địch ở tây nam Thừa Thiên nên tôi không có điều kiện theo dõi tình hình đánh phản kích của Sư đoàn 304 ở Thượng Đức.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #66 vào lúc: 27 Tháng Giêng, 2017, 12:33:22 am »


        Vào Thượng Đức lần thứ ba.

        Quân lính Sài Gòn suốt cả Xuân Hè bị thất bại liên tiếp trên hầu hết các chiến trường. Để lấy lại lòng tin cho các lực lượng chính trị cũng như quân sự, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu quyết tâm mở một cuộc phản kích lớn, giành lại một vùng trọng điểm bị mất trong Xuân Hè. Hướng chúng lựa chọn là Thượng Đức. Chúng đã tập trung ở đây 2 sư đoàn: sư đoàn 3 và sư đoàn dù cùng một số lượng lớn pháo binh, không quân với hy vọng lấy lại Thượng Đức trong thời gian ngắn.

        Để đánh địch tiến công tái chiếm Thượng Đức, Sư đoàn 304 chủ trương phòng ngự trận địa. Cũng có ý kiến dùng phản công để đánh lại địch tiến công. Cho đến bây giờ tôi cho sư đoàn chủ trương phòng ngự là đúng. Địch dùng 2 sư đoàn tiến công có số lượng lớn pháo binh và không quân chi viện, muốn tiến nhanh đến Thượng Đức. Lực lượng thuộc Quân khu 5 đã rút về để củng cố. Kinh nghiệm cho thấy muốn tiến công quân địch đi tiến công phải tạo được ưu thế nhất định. Lực lượng hiện có của Sư đoàn 304 lúc đó, với nhiệm vụ không cho địch tác chiến Thượng Đức thì phòng ngự là hợp lý.

        Quân đội ta không những ít kinh nghiệm phòng ngự mà ngay học tập phòng ngự cũng rất ít. Chỉ có một số cán bộ được đào tạo ở các học viện là có học phòng ngự, bộ đội thì hầu như không đơn vị nào học phòng ngự. Sư đoàn 304 cũng đã tiến hành phòng ngự ở Quảng Trị năm 1972, nhưng kinh nghiệm lúc đó là kinh nghiệm không thành công.

        Quân địch tiến công vào sư đoàn cũng bài bản như tiến công ở Quảng Trị. Chúng cho lực lượng bộ binh bám sát điểm tựa phòng ngự của ta rồi dùng không quân và pháo binh bắn phá trận địa ta chi viện cho bộ binh xung phong. Nếu một lần xung phong không thành công, chúng lại cho bộ binh lui ra trận địa xuất phát tiếp tục bắn phá để xung phong lại lần thứ hai, thứ ba... Đáng tiếc là ta cũng phòng ngự như hồi ở Quảng Trị, nên tuy mất chậm, nhưng ta cũng mất dần trận địa. Chúng đã chiếm được khu vực phòng ngự của 2 tiểu đoàn và đặc biệt chúng đã chiếm được điểm cao 1062. Từ đấy chúng đã quan sát được quận lỵ Thượng Đức, vì vậy chúng tuyên bố việc chiếm lại Thượng Đức đã trong tầm tay.

        Trước tình hình mất dần trận địa và mất điểm cao 1062, Quân khu 5 và Bộ đều quy trách nhiệm cho sư đoàn mà trước hết là cho Bộ tư lệnh sư đoàn, cho sư đoàn trưởng. Bộ yêu cầu quân đoàn thay chỉ huy sư đoàn. Chúng tôi, tập thể Bộ tư lệnh Quân đoàn, chứ không phải riêng cá nhân tôi, rất biết đồng chí Phê. Vấn đề là các đồng chí gặp nhiều khó khăn, mùa mưa đến bộ đội đánh dài ngày mệt mỏi, đạn dược thiếu, lại chỉ có một mình, các đơn vị bạn đã rút về sau củng cố.

        Bộ tư lệnh quân đoàn họp, đề nghị Bộ, chỉ tăng cường chỉ huy chứ không thay chỉ huy và được Bộ đồng ý. Lẽ tất nhiên tôi lại phải rời quân đoàn để vào sư đoàn. Trước khi đi, tôi báo cáo Bộ tư lệnh Quân đoàn là tôi vào một mình thì cũng không làm được gì nhiều hơn đồng chí Phê. Tất nhiên hai người thì có hơn một người, nhưng nếu không có lực lượng tăng cường thì cũng khó xoay chuyển được tình hình. Lúc này lệnh của Bộ là quân đoàn phải chịu trách nhiệm trước Bộ, không được để mất Thượng Đức. Với chủ trương như vậy, quân đoàn cũng dễ xoay xở. Theo tôi phải tăng thêm lực lượng chiến đấu để bộ đội có thể vừa đánh vừa nghỉ ngơi, tăng thêm lực lượng công binh vào làm công sự, tăng thêm các loại đạn pháo và cối. Cuối cùng chúng tôi nhất trí đưa thêm Trung đoàn 24, như vậy sư đoàn có đủ 3 trung đoàn, đưa thêm 2 tiểu đoàn công binh và 4.000 viên đạn pháo cối. Ở đây tôi xin đi trước thời gian một ít. Sau khi đánh bại quân dù, có đồng chí nói đúng: “Anh Hoàng Đan vào mà không có Trung đoàn 24, không có 2 tiểu đoàn công binh và 4. 000 viên đạn thì địch cũng vào được Thượng Đức”.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #67 vào lúc: 27 Tháng Giêng, 2017, 12:34:44 am »


        Vào đến sư đoàn nắm lại tình hình, việc đầu tiên tôi đề xuất với Bộ chỉ huy sư đoàn là phải tiến hành tập huấn về phòng ngự ngay cho cán bộ từ tiểu đội đến tiểu đoàn. Chỉ có cán bộ sư đoàn đã học tập và biết chỉ huy phòng ngự, nhưng người chỉ huy phân đội chịu trách nhiệm trực tiếp đánh địch lại không biết nghệ thuật phòng ngự thì cũng không thể phòng ngự thành công. Chỉ huy sư đoàn cũng đồng ý là phải tập huấn, nhưng ngại rút cán bộ về học có thể làm mất nhanh trận địa. Chúng tôi bàn mở hai lớp, mỗi lớp ba ngày, như vậy cần sáu ngày. Trước khi rút một nửa cán bộ về học, cần triển khai thêm các hoả lực bắn thẳng bao gồm cả pháo cao xạ 37mm quay nòng bắn bộ binh, pháo 85mm và cả hoả tiễn Trung Quốc 12 nòng. Trong sáu ngày đó hễ bộ binh địch nhúc nhích là phải dùng một số đạn nhất định bắn ngay vào chúng, không cho chúng kịp xung phong. Cũng may là đạn cao xạ 37mm ta có rất nhiều, và cao xạ 37mm đưa bắn thẳng vào bộ binh thì hiệu lực rất lớn, chẳng khác gì nắm từng chùm lựu đạn vãi vào đội hình địch. Nhờ tăng cường hoả lực mạnh trong thời gian nhất định nên trong sáu ngày đó chúng tôi không mất trận địa nào. Lớp tập huấn tuy chỉ ba ngày, nhưng nhờ xây dựng hoàn chỉnh một trận địa làm mẫu, nội dung huấn luyện sát với những thực tế đòi hỏi, đánh được địch, ta ít thương vong, giữ được trận địa lâu dài, nên đạt kết quả cao. Tất cả cán bộ biết cách xây dựng trận địa, biết cách đánh và tin tưởng ở cách đánh.

        Nghệ thuật tác chiến, hay nói một cách khác là cách đánh, đóng vai trò quyết định chính. Nhưng đã nói phòng ngự thì công sự cũng là một trong những yếu tố quyết định thắng lợi. Ngoài giới thiệu trận địa mẫu, với hai tiểu đoàn công binh quân đoàn tăng cường, chúng tôi cho mỗi đại đội công binh xây dựng trận địa cho một đại đội bộ binh, số còn lại khai thác vật liệu từ phía sau đưa lên. Nhờ vậy trong một thời gian ngắn các đại đội tuyến 1 đều có công sự đạt yêu cầu.

        Nhờ công sự vững chắc, hoả lực mạnh, bộ đội nắm được cách đánh, lực lượng được tự thay phiên chiến đấu nên trải qua hai tháng, địch tuy cố gắng cũng không chiếm thêm được điểm tựa nào, lại bị thương vong nhiều nên sư đoàn dù đành bỏ cuộc rút về phía sau, không những không lấy lại được Thượng Đức mà còn bị Sư đoàn 304 bám sát gót truy kích và giải phóng luôn vùng B Đại Lộc. Đến đây cuộc chiến kết thúc, sư đoàn dành được một thời gian củng cố để rồi tháng 3 năm 1975 tham gia tiến công giải phóng Đà Nẵng. Ý nghĩa thắng lợi của bộ đội ta trên mặt trận Thượng Đức, các cuốn lịch sử đơn vị cũng như hồi ký của đồng chí Hoàng Văn Thái đã nói rõ. Tôi chỉ có một số nhận xét thêm: Quân địch bị huy động lực lượng dự bị chiến lược (sư đoàn dù) với sự chi viện tối đa không quân và pháo binh vào một điểm duy nhất trong thời điểm đó là Thượng Đức, nhưng bị thất bại hoàn toàn. Điều đó chứng tỏ không có quân Mỹ, sức chiến đấu của quân ngụy sa sút nghiêm trọng. Thực tế nhiều cuộc chiến tranh cũng đã nói, khi lực lượng cách mạng đã tương đương với lực lượng phản cách mạng, thì đó là thời kỳ quân cách mạng có thể chuyển sang tổng phản công. Như chúng ta đều biết, hai lực lượng ngang nhau về số lượng người và trang bị vũ khí thì lực lượng nào tinh thần cao hơn sẽ chiến thắng. Chúng ta chẳng những hơn hẳn địch về tinh thần chiến đấu mà còn hơn hẳn về nghệ thuật tác chiến. Ở Thượng Đức ta luôn luôn thay đổi cách đánh cho có hiệu quả hơn, trái lại quân ngụy vẫn một bài bản như trước. Chúng thua là lẽ đương nhiên.

        Dẫu sao chiến thắng Thượng Đức cũng đã mở ra một giai đoạn mới, giai đoạn chuyển sang tiến công chiến lược để giành thắng lợi hoàn toàn…
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #68 vào lúc: 27 Tháng Giêng, 2017, 08:21:55 pm »

         
TỪ SÔNG BẾN HẢI ĐẾN DINH “ĐỘC LẬP”

        I. GIẢI PHÓNG HUẾ - ĐÀ NẴNG

        Cuối tháng 1 năm 1975, cũng như nhiều chiến dịch trước đây, sau khi nhận được mệnh lệnh chiến đấu của Bộ: Quân đoàn 2 (trừ Sư đoàn 304 đang làm nhiệm vụ ở Thượng Đức - Quảng Nam) cùng với Quân khu Trị - Thiên mở chiến dịch tiến công tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giam chân các lực lượng quan trọng, nhất là sư đoàn dù và sư đoàn lính thủy đánh bộ trên địa bàn bắc quân khu 1 phối hợp với chiến trường chính chiếm một số địa bàn quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho chiến dịch kế tiếp. Bộ tư lệnh Quân đoàn 2 gồm Thiếu tướng Nguyễn Hữu An, Tư lệnh; Thiếu tướng Lê Linh, Chính ủy; tôi, Phó tư lệnh; Đại tá Công Trang, Phó chính ủy; Thượng tá Bùi Công Ái, Tham mưu trưởng; Thượng tá Lê Khả Phiêu, Chủ nhiệm chính trị; Thượng tá Nguyễn Ngọc Thực, Chủ nhiệm hậu cần đã họp bàn triển khai kế hoạch tác chiến. Để có một phương án chọn hướng tấn công đáp ứng được những vấn đề cụ thể đặt ra, các thành viên trong Bộ tư lệnh đã tốn khá nhiều trí lực để chọn hướng tiến công chủ yếu của chiến dịch. Lúc đầu một số ý kiến chọn hướng tiến công chủ yếu là tây Huế. Đánh theo hướng này, mặc dù Huế đang cuối mùa mưa, nhưng đường 12 khá tốt, ta vẫn triển khai được binh khí kỹ thuật hiện đại, tập trung được những mũi nhọn đột phá mạnh vào những chốt điểm quan trọng của địch. Nếu các chốt điểm này bị tiến công và bị uy hiếp nhất định, bọn chỉ huy tiền phương quân khu 1 đóng tại thành phố Huế sẽ phải tập trung lực lượng ra ngăn chặn và như vậy ta sẽ đạt được mục đích tiêu hao, tiêu diệt, giam chân một bộ phận sinh lực địch. Nhưng sau đó khá nhiều ý kiến cho rằng hiện nay cơ hội tiến công địch trên toàn miền đã xuất hiện. Đặc biệt sau chiến thắng Phước Long (6-1-1975) ở miền Đông Nam Bộ, tinh thần binh sĩ quân đội Sài Gòn đã sa sút nghiêm trọng, hàng mảng lớn các vị trí có ý nghĩa chiến thuật, chiến lược bị phá vỡ. Trong khi đó lực lượng vũ trang ba thứ quân của ta phát triển mạnh, các quân đoàn chủ lực cơ động lần lượt ra đời. Do vậy quân đoàn nên chọn hướng tiến công chủ yếu có quy mô tầm vóc xa rộng hơn, vừa có ý nghĩa chiến dịch vừa có ý nghĩa chiến lược để khi thời cơ đến ta có đủ điều kiện tiến công làm chủ nhiều vùng rộng lớn tạo bản lề cho cuộc tổng tiến công chiến lược sau này. Từ những cân nhắc tính toán cẩn trọng, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Quân đoàn quyết định chọn hướng tiến công chủ yếu là tây nam Huế (khu vực đường 14), tiến công dọc tả, hữu sông Truồi ra đường số 1. Chọn hướng tiến công này ta có lợi thế triển khai binh hoả lực, tập trung vào đối tượng chủ yếu là trung đoàn 54 của địch bố trí trên khu vực điểm cao núi Bông, núi Nghệ, 224, 173, vùng Mỏ Tàu... là hướng hiểm yếu và bất ngờ với địch, khi thời cơ lớn xuất hiện ta có thể nhanh chóng chiếm đường số 1 chia cắt Huế - Đà Nẵng, hình thành thế bao vây cô lập địch ở Trị - Thiên - Huế.

        Đầu tháng 2 năm 1975, giữa lúc các đơn vị trong Quân đoàn 2 và Quân khu Trị - Thiên đang ráo riết chuẩn bị mạng lưới hậu cần, đường sá cho chiến dịch, tôi (đại diện cho Bộ tư lệnh Quân đoàn 2) và Đại tá Thanh Quảng, Phó chính ủy Quân khu Trị - Thiên được lệnh ra Bộ Tổng tham mưu báo cáo kế hoạch tác chiến ở Trị - Thiên - Huế. Sau khi nghe chúng tôi báo cáo kế hoạch tổng thể và kế hoạch chi tiết trên các hướng tiến công Trị - Thiên trong hai tháng 3 và 4 năm 1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Trung tướng Lê Trọng Tấn, Phó tổng tham mưu trưởng đã cơ bản nhất trí. Chỉ riêng mốc thời gian quân đoàn và quân khu ấn định đến ngày 10 tháng 3 năm 1975 mới có thể nổ súng thì hai đồng chí không chấp nhận. Mặc dù chúng tôi trình bày lý do mạng đường thi công dài qua nhiều đèo cao vực thẳm trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt lại phải hết sức giữ bí mật, đồng chí Lê Trọng Tấn vẫn nói nghiêm khắc, một sự nghiêm khắc hiếm thấy ở anh: “Mọi việc cho chiến dịch phải được xong trước 24 giờ ngày 4 tháng 3 năm 1975. Tôi biết các đồng chí gặp nhiều khó khăn, nhưng các đồng chí phải biết chiến dịch Trị - Thiên - Huế là nằm trong chiến dịch chung của toàn quốc, thời gian phải hết sức chặt chẽ, không thể ai muốn bắt đầu tiến công ngày nào cũng được. Các đồng chí đã tham gia nhiều chiến dịch lớn, phải hiểu rõ vấn đề này!”. Sau đó đồng chí quay sang Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói: “Đề nghị anh cho phép các lực lượng Quân khu Trị - Thiên và pháo binh Quân đoàn 2 nổ súng đúng thời gian quy định từ ngày 5 tháng 3, còn phần lớn lực lượng Quân đoàn 2 nổ súng sau ba ngày”.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #69 vào lúc: 27 Tháng Giêng, 2017, 08:23:19 pm »


        Sau này tôi mới biết ngày 8 tháng 3 là ngày nổ súng của chiến trường chính - chiến trường Tây Nguyên. Chúng tôi chỉ được phép nổ súng trước hoặc đồng thời. Nếu ngày 9 tháng 3 chúng tôi mới chuẩn bị xong và ngày 10 tháng 3 mới có thể nổ súng (chậm hơn chiến trường chính hai ngày) thì rõ ràng là không được rồi. Đồng chí Võ Nguyên Giáp tuy gật đầu đồng ý với đề nghị của đồng chí Lê Trọng Tấn, nhưng với sự nhạy cảm của người chỉ huy, tôi biết đồng chí chưa thật yên tâm với việc chúng tôi chưa quán triệt sâu sắc những yêu cầu mới của chiến dịch này; nên sáng hôm sau Đại tướng cho thư ký gọi chúng tôi lại dặn dò thêm: “Nhớ rằng chiến dịch này không như chiến dịch khác. Các đồng chí có thể phát huy sáng kiến để đánh thật hay, hoàn thành vượt mức kế hoạch. Nhưng các đồng chí cũng cần nhớ những việc Bộ đã quy định thì không được linh hoạt, phải chấp hành thật nghiêm”. Chúng tôi chỉ biết hứa với đồng chí là đem mọi khả năng của cá nhân và tập thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của Bộ giao cho.

        Sau khi làm việc xong, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ thị cho chúng tôi sang báo cáo với Thường trực Bộ Chính trị mà cụ thể là với đồng chí Lê Đức Thọ. Vốn là người có tác phong sâu sát tỉ mỉ, sau khi hỏi thăm sức khoẻ từng người trong Bộ tư lệnh Quân khu Trị - Thiên và Quân đoàn 2, tình hình sinh hoạt vật chất tinh thần của bộ đội và nói vài chuyện vui, đồng chí mới bắt đầu làm việc. Chúng tôi bắt đầu lần lượt báo cáo kế hoạch, quyết tâm và các mặt bảo đảm trên từng hướng, dự báo khả năng tiêu diệt địch mở vùng giải phóng trên từng khu vực. Đồng thời chúng tôi cũng nhấn mạnh kế hoạch thời cơ giải phóng toàn bộ chiến trường Trị - Thiên - Huế. Đồng chí Lê Đức Thọ chăm chú nghe chúng tôi báo cáo và xen vào hỏi những điều chúng tôi chưa nghĩ tới: “Các đồng chí có nghĩ đến việc giải phóng Đà Nẵng không? Các đồng chí có thể hoàn thành kế hoạch giải phóng Trị - Thiên - Huế thì các đồng chí Liên khu 5 cũng có thể hoàn thành vượt mức kế hoạch giải phóng Quảng Ngãi và Quảng Tín. Khi đó địch ở Đà Nẵng hoàn toàn bị cô lập, ta có thể tiến công và giải phóng Đà Nẵng được đấy” Cuối cùng đồng chí chỉ thị cụ thể: “Để có thể sẵn sàng khi có thời cơ tiến công Đà Nẵng, các đơn vị của Quân đoàn 2 không tham gia chiến dịch này nên bố trí sẵn xung quanh Đà Nẵng. Cụ thể Sư đoàn 304 ở vùng Thượng Đức (tây Đà Nẵng), lữ tăng và lữ pháo cho vào tập kết ở xung quanh đèo Mũi Trâu (tây bắc Đà Nẵng)” ... Đến đây tôi xin đi trước thời gian một ít. Sau khi giải phóng miền Nam (và cả thời gian sau này), nhiều đồng chí hỏi tôi: “Các đồng chí quân sự cũng bị bất ngờ về việc ta giải phóng Sài Gòn mùa Xuân năm 1975 phải không?”. Tôi thành thật trả lời rằng: Đúng, cán bộ cỡ chúng tôi hồi đó thì chưa nghĩ đến, nhưng các đồng chí trong Bộ Chính trị thì đã nghĩ đến. Hơn thế nữa, các đồng chí đã có cả kế hoạch thời cơ. Nếu không có kế hoạch đó (nghĩa là không nắm chắc địch, không có những bước dự kiến xa hơn, không chỉnh lý những phương án tác chiến cho phù hợp với tình hình chung của toàn Miền) thì chiến dịch đầu chúng tôi đánh vào hướng tây Huế (không có lực lượng lớn chia cắt đường 1), khi địch rối loạn rút chạy, chúng sẽ dễ dàng co về Đà Nẵng phòng thủ chống trả. Đặc biệt khi có lệnh tiến công giải phóng Đà Nẵng, nếu Sư đoàn 304 và các lữ tăng, pháo không ém sẵn ở các vị trí thuận lợi thì ta cũng không tiến công giải phóng Đà Nẵng ngay được và như vậy việc tiến về giải phóng Sài Gòn cũng không dễ dàng gì.

        Sáng ngày 5 tháng 3 năm 1975, theo kế hoạch của Bộ, các lực lượng vũ trang khu vực Trị - Thiên được lệnh tiến công quân địch phối hợp với chiến trường chính. Mở màn chiến dịch, các lực lượng vũ trang Quân khu Trị - Thiên đã đồng loạt tiến công hầu khắp vùng đồng bằng, cả những nơi hậu cứ của chúng. Địch đã có dự kiến có cuộc tiến công này và đã có kế hoạch đánh trả, nhưng về quy mô không gian và lực lượng thì chúng hoàn toàn bị bất ngờ. Trước sau như một chúng vẫn cho ta chỉ có thể đánh từ hướng tây xuống. Do đó qua ngày đầu bị ta tiến công, bộ chỉ huy tiền phương quân khu 1 sa vào thế bị động, vội vã điều lực lượng từ phía tây xuống phía đông. Nhưng cuộc điều binh còn đang dang dở thì ngày 6 tháng 3, ba trung đoàn (4, 5, 6) bộ đội chủ lực Quân khu Trị - Thiên đã nổ súng tiến công quân địch dọc trục đường 12. Chúng đành phải để lực lượng lại tây Huế chống trả và điều lực lượng từ hướng tây nam Huế ra giải toả khu vực đồng bằng. Giữa lúc địch đang sa vào thế, chưa đoán định được hướng nào là hướng tiến công trọng yếu của ta thì ngày 8 tháng 3, Sư đoàn 324 ém quân ở tây nam Huế bất ngờ tiến công vào núi Bông, núi Nghệ, Mỏ Tàu, điểm cao 303 - nơi chúng vừa điều lực lượng đi giải toả. Để đối phó với mũi tiến công của Sư đoàn 324, bọn chỉ huy địch lại phải cho lực lượng vừa điều xuống đồng bằng quay trở lại. Cùng lúc chúng điều thêm một phần lực lượng ở phía nam (Lương Điền, Mũi Né), nơi Sư đoàn 325 chuẩn bị tiến công, ra ứng cứu.
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM